Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Vấn đề gia đình trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (78.19 KB, 10 trang )

BỘ GD VÀ ĐT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

BÀI TẬP LỚN
HỌC PHẦN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
(Học kỳ II năm học 2019 - 2020)

Đề bài: Vấn đề gia đình trong thời kì quá độ lên chủ
nghĩa xã hội

Họ và tên: Nguyễn Nhật Quang-11194387
SST: 40
Lớp: POHE-TRUYỀN THƠNG MARKETING K61
Nhóm 6

HÀ NỘI - 2020


I.

Lời mở đầu

Gia đình khơng chỉ là “tế bào” tự nhiên mà còn là một đơn vị kinh tế của xã
hội. Gia đình có vai trị đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao phục vụ đất nước. Gia đình có vai trị quyết định đối với
sự hình thành và phát triển của xã hội. Những chuẩn mực giá trị tốt đẹp của gia
đình được tiếp nhận, phát triển góp phần xây dựng, tơ thắm, làm rạng rỡ thêm
bản sắc văn hóa dân tộc. Đại hội XI, Đảng ta khẳng định: “Gia đình là môi
trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách, góp
phần chăm lo xây dựng con người Việt Nam giàu lịng u nước, có ý thức làm
chủ, trách nhiệm cơng dân, có tri thức, sức khỏe, lao động giỏi, sống có văn hóa,


nghĩa tình, có tinh thần quốc tế chân chính”.
Con người Việt Nam chỉ có thể được trang bị những phẩm chất tốt đẹp nếu có
một mơi trường xã hội tốt. Mơi trường đó trước hết là từ mỗi gia đình, mỗi tế
bào của xã hội. Gia đình chịu trách nhiệm trước xã hội về sản phẩm của gia đình
mình, có trách nhiệm ni dưỡng và giáo dục con cái, cung cấp cho xã hội
những cơng dân hữu ích. Cùng với nhà trường, gia đình tham gia tích cực nhiệm
vụ “dạy người, dạy chữ”, tạo ra lực lượng lao động tương lai chất lượng cao. Gia
đình chính là “đơn vị xã hội” đầu tiên cung cấp lực lượng lao động cho xã hội.
Từ những người lao động chân tay giản đơn đến lao động trí óc... đều được sinh
ra, nuôi dưỡng và chịu sự giáo dục của gia đình.
Gia đình khơng chỉ giữ vai trị nền tảng, tế bào của xã hội mà còn là mơi trường
quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống, hình thành nhân cách con trẻ. Gia đình
là nơi giữ gìn, vun đắp, phát huy những giá trị truyền thống quý báu của con
người Việt Nam, dân tộc Việt Nam đã hình thành trong quá trình lịch sử dựng
nước, giữ nước. Đó là lịng u nước, u q hương, u thương đùm bọc lẫn
nhau, thủy chung, hiếu nghĩa, hiếu học, cần cù, sáng tạo trong lao động, bất
khuất kiên cường vượt qua mọi khó khăn, thử thách...

II. Khái niệm chung về gia đình
1. Khái niệm gia đình.

Gia đình là một hình thức cộng đồng xã hội đặc biệt được hình thành, duy trì
và củng cố chủ yếu dựa trên cơ sở hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ
nuôi dưỡng, cùng với những quy định về quyền và nghĩa vụ các thành viên
trong gia đình.

2. Vị trí của gia đình trong xã hội.

A, Gia đình là tế bào của xã hội.
Có thể ví xã hội là một cơ thể sống hồn chỉnh và khơng ngừng biến đổi

được "sắp xếp, tổ chức" theo nhiều mối quan hệ trong đó gia đình được xem
là một tế bào, một thiết chế cơ sở đầu tiên. Mỗi một chế độ xã hội được sinh
thành, vận động và biến đổi trên cơ sở một phương thức sản xuất xác định và


có vai trị quy định đối với gia đình. Nhưng xã hội ấy lại tồn tại thơng qua
các hình thức kết cấu và quy mơ gia đình. Mỗi gia đình hạnh phúc, hồ thuận
thì cả cộng đồng và xã hội tồn tại và vận động một cách êm thấm. Mục đích
chung của sự vận động biến đổi của xã hội trước hết vì lợi ích của mỗi cơng
dân, mỗi thành viên xã hội và mỗi gia đình - tổ chức và thiết chế xã hội đầu
tiên, cơ sở nơi quần tụ của mỗi công dân và thành viên của xã hội. Nhưng lợi
ích của mỗi cơng dân, mỗi thành viên xã hội lại chịu sự chi phối của lợi ích
các tập đoàn giai cấp thống trị trong xã hội, trong điều kiện xã hội phân chia
thành giai cấp.
B, Trình độ phát triển kinh tế - xã hội quyết định quy mơ, kết cấu, hình thức
tổ chức và tính chất của gia đình.
Quan điểm duy vật về lịch sử đã chỉ ra rằng, gia đình là những hình thức
phản ánh đặc thù của trình độ sản xuất, của trình độ phát triển kinh tế. Trong
tiến trình lịch sử nhân loại, các phương thức sản xuất cộng sản nguyên thuỷ,
chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa, xã hội chủ nghĩa đã lần lượt
thay thế nhau, kéo theo và dẫn đến sự biến đổi về hình thức tổ chức, quy mơ
và kết cấu cũng như tính chất của gia đình. Từ gia đình tập thể - quần hơn với
các hình thức huyết thống, đối ngẫu, gia đình cặp đơi bước sang hình thức
gia đình cá thể, một vợ một chồng; từ gia đình một vợ, một chồng bất bình
đẳng, chỉ về phía người phụ nữ, người vợ sang gia đình một vợ, một chồng
ngày càng bình đẳng giữa nam - nữ, giữa các thành viên trong gia đình. Tất
cả những bước tiến đó của gia đình phụ thuộc chủ yếu và trước hết vào
những bước tiến trong sản xuất, trong trình độ phát triển kinh tế của mỗi thời
đại.
C, Gia đình là một thiết chế cơ sở, đặc thù của xã hội, là cầu nối giữa cá nhân

với xã hội.
Trong hệ thống cơ cấu tổ chức của xã hội, gia đình được coi là thiết chế cơ
sở, đầu tiên, nhỏ nhất. Sự vận động biến đổi của thiết chế tuân theo những
quy luật chung của cả hệ thống. Nhưng thiết chế ấy vận động biến đổi còn
trên cơ sở kế thừa các giá trị văn hoá truyền thống của mỗi nền văn hoá, mỗi
vùng và địa phương khác nhau và còn được bộc lộ, thể hiện ở mỗi thành viên
và thế hệ thành viên trong sự "giao thoa" của mỗi cá nhân và mỗi gia đình.
Thơng qua các hoạt động tổ chức đời sống trong gia đình và của gia đình,
mỗi cá nhân, mỗi gia đình tiếp nhận, chịu sự tác động và "phản ứng " lại đối
với những tác động của xã hội, thông qua các tổ chức, các thiết chế, chính
sách... của xã hội. Sự đồng thuận hay không đồng thuận của những tác động
từ xã hội, nhà nước với những hình thức tổ chức, sinh hoạt trong thiết chế gia
đình sẽ tạo ra kết quả tốt hay xấu của mỗi chế độ xã hội, mỗi thời đại.
D, Gia đình là tổ ấm, mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hoà trong đời
sống cá nhân của mỗi thành viên, mỗi công dân của xã hội.


Từ thuở lọt lòng cho đến suốt cuộc đời, mỗi thành viên được ni dưỡng,
chăm sóc để trở thành cơng dân của xã hội, lao động cống hiến và hưởng thụ,
đóng góp cho xã hội trước hết và chủ yếu là thơng qua gia đình và với gia
đình. Sự n ổn, hạnh phúc mỗi gia đình là tiền đề, điều kiện quan trọng cho
sự hình thành, phát triển nhân cách, bảo đảm đạt hiệu quả cho các hoạt động
lao động của xã hội. Rõ ràng là, muốn xây dựng xã hội phải chú ý xây dựng
gia đình. Xây dựng gia đình là trách nhiệm, là một bộ phận cấu thành trong
chỉnh thể các mục tiêu phấn đấu của xã hội, vì sự ổn định và phát triển của
chính xã hội.

3. Các chức năng cơ bản của gia đình.
A. Chức năng tái sản xuất ra con người


Tái sản xuất ra chính bản thân con người là một chức năng cơ bản và riêng có
của gia đình. Chức năng này bao gồm các nội dung cơ bản: tái sản xuất, duy
trì nịi giống, ni dưỡng nâng cao thể lực, trí lực bảo đảm tái sản xuất nguồn
lao động và sức lao động cho xã hội.
Hoạt động sinh con đẻ cái của con người trước hết xuất phát từ nhu cầu tồn
tại của chính con người, của xã hội. Chức năng này đáp ứng một nhu cầu rất
tự nhiên, chính đáng của con người. Nhưng tốc độ gia tăng dân số, mật độ
dân cư... và nhiều yếu tố khác liên quan đến các vấn đề chiến lược và trình độ
phát triển kinh tế, xã hội... Vì vậy sinh đẻ của mỗi gia đình khơng chỉ là việc
riêng của gia đình mà cịn là một nội dung quan trọng của mỗi quốc gia và
toàn nhân loại. Chiến lược về dân số hợp lý sẽ trực tiếp tạo ra một cách có kế
hoạch nguồn nhân lực mới phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, là
mục tiêu, động lực quan trọng nhất của phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội.
B. Chức năng kinh tế và tổ chức đời sống gia đình
Hoạt động kinh tế và tổ chức đời sống vật chất là một chức năng cơ bản của
gia đình. Hoạt động kinh tế, hiểu theo nghĩa đầy đủ gồm có hoạt động sản
xuất kinh doanh và hoạt động tiêu dùng để thoả mãn các yêu cầu ăn mặc, ở,
đi lại của mỗi thành viên và của gia đình.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhiều gia đình có điều kiện (có sở
hữu hoặc tham gia sở hữu tư liệu sản xuất) đều có thể trở thành một đơn vị
kinh tế tự chủ trong sản xuất kinh doanh. Để có thể phát huy mọi tiềm năng
sáng tạo trong kinh tế, đảng và nhà nước đề ra và thực hiện các chính sách
sao cho mọi gia đình, mọi cá nhân có thể làm giàu chính đáng bằng hoạt
động sản xuất kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật.
Cùng với sản xuất kinh doanh, các gia đình và hộ gia đình cơng nhân viên
chức, cán bộ hành chính sự nghiệp, giáo viên, nhà khoa học, trí thức văn


nghệ sỹ... cũng được khuyến khích trong lao động sáng tạo, tăng thu nhập
chính đáng từ lao động sáng tạo của mình. Các loại gia đình này tuy khơng

trực tiếp thực hiện chức năng sản xuất kinh doanh, nhưng cũng thực hiện một
nội dung quan trọng của hoạt động kinh tế: bảo đảm hoạt động tiêu dùng đáp
ứng các nhu cầu vật chất cơ bản của con người, qua đó kích thích sự phát
triển hoạt động kinh tế của xã hội.
Thực hiện tốt chức năng kinh tế sẽ tạo ra tiền đề và cơ sở vật chất vững chắc
cho tổ chức đời sống của gia đình. Đương nhiên, ngồi cơ sở kinh tế, thì cịn
nhiều yếu tố khác mới đảm bảo cho một gia đình trở nên văn minh, hạnh
phúc.
C. Chức năng giáo dục của gia đình
Nội dung của giáo dục gia đình tương đối tồn diện, cả giáo dục tri thức và
kinh nghiệm, giáo dục đạo đức và lối sống, giáo dục nhân cách, thẩm mỹ, ý
thức cộng đồng. Phương pháp giáo dục của gia đình cũng rất đa dạng, song
chủ yếu là phương pháp nêu gương, thuyết phục, chịu ảnh hưởng khơng ít
của tư tưởng, lối sống, tâm lý, gia phong của gia đình truyền thống. Dù giáo
dục xã hội đóng vai trị ngày càng quan trọng, có ý nghĩa quyết định, nhưng
có những nội dung và phương pháp giáo dục gia đình mang lại hiệu quả lớn
khơng thể thay thế. Giáo dục gia đình cịn bao hàm cả tự giáo dục. Do đó,
chủ thể giáo dục gia đình cơ bản và chủ yếu vẫn là thế hệ cha mẹ, ơng bà đối
với con cháu.
Giáo dục gia đình là một bộ phận và có quan hệ hỗ trợ, bổ sung hoàn thiện
thêm cho giáo dục nhà trường và xã hội. Do đó, dù giáo dục nhà trường và
giáo dục xã hội có phát triển lên trình độ nào, giáo dục gia đình vẫn được coi
là một thành tố của nền giáo dục xã hội nói chung. Giáo dục gia đình ln trở
thành bộ phận quan trọng, hợp thành giáo dục nói chung phục vụ các lợi ích
cơ bản của giai cấp thống trị trong bất cứ thời đại nào, khi xã hội còn giai cấp
và phân chia giai cấp.
D. Chức năng thoả mãn các nhu cầu tâm - sinh lý, tình cảm của gia đình.
Nếu như trình độ sản xuất kinh doanh, hoạt động kinh tế và tổ chức đời sống
gia đình là điều kiện và tiền đề vật chất của xây dựng gia đình, thì thoả mãn
các nhu cầu tâm sinh lý được coi là một chức năng có tính văn hố - xã hội

của gia đình. Chức năng này có vị trí đặc biệt quan trọng, cùng với các chức
năng khác tạo ra khả năng thực tế cho xây dựng gia đình hạnh phúc. Nhiều
vấn đề phức tạp liên quan đến giới tính và giới, tâm lý lứa tuổi và thế hệ,
những căng thẳng mệt mỏi về thể xác và tâm hồn trong lao động và cơng
tác... nhiều khi có thể được giải quyết trong một mơi trường gia đình hồ
thuận. Sự hiểu biết, cảm thơng, chia sẻ và đáp ứng các nhu cầu tâm sinh lý


giữa vợ - chồng, cha mẹ - con cái... làm cho mỗi thành viên có điều kiện sống
lạc quan, khoẻ mạnh về thể chất và tinh thần là những tiền đề cần thiết cho
một thái độ, hành vi tích cực trong cuộc sống gia đình và xã hội.
Gia đình là một thiết chế đa chức năng. Mọi thành viên gia đình, tuỳ thuộc
vào vị thế, lứa tuổi... đều có quyền và nghĩa vụ thực hiện các chức năng nói
trên. Trong đó, người phụ nữ có vai trị đặc biệt quan trọng, bởi họ là người
do đặc thù tự nhiên - sinh học, đảm nhận và thực hiện một số thiên chức
khơng thể thay thế. Tuy nhiên, trong q trình lịch sử, phụ nữ là những người
vất vả, cực nhọc và chịu nhiều thiệt thòi nhất cả trong quan hệ xã hội lẫn
trong quan hệ gia đình. Do đó, giải phóng phụ nữ được coi là một mục tiêu
quan trọng của cách mạng xã hội chủ nghĩa, cần phải được bắt đầu từ gia
đình.
Gia đình, thơng qua thực hiện các chức năng khách quan vốn có của mình, có
vai trị rất quan trọng đối với sự phát triển xã hội, nhưng chỉ với tư cách là
của cái bộ phận đối với cái tồn thể. Mọi quan điểm tuyệt đối hố, đề cao quá
mức hay phủ nhận, hạ thấp vai trò của gia đình đều là sai lầm.

III. Liên hệ thực tiễn vấn đề: Xây dựng gia đình Việt
Nam trong thời kỳ q độ lên CNXH.
1. Biến đổi mơ hình, kết cấu của gia đình

Gia đình Việt Nam ngày nay phần lớn là gia đình hạt nhân trong đó chỉ có một

cặp vợ chồng (bố mẹ) và con cái mà họ sinh ra. Hầu hết các gia đình trí thức,
viên chức nhà nước, cơng nhân cơng nghiệp, gia đình qn đội, cơng an đều là
gia đình hạt nhân. Xu hướng hạt nhân hóa gia đình ở Việt Nam đang có chiều
hướng gia tăng vì nhiều ưu điểm và lợi thế của nó. Trước hết gia đình hạt nhân
tồn tại như một đơn vị độc lập, gọn nhẹ, linh hoạt và có khả năng thích ứng
nhanh với các biến đổi xã hội. Gia đình hạt nhân có sự độc lập về quan hệ kinh
tế. Kiểu gia đình này tạo cho mỗi thành viên trong gia đình khoảng khơng gian
tự do tương đối lớn để phát triển tự do cá nhân. Cá nhân tính được đề cao. Trong
xã hội hiện đại, mức độ độc lập cá nhân được coi là một yếu tố biểu hiện chất
lượng cuộc sống gia đình. Tính độc lập cá nhân được gia đình tạo điều kiện ni
dưỡng, phát triển sẽ tạo ra phong cách sống, tính cách, năng lực sáng tạo riêng
khiến cho mỗi người đều có bản sắc. Đó cũng chính là con người mà sự nghiệp
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa của Đảng ta đang cần đến.
Tuy nhiên, gia đình hạt nhân cũng có những điểm yếu nhất định. Chẳng hạn, do
mức độ liên kết thuyết minh giảm sút và sự ngăn cách không gian, giữa các gia
đình nên khả năng hỗ trợ lẫn nhau về vật chất và tinh thần bị hạn chế. ảnh hưởng
của thế hệ tới nhau ít đi cũng làm giảm khả năng bảo lưu các giá trị văn hóa
truyền thống trong gia đình. Dù vậy, gia đình hạt nhân vẫn là loại hình khá phổ
biến ở nước ta hiện nay và đó cũng là loại gia đình thịnh hành trong các xã hội


cơng nghiệp – đơ thị phát triển. Có nghĩa – đó cũng là kiểu gia đình của tương
lai.

2. Biến đổi chức năng gia đình
Chức năng tái sản xuất ra con người: Do chính sách kế hoạch hóa gia đình và đơ
thị hóa, số con trong mỗi gia đình giảm đi và nhiều hộ gia đình quyết định
khơng có con. Tư tưởng cần con trai nối dõi cũng đã thuyên giảm.
Chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng:
+, Từ kinh tế tự cấp tự túc thành kinh tế hàng hóa.

+ Từ đơn vị kinh tế mà đặc trưng là sản xuất hàng hóa đáp ứng nhu cầu thị
trường quốc gia thành tổ chức kinh tế của nền thị trường hiện đại.

3. Biến đổi chức năng giáo dục (xã hội hóa)
Hiện nay, nhất là ở khu vực thành thị, việc bố mẹ trang bị cho con mình những
cơng cụ hiện đại như smartphone, máy tính bảng, máy tính xách tay,… phục vụ
nhu cầu học tập và giải trí là tình trạng khá phổ biến.
Cha mẹ có xu hướng chú trọng cho con cái tiếp thu kiến thức khoa học hiện đại.
Những cuốn sách như “10 vạn câu hỏi vì sao?” đã trở nên phổ biến với trẻ em
cấp 1 vì bố mẹ muốn các con không chỉ hiểu các quy tắc ứng xử cần thiết mà
cịn phải có kiến thức về thế giới, khoa học, chủ động mở mang tri thức mà
khơng cần phụ thuộc vào trường lớp.
Về vai trị giáo dục của các chủ thể trong gia đình: vai trị của người đàn ơng
trong giáo dục gia đình người Việt hiện nay về cơ bản vẫn được giữ như truyền
thống. Điều này có thay đổi ở một số khu vực, các vùng nơng thơn có xu hướng
đề cao vai trị của người đàn ơng hơn. Trong khi đó, ở các gia đình thành thị,
việc giáo dục hiện nay đang chia đều cho cả cha mẹ và ơng bà, theo đó, người
mẹ đang giữ vai trò ngày một rõ rệt hơn trong giáo dục.
Tuy nhiên, có sự gia tăng về các hiện tượng tiêu cực trong xã hội và nhà trường:
Lo lắng trước những tệ nạn xã hội và việc trẻ em quan hệ tình dục, nhiều gia
đình đã chọn phương thức giáo dục là cách ly chúng khỏi bất cứ thông tin gợi
mở nào. Trẻ không được giáo dục để tìm hiểu bản chất vấn đề, nhưng thơng tin
đại chúng lại luôn đặt chúng trước những điều hấp dẫn cần tiếp cận. Ví như
nhiều trường hợp vì khơng biết “quan hệ tình dục” là thế nào nên tị mị, rồi
“thử” mà khơng hề biết cách phịng bị đúng đắn, dẫn đến hậu quả đáng tiếc.

4. Biến đổi chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình
cảm

Nhu cầu thỏa mãn tâm lý – tình cảm tăng lên do gia đình có xu hướng chuyển từ

đơn vị kinh tế sang đơn vị tình cảm, tác động đến sự tồn tại, bền vững của hơn
nhân và hạnh phúc gia đình.
Tác động của cơng nghiệp hóa và tồn cầu hóa dẫn tới sự phân hóa giàu nghèo
sâu sắc.


Quy mơ gia đình Việt Nam ngày càng thu nhỏ để đáp ứng những nhu cầu và
điều kiện của thời đại mới đặt ra. Bên cạnh đó, nó cũng thay đổi chính xã hội
hay những giá trị của xã hội, đáng kể nhất là việc giải phóng phụ nữ: họ được
đối xử bình đẳng hơn và có nhiều điều kiện để phát triển, nâng cao vị thế xã hội
của mình; vai trò của họ trong cuộc sống, trong sản xuất,... ngày càng trở nên
quan trọng hơn, gánh nặng gia đình cũng dần được chia sẻ và cơ hội phát huy
tiềm năng cũng đến nhiều hơn, được tồn xã hội cơng nhận. Tất nhiên, q trình
biến đổi đó cũng gây ra những phản chức năng như tạo ra sự ngăn cách khơng
gian giữa các thành viên trong gia đình, tạo khó khăn, trở lực trong việc gìn giữ
tình cảm cũng như các giá trị văn hóa truyền thống của gia đình. Xã hội ngày
càng phát triển, mỗi người đều bị cuốn theo cơng việc của riêng mình với mục
đích kiếm thêm thu nhập, thời gian dành cho gia đình cũng vì vậy mà ngày càng
ít đi. Con người như rơi vào vịng xốy của đồng tiền và vị thế xã hội mà vơ tình
đánh mất đi tình cảm gia đình. Các thành viên ít quan tâm lo lắng đến nhau và
giao tiếp với nhau hơn, làm cho mối quan hệ gia đình trở nên rời rạc, lỏng lẻo...
Đó là mặt hạn chế của gia đình hiện đại so với gia đình truyền thống xưa. Chính
sự coi trọng kinh tế, đặt kinh tế lên hàng đầu ấy đã làm cho những giá trị tốt đẹp
xưa của gia đình bị phai nhạt dần, thậm chí cịn dễ dẫn tới các hệ lụy xấu.
 Phương hướng cơ bản xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam trong
thời kỳ q độ lên CNXH:
*Phía chính phủ:
Trong Quyết định Phê duyệt Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến
năm 2020, tầm nhìn 2030; thủ tướng chính phủ đã chỉ rõ:
Gia đình là tế bào của xã hội, là mơi trường quan trọng hình thành, ni

dưỡng và giáo dục nhân cách, bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống tốt
đẹp, chống lại các tệ nạn xã hội, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc là một trong các mục tiêu quan
trọng của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020, đồng
thời cũng là trách nhiệm của mọi gia đình trong thời kỳ đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Ưu tiên, tạo điều kiện để các gia đình khu vực nơng thơn, miền núi, khu vực
khó khăn, đặc biệt khó khăn nâng cao thu nhập, cải thiện cuộc sống.
Trong đó, chiến lược mang mục tiêu chung là Xây dựng gia đình Việt Nam
no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thực sự là tổ ấm của mỗi người, là tế bào lành
mạnh của xã hội. Các mục tiêu cụ thể như sau
a) Mục tiêu 1: Nâng cao nhận thức về vai trị, vị trí, trách nhiệm của gia đình
và cộng đồng trong việc thực hiện tốt chủ trương, đường lối, chính sách,
pháp luật về hơn nhân và gia đình, bình đẳng giới, phịng, chống bạo lực gia
đình, ngăn chặn các tệ nạn xã hội xâm nhập vào gia đình.


- Chỉ tiêu 1: Phấn đấu đến năm 2015 đạt 90% và đến năm 2020 đạt 95% trở
lên hộ gia đình được phổ biến, tuyên truyền và cam kết thực hiện tốt các chủ
trương, đường lối, chính sách, pháp luật về hơn nhân và gia đình, bình đẳng
giới, phịng, chống bạo lực gia đình, ngăn chặn các tệ nạn xã hội xâm nhập
vào gia đình.
- Chỉ tiêu 2: Phấn đấu đến năm 2015 đạt 90% và đến năm 2020 đạt 95% nam,
nữ thanh niên trước khi kết hôn được trang bị kiến thức cơ bản về gia đình,
phịng, chống bạo lực gia đình.
- Chỉ tiêu 3: Hằng năm, trung bình giảm từ 10 - 15% hộ gia đình có bạo lực
gia đình.
- Chỉ tiêu 4: Hằng năm, trung bình giảm từ 10 - 15% hộ gia đình có người
mắc tệ nạn xã hội.

- Chỉ tiêu 5: Hằng năm, trung bình giảm 15% (khu vực khó khăn và đặc biệt
khó khăn giảm 10%) hộ gia đình có người kết hơn dưới tuổi pháp luật quy
định.
b) Mục tiêu 2: Kế thừa, phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình
Việt Nam; tiếp thu có chọn lọc các giá trị tiên tiến của gia đình trong xã hội
phát triển; thực hiện đầy đủ các quyền và trách nhiệm của các thành viên
trong gia đình, đặc biệt đối với trẻ em, người cao tuổi, phụ nữ có thai, ni
con nhỏ.
- Chỉ tiêu 1: Phấn đấu đến năm 2015 đạt 80% trở lên (khu vực khó khăn và
đặc biệt khó khăn đạt 70% trở lên) và đến năm 2020 đạt 85% trở lên (khu
vực khó khăn và đặc biệt khó khăn đạt 75% trở lên) hộ gia đình đạt tiêu
chuẩn gia đình văn hóa.
- Chỉ tiêu 2: Phấn đấu đến năm 2015 đạt 85% và năm 2020 đạt 95% hộ gia
đình dành thời gian chăm sóc, dạy bảo con, cháu, tạo điều kiện cho con, cháu
phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, đạo đức và tinh thần, khơng phân biệt
con, cháu là trai hay gái.
- Chỉ tiêu 3: Phấn đấu đến năm 2015 đạt 85% và năm 2020 đạt 95% hộ gia
đình thực hiện chăm sóc, phụng dưỡng chu đáo ông, bà, chăm sóc cha, mẹ,
phụ nữ có thai, nuôi con nhỏ.
- Chỉ tiêu 4: Phấn đấu đến năm 2015 đạt 95% và năm 2020 đạt từ 98% trở
lên hộ gia đình có người trong độ tuổi sinh đẻ được tuyên truyền và thực hiện
đúng chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình, khơng phá thai vì giới tính
của thai nhi.
c) Mục tiêu 3: Nâng cao năng lực của gia đình trong phát triển kinh tế, ứng
phó với thiên tai và khủng hoảng kinh tế; tạo việc làm, tăng thu nhập và phúc
lợi, đặc biệt đối với các hộ gia đình chính sách, hộ nghèo và cận nghèo theo
quy định.
- Chỉ tiêu 1: Phấn đấu đến năm 2015 đạt 90% và đến năm 2020 đạt 95% trở
lên hộ gia đình được cung cấp thơng tin về chính sách, pháp luật phúc lợi xã
hội dành cho các gia đình chính sách, gia đình nghèo.

- Chỉ tiêu 2: Phấn đấu đến năm 2015 đạt 90% và đến năm 2020 đạt 95% trở
lên hộ gia đình nghèo, hộ cận nghèo được cung cấp kiến thức, kỹ năng để
phát triển kinh tế gia đình, ứng phó với thiên tai, khủng hoảng kinh tế.


- Chỉ tiêu 3: Hằng năm, tăng 10% hộ gia đình, thành viên trong gia đình được
thụ hưởng các dịch vụ y tế, văn hóa, giáo dục và dịch vụ hỗ trợ gia đình, hỗ
trợ thành viên gia đình.
*Liên hệ bản thân :
1. Quan tâm và chia sẻ
Sự quan tâm chia sẻ tạo nên sự kết nối bền chặt giữa các thành viên trong gia
đình. Với cuộc sống bận rộn như hiện nay, việc dành nhiều thời gian để cùng
nhau trị chuyện là điều cần thiết với nhiều gia đình.
2. Làm tròn trách nhiệm của bản thân
Mỗi thành viên trong gia đình đều có nghĩa vụ và trách nhiệm riêng. Với các
con phải có nghĩa vụ đi học, ngoan ngỗn, hiểu thảo với ông bà, bố mẹ. Vợ
và chồng cùng nhau làm việc, chăm sóc, ni dạy con cái, báo hiếu cha mẹ.
Nếu mỗi thành viên trong gia đình đều làm tốt trách nhiệm của mình thì
những người cịn lại mới có thể yên tâm để phát triển những việc khác.
3. Tơn trọng lẫn nhau
Trong gia đình thì ai cũng cần được tôn trọng, cả trẻ nhỏ cũng vậy. Sự thiếu
tôn trọng trong suy nghĩ sẽ gây ra những lời nói, hành động làm tổn thương
người khác. Mà lời nói là thứ có tính sát thương rất lớn. Vết thương về thể
xác có thể được chữa khỏi nhưng những gì đã nói ra có lẽ cả đời vẫn chưa
quên được.
Nhiều gia đình có tư tưởng “trọng nam khinh nữ” nên vai trị của người đàn
ơng trong gia đình được đánh giá cao cịn phụ nữ thì khơng có tiếng nói.
Điều này rất dễ dẫn đến sự thiếu tôn trọng của người chồng đối với người vợ.
Dù trình độ dân trí ngày càng được cải thiện, tuy nhiên tư tưởng này chưa
được xóa bỏ hồn tồn, nó vẫn cịn len lỏi trong suy nghĩ của nhiều người.

Hay trong mối quan hệ của cha mẹ với con cái, nhiều bậc cha mẹ ln bắt ép
con phải làm theo những gì mình đã sắp xếp khơng cần biết con có thích hay
khơng. Với suy nghĩ “con khơng biết gì” cha mẹ có quyền quyết định cả
tương lai của con từ trường học, việc làm đến cả chuyện hôn nhân dẫn đến
việc con cái lúc nào cũng cảm thấy bất mãn.



×