Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở nước ta thời kỳ 2001 – 200

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (277.06 KB, 45 trang )

Lời nói đầu
Chuyển dịch cơ cấu ngành và phát triển các ngành trọng điểm, mũi nhọn là
một vấn đề cơ bản, cốt lõi của tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của bất
cứ một quốc gia nào nếu không muốn đứng vào danh sách các nớc nghèo nhất
thế giới
Chuyển dịch cơ cấu theo hớng công nghiệp, hoá hiện đại hóa, phù hợp với
các yêu cầu và bớc đi trong tiến trình hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế
giới là một trong những nội dung cơ bản của đờng nối đổi mới kinh tế đất nớc
do Đại hội lần thứ VII, VIII và IX của Đảng đề ra. Mục tiêu phấn đấu đến năm
2005 ở nớc ta có cơ cấu GDP theo ngành là: Tỷ trọng nông, lâm ng nghiệp
khoảng 20 21%, tỷ trọng công nghiệp và xây dựng khoảng 38 39%, tỷ
trong dịch vụ khoảng 41 42%. Để đạt đợc mục tiêu đề ra trên đây, góp phần
thực hiện chủ trơng lớn của Đảng và Nhà nớc trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hóa, mỗi nhóm ngành phải đạt tốc độ tăng trởng: Nông
nghiệp 4,8%/năm, công nghiệp 13%/năm, dịch vụ 7,5%/năm. Nhằm tìm kiếm
các phơng hớng và giải pháp cơ bản thực hiện chủ trơng và nhiệm vụ quan trọng
này, đã có nhiều công trình nghiên đợc tiến hành và thử nghiệm trong những
năm vừa qua. Nhiều ấn phẩm khoa học đã đợc xuất bản. Qua các kết quả nghiên
cứu đó, nhiều vấn đề lý luận, quan điểm định hớng đã từng bớc đợc luận giải và
làm sáng tỏ, nhiều chính sách, giải pháp... đã đợc triển khai và áp dụng trong
thực tế. Tuy vậy, chuyển dịch cơ cấu theo hớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
phù hợp với các yêu cầu và bớc đi trong tiến trình hội nhập với nền kinh tế khu
vực và thế giới là một vấn đề có nội dung phong phú và phức tạp, mục tiêu, yêu
cầu và bớc đi của chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải đợc xem xét gắn với mỗi giai
đoạn phát triển của nền kinh tế.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của Việt Nam và đờng hớng phát triển kinh
tế của Đảng và Nhà nớc trong thời gian tới. Vì vậy, em đã chọn viết đề tài: Kế
hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở nớc ta thời kỳ 2001 2005 . Mặc
dù đã có cố gắng nhiều trong quá trình nghiên cứu và tìm hiểu đề tài, song đây
là một vấn đề phức tạp, nên chắc chắn đề án không tránh khỏi còn những thiếu
sót. Em rất mong nhận đợc những ý kiến đóng góp của các thầy (cô) giáo, các


quý vị và các bạn. Em xin chân thành cảm ơn về các ý kiến đóng góp quý báu
đó.
Cuối cùng, em xin cảm ơn cô giáo Vũ Thị Ngọc Phùng, thầy giáo Ngô
Thắng Lợi và toàn thể các thầy (cô) giáo khác đã giúp em hoàn thành đề án một
cách tốt nhất.


Sinh viên: Đặng Trung Nghĩa
1
Chơng i những vấn đề lý luận chung về chuyển dịch
cơ cấu ngành kinh tế
I. C ơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế .
1. Các khái niệm.
a. Cơ cấu kinh tế.
Cơ cấu kinh tế là tổng thể các bộ phận cấu thành nền kinh tế quốc dân và
mối quan hệ của các bộ phận đó với nhau, tác động qua lại với nhau trong
những không gian và thời gian nhất định, trong những điều kiện kinh tế xã
hội nhất định. Biểu hiện bằng tỷ trọng của mỗi bộ phận và vị trí của nó trong
tổng thể nền kinh tế.
Có nhiều cách tiếp cận, nhng nhìn chung bản chất chủ yếu của cơ cấu kinh
tế bao gồm các vấn đề sau:
- Tổng thể các nhóm ngành, các yếu tố cấu thành hệ thống kinh tế của một
quốc gia.
- Số lợng và tỉ trọng các nhóm ngành và của các yếu tố cấu thành hệ thống
kinh tế trong tổng thể nền kinh tế đất nớc .
- Các mối quan hệ tơng tác với nhau giữa các nhóm ngành, các yếu tố... h-
ớng vào các mục tiêu đã định. Cơ cấu kinh tế còn là một phạm trù trừu tợng;
muốn nắm vững bản chất của cơ cấu kinh tế và thực thi các giải pháp nhằm
chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách có hiệu quả cần xem xét từng loại cơ cấu
cụ thể của nền kinh tế quốc dân.

b. Cơ cấu ngành kinh tế .
Cơ cấu ngành kinh tế là tổng hợp các ngành kinh tế hợp thành các tơng
quan tỷ lệ, biểu hiện mối quan hệ giữa các nhóm ngành và vị trí, tỷ trọng của
mỗi ngành tổng thể kinh tế quốc dân. Cơ cấu ngành phản ánh phần nào trình độ
phân công lao động xã hội chung của nền kinh tế và trình độ phát triển của l-
ợng sản xuất. Thay đổi mạnh mẽ cơ cấu ngành là nét đặc trng của các nớc đang
phát triển. Khi phân tích cơ cấu ngành của một quốc gia ngời ta thờng phân
tích theo ba nhóm ngành chính:
- Nhóm ngành nông nghiệp: bao gồm các ngành nông, lâm, ng nghiệp.
- Nhóm ngành công nghiệp: bao gồm các ngành công nghiệp và xây dựng.
- Nhóm ngành dịch vụ: bao gồm thơng mại, bu điện, du lịch...
Nhìn vào thực trạng cơ cấu ngành kinh tế nớc ta hiện nay có thể nhận xét:
nớc ta hiện nay về cơ bản còn đang là một nớc nông nghiệp. Xu hớng có tính
quy luật chung của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là chuyển dịch theo hớng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nghĩa là tỷ trọng và vai trò của ngành công
nghiệp và dịch vụ có xu hớng tăng nhanh, còn tỷ trọng của ngành nông nghiệp
có xu hớng giảm. Kinh nghiệm thế giới cho thấy, muốn chuyển từ một nền
2
kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp đều phải trải qua các bớc:
chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp (tỷ trọng ngành nông nghiệp chiếm 40
60%, công nghiệp từ 10 20%, dịch vụ 10 30% ) sang nền kinh tế công ,
nông ( tỷ trọng ngành nông nghiệp 15 25%, công nghiệp 25 35%,dịch vụ
40 50%), để từ đó chuyển sang nền kinh tế công nghiệp phát triển ( tỷ trọng
ngành nông nghiệp dới 10%, công nghiệp 35 40%, dịch vụ 50 60%).
c. Cơ cấu lãnh thổ
Nếu cơ cấu ngành kinh tế hình thành từ quá trình phân công lao động xã
hội và chuyên môn hoá sản xuất thì cơ cấu kinh tế lãnh thổ lại đợc hình thành
chủ yếu từ việc bố trí sản xuất theo không gian địa lý.
Cơ cấu lãnh thổ và cơ cấu ngành kinh tế thực chất là hai mặt của một thể
thống nhất và đều là sự biểu hiện của phân công lao động xã hội. Cơ cấu lãnh

