Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Vị trí, chức năng của gia đình và những biến đổi cơ bản của gia đình việt nam trong thời kỳ quá độ lên cnxh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.71 KB, 23 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC.........................................................................................................i
PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................1
PHẦN II: NỘI DUNG.....................................................................................2
CHƯƠNG I: MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ VỊ TRÍ, CHỨC
NĂNG CỦA GIA ĐÌNH.............................................................................2
1.1. Gia đình và các hình thức gia đình trong lịch sử..........................2
1.1.1. Khái niệm gia đình......................................................................2
1.1.2. Mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình........................3
1.1.3. Các hình thức gia đình trong lịch sử...........................................4
1.2. Mối quan hệ giữa gia đình và xã hội..............................................5
1.2.1. Gia đình là tế bào của xã hội......................................................5
1.2.2. Gia đình là cầu nối giữa cá nhân và xã hội.................................5
1.2.3. Tác động của xã hội đến gia đình...............................................6
1.3. Chức năng gia đình:.........................................................................7
1.3.1. Chức năng duy trì nói giống.......................................................7
1.3.2. Chức năng ni dưỡng, giáo dục con cái...................................8
1.3.3. Chức năng kinh tế.......................................................................9
1.3.4. Chức năng tổ chức đời sống.....................................................11
CHƯƠNG II: NHỮNG BIẾN ĐỔI CƠ BẢN CỦA GIA ĐÌNH VIỆT
NAM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI..............................................................................12
2.1. Những biến đổi cơ bản của gia đình Việt Nam............................12
2.1.1. Sự thay đổi trong quan niệm của con người về giá trị gia đình 12
i


2.1.2. Sự biến đổi trong mối quan hệ gia đình....................................14
2.1.3. Sự xuống cấp đạo đức gia đình.................................................15
2.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao vị trí, chức năng của gia đình17
PHẦN III: KẾT LUẬN.................................................................................20


TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................21

ii


PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU
Gia đình là một thiết chế xã hội đặc biệt trong cơ cấu của xã hội. Sự ổn
định và phát triển của gia đình có vị trí, vai trị hết sức quan trọng đối với sự
ổn định và phát triển xã hội. Việt Nam là một trong số những nước có truyền
thống tơn trọng gia đình. Tuy nhiên, đã có một thời gian dài do phải tập trung
giải quyết các vấn đề giải phóng dân tộc, thống nhất và xây dựng đất nước
nên chúng ta đã khơng có điều kiện để nghiên cứu về gia đình. Gia đình ở
nước ta, bên cạnh những bước phát triển mới, tiến bộ, thuận lợi cũng phải đối
diện với rất nhiều thách thức và bước đầu có những dấu hiệu của sự khủng
hoảng. Những định hướng về xây dựng giá trị, chuẩn mực gia đình trong thời
kỳ mới chưa rõ ràng và chưa trở thành học thuyết cho các gia đình noi theo.
Bởi vậy, nghiên cứu về gia đình nhằm xây dựng những luận cứ khoa học cho
việc củng cố và phát triển gia đình là một trong những vấn đề quan trọng đối
với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam hiện nay.
Việt Nam là một nước chậm tiến đang đi vào cơng nghiệp hố, hiện đại hóa
với đầy rẫy những khó khăn. Tuy nhiên Việt Nam cũng có những thuận lợi to
lớn là với sự nỗ lực và sáng tạo, Việt Nam có thể tránh được những sai lầm
của người đi trước và xử lý vấn đề gia đình một cách khoa học, hợp lý, phát
huy được truyền thống tốt đẹp của dân tộc, gạt bỏ được những nhân tố lạc hậu
để gia đình Việt Nam trở thành nhân tố tích cực cho cơng nghiệp hố, hiện đại
hóa vừa thể hiện bản sắc văn hố của dân tộc, vừa phù hợp với xu hướng tiến
bộ của nhân loại. Do đó, sau một thời gian tìm hiểu, tơi đã chọn đề tài “ Vị
trí, chức năng của gia đình và những biến đổi cơ bản của gia đình Việt
Nam trong thời kỳ quá độ lên CNXH” để hiểu rõ hơn về mặt lý luận cũng
như thực tiễn gia đình Việt Nam.


1


PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ VỊ TRÍ, CHỨC
NĂNG CỦA GIA ĐÌNH
1.1. Gia đình và các hình thức gia đình trong lịch sử.
1.1.1. Khái niệm gia đình.
Gia đình - hai tiếng thân thương đó đã in sâu vào trái tim mỗi người từ
khi ta cịn tấm bé. Đó chính là nơi mỗi người được sinh ra và lớn lên, có tác
động to lớn đến sự hình thành nhân cách của cá nhân cũng như sự phát triển
của xã hội.
Vấn đề gia đình từ lâu đã được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên
cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Do vậy có rất nhiều cách hiểu khác nhau
về gia đình. Tuy nhiên, chúng ta cần chú ý một số định nghĩa sau về gia đình.
a.

Khi đề cập đến vấn đề gia đình, C.Mác cho rằng “Quan hệ thứ

ba tham dự ngay từ đầu vào quá trình phát triển lịch sử là hàng ngày tái tạo ra
đời sống của bản thân mình, con người cịn tạo ra những người khác, sinh
sơi, nảy nở, đó là quan hệ giữa chồng - vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia
đình”.
Như vậy, gia đình là một cộng đồng xã hội có quan hệ gắn bó về hơn nhân
và huyết thống.
b.

Theo Liên hợp Quốc thì gia đình là một đơn vị được quy định


thông qua mối liên hệ của các cá nhân nói lên sự tái sản xuất thế hệ sau ở
mức độ mà những mối liên hệ này đựơc những quy phạm và thủ tục pháp lý
phê chuẩn.
Như vậy trong định nghĩa về gia đình của Liên hợp quốc có thêm vấn
đề pháp lý, ở đây, gia đình được Nhà nước bảo hộ. Đó là một cơ sở quy

2


phạm pháp luật của Liên hợp quốc. Gia đình là một nhóm người có quan hệ
họ hàng, có cuộc sống chung, có ngân sách chung.
c.

Nhà Tâm lý học Ngơ Cơng Hồng khi bàn đến vấn đề gia đình

thì cho rằng gia đình là một nhóm nhỏ xã hội có quan hệ gắn bó về hơn nhân
và huyết thống, tâm sinh lí, có chung gia đình vật chất và tinh thần ổn định
trong các thời điểm lịch sử”.
So với hai định nghĩa trên thì định nghĩa thứ ba này có thêm khía cạnh về mối
quan hệ kinh tế (vật chất) và tình cảm (tinh thần) giữa các thành viên trong
gia đình.
Tóm lại, gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau về hơn
nhân và huyết thống đồng thời có sự cố kết nhất định về kinh tế - vật chất,
qua đó nảy sinh những nghĩa vụ và quyền lợi cho các thành viên của mình.
1.1.2. Mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình.
Trong gia đình có hai mối quan hệ cơ bản là quan hệ hôn nhân và quan
hệ huyết thống. Hai mối quan hệ này được cụ thể hoá là mối quan hệ giữa
vợ và chồng và mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái.
Mối quan hệ giữa vợ và chồng là mối quan hệ cơ bản có tác động đến
nhiều mối quan hệ khác trong gia đình, Vì gia đình hạnh phúc khi duy trì

được tình u trong hơn nhân. Quan hệ vợ chồng phải dựa trên tình nghĩa sự
chung thủy, thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau và cùng nhau
xây dựng gia đình hạnh phúc.
Bên cạnh mối quan hệ giữa vợ và chồng là mối quan hệ giữa cha mẹ
và con cái. Đây là mối quan hệ bình đẳng và nề nếp. Cha mẹ và con cái cùng
thương yêu và chia sẻ với nhau để làm tốt cơng việc gia đình và xã hội.
Ngồi ra, gia đình cịn bao gồm nhiều mối quan hệ khác như quan hệ giữa
ông bà và cháu chắt, giữa anh chị em với nhau, giữa cô dì chú bác với nhau.
3


Có thể nói mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình đều được bắt
nguồn từ quan hệ hơn nhân và huyết thống. Đây là thứ tình cảm thiêng liêng
và cao cả mà không một cộng đồng xã hội nào thay thế được. Đây là mối
quan hệ bền vững, lâu dài, không thể phá vỡ của cả đời người .
1.1.3. Các hình thức gia đình trong lịch sử.
Gia đình là sản phẩm của xã hội. Cùng với sự vận động và phát triển
của xã hội, gia đình cũng có những bộ mặt tương xứng. Trong lịch sử xã hội
loài người đã xuất hiện nhiều hình thức gia đình khác nhau.
Đầu tiên là những gia đình tập thể, gia đình huyết tộc, gia đình punaluan, gia
đình cặp đơi. Những kiểu gia đình tập thể này đều xuất hiện ở chế độ cộng
sản nguyên thuỷ, khi con người vẫn còn đang ở vào thời đại mơng muội. Ba
gia đình này vẫn thuộc chế độ mẫu hệ và mẫu quyền, và vẫn phụ thuộc vào
tự nhiên.
Sang chế độ chiếm hữu nô lệ, người đàn ơng càng giữ vai trị quan
trọng trong lao động, từ đó sinh ra chế độ phụ quyền. Gia đình một vợ - một
chồng trở thành một đặc trưng, một hình thức phát triển tiến bộ nhất trong
lịch sử. Sự ra đời của nó gắn liền với sự nơ dịch của người đàn ông đối với
người đàn bà.
Tuy nhiên, gia đình một vợ - một chồng trong chế độ tư hữu chỉ mang

tính tương đối mà thơi. Nó ln đi kèm với tệ ngoại tình và mãi dâm.
Phải đến chế độ xã hội chủ nghĩa xã hội thì gia đình một vợ - một
chồng mới thực sự trọn vẹn. Đây là gia đình mới trong thời đại mới. Nó có
mầm mống từ gia đình ở xã hội tư bản chủ nghĩa. Gia đình mới trong xã hội
chủ nghĩa xã hội bắt nguồn từ tình u thương chứ khơng có sự thống trị và
áp đặt của người đàn ông với người đàn bà. Đồng thời tệ ngoại tình và mãi
dâm cũng bị loại bỏ.
4


1.2. Mối quan hệ giữa gia đình và xã hội.
1.2.1. Gia đình là tế bào của xã hội.
Theo quan điểm duy vật thì nhân tố quan trọng trong lịch sử là sản
xuất. Nhưng bản thân sự sản xuất lại có hai loại. Một loại là sản xuất ra vật
chất nuôi sống con người, bao gồm tư liệu sinh hoạt, quần áo, nhà cửa, thức
ăn. Loại thứ hai là sản xuất ra con người để tiếp tục duy trì nịi giống.
Gia đình là một tổ chức xã hội tham gia vào cả hai q trình sản xuất
đó. Khơng có gia đình thì xã hội khơng thể tồn tại và phát triển được. Như
vậy, gia đình là một trong những nhân tố tác động tích cực đến sự tồn tại và
phát triển của xã hội.
Ngồi gia đình thì cịn có rất nhiều bộ phận khác ảnh hưởng đến sự
tồn tại và phát triển của xã hội như dân tộc, giai cấp, giới tính, nhà nước,
ngành, đồn thể… Cho nên, với tư cách là tế bào cùa xã hội thì gia đình là tổ
chức cơ sở, là cơ cấu và thể chế xã hội nhỏ nhất. Cơ chế xã hội này rất đa
dạng và phong phú vì trong q trình vận động, nó vừa tuân thủ những quy
luật chung của xã hội, vừa tuân theo những quy định và tổ chức riêng của
mình.
Vì vậy, muốn có một xã hội phát triển lành mạnh, thì phải quan tâm
xây dựng tế bào gia đình tốt. Đây là một vấn đề hết sức quan trọng được
Đảng và Nhà nước ta chú ý.

1.2.2. Gia đình là cầu nối giữa cá nhân và xã hội.
Gia đình là một cộng đồng xã hội đặc biệt dựa trên mối quan hệ cơ
bản là quan hệ tình cảm. Quan hệ này bắt nguồn từ quan hệ huyết thống ruột
thịt, tình cảm thiêng liêng và trách nhiệm cao cả mà không một cộng đồng xã
hội nào có thể thay thế.

5


Tuy nhiên, giữa các thành viên trong gia đình khơng chỉ thuần t là quan hệ
tình cảm mà cịn là quan hệ giữa các cá nhân trong xã hội, giữa gia đình với
xã hội.
Gia đình là mơi trường xã hội đầu tiên mà cá nhân sinh sống. Ngồi
quan hệ tình cảm, những quan hệ xã hội khác như sản xuất, sở hữu, giáo dục
… cũng nằm trong quan hệ gia đình. Vì vậy, gia đình cũng đồng thời là một
đơn vị kinh tế, một mơi trường giáo dục, văn hố. Gia đình đóng vai trị quan
trọng trong việc đáp ứng nhu cầu xã hội của mỗi cá nhân và thông qua gia
đình, cá nhân cũng học và thực hiện quan hệ xã hội.
*Bên cạnh đó, gia đình cũng là một trong những cộng đồng để xã hội
tác động đến cá nhân. Có rất nhiều thơng tin trong xã hội tác động đến cá
nhân. Những hiện tượng xã hội có ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực (thơng
qua gia đình) đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi cá nhân.
Sự phát triển của xã hội cũng ảnh hưởng đến tư tưởng, đạo đức, lối sống
của mỗi cá nhân trong gia đình. Mọi quyền lợi xã hội của con người được
thực hiện thông qua hoạt động của các thành viên trong gia đình. Xã hội
nhận thức đầy đủ và toàn diện hơn khi xem xét cá nhân trong quan hệ gia
đình.
1.2.3. Tác động của xã hội đến gia đình.
Gia đình có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển và tiến bộ của xã
hội, và ngược lại, trình độ phát triển của xã hội quy định các hình thức gia

đình khác nhau trong lịch sử, đồng thời cũng quy định đặc điểm các mối
quan hệ gia đình.
Cùng với sự vận động và phát triển của lịch sử, hình thức và kết cấu gia đình
cũng lần lượt biến đổi tương ứng.

6


Ví dụ: Trong chế độ cơng xã ngun thuỷ, trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất còn lạc hậu, nên chỉ tồn tại hình thức gia đình tập thể . Trong
gia đình này, khơng có sự áp bức, bất bình đẳng giữa các thành viên. Sang
chế độ chiếm hữu nơ lệ, xã hội hình thành sự phân chia giai cấp và sự nô
dịch của người đàn ông đối với người đàn bà thì đã cho ra đời hình thức gia
đình một vợ - một chồng. Trong gia đình này, quan hệ giữa các thành viên
mang tính phục tùng, bất bình đẳng.
Gia đình chịu sự tác động quyết định của điều kiện kinh tế - xã hội.
Trong thực tế, sự tác động của điều kiện kinh tế - xã hội có mức độ khác
nhau đối với mỗi gia đình. Điều này dẫn tới những đặc điểm của gia đình
trong các tầng lớp, giai cấp, các nhóm xã hội có sự khác nhau.
Tóm lại, giữa gia đình và xã hội có mối quan hệ hữu cơ với nhau,
không thể tách rời. Khơng có gia đình thì xã hội khơng tồn tại và phát triển
được. Ngược lại, khơng có một mơi trường xã hội lành mạnh thì gia đình
cũng khơng thể phát triển được.
1.3. Chức năng gia đình:
1.3.1. Chức năng duy trì nói giống.
Đây là chức năng đặc thù của gia đình mà không một cộng đồng nào
trong xã hội thay thế được. Gia đình có chức năng tái sản xuất con người.
Nó khơng chỉ đáp ứng nhu cầu duy trì nịi giống của gia đình, dịng họ mà
cịn cung cấp lực lượng lao động mới cho xã hội. Nó đảm bảo cho sự duy trì
nịi giống và sự trường tồn của xã hội.

Việc thực hiện chức năng sinh đẻ diễn ra trong từng gia đình nhưng
lại là vấn đề được xã hội quan tâm bởi nó quyết định đến mật độ dân số
quốc gia và quốc tế. Nó có liên quan chặt chẽ đến sự phát triển của mọi mặt
đời sống xã hội. Ví dụ như dân số tăng nhanh sẽ dẫn đến hàng loạt hậu quả
7


là thiếu lương thực, thiếu đất ở, thất nghiệp tăng, mơi trường ơ nhiễm, an
ninh - chính trị khơng ổn đinh,…
Việt Nam là một trong những quốc gia có tỉ lệ dân số tăng nhanh trong
điều kiện trình độ phát triển kinh tế - xã hội nước ta còn thấp. Chính vì vậy,
Đảng và Nhà nước ta cần phải thực hiện chương trình dân số nhằm hướng
dẫn tuyên truyền, vận động về quyền sinh sản, thực hiện kế hoạch hoá gia
đình… Mục đích của việc thực hiện kế hoạch hố gia đình nhằm giảm sức
ép của dân số đối với xã hội và nâng cao chất lượng con người. Thực hiện
kế hoạch hố gia đình là trách nhiệm của tồn dân đối với xã hội.
1.3.2. Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục con cái.
Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục con cái là chức năng đi đơi với chức
năng duy trì nịi giống. Cha mẹ không chỉ sinh ra con cái mà cịn phải có trách
nhiệm ni dưỡng con cái trở thành người có ích cho xã hội. Cha mẹ phải
quan tâm, chăm lo đến việc học hành, sự phát triển thể chất, trí tuệ và đạo
đức của con cái.
Gia đình là môi trường xã hội đầu tiên mà cá nhân sinh sống. Ngay từ
khi sinh ra, con cái đã chịu sự giáo dục trực tiếp của cha mẹ và người thân.
Những hiểu biết đầu tiên của con cái cũng được đem lại từ gia đình. Bởi
vậy, chức năng ni dưỡng, giáo dục con cái là chức năng thường xuyên của
gia đình, có ý nghĩa vơ cùng quan trọng đối với sự hình thành và phát triển
nhân cách, lối sống, đạo đức của mỗi người.
Đối với chức năng này, vai trò của cha mẹ đối với con cái trong việc
giáo dục con cái là hết sức quan trọng. Cha mẹ giáo dục con cái về mọi mặt

từ nội dung đến hình thức. Nội dung giáo dục trong gia đình mang tính đa
dạng, toàn diện. Từ giáo dục về cách ứng xử hàng ngày với ông bà, cha mẹ,
anh em, láng giềng… đến những việc nhân nghĩa, tình yêu quê hương, đất
8


nước… hay đó là những bài học về giới tính, lứa tuổi, cơng việc… Đồng
thời, hình thức giáo dục của cha mẹ khơng chỉ bằng lời nói, thái độ, tình cảm
mà cha mẹ phải nêu gương trước, phải trở thành tấm gương mẫu mực cho
con cái noi theo.
Bên cạnh gia đình, nhà trường, xã hội và các tổ chức quần chúng có sự
phối hợp, hỗ trợ trong việc giáo dục con người, nhưng không thể thay thế
được.
Bởi vậy, sai lầm nhỏ trong việc giáo dục của cha mẹ đối với con cái
cũng có thể gây nên hậu quả đáng tiếc.
Hiện nay, việc con cái yêu sớm rồi nạo hút thai ngồi ý muốn đang
gióng lên hồi chng báo động khơng chỉ cho các bậc cha mẹ mà cho cả xã
hội. Nhiều người có con cái lâm vào tình trạng này đều đổ lỗi cho xã hội.
Nhưng nếu xét kĩ thì nguyên nhân chính dẫn đến việc trẻ em vị thành niên
yêu sớm, và quan hệ tình dục dẫn đến nạo hút thai vẫn thuộc về các bậc làm
cha làm mẹ nhiều nhất. Vẫn còn đa số các bậc cha mẹ không quan tâm đến
các mối quan hệ của con cái ngồi việc học hành của chúng. Đó là chưa kể
đến các bậc phụ huynh mải lo buôn bán làm ăn, khốn trắng việc học hành
cũng như tâm tư tình cảm của con mình cho người giúp việc, gia sư, nhà
trường… Phải chăng, chính từ suy nghĩ và quan niệm như trên mà các bậc
phụ huynh đã vơ tình cho con mình vào con đường tình ái sớm, để lại hậu
quả đáng tiếc cho các em và nỗi hận day dứt cho chính mình.
1.3.3. Chức năng kinh tế.
Theo quan điểm duy vật biện chứng thì nhân tố quyết định trong lịch
sử là sản xuất. Bản thân sản xuất lại có hai loại: sản xuất ra con người và sản

xuất ra tư liệu sinh hoạt. Bên cạnh việc sản xuất ra con người (chức năng

9


duy trì nịi giống) gia đình cịn tham gia vào q trình sản xuất ra của cải vật
chất. Đây chính là chức năng kinh tế của gia đình.
Với chức năng này, gia đình huy động mọi tiềm năng về sức lao động,
vốn, tay nghề của nguồn lao động mà gia đình cung cấp cho xã hội. Mọi
thành viên trong gia đình đều có thể tham gia vào các hoạt động kinh tế phù
hợp với từng lứa tuổi, giới tính, trình độ…
Cùng với sự phát triển của xã hội, chức năng kinh tế của gia đình cũng
phát triển khá đa dạng, phong phú. Nó thực hiện dưới nhiều dạng khác nhau
như sản xuất, kinh doanh, dịch vụ… trên mọi lĩnh vực ngành nghề khác nhau.
Thực hiện chức năng này, gia đình đảm bảo nguồn sinh sống, đáp ứng
nhu cầu vật chất và tinh thần của các thành viên trong gia đình, đồng thời
đóng góp to lớn đối với sự phát triển của xã hội.
Từ khi chế độ tư hữu ra đời thì người đàn ơng chiếm vị trí quan trọng
hơn so với người phụ nữ trong lao động. Điều này dẫn đến tình trạng bất
bình đẳng trong xã hội như quan niệm: “trọng nam khinh nữ”… Xã hội càng
tiến lên, càng phải vật lộn với cuộc sống. Chẳng những người đàn ông mà
người phụ nữ cũng phải có tài.
Ngày nay, phụ nữ đã và đang chứng tỏ được vai trò của mình trong
gia đình với việc thực hiện chức năng kinh tế. Giờ đây, phụ nữ làm giàu còn
giỏi hơn đàn ông. Theo kết quả điều tra của các nhà nghiên cứu Anh, số
lượng những phụ nữ giàu có tăng lên rõ rệt. Điều đó khiến chỉ riêng ở Anh
đã có tới 360 nghìn nữ triệu phú. Đương nhiên, nó có nguyên nhân của nó.
Nguyên nhân chủ yếu là do các phụ nữ trẻ tháo vát và mạnh dan hơn nam
giới trong các vấn đề tài chính, họ tiết kiệm hơn và tính tốn hiệu quả hơn,
biết tận dụng mọi khả năng của họ tốt hơn nam giới. Phần lớn, những phụ

nữ kinh doanh thành đạt thường có gia đình êm ấm, hạnh phúc, hơn nữa
10


người chồng thường hỗ trợ cho vợ bằng cách tự nguyện đảm nhận phần chủ
yếu công việc nội trợ. Thế mới biết “thành công trong kinh doanh không phụ
thuộc vào giới tính, miễn là bạn có sản phẩm tốt và những kỹ năng cần
thiết”.
1.3.4. Chức năng tổ chức đời sống.
Đây cũng là chức năng thường xuyên của gia đình. Việc tổ chức đời
sống là việc sử lý hợp lý các khoản thu nhập, đóng góp của các thành viên
trong gia đình nhằm đảm bảo nhu cầu vật chất và tinh thần của các thành
viên, đồng thời tạo ra môi trường văn hố lành mạnh trong gia đình, nhằm
nâng cao sức khoẻ, tình cảm, trách nhiệm giữa các thành viên trong gia đình.
Chức năng tổ chức đời sống, là cơng việc của mọi thành viên trong gia
đình. Nó có tính đa chiều: các thành viên có ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Cha
mẹ, ơng bà có trách nhiệm chăm sóc, ni dưỡng con cái, cháu chắt. Ngược
lại, con cái có bổn phận kính trọng, hiếu thảo và phụng dưỡng ơng bà, cha
mẹ.
Trong chức năng tổ chức đời sống gia đình, vị trí, vai trị của người
phụ nữ càng nổi lên rõ rệt, thể hiện qua cách cư xử thường nhật: từ chuyện
nội trợ đến vai trò, trách nhiệm làm tròn đến đâu với con cái, với cha mẹ hai
bên, với họ hàng làng xóm…
Cơng việc nội trợ là cơng việc rất quan trọng. Người phụ nữ phải biết
“giữ” chồng con qua bếp lửa ấm. Cịn gì hạnh phúc hơn sau một ngày làm
việc mệt mỏi, cả gia đình được sum vầy, ấm cúng bên nhau. Công việc nội
trợ vừa gắn kết tình cảm các thành viên với nhau, vừa nhanh chóng tái tạo
sức lao động, bồi dưỡng trí lực, thể lực của mọi thành viên trong gia đình…
Như vậy, để có hồ khí êm ấm của gia đình hạnh phúc là cả mồ hôi,
công sức, đôi khi cả xương máu của người chồng, người vợ và các đứa con 11



những thành viên luôn khao khát một tổ ấm sum vầy. Dù thế, cuộc sống vẫn
như một dòng chảy bất tận, và trong dịng chảy của sinh sơi phát triển, con
người luôn truyền giữ nhu cầu xây đắp hạnh phúc dài lâu. Hơn lúc nào hết,
mỗi người chúng ta cần ý thức gia đình là vấn đề tồn cầu.
Tóm lại gia đình là đặc ân của con người, gia đình ln địi hỏi tình
u thương, ý thức vun đắp dựng xây của mỗi thành viên, qua đó các chức
năng cơ bản của gia đình được bộc lộ. Các chức năng của giáo dục khơng
tách rời nhau mà chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau. Mỗi
một chức năng là một đặc thù của gia đình mà khơng một cộng đồng xã hội
nào có thể thay thế được. Đặc biệt, phải chú trọng đến vai trò người phụ nữ
trong gia đình bởi đấy chính là thiên chức của người phụ nữ.
Kết quả từ các cuộc thăm dò xã hội cho thấy, tỉ lệ phụ nữ mong ước
và đạt kế hoạch cụ thể phấn đấu cho mẫu hình gia đình hạnh phúc thương
cao hơn so với nam giới. Như vậy, khơng nên hiểu nhầm nam giới có ý thức
gia đình kém hơn nữ giới. Chẳng qua, thiên chức bẩm sinh của phái mạnh
thường hướng về sự nghiệp. Phái yếu thường đề cao vai trò và ý nghĩa của
gia đình hơn.
Chính vì vậy, quan tâm đến việc xây dựng gia đình tốt là quan tâm
đến người phụ nữ, tạo điều kiện cho họ vừa tham gia các hoạt động xã hội,
vừa làm tốt vai trò người vợ, người mẹ trong gia đình, xứng đáng là người
phụ nữ Việt Nam “giỏi việc nước, đảm việc nhà”.

12


CHƯƠNG II: NHỮNG BIẾN ĐỔI CƠ BẢN CỦA GIA ĐÌNH
VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP TRONG THỜI KỲ QUÁ
ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

2.1. Những biến đổi cơ bản của gia đình Việt Nam
2.1.1. Sự thay đổi trong quan niệm của con người về giá trị gia đình
Do những tác động của môi trường tự nhiên và điều kiện lịch sử dựng
nước và giữ nước, con người Việt Nam từ xa xưa vốn có truyền thống đồn
kết, tương trợ lẫn nhau. Sự gắn kết của cá nhân với gia đình (và cao hơn là
với làng, xã, Tổ quốc) đã trở thành một trong những giá trị văn hóa cơ bản
của dân tộc Việt Nam. Với con người Việt Nam truyền thống, gia đình có vai
trị hết sức quan trọng. Gia đình khơng chỉ là nơi sinh sống, ni lớn mỗi cá
nhân về thể chất mà cịn là cái nơi ni dưỡng tâm hồn, hình thành nhân cách
cho con người. Gia đình là giá trị cao đẹp mà con người mong muốn vươn tới.
Trong xã hội Việt Nam truyền thống, gia đình hạnh phúc và đáng tự hào là
gia đình có sự chung sống của nhiều thế hệ kiểu “tam đại”, “tứ đại”, “ngũ đại”
đồng đường. Trong đó, hạnh phúc gia đình được duy trì trên cơ sở sự gắn kết
hài hòa của các mối quan hệ giữa các cá nhân, thế hệ với những tình cảm và
chuẩn mực đạo đức, giá trị tốt đẹp.
Làn sóng mạnh mẽ của xu thế tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế làm cho
nhận thức của con người về gia đình có nhiều thay đổi. Tinh thần tự do, chủ
nghĩa cá nhân lên ngôi đã khiến con người hướng đến cuộc sống độc lập. Gia
đình, đối với khơng ít người hiện nay, khơng cịn là giá trị duy nhất. Ngồi gia
đình, họ cịn nhiều mối quan tâm, nhiều giá trị khác để vươn tới. Hiện nay, ở
nước ta, số người hướng tới cuộc sống độc thân ngày càng nhiều. Khi khơng
tìm thấy niềm hạnh phúc thực sự từ cuộc sống gia đình, có thể tự bảo đảm cho
cuộc sống riêng của cá nhân, nhiều người đã khơng muốn lập gia đình. Khơng
ít bạn trẻ hiện nay lại nghĩ: hôn nhân không phải là cái đích duy nhất và cuối
cùng của tình u. Có những tình u mãi mãi khơng có đám cưới, khơng có
13


hơn thú. Đối với nhiều người, gia đình khơng phải là bến đỗ cuối cùng và duy
nhất. Điều này đi ngược lại với quan niệm đạo đức truyền thống ngàn đời của

con người Việt Nam: tình yêu phải gắn liền với hôn nhân, hôn nhân là kết quả
tốt đẹp và tất yếu của tình u chân chính.
Một bộ phận những bạn trẻ vị thành niên, vì muốn khẳng định cái tơi
của mình, mặc dù được bố mẹ chu cấp cho một cuộc sống đầy đủ nhưng lại
muốn thoát ly gia đình, tách khỏi vịng tay bố mẹ, sống độc lập bên ngoài xã
hội. Đây là một quan niệm mới, nếu xuất phát từ mục đích tích cực như muốn
khẳng định cái tôi cá nhân, bản lĩnh của tuổi trẻ, muốn hướng đến cuộc sống
tương lai độc lập, không phụ thuộc… thì rất có ý nghĩa. Nhưng nếu vì những
ham muốn ích kỷ và bồng bột của tuổi trẻ, thậm chí là vì muốn được tự do
ngồi vịng kiểm sốt hay vì đua địi bạn bè xấu, vì quen được chiều chuộng
kiểu các cậu ấm, cơ chiêu… thì đây lại là một điều tai hại cho gia đình và xã
hội, nhất là trong bối cảnh cạm bẫy, cám dỗ rình dập mà bản thân các em
chưa đủ bản lĩnh để có thể “miễn dịch” trước những cái xấu, tiêu cực, để giữ
phần thiện căn, thiên lương trong sáng của mình.
2.1.2. Sự biến đổi trong mối quan hệ gia đình
Cùng với sự thay đổi mơ hình gia đình truyền thống, tính cố kết gia
đình đã giảm sút. Mối quan hệ gia đình trở nên lỏng lẻo, thiếu chặt chẽ hơn.
Sự đứt đoạn trong quan hệ “cha truyền con nối” về nghề nghiệp là một minh
chứng cho sự giảm sút tính cố kết gia đình. Với sự hỗ trợ đắc lực của nhiều
loại phương tiện thông tin truyền thông, lớp trẻ ngày nay được tiếp xúc với
nhiều nguồn tài liệu phong phú, đa chiều… nên thu nhận được nhiều kiến
thức mới, hình thành và phát triển nhiều năng lực trong tư duy cũng như
chuyên môn, nghiệp vụ. Đây là một trong những cơ sở để nhiều bạn trẻ không
tiếp bước cha anh trong con đường nghề nghiệp. Con cái phần lớn làm nghề
khác cha mẹ và tự do lựa chọn, định hướng nghề nghiệp tương lai cho chính
mình.
14


Về phương diện tổ chức cuộc sống cũng cho thấy sự lỏng lẻo của mối

quan hệ cá nhân - gia đình. Gia đình truyền thống rất coi trọng và khắt khe
trong việc gìn giữ nền nếp gia phong. Mọi thành viên mặc nhiên phải tuân thủ
theo những quy tắc chung. Nhưng ngày nay, có xu hướng nới lỏng, giản tiện
các nghi lễ, phép tắc trong gia đình... Ngồi ra, những nếp sinh hoạt thường
ngày cũng thể hiện sự giảm sút sự cố kết gia đình: người lớn thì bận làm, trẻ
em thì bận học, có nhiều gia đình hiện nay cả tháng khơng có một bữa cơm
chung, bố mẹ và con cái rất ít thời gian bên nhau. Nhiều gia đình, dù đơng
con nhiều cháu nhưng vì những lý do khác nhau, đến ngày lễ, tết nhiều khi
cũng chỉ có hai người già cô đơn. Con cháu ở xa, chỉ gọi điện, gửi thư điện tử
thăm hỏi, chúc mừng... thay cho sự thăm nom trực tiếp.
Địa vị các thành viên trong gia đình trở nên bình đẳng, dân chủ cũng là
một thay đổi lớn trong mối quan hệ gia đình Việt Nam hiện nay. Sự bình
đẳng, dân chủ biểu hiện rõ nhất trong mối quan hệ vợ chồng. Trước đây, ảnh
hưởng của tư tưởng Nho giáo, người phụ nữ luôn phải khn mình theo đạo
“tam tịng” (tại gia tịng phụ, xuất giá tịng phu, phu tử tịng tử). Trong gia
đình, địa vị vợ chồng được phân định rõ ràng : “chồng chúa vợ tôi” hay “phu
vi thê cương”, “phu xướng phụ tùy”, và người phụ nữ mặc nhiên chấp nhận,
chỉ biết suốt đời bó mình trong ngơi nhà với những công việc bếp núc, nữ
công gia chánh, không được học hành, giao lưu, không được tham gia các
công tác xã hội…
Gia đình truyền thống đặt lợi ích gia đình lên trên lợi ích cá nhân, đề
cao lịng hiếu thảo, địi hỏi sự phục tùng tuyệt đối của con cái đối với bố mẹ.
Con cái một lòng nghe theo ý cha mẹ mới làm tròn đạo hiếu, ngay cả lĩnh vực
đáng được quyền tự do nhất là tình u, hơn nhân cũng phải “cha mẹ đặt đâu,
con ngồi đấy”… Ngày nay, trong những gia đình tiến bộ, cha mẹ và con cái là
những “người bạn vong niên”. Cha mẹ có thể lắng nghe, chia sẻ với con cái

15



mọi niềm vui nỗi buồn, đặc biệt các bậc phụ huynh ln tơn trọng ý kiến, lập
trường, ước mơ, hồi bão chính đáng của con cái…
2.1.3. Sự xuống cấp đạo đức gia đình
Nhìn chung, trong mối quan hệ giữa con người với gia đình hiện nay
vẫn kế thừa nhiều truyền thống quý báu của cha ông, giữ đạo nghĩa tốt đẹp.
Tuy nhiên, bên cạnh đó đã nổi lên một số hiện tượng xuống cấp, băng hoại về
đạo đức, lối sống, gây rạn nứt mối quan hệ gia đình.

Cuộc sống thời kinh tế thị trường khiến cho nhiều giá trị tốt đẹp bị băng
hoại. Tình yêu vốn là tình cảm tốt lành, lãng mạn nhất của nhân loại, nhưng
khơng ít đơi lứa hiện nay đến với tình u, hơn nhân bằng sự tính tốn, lọc
lừa. Tình u giả dối, tình dục dễ dãi, hôn nhân thực dụng… đang là “chuyện
thường ngày” trong xã hội. Hiện tượng ngoại tình, ly thân, ly hôn diễn ra hết
sức phổ biến, khiến nhiều người cho rằng đó là “mốt thời thượng”. Điều này
khơng chỉ làm rạn nứt quan hệ giữa vợ và chồng mà còn chia cắt mối quan hệ
giữa cha mẹ và con cái. Bởi lẽ khi cuộc hơn nhân tan vỡ thì gia đình cũng ly
tán, con cái sẽ khơng cịn mái ấm gia đình, khơng nhận được sự giáo dục và
tình u thương trọn vẹn. Ấy là chưa kể khi cha mẹ của chúng tái hơn, hiện
tượng “con anh, con tơi” cịn khiến cho tình cảm bị sẻ chia, sứt mẻ.
Mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái, từ ngàn xưa vẫn là mối quan hệ
thiêng liêng, bền vững nhất trong các mối quan hệ con người nói chung, con
người và gia đình nói riêng. Tuy nhiên, trong thời kỳ hội nhập, quan hệ đó đã
có một số biến đổi theo chiều hướng xấu. Khi chủ nghĩa cá nhân phát triển,
nhiều người chỉ biết vun vén cho quyền lợi ích kỷ của mình. Khơng ít gia
đình, bố mẹ mải mê kiếm tiền hay theo đuổi ham muốn cá nhân mà bỏ rơi con
cái. Họ chỉ biết đem tiền về cho ô sin, vú ni, hay phó mặc con cho nhà
trường và xã hội. Những đứa trẻ lớn lên thiếu thốn tình yêu và sự dạy bảo,
16



chăm sóc của cha mẹ - người thầy đầu tiên của đời mình - đã mất đi những
nền tảng cơ bản của việc hình thành nhân cách tốt đẹp, nhiều em sinh ra đua
địi, hư hỏng, thậm chí trở thành tội phạm.
Mặt khác, hiện nay có khơng ít người con bất hiếu với cha mẹ. Hiện
tượng con cái bỏ rơi cha mẹ lúc tuổi già, khơng chăm nom, tính tốn tiền bạc,
chia ngày tính tháng ni cha mẹ khơng phải là chuyện lạ trong xã hội.
“Anh em như thể chân tay, rách lành đùm bọc dở hay đỡ đần” là truyền
thống tốt đẹp tự ngàn xưa của người Việt. Nhưng ngày nay, do tác động tiêu
cực của xu thế toàn cầu hóa, mặt trái của nền kinh tế thị trường đã làm nảy
sinh tư tưởng thực dụng, coi vật chất cao hơn nghĩa tình. Đã khơng ít gia đình
lâm vào cảnh anh chị em mâu thuẫn dẫn đến cãi vã, đánh đập lẫn nhau vì
quyền lợi kinh tế như tranh chấp đất đai, quyền thừa kế tài sản, nghĩa vụ chăm
sóc phụng dưỡng cha mẹ…
Mặc dù ở nước ta, Luật Phịng, chống bạo lực gia đình đã có hiệu lực từ
tháng 7-2008 nhưng hiện tượng bạo lực vẫn chưa thuyên giảm. Hiện tượng
bạo hành gia đình hiện nay xảy ra khá phổ biến với mức độ, tính chất và hình
thức phức tạp, đa dạng: khơng chỉ có bạo hành của chồng đối với vợ, mà còn
của vợ đối với chồng, của cha mẹ đối với con cái, không chỉ bạo hành về thể
xác mà cả tinh thần. Số liệu khảo sát điều tra xã hội học cho biết: Bạo lực gia
đình ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách của trẻ chiếm 91,0%, gây tổn hại
về sức khỏe, thể chất: 87,5%, gây tổn thương về tâm lý, tinh thần: 89,4%, gây
tan vỡ gia đình: 89,7% và làm rối loạn trật tự, an toàn xã hội: 89%
2.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao vị trí, chức năng của gia đình
Hiện nay, Cách mạng cơng nghiệp lần thứ tư có những ảnh hưởng trực
tiếp đến quan hệ hôn nhân và gia đình Việt Nam. Việc bùng nổ các thiết bị
thơng minh khiến cá nhân dễ dàng chìm đắm trong thế giới ảo và giảm các
giao tiếp trực tiếp trong gia đình, trong xã hội, khiến lối sống, cảm xúc, ứng
17



xử, hệ giá trị của con người và đặc biệt là sự duy trì các quan hệ xã hội có thể
bị đảo lộn. Trí tuệ nhân tạo và tự động hóa, một mặt, mang lại tiềm năng lớn
giải phóng sức lao động của con người, mặt khác, tạo nên một thế giới tình
u, hơn nhân ảo, như hẹn hị trực tuyến, thậm chí là rơ-bớt tình dục,... dẫn
đến nguy cơ tạo ra một thế hệ trẻ khơng cần tình u, khơng cần gia đình,
khơng cần con cái, từ đó đe dọa trực tiếp đến sự tồn tại và bền vững của các
quan hệ gia đình trong thế giới thực. Thực tế, một số quốc gia trên thế giới đã
ghi nhận hiện tượng nam giới hẹn hị và cưới rơ-bớt tình dục hoặc một thế hệ
trẻ đắm chìm trong thế giới công nghệ mà lảng tránh đời sống thực.
Trong bối cảnh các giá trị gia đình vẫn là giá trị được người dân ưu tiên
hàng đầu trong cuộc sống cũng như quy mơ, cơ cấu, chức năng gia đình đang
thay đổi theo hướng hiện đại hóa, cá nhân hóa, hạt nhân hóa, cần đẩy mạnh
thực hiện một số giải pháp sau:
Một là, tăng cường các hoạt động tuyên truyền, truyền thông về bình
đẳng giới. Tiếp tục tuyên truyền, phổ biến và hỗ trợ phụ nữ tự thoát khỏi các
định kiến xã hội từ cộng đồng và từ chính bản thân về những khắt khe trong
hành vi hơn nhân và gia đình, hướng phụ nữ tới những giá trị được tôn trọng,
được bình đẳng trong tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe và giáo dục, được
tự thể hiện bản thân, được hạnh phúc, đồng thời đóng góp ngày càng nhiều
cho xã hội trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa...
Hai là, xây dựng chính sách và dịch vụ xã hội bảo đảm sự tiếp cận cơng
bằng, bình đẳng giữa các hình thức gia đình hiện nay, như chung sống khơng
kết hơn, gia đình đơn thân, gia đình đồng tính, gia đình có hơn nhân với người
nước ngồi, gia đình ly hôn/ly thân...
Ba là, phổ biến kết quả nghiên cứu về các giá trị gia đình mà người dân
Việt Nam đang ủng hộ tới các nhà lập pháp, hoạch định chính sách, quản lý
nhà nước về gia đình để nắm rõ thực tế các giá trị của gia đình hiện nay, đặc
18




×