thổ hình thành gắn liền với cơ cấu ngành và thống nhất trong vùng kinh tế.
Trong cơ cấu lãnh thổ, có sự biểu hiện của cơ cấu ngành trong điều kiện cụ thể
của không gian lãnh thổ. Xu hớng phát triển của kinh tế lãnh thổ thờng là phát
triển nhiều mặt, tổng hợp, có u tiên một vài ngành và gắn liền với sự hình thành
và phân bổ dân c phù hợp với các điều kiện, tiềm năng phát triển kinh tế của
lãnh thổ. Việc chuyển dịch cơ cấu lãnh thổ phải bảo đảm sự hình thành và phát
triển có hiệu quả của các ngành kinh tế, các thành phần kinh tế theo lãnh thổ và
trên phạm vi cả nớc, phù hợp với các đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội, phong
tục tập quán, truyền thống của mỗi vùng, nhằm khai thác triệt để thế mạnh của
vùng đó.
d. Cơ cấu thành phần kinh tế .
Nếu nh phân công lao động xã hội đã là cơ sở hình thành cơ cấu ngành và
cơ cấu lãnh thổ, thì chế độ sở hữu lại là cơ sở hình thành cơ cấu thành phần kinh
tế. Một cơ cấu thành phần kinh tế hợp lý phải dựa trên cơ sở hệ thống tổ chức
kinh tế với chế độ sở hữu có khả năng thúc đẩy sự phát triển của lực lợng sản
xuất, thúc đẩy phân công lao động xã hội ...Theo nghĩa đó, cơ cấu thành phần
kinh tế cũng là một nhân tố tác động đến cơ cấu ngành kinh tế và cơ cấu lãnh
thổ. Sự tác động đó là một biểu hiện sinh động của mối quan hệ giữa các loại cơ
cấu trong nền kinh tế .
Ba bộ phận cơ bản hợp thành cơ cấu kinh tế là cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu
thành phần kinh tế, cơ cấu lãnh thổ có quan hệ chặt chẽ với nhau.Trong đó cơ
cấu ngành kinh tế có vai trò quan trọng hơn cả. Cơ cấu ngành và thành phần
kinh tế chỉ có thể đợc chuyển dịch đúng đắn trên phạm vi không gian lãnh thổ
và trên phạm vi cả nớc. Mặt khác, việc phân bố không gian lãnh thổ một cách
hợp có ý nghĩa quan trọng thúc đẩy phát triển các ngành và thành phần kinh tế
trên lãnh thổ.
3
2. Chuyển dịch cơ cấu ngành của nền kinh tế .
a. KháI niệm


Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là quá trình thay đổi cơ cấu ngành kinh
tế từ dạng này sang dạng khác phù hợp với sự phân công lao động xã hội, sự
phát triển của lực lợng sản xuất và các nhu cầu phát triển khác của xã hội.
Sức ép của nhu cầu thị trờng và yêu cầu phát triển kinh tế, đòi hỏi phải
thay đổi cơ cấu ngành của nền kinh tế còn gọi là chuyển dịch cơ cấu ngành.
Có một số quan niệm sau đây cần phải quán triệt:
- Chuyển dịch cơ cấu ngành của nền kinh tế là sự thay đổi có mục đích, có
định hớng và dựa trên cơ sở phân tích đầy đủ căn cứ lý luận và thực tiễn, cùng
với việc áp dụng đồng bộ các giải pháp cần thiết để chuyển cơ cấu ngành từ
trạng thái này sang trạng thái khác, hợp lý và hiệu quả hơn.
b. Đặc điểm
- Chuyển dịch cơ cấu ngành phải đợc coi là điểm cốt tử, một nội dung cơ
bản, lâu dài trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nếu xác định phơng
hớng và giải pháp chuyển dịch đúng sẽ đảm bảo có hiệu quả kinh tế xã hội cao
trong sự phát triển. Ngợc lại, sẽ phải trả giá đắt cho những sự phát triển về sau.
- Trong thời đại ngày nay, sự thay đổi nhanh chóng của nhu cầu thị trờng
và tiến bộ khoa học công nghệ, ở tất cả các nớc đều đặt ra vấn đề chuyển dịch
cơ cấu ngành. Riêng ở các nớc đang phát triển, chuyển dịch cơ cấu ngành phải
luôn luôn gắn với công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là tạo lập cơ cấu ngành phù
hợp với yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc. Yêu cầu đặt ra là phải
định vị đợc một cơ cấu các ngành kinh tế, xác định hợp lý các ngành, vùng
trọng điểm, mũi nhọn cho phù hợp với mỗi giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại
hoá.
- Chuyển dịch cơ cấu ngành của nền kinh tế thành công hay thất bại phụ
thuộc rất nhiều vào khâu quyết định chủ trơng chuyển dịch và tổ chức thực hiện
các mục tiêu, nhiệm vụ đã xác định. ở đây, Nhà nớc có vai trò quyết định trong
việc hoạch định chủ trơng và chính sách kinh tế vĩ mô còn các doanh nghiệp thì
có vai trò quyết định việc thực thi phơng hớng, nhiệm vụ chuyển dịch
3. Các đặc điểm của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nớc ta.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá để

bảo đảm hội nhập có kết quả là quá trình có tính quy luật phổ biến ở tất cả các
nớc, song trong mỗi giai đoạn khác nhau của sự phát triển, quá trình này cũng
có những đặc điểm riêng, đòi hỏi phải đợc các chủ thể nhận thức đúng đắn và
có những ứng xử phù hợp.
ở nớc ta hiện nay, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế có những đặc điểm
sau đây:
Chúng ta vẫn đang ở trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, tuy rằng thời gian qua chúng ta đã có những bớc chuyển biến
mạnh mẽ. Biểu hiện chủ yếu của đặc điểm này là nông nghiệp vẫn chiếm tỷ lệ
4
lớn trong cơ cấu kinh tế nói chung, tỷ trọng công nghiệp có tăng nhng cha đạt
mức mong muốn. Trong nội bộ 3 nhóm ngành lớn, cơ cấu ngành đã có hớng
thay đổi tích cực, có tác động bớc đầu đối với sự phát triển chung của toàn bộ
nền kinh tế quốc dân, song cha vững chắc, cha đáp ứng đợc yêu cầu của sự hội
nhập quốc tế và khu vực. Trong nội bộ các nhóm ngành, đặc biệt là trong nông -
lâm ng nghiệp, trình độ trang bị kỹ thuật còn thấp, năng suất cây trồng, vật
nuôi cha cao, chất lợng hàng hoá còn thấp đã hạn chế xuất khẩu ra thị trờng thế
giới. Trong công nghiệp, máy móc thiết bị ít về chủng loại, lại lạc hậu về công
nghệ, phần lớn thuộc thế hệ cũ, trang bị chắp vá. Một nửa số doanh nghiệp Nhà
nớc có hệ số hao mòn tài sản cố định trên 50%, trong đó có 27% số doanh
nghiệp hao mòn trên 60%. Lao động thủ công và bán cơ giới còn phổ biến nên
năng suất lao động thấp, giá thành sản phẩm cao, chất lợng sản phẩm cha đủ
cạnh tranh trên thị trờng quốc tế, công nghiệp nông thôn còn nhỏ bé, cha phát
triển tơng xứng với tiềm năng nên cha có sức thu hút lao động d thừa trong
nông nghiệp .
Nến kinh tế Việt Nam đã bớc sang một giai đoạn mới về chất, giai đoạn
mà sự phát triển theo chiều rộng, đòi hỏi nền kinh tế và nhóm ngành phải
chuyển hớng sang tìm kiếm và khai thác các yếu tố phát triển theo chiều sâu.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nớc ta theo hớng hội nhập với nền kinh tế
khu vực, thế giới diễn ra trong bối cảnh của giai đoạn chuyển đổi cơ chế quản

lý.Trong giai đoạn này, một số yếu tố của cơ chế mới từng bớc đợc hình thành,
song cần có thời gian để củng cố khẳng định, các yếu tố của cơ chế cũ vẫn còn
hiện diện và phát huy vai trò của nó trong nền kinh tế , nhiều yếu tố quản lý ở
tầm chiến lợc còn cha đợc định hình rõ nét. Trong hoàn cảnh đó, có thể và cần
tìm các giải pháp và các bớc đi có tính quá độ để thực hiện chuyển dịch cơ cấu
kinh tế đất nớc.
Một điều khó khăn trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nớc ta hiện nay là
trong khi cần chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế , sớm hình thành cơ cấu mới
tích cực để hội nhập thì lại thiếu nguồn lực cơ bản cho sự phát triển: thiếu vốn,
trình độ kỹ thuật công nghệ thấp kém, lao động trình độ thấp... Bởi vậy, các khó
khăn bất cập xảy ra thờng xuyên trong tiến trình chuyển dịch cơ cấu là điều tất
yếu và đòi hỏi chúng ta phải có các giải pháp và điều kiện điều chỉnh thích hợp.
Việt Nam đi vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc trùng với
thời điểm thế giới đang diễn ra những thay đổi lớn về chính trị và kinh tế. Xu
thế hoà bình và hợp tác để phát triển ngày càng trở thành đòi hỏi bức xúc; toàn
cầu hoá và khu vực hoá đời sống kinh tế đã trở thành một trong những xu thế
phát triển chủ yếu của quan hệ quốc tế hiện đại. Cuộc cách mạng khoa học
công nghệ đã và đang thúc đẩy mạnh mẽ quá trình chuyên môn hoá và hợp tác
giữa các quốc gia làm cho lực lợng sản xuất đợc quốc tế hoá ngày càng cao.
Những tiến bộ của khoa học công nghệ, đặc biệt là ngành tin học, đã dẫn tới
hình thành mạng lới toàn cầu nh : xa lộ thông tin, thơng mại diện tử. Đặc
điểm này đòi hỏi các nớc phải nỗ lực hội nhập vào xu thế chung, điều chỉnh
chính sách theo hớng mở cửa. Chúng ta cũng nhận thức rõ hội nhập khu vực và
quốc tế thực chất là cuộc đấu tranh phức tạp để góp phần phát triển kinh tế,
5
củng cố an ninh chính trị giữ gìn bản sắc dân tộc. Quán triệt đặc điểm này là
yếu tố quan trọng để chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng hớng và có hiệu quả.
II. Một số vấn đề lý luận cơ bản về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
1. Cơ sở lý luận của mối liên hệ giữa chuyển dịch cơ cấu và quá trình
phát triển kinh tế.

a. Học thuyết về phân công lao động xã hội và học thuyết về táI sản
xuất t bản xã hội
Quá trình phát triển tăng trởng kinh tế của một quốc gia thờng đợc xem xét
nh là một quá trình làm thay đổi thu nhập bình quân đầu ngời. Mặc dù có nhiều
thay đổi trong quan niệm về phát triển và tăng trởng, nhng chỉ tiêu trên vẫn đợc
coi trọng và làm thớc đo cho sự phát triển về kinh tế. Một xu hớng mang tính
quy luật là cùng với sự phát triển về kinh tế, cũng diễn ra một quá trình thay đổi
về cơ cấu kinh tế tức là một sự thay đổi tơng đối về vai trò mức đóng góp, tốc
độ phát triển của từng thành phần, từng yếu tố riêng về cấu thành nên toàn bộ
nền kinh tế. Một trong những cơ cấu kinh tế đợc quan tâm và nghiên cứu nhiều
trong mối liên hệ với quá trình tăng trởng và phát triển kinh tế là cơ cấu ngành.
Cơ cấu đó về phần mình lại đợc thể hiện trong quá trình sản xuất tiêu dùng và
ngoại thơng. Mối quan hệ giữa vấn đề chuyển dịch cơ cấu xét theo khía cạnh
này với sự phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế là có ý nghĩa hết sức quan
trọng bởi vì gắn với nó là cả một động thái về phân bố các nguồn lực hạn hẹp
của một quốc gia trong những thời điểm nhất định vào những lĩnh vực hoạt
động sản xuất riêng. Điều này có thể giúp chúng ta phân tích, nhận biết tính
hiệu quả của việc phân bố nguồn lực, từ đó có thể rút ra những kết luận tơng
ứng về khả năng phát triển bền vững của nền kinh tế. Tơng tự, cơ cấu ngành
trong quan hệ ngoại thơng cũng thể hiện các lợi thế tơng đối và khả năng cạnh
tranh của một quốc gia trong nền kinh tế toàn cầu. Quá trình chuyển dịch cơ
cấu là một quá trình tất yếu gắn liền với sự phát triển kinh tế. Đồng thời nhịp độ
phát triển, tính chất bền vững của quá trình tăng trởng lại phụ thuộc vào khả
năng chuyển dịch cơ cấu linh hoạt, phù hợp với những lợi thế bên ngoài và các
điều kiện tơng đối của một nền kinh tế.
Một trong những đặc điểm rõ nét nhất trong việc thay đổi cơ cấu kinh tế
trong quá trình phát triển là việc tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp trong tổng sản
phẩm quốc nội trong khi tỷ trọng của nông nghiệp lại giảm sút. Có hai lý do
chính lý giải cho hiện tợng này đó là luật Engel. Luật Engel cho rằng khi thu
nhập của gia đình tăng lên thì phần chi tiêu dành cho thực phẩm giảm xuống.

Nguyên nhân thứ hai là sự phát triển kinh tế làm cho năng suất lao động nói
chung và trong ngành nông nghiệp nói riêng đợc tăng lên, do vậy tỷ trọng trong
ngành nông nghiệp có xu hớng giảm.
Tuy tất cả các nớc đều có xu thế chuyển dịch cơ cấu nh nhau, nhng tốc độ
chuyển dịch lại hoàn toàn không giống nhau vì bị chi phối bởi nhiều yếu tố
khác. Quá trình chuyển dịch diễn ra nh thế nào phụ thuộc vào các yếu tố nh quy
6
mô kinh tế, dân số của một quốc gia, các lợi thế về tự nhiên, nhân lực, điều kiện
kinh tế, văn hoá...Không có bất cứ một con đờng sẵn có, một liệu pháp cho tất
cả các nền kinh tế trong quá trình chuyển dịch cơ cấu. Có hai nhân tố quan
trọng thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu, đó là quá trình chuyên môn hoá và
thay đổi công nghệ, tiến bộ kỹ thuật (theo Tomich và Kilby). Quá trình chuyên
môn hoá mở đờng cho việc trang bị kyc thuật hiện đại, hoàn thiện tổ chức, áp
dụng công nghệ tiên tiến nâng cao năng suất lao động. Chuyên môn hoá cũng
tạo ra những hoạt động dịch vụ và chế biến mới. Điều đó làm cho tỷ trọng các
ngành truyền thống giảm trong khi đó thì tỷ trọng của các ngành dịch vụ kỹ
thuật mới càng đợc tăng trởng nhanh chóng, dần dần chiếm u thế. Chuyển dịch
cơ cấu tạo ra những tiền đề cho sự phát triển và hoàn thiện của các thị trờng yếu
tố sản xuất và ngợc lại, việc hoàn thiện và phát triển của thị trờng đó lại thúc
đẩy quá trình phát triển, tăng trởng kinh tế và do vậy làm sâu sắc thêm quá trình
chuyển dịch cơ cấu. Hai thị trờng lao động và tài chính và hai yếu tố lao động
và vốn có sự liên hệ chặt chẽ với quá trình chuyển dịch cơ cấu. Không thể có
một chính sách chuyển dịch cơ cấu đáng kể nếu không có các điều kiện hỗ trợ
cần thiết về mặt tài chính và nguồn lực con ngời.
b. Khả năng ứng dụng vào Việt nam
2. Kinh tế học thuộc trào lu chính
a. Điểm xuất phát, kế thừa của kinh tế học cổ điển
Kinh tế học thuộc trào lu chính là một trong những trờng phái kinh tế
lớn nhất hiện nay. Nó có cội nguồn từ kinh tế học cổ điển. Vì đối tợng của kinh
tế học thuộc trào lu chính là các nền kinh tế thị trờng phát triển nên về phơng

diện nào đó, có thể thấy rằng vấn đề chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong
thời kỳ công nghiệp hoá không phải là mục tiêu phân tích chính của nó. Song,
không phải vì vậy mà vấn đề này không đợc đề cập đến dới hình thức này hoặc
hình thức khác. Khi nhằm mục tiêu đuy trì hiệu quả của nền kinh tế, kinh tế học
thuộc trào lu chính một mặt đi sâu phân tích các điều kiện đảm bảo sự hoạt
động hữu hiệu của thị trờng với t cách là động lực phát triển kinh tế, mặt khác
đề cao vai trò can thiệp của nhà nớc thông qua một loạt các chính sách kinh tế
vĩ mô với chức năng đảm bảo cho thị trờng hoạt động tốt và duy trì sự ổn định
vĩ mô. ở địa hạt này, những phân tích về xu hớng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở
những nền kinh tế phát triển đang diễn ra dới tác động của cuộc cách mạng
khoa học kỹ thuật và xu hớng quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới cùng
những biện pháp can thiệp của nhà nớc, đặc biệt là những chơng trình tái cơ cấu
nền kinh tế quốc gia, trong đó có chính sách cơ cấu, nên đợc xem là những tài
liệu khảo cứu có giá trị.
b. Phân tích sự đảm bảo hoạt động hữu của thị trờng, đề cao vai trò
của nhà nớc
Nh vậy, những phân tích về mặt lý thuyết của trờng phái kinh tế này với
vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế có ý nghĩa rất quan trọng. Cũng chính vì lẽ
7
đó mà hầu nh các công cụ phân tích động thái tăng trởng và chuyển dịch cơ cấu
của trờng phái lý thuyết này đang đợc sử dụng trong các ký thuyết phát triển.
c. Khả năng ứng dụng vào Việt nam
3. Các lý thuyết phát triển
a. Lý thuyết phân kỳ phát triển kinh tế
T tởng cơ bản của ngời chủ xớng lý thuyết này Walt Rostow- cho rằng,
quá trình phát triển kinh tế của bất kỳ quốc gia nào cũng đều trải qua 5 giai
đoạn tuần tự nh sau:
1/ Xã hội chuyền thống: Với đặc trng là nông nghiệp giữ vai trò thống trị
trong đời sống kinh tế, năng suất lao động thấp và xã hội kém linh hoạt.
2/ Giai đoạn chuẩn bị cất cánh: Với những thay đổi quan trọng là trong

xã hội đã xuất hiện tầng lớp chủ xí nghiệp có khả năng đổi mới, kết cấu hạ tầng
sản xuất, nhất là giao thông, đã phát triển. Bắt đầu hình thành những khu vực
đầu tầu có tác động lôi kéo nền kinh tế phát triển .
3/ Giai đoạn cất cánh: Với những dấu hiệu quan trọng nh tỷ lệ đầu t so
với thu nhập quốc dân đạt mức 10%, xuất hiện những ngành công nghiệp chế
biến có tốc độ tăng trởng cao, có những chuyển biến mạnh mẽ trong thể chế xã
hội, thuận lợi cho sự phát triển của khu vực sản xuất hiện đại và kinh tế đối
ngoại.
4/ Giai đoạn chuyển tới sự chín muồi kinh tế: Là giai đoạn mà tỷ lệ đầu
t trên thu nhập quốc dân đạt mức cao 10- 20% và xuất hiện nhiều cực tăng trởng
mới.
5/ Kỷ nguyên tiêu dùng hành loạt: là giai đoạn kinh tế phát triển cao, sản
xuất đa rạng hoá, thị trờng linh hoạt và có hiện tợng xuy giảm nhịp độ tăng tr-
ởng.
Theo lý thuyết phân kỳ phát triển này, hầu hết các nớc đang phát triển
đang tiến hành công nghiệp hoá hiện nay nằm ở giai đoạn 2 và 3, tuỳ theo mức
độ phát triển của từng nớc. Ngoài những dấu hiệu kinh tế xã hội khác, về
mặt cơ cấu, phải bắt đầu hình thành một số ngành công nghiệp chế biến có khả
năng lôi kéo toàn bộ nền kinh tế tăng trởng. Đồng thời, cùng với sự chuyển tiếp
từ giai đoạn 2 sang 3 là sự thay đổi của những lĩnh vực đóng vai trò đầu tàu.
Nghĩa là trong chính sách cơ cấu cần xét đến trật tự u tiên phát triển những lĩnh
vực có thể đảm trách vai trò đó qua mỗi giai đoạn phát triển cụ thể.
b. Lý thuyết nhị nguyên
Lý thuyết nhị nguyên do A. Lewis khởi xớng, tiếp cận vấn đề từ đời sống
kinh tế của các nớc đang phát triển. Ông đã có những kiến dải khá cụ thể về
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong thời kỳ công nghiệp hoá hiện nay. Lý
thuyết nhị nguyên cho rằng ở các nền kinh tế này có hai khu vực kinh tế song
song tồn tại: Khu vực kinh tế truyền thống, chủ yếu là sản xuất nông nghiệp và
8
khu vực kinh tế công nghiệp hiện đại, du nhập từ bên ngoài. Khu vực truyền

thống có đặc điểm là trì trệ, năng suất lao động thấp và d thừa lao động. Vì thế
có thể chuyển một phần lao động từ khu vực này sang công nghiệp hiện đại mà
không làm ảnh hởng gì tới sản lợng nông nghiệp. Do có năng suất cao nên khu
vực công nghiệp hiện đại có thể tự tích luỹ để mở rộng sản xuất một cách độc
lập mà không phụ thuộc vào những điều kiện chung của toàn bộ nền kinh tế .
Kết luận đơng nhiên rút ra từ những nhận định này là để thúc đẩy phát
triển kinh tế của những nớc chậm phát triển , cần phải bằng mọi cách mở rộng
khu vực sản xuất công nghiệp hiện đại càng nhanh càng tốt mà không cần quan
tâm đến khu vực nông nghiệp truyền thống. Sự gia tăng của những khu vực
công nghiệp hiện đại tự nó sẽ rút dần lao động từ khu vực nông nghiệp sang và
biến nền sản xuất xã hội từ trạng nhị nguyên thành một nền kinh tế công nghiệp
phát triển.
Phải nói rằng những kết luận của lý thuyết nhị nguyên đã gây ấn tợng
mạnh mẽ đối với các quốc gia chậm phát triển đang mong muốn đẩy nhanh quá
trình công nghiệp hoá. Trên thực tế, các chính sách công nghiệp hoá và cơ cấu
kinh tế ở nhiều quốc gia chậm phát triển từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai
đến thời gian gần đây đã ít nhiều chịu ảnh hởng của lý thuyết này.
Tóm lại, khi nghiên cứu sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của hai lĩnh vực sản
xuất vật chất quan trọng nhất của các nền kinh tế của các nớc chậm phát triển
trong thời kỳ công nghiệp hoá , lý thuyết nhị nguyên đã đi từ chỗ cho rằng chỉ
cần tập trung vào phát triển công nghiệp mà không chú ý tới nông nghiệp đến
chỗ chỉ ra những giới hạn của chúng và vì thế, cần quan tâm thích đáng tới nông
nghiệp trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế này.
c. Lý thuyết phát triển cân đối liên ngành
Những ngời ủng hộ quan điểm này nh R.Nurkse, P. Rosenstein- Rodan...,
cho rằng để nhanh chóng công nghiệp hoá, cần thúc đẩy sự phát triển đồng đều
ở tất cả mọi ngành kinh tế quốc dân. Họ chủ yếu đựa trên những luận cứ sau:
- Trong quá trình phát triển, tất cả các ngành kinh tế liên quan mật thiết với
nhau trong chu trình đầu ra của ngành này là đầu vào của ngành kia. Vì thế, sự
phát triển đồng đều và cân đối chính là đòi hỏi sự cân bằng cung cầu trong sản

xuất.
- Sự phát triển cân đối giữa các ngành nh vậy còn giúp tránh đợc ảnh hởng
tiêu cực của những biến động của thị trờng thế giới và hạn chế mức độ phụ
thuộc vào nền kinh tế khác, tiết kiệm nguồn ngoại tệ vốn rất khan hiếm và thiếu
hụt.
- Một nền kinh tế dựa trên cơ cấu cân đối hoàn chỉnh nh vậy chính là nền
tảng vững chắc đảm bảo sự độc lập chính trị của các nớc thuộc thế giới thứ ba
chống lại chủ nghĩa thực dân.
Tuy nhiên, thực tế đã dần dần cho thấy những yếu điểm rất lớn của mô
hình lý thuyết này. ở đây có hai vấn đề đặc biệt cần đợc xem xét lại là:
9
Thứ nhất , việc phát triển một cơ cấu kinh tế cân đối, hoàn chỉnh đã đa nền
kinh tế đến chỗ khép kín và khu biệt với thế giới bên ngoài. Điều này chẳng
những ngợc với xu hớng chung của tất thảy mọi nền kinh tế trong điều kiện hiện
đại là khu vực hoá và toàn cầu hoá, mà trong lúc ngăn ngừa những tác động tiêu
cực của thị trờng thế giới, đã bỏ qua những ảnh hởng tích cực do bên ngoài
mang lại.
Thứ hai, các nền kinh tế chậm phát triển không có đủ khả năng về nhân,
tài, vật lực để có thể thực hiện đợc những mục tiêu cơ cấu đặt ra ban đầu.
Cả hai yếu tố này đều góp phần làm cho sự chuyển dịch cơ cấu ngành theo
hớng công nghiệp hoá gặp khó khăn, bởi lẽ cách tiếp cận vấn đề trên đã làm
phân tán các nguồn lực phát triển rất có hạn của quốc gia.
d. Lý thuyết phát triển cơ cấu ngành không cân đối hay các cực tăng
trởng
Ngợc lại với quan điển phát triển nền kinh tế theo một cơ cấu cân đối khép
kín nêu trên, lý thuyết phát triển cơ cấu ngành không cân đối cho rằng không
thể và không nhất thiết phải bảo đảm tăng trởng bền vững bằng cách duy trì cơ
cấu cân đối liên ngành đối với mọi quốc gia, với những luận cứ chủ yếu sau:
- Việc phát triển cơ cấu không cân đối gây nên áp lực, tạo ra sự kích thích
đầu t. Trong mối tơng quan giữa các ngành, nếu cung bằng cầu thì sẽ triệt tiêu

động lực khuyến khích đầu t nâng cao năng lực sản xuất. Do đó, nếu có những
dụ án đằu t lớn hơn vào một số lĩnh vực thì áp lực đầu t sẽ xuất hiện bởi cầu lớn
hơn cung lúc đầu và sau đó thì cung lớn hơn cầu ở một số lĩnh vực. Chính
những dự án đó có tác dụng lôi kéo đầu t theo lý thuyết số nhân.
- Trong mỗi giai đoạn phát triển của thời kỳ công nghiệp hoá, vai trò cực
tăng trởng của các ngành trong nền kinh tế là không giống nhau. Vì thế, cần
tập trung những nguồn lực khan hiếm cho một số lĩnh vực trong thời điểm nhất
định.
- Do trong thời kỳ đầu tiến hành công nghiệp hoá, các nớc đang phát triển
rất thiếu vốn, lao động kỹ thuật, công nghệ và thị trờng nên không đủ điều kiện
để cùng một lúc phát triển đồng bộ tất cả các ngành hiện đại. Vì thế, việc phát
triển cơ cấu không cân đối là một sự lựa chọn bắt buộc.
e. Lý thuyết phát triển theo mô hình đàn nhạn bay
Từ sự phân tích thực tế lịch sử phát triển kinh tế của các quốc gia và dựa
trên lý thuyết lợi thế so sánh trong quan hệ kinh tế quốc tế, ngời khởi xớng lý
thuyết này, giáo s Kaname Akamatsu đã đa ra những kiến giải về quá trình
đuổi kịp các nớc tiên tiến nhất của các nớc kém phát triển hơn. Trong số
những ý tởng về sự đuổi kịp này, vấn đề cơ cấu ngành có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng. Xét trên góc độ phát triển của toàn bộ nền công nghiệp, từng phân
ngành hay thậm chí từng loại sản phẩm riêng biệt, quá trình đuổi kịp về mặt
kinh tế và kỹ thuật của chúng đợc chia thành 4 giai đoạn sau:
10
Giai đoạn1: Các nớc kém phát triển nhập hàng công nghiệp chế biến từ
các nớc phát triển hơn và xuất khẩu một số sản phẩm thủ công đặc biệt. Giai
đoạn này sảy ra sự phân công lao động quốc tế ngay trong lòng các nớc kém
phát triển chuyên sản xuất một số loại sản phẩm thủ công đặc biệt để bán và
nhập khẩu hàng tiêu dùng công nghiệp khác từ các nớc công nghiệp phát triển.
Giai đoạn 2: Các nớc chậm phát triển nhập sản phẩm đầu t từ các nớc
công nghiệp phát triển để tự chế tạo lấy hàng hoá công nghiệp tiêu dùng trớc
đây vẫn phải nhập. Đây là giai đoạn các nớc kém phát triển bắt đầu tích luỹ t

bản và phỏng theo công nghệ chế tạo từ các nớc công nghiệp phát triển. Ngoài
việc nâng cấp và mở rộng một số ngành sản xuất hàng xuất khẩu, nhìn toàn cục
giai đoạn 2 mang dáng dấp của mô hình công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu
đối với nhiều ngành sản xuất công nghiệp hàng tiêu dùng.
Giai đoạn 3: Là giai đoạn mà những sản phẩm công nghiệp thay thế nhập
ở giai đoạn 2 đã có thể trở thành sản phẩm xuất khẩu. Những sản phẩm đầu t tr-
ớc đây phải nhập giờ đây đã có thể dần dần thay thế bằng nguồn khai thác và
sản xuất trong nớc. Nh vậy, khoảng cách kỹ thuật giữa các nớc đi sau với các n-
ớc công nghiệp phát triển không còn xa cách bao nhiêu. Vì vậy số lợng và quy
mô mặt hàng xuất khẩu ngày càng mở rộng. Cơ cấu công nghiệp đã trở nên đa
rạng hơn do có nhiều khả năng về kỹ thuật để lựa chọn và lợi dụng các lợi thế
so sánh so với trớc đây.
Giai đoạn 4: Là giai đoạn việc xuất khẩu hàng công nghiệp tiêu dùng bắt
đầu giảm xuống, nhờng chỗ cho việc xuất khẩu các loại hàng hoá đầu t vốn đã
bắt đầu phát triển ở giai đoạn 3. Về mặt kỹ thuật, nền công nghiệp đã đạt mức
ngang bằng với các nớc công nghiệp phát triển và chuyển giao một số ngành
sản xuất công nghiệp tiêu dùng sang các nớc kém phát triển hơn.
III. một số mô hình và kinh nghiệm chuyển dịch cơ
cấu ngành ở một số nền kinh tế
1. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong một số mô hình công
nghiệp hoá.
a. Mô hình công nghiệp hoá kiểu cổ điển
Nhóm nớc công nghiệp hoá kiểu cổ điển đi tiên phong trong cuộc cách
mạng công nghiệp và ngày nay là những nớc công nghiệp phát triển nhất. Đó là
Anh và Pháp, sau đó Mỹ, Đức, Nga và Nhật Bản. Thực ra, những nớc công
nghiệp hoá muộn hơn có nhiều điểm khác biệt so với những nớc công nghiệp
hoá đầu tiên. Song trên những nét khái quát, những điểm tơng đồng về điều
11
kiện, cách thức và trình tự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong thời kỳ công
nghiệp hoá vẫn rất đậm nét và nổi trội. Những điều kiện chung của quá trình

công nghiệp hoá và chuyển dịch cơ cấu ngành của nhóm nớc theo mô hình cổ
điển đại thể là:
- Là những nớc có quy mô lãnh thổ và dân số tơng đối lớn.
- Là những nớc dẫn đầu thế giới về tiến bộ khoa học kỹ thuật và công
nghệ. Quá trình công nghiệp hoá của chúng hầu nh hoàn toàn dựa trên cơ sở
công nghệ và kỹ thuật của bản thân mình. Đồng thời, ở đây đã hình thành các
đô thị lớn, thơng mại phát triển và đội ngũ thủ công lành nghề đông đảo
- Các mối quan hệ quốc tế còn hạn hẹp, chỉ tập trung chủ yếu dới hình thức
hoạt động ngoại thơng. Vì thế, mức độ ảnh hởng của thế giới bên ngoài với quá
trình công nghiệp hoá của chúng không giống nh hiện nay.
- Cuối cùng, các nguồn tài nguyên thiên nhiên: đất đai, khoáng sản,...tơng
đối phong phú, đa rạng nên về cơ bản, đã đáp ứng đợc nhu cầu của giai đoạn
đầu của cách mạng công nghiệp. Thêm vào đó, do các nớc này đều dó thuộc địa
riêng nên một mặt, có nguồn bổ sung quan trọng về nguyên liệu, vật liệu, lao
động và thị trờng ; mặt khác, mức độ cạnh tranh quốc tế cha quyết liệt.
Trong những điều kiện nh vậy, quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
của mô hình công nghiệp hoá kiểu cổ điển có những nét đặc trng là:
1, Cuộc cách mạng trong lĩnh vực nông nghiệp xảy ra trớc, trở thành một
trong số những tiền đề tiên quyết của cách mạng công nghiệp (hay công
nghiệp hoá).
2, Trên phơng diện trang bị kỹ thuật cho sản xuất , sự chuyển dịch cơ cấu
ngành trong mô hình công nghiệp hoá kiểu cổ điển diễn ra theo trình tự là:
công nghiệp nhẹ, công nghiệp nặng, giao thông vận tải và bu điện, nông
nghiệp và cuối cùng là lĩnh vực dịch vụ và lu thông.
3, Do tuân thủ trình tự trang bị kỹ thuật nêu trên, công cuộc công nghiệp
hoá và chuyển dịch cơ cấu ngành đã diễn ra một cách từ từ, tiệm tiến phải kéo
dài hàng trăm năm.
Nh vậy, sự chuyển dịch cơ cấu ngành của mô hình công nghiệp hoá kiểu
cổ điển diễn ra nh một quá trình lịch sử tự nhiên, để lại một chuẩn mực cho
những nớc đi sau trong sự nghiệp công nghiệp hoá. Ngày nay, những điều kiện

ràng buộc quá trình công nghiệp hoá và chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã có những
thay đổi căn bản nên không nhất thiết phải lặp lại mô hình cổ điển. Song, tuyệt
nhiên không phải vì vậy mà có thể tiến hành những bớc đi tuỳ tiện trong việc
chuyển dịch cơ cấu. Sự thay đổi của các điều kiện vừa tạo ra những cơ hội đi
nhanh hơn, lại vừa gây ra những thách thức to lớn hơn. Tuy nhiên, chúng không
làm thay đổi mục tiêu căn bản của công nghiệp hoá và chuyển dịch cơ cấu. Nó
chỉ có nghĩa rằng dựa trên hình mẫu chuẩn mực cổ điển, điều kiện mới làm
nảy sinh những yếu tố thay thế, cho phép rút ngắn đáng kể quá trình công
nghiệp hoá đã phải kéo dài hàng trăm năm.
b. Mô hình công nghiệp hoá theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung.
12
Mô hình chuyển dịch cơ cấu ngành kiểu kế hoạch hoá tập trung đợc khởi
đầu ở Liên Xô và sau đó hàng loạt nớc xã hội chủ nghĩa trong những thập niên
sau chiến tranh thế giới thứ II. Sự khác biệt lớn nhất giữa mô hình công nghiệp
hoá XHCN với mô hình công nghiệp hoá kiểu cổ điển là thể chế. Việc tập trung
mọi nguồn lực kinh tế vào tay Nhà nớc đã tạo điều kiện cho các nớc theo mô
hình kế hoạch hoá tập trung tiếp cận vấn đề công nghiệp hoá và chuyển dịch cơ
cấu hoàn toàn khác với mô hình cổ điển. Ngoài ra, quá trình công nghiệp hoá
theo mô hình kế hoạch hoá tập trung còn diễn ra trong những điều kiện bên
trong và bên ngoài rất khác do với kiểu cổ điển.
Quá trình công nghiệp hoá và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của mô
hình kế hoạch hoá tập trung có những biểu hiện đặc trng là:
1/ Tập trung u tiên cao độ cho sự phát triển công nghiệp nặng ngay trong
giai đoạn đầu của thời kỳ công nghiệp hoá .
2/ Các chỉ tiêu hiện vật đợc xem là cơ sở quan trọng nhất của việc duy trì
tính cân đối giữa các ngành của quá trình công nghiệp hoá .
3/ Quá trình công nghiệp hoá và chuyển dịch cơ cấu kinh tế đợc đẩy
nhanh bằng cách áp dụng nhiều biện pháp phi kinh tế .
Từ những điểm trình bày trên, có thể nhận xét rằng, nhìn toàn cục, logic
của tiếp cận vấn đề chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong mô hình công

nghiệp hoá kế hoạch hoá tập trung là ngợc với mô hình cổ điển. Mặc dù ngày
nay, những yếu điểm thể chế của mô hình này đã rõ ràng. Song, những phân
tích lý thuyết lẫn thực tế lịch sử đều cho thấy rằng cách tiếp cận vấn đề công
nghiệp hoá và chuyển dịch cơ cấu của mô hình kế hoạch hoá tập trung cũng có
những u điểm nhất định. Vấn đề là ở chỗ làm thế nào để kết hợp những u điểm
của mô hình công nghiệp hoá này trong thể chế kinh tế khác.
c. Mô hình công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu
Mô hình công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu với t tởng chủ đạo là thay thế
những mặt hàng nhập khẩu bằng sản phẩm sản xuất trong nớc đã từng là trào lu
phổ biến ở hầu hết các nớc thế giới thứ ba vào những thập niên sau đại chiến thế
giới thứ hai. Nguyên nhân chính, trực tiếp thúc đẩy trào lu này là mong muốn
xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ, thoát khải ách nô lệ thực dân. Điều đó
khiến cho mô hình này có nhiều điểm tơng đồng với mô hình công nghiệp hoá
kế hoạch hoá tập trung .
Lịch sử mấy thập niên qua cho thấy cách tiếp cận vấn đề cơ cấu ngành của
mô hình công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu không phải bao giờ cũng nhấn
mạnh trớc tiên đến công nghiệp nặng. ý tởng thay thế mọi sản phẩm nhập khẩu
bằng sản xuất trong nớc cuối cùng đa đến chính sách xây dựng nền công nghiệp
hoàn chỉnh và khép kín. Cũng chính vì nguyên nhân này mà giống nh trong mô
hình kế hoạch hoá tập trung, quá trình công nghiệp hoá và chuyển dịch cơ cấu
13
kinh tế sau thời kỳ phát triển ban đầu tơng đối khá đã dần dần vấp phải những
giới hạn không vợt qua đợc, thậm chí ngay cả với những nớc dân số đông, diện
tích lớn, có lợi thế về quy mô. ở đây, ngoài những lý do phổ biến về thiếu hụt
nguồn vốn đầu tiên, khả năng kỹ thuật công nghệ và dung lợng thị trờng, cần lu
ý đến các chính sách thực thi nhằm giải quyết những vấn đề này. Nó là hệ thống
chính sách mà ngày nay, các nhà kinh tế gọi là những chính sách bảo hộ đặc
trng cho đờng nối công nghiệp hoá hớng nội với những hiệu năng cụ thể sau:
- Chính sách bảo hộ mậu dịch: Những lý do chủ yếu của việc thi hành
chính sách này trớc hết là ở chỗ nó đợc coi là công cụ phát triển, bao gồm

bảo vệ thị trờng nội đại cho sản xuất công nghiệp trong nớc, giúp hình thành
những ngành công nghiệp non trẻ, tiết kiệm ngoại tệ. Liên quan trực tiếp đến
chính sách bảo hộ là hàng rào thuế quan cao và chế độ hạn ngạch nhập
khẩu.
- Chính sách tỷ giá hối đoái: Để khuyến sản xuất và tiêu dùng hàng hoá
nội địa, các chính phủ thờng duy trì tỷ giá hối đoái theo hớng nâng cao giá trị
đồng tiền bản địa nhằm làm yếu khả năng cạnh tranh của hàng ngoại trên thị
trờng nội địa. Chính sách này thờng đợc lý giải là do chất lợng hàng hoá sản
xuất trong nớc thấp nên sức cạnh tranh kém, trong khi cần nâng đỡ để chúng
có thể phát triển đợc. Xét trên phơng diện này, chính sách duy trì tỷ giá hối
đoái cao là một bộ phận quan trọng cấu thành chính sách bảo hộ mậu dịch.
Tóm lại, quá trình công nghiệp hoá và chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong mô
hình thay thế nhập khẩu tỏ ra có kết quả trong giai đoạn đầu tiên và đợc áp
dụng rộng rãi. Song, nó đã không chịu đựng nổi thử thách của thời gian. Các
chế độ thay thế nhập khẩu đã đa đến một loạt tác động tơng hỗ mà sau một quá
trình dài làm tăng cờng sự phụ thuộc vào nhập khẩu và trì hoãn những thay đổi
về cơ cấu cần thiết cho sự phát triển tự lực cánh sinh. Chính vì thế, ngay từ
nhiều thập niên về trớc, nó đã bị nghi ngờ. Một mô hình công nghiệp hoá khác,
hớng về xuất khẩu đã thay thế nó.
d. Mô hình công nghiệp hoá hớng về xuất khẩu.
Với t cách là mô hình công nghiệp hoá mang những đặc điểm khác với
những chính sách công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu, chính sách hớng về
xuất khẩu ngày càng đợc biết đến do kết quả tăng trởng kinh tế thần kỳ của
một nhóm ít nớc thực hiện chính sách này. Trong số này, đặc biệt suất sắc là
nhóm Nics Đông á, bao gồm Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông và Singapore,
với những đặc điểm là quy mô nhỏ, thị trờng trong nớc không lớn, nghèo tài
nguyên nhng nguồn lao động dồi dào và chất lợng cao. Nhiều nhà kinh tế học,
khi khảo cứu mô hình này, đã kết luận rằng chính những khó khăn trên đã đẩy
các quốc gia này đến chỗ phải lựa chọn con đờng hớng về xuất khẩu. Từ thập
niên 1980, mô hình công nghiệp hoá hớng về xuất khẩu đợc coi là triển vọng

hơn cả và hiện là khuynh hớng phát triển chủ yếu của hầu hết mọi quốc gia
đang nỗ lực tìm kiếm các con đờng công nghiệp hoá.
14
Cách tiếp cận cơ cấu kinh tế trong mô hình công nghiệp hoá này có một số
đặc trng là:
- Quá trình công nghiệp hoá đợc bắt đầu từ tập trung khai thác các thế
mạnh của nền kinh tế, tạo ra những lĩnh vực phát triển có lợi thế so sánh trên tr-
ờng thế giới. Thông thờng, đối với các nớc chận phát triển, những thế mạnh khả
dĩ là nguồn lao động dồi dào giá rẻ, tài nguyên khoáng sản và nông sản. Những
nớc chủ yếu dựa vào nguồn lao động nh nhóm Nics Đông á thì hớng sự phát
triển vào những ngành công nghiệp chế biến sử dụng nhiều lao động nh dệt
may, chế biến thực phẩm, điện tử dân dụng. Trong đó, một số nớc nh Malaysia,
Thái Lan lại khởi đầu với những sản phẩm nông nghiệp và khai thác khoáng
sản. Khác với chính sách thay thế nhập khẩu hớng quá trình công nghiệp hoá tới
chỗ xây dựng một cơ cấu công nghiệp hoàn chỉnh, chính sách hớng về xuất
khẩu đặt trọng tâm phát triển vào những lĩnh vực có lợi thế so sánh trên thị tr-
ờng quốc tế và sản xuất những sản phẩm mà thị trờng thế giới cần, tức là hớng
tới một cơ cấu không cân đối.
- Toàn bộ hệ thống chính sách chủ yếu nhằm khuyến khích xuất khẩu. Tuy
các chính sách khuyến khích ở các nớc là khác nhau nhng tất cả đều dựa trên
nguyên lý chung là đảm bảo cho các nhà sản xuất có lợi hơn nếu bán sản phẩm
của mình ra nớc ngoài. Nhìn chung, những biện pháp khuyến khích sản xuất
gồm hai loại cơ bản là:
+ Nhà nớc trực tiếp tác động bằng cách đa ra danh mục các mặt hàng u
tiên, đợc giảm hoặc miễn thuế nhập khẩu, hoặc trực tiếp trợ cấp cho các loại
hàng hoá phục vụ sản xuất mặt hàng xuất khẩu.
+ Nhà nớc gián tiếp can thiệp thông qua các công cụ tài chính, tiền tệ, tạo
lập môi trờng thuận lợi cho hoạt động sản xuất hớng ra thị trờng thế giới. Các
biện pháp thuộc loại này đợc thực hiện dới nhiều hình thức nh đánh tụt giá đồng
tiền nội địa; cung cấp tín dụng với lãi xuất u đãi cho sản xuất xuất khẩu; cung

cấp cơ sở hạ tầng kinh tế và pháp lý; xây dựng các khu chế xuát, khuyến khích
đầu t nớc ngoài; trợ giúp đào tạo nhân lực; tổ chức các cơ sở nghiên cứu khoa
học kỹ thuật và khuyến khích áp dụng kỹ thuật công nghệ; cung cấp các thông
tin cần thiết về thị trờng v.v...
Với những chính sách nêu trên, thực tiễn mấy chục năm gần đây cho thấy
rằng những quốc gia đi theo mô hình hớng về xuất khẩu đã đạt đợc tốc độ tăng
trởng kinh tế và thay đổi cơ cấu hết sức nhanh chóng.
2. Kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu ngành trong thời kỳ công nghiệp
hoá ở một số n ớc
a. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phát triển kinh tế xã hội ở Trung
Quốc
Năm 1949, nhà nớc mới thành lập, nền kinh tế bị ảnh hởng nghiêm trọng
do hậu quả của chiến tranh kéo dài và lạm phát cao. Chính phủ đã định ra
những chính sách nhằm củng cố quyền lực, khôi phục trật tự xã hội và khắc
15
phục tình trạng thất nghiệp và nạn đói. Đến năm 1952, hầu hết những vấn đề
trên đã đợc giải quyết. Sau đó chính phủ quyết định sửa đổi cơ cấu nền kinh tế,
áp dụng mô hình kế hoạch hoá tập trung của Liên Xô. Giảm mức đầu t nớc
ngoài vào nông nghiệp, kế hoạch 5 năm lần thứ nhất tập trung vào xây dựng
công nghiệp nặng, đặc biệt là công nghiệp quốc phòng, phần lớn các trang thiết
bị đợc nhập từ Liên Xô. Từ năm 1957, Trung Quốc đạt mức tăng trởng đáng kể
(5,7% hàng năm). Nhiều chơng trình thử nghiệm của cuộc đại nhẩy vọt
(1958 1960) nh tập thể hoá nông thôn, loại bỏ các hình thức khuyến khích về
tiền lơng, v.v... đã đem lại hậu quả là cuộc xuy thoái đầu những năm 60. Thời
kỳ này cũng là thời kỳ Liên Xô cắt viện trợ và rút chuyên gia về nớc do xảy ra
mối bất hoà giữa hai nớc Xô - Trung. Trung Quốc đã nhấn mạnh chính sách tự
lực tự cờng và giành đầu t lớn cho nông nghiệp. Tiếp ngay sau đó là cuộc cách
mạng văn hoá ( 1966- 1976) và hậu quả của nó đã làm hại nền kinh tế, phá hoại
nền ngoại thơng và gần nh đóng cửa các cơ sở giáo dục đào tạo.
Năm 1975, chính phủ Trung Quốc đã vạch ra một loạt các mục tiêu kinh tế

mới nhằm đa Trung Quốc lên vị trí hàng đầu về kinh tế năm 2000. Chơng trình
Bốn hiện đại hoá với mục tiêu tăng nhanh sản lợng trong nông nghiệp, công
nghiệp, khoa học kỹ thuật và quốc phòng. Năm 1978, dới chính quyền của
Đặng tiểu Bình, chơng trình này lại đợc khẳng định lại với kế hoạch 10 năm.
Một loạt các nhà máy hoàn chỉnh đợc nhập từ phơng Tây, với tiền đề cơ bản của
chính sách kinh tế là lợi ích của ngời tiêu dùng, năng suất kinh tế và sự ổn định
về chính trị là không thể tách rời đợc.
Những cuộc cải cách đã đem lại nhiều thành tựu to lớn, thu nhập quốc dân,
sản lợng nông nghiệp, công nghiệp tăng lên 10% trong những năm 80. Thu
nhập thực tế đầu ngời của nông dân tăng gấp đôi, của ngời dân thành thị tăng
43%. Trung Quốc đã tự túc sản xuất đợc ngũ cốc, các ngành sản xuất nông thôn
nở rộ và tăng 23% sản lợng nông nghiệp, thu hút lao động d thừa ở nông thôn.
Những cuộc cải cách ở công nghiệp đã làm đa rạng hoá các mặt hàng công
nghiệp nhẹ và hàng tiêu dùng sẵn có.
b. Chuyển dịch cơ cấu và phát triển kinh tế ở Hàn Quốc
Do sự chia cắt năm 1945, Hàn Quốc chỉ là một cùng đất với nguồn lực
nông nghiệp hạn chế và một lực lợng lao động dồi dào nhng không có kỹ năng.
Hàn Quốc bắt đầu thời kỳ hậu chiến ( sau năm 1950) với mức tổng sản phẩm
quốc dân theo đầu ngời rất thấp. Với những chính sách thiết thực từ những năm
1960 và 1970, cộng thêm với một lực lợng lớn viện trợ của Mỹ liên tiếp đến
năm 1980, kinh tế Hàn Quốc đã thay đổi đáng kể.
Bắt đầu từ những năm 1960, chơng trình tăng trởng công nghiệp đã thành
công khi chính phủ thực hiện các chính sách cải cách mạnh mẽ, chú trọng vào
các ngành công nghiệp nhẹ cần nhiều lao động và tăng hàng xuất khẩu. Chính
phủ đã thực hiện cải cách tiền tệ, tăng cờng các thể chế tài chính và áp dụng kế
hoạch hoá kinh tế linh hoạt. Có sự kết hợp đặc biệt giữa các nhân tố kinh tế và
xã hội; thực hiện cải cách kinh tế vào đầu năm 1960 nhằm phát triển các ngành
công nghiệp cần nhiều lao động và theo hớng xuất khẩu, xoá bỏ dần các hạn
16
chế đối với nhập khẩu, trong quản lý kinh tế có tính linh hoạt cao, kết hợp chặt

chẽ giữa các khu vực nhà nớc với các khu vực t nhân.
Từ năm 1963 đến năm 1978, GNP thực tế của Hàn Quốc tăng với tốc độ
hàng năm gần 10%, trong khi đó tốc độ gia tăng dân số giảm xuống còn 1,5%,
tạo ra mức tăng gấp 35 lần về GNP theo đầu ngời ( từ 100 USD năm 1963 đến
3500 USD trong những năm gần đây). Sau những biến động về chính trị trong
nớc và giá cả thế giới, các nhà hoạch định kinh tế Hàn Quốc đã chuyển chiến l-
ợc trọng tâm từ tăng trởng cao sang tăng trởng vững chắc. Những năm 1986-
1988 đợc xem là những năm thành công nhất của Hàn Quốc, do xuất khẩu bùng
nổ nên tăng trởng hàng năm lên tới 15%. Hàn Quốc trở thành một lực lợng quan
trọng trong nền kinh tế thế giới và là một trong những nớc công nghiệp hoá mơí
hùng mạnh trong thế giới thứ ba. Tuy nhiên, cũng có một số chính sách về tài
chính cha đợc đảm bảo, Hàn Quốc phải trả một giá đắt trong khủng hoảng tài
chính vừa qua, và thiệt hại không phải là nhỏ. Để giải quyết có hiệu quả những
mâu thuẫn chính trị đang nổi nên trong nớc và đòi dân chủ ngày càng cao của
dân chúng, chính phủ Hàn Quốc phải có các chính sách và biện pháp thiết thực
nhằm ổn định nền kinh tế vốn xa nay vẫn đợc coi là mạnh có hạng ở khu vực.
c. Chuyển dịch cơ cấu và phát triển kinh tế ở Đài Loan
Đài Loan là một hòn đảo ở Tây Thái Bình Dơng, có diện tích gần 36 ngàn
Km2 với dân số khoảng 20 triệu ngời. Đài Loan đợc coi là hình mẫu cho các
quốc gia và lãnh thổ đang phát triển bởi sự thành công to lớn trong việc tạo ra
sự tăng trởng kinh tế nhanh và khoảng cách trong thu nhập tơng đối thấp và đợc
coi là một nớc NICs.
Từ một nền kinh tế cực nghèo khó trong những năm 1940, trải qua ba thập
kỷ, Đài Loan trở thành một lãnh thổ công nghiệp hoá. Trọng tâm sản xuất đã
thay đổi từ mặt hàng công nghiệp nhẹ cho xuất khẩu sang hàng công nghiệp
nặng tinh vi và hàng công nghiệp công nghệ tiên tiến, trong thập kỷ 1973-
1982, tổng GDP thực tế tăng trung bình hàng năm 9,5%. Sau cấm vận dầu lửa
năm 1973, Đài Loan đã tìm cách vợt qua tình trạng xuất khẩu công nghiệp trì
trệ bằng cách thực hiện chơng trình ổn định kinh tế thành công. Mời dự án cơ sở
hạ tầng đa ra để khuyến khích hoạt động kinh tế. Những nhà hoạch định chính

sách Đài Loan hy vọng rằng, việc tăng trởng mạnh đầu t cho những dự án lớn
này đi đôi với việc phát triển xuất khẩu của hòn đảo sẽ tạo ra sự thịnh vợng
không ngừng. Chính quyền các cấp cũng khuyến khích đầu t nớc ngoài để giúp
tài trợ cho những cố gắng của hòn đảo, chuyển từ nền công nghiệp có xu hớng
cuất khẩu hàng công nghiệp nhẹ cần nhiều sức lao động sang nền sản xuất cần
nhiều vốn hơn phục vụ xuất khẩu và thay thế hàng nhập khẩu. Sự thành công
liên tục của Đài Loan trong những năm 1980 dựa vào sự chuyển biến cơ cấu
công nghiệp thành một nền công nghiệp cần nhiều vốn hơn và tiết kiệm năng l-
ợng hơn. Các nhà hoạch định chính sách kinh tế Đài Loan đã xác định tập trung
vào những ngành chủ chốt nh điện tử và sử lý thông tin; máy móc và dụng cụ
chính xác; khoa học vật liệu công nghệ cao; khoa học năng lợng ; kỹ thuật hàng
17
không và kỹ thuật gen. Chính nhờ có sự chuyển hớng đúng đắn trong hoạch
định chính sách kinh tế mà Đài Loan phát triển nhanh chóng trong hơn 30 năm
qua. Giá trị ngành thơng mại tăng rõ rệt, chuyển từ hàng nông nghiệp sang hàng
công nghiệp chiếm u thế trong xuất khẩu và nhập khẩu chủ yếu là để đáp ứng
nhu cầu năng lợng.
d. Chuyển đổi cơ cấu kinh tế và phát triển kinh tế xã hội ở Malaysia
Là một nớc dành độc lập từ năm 1957, Malaysia bát đầu bằng một nền
kinh tế (từ chỗ phụ thuộc Anh quốc) trong đó có hai mặt hàng chiếm u thế là
thiếc và cao su. Liên tiếp từ đó, nền kinh tế Malaysia liên tục thực hiện chính
sách đa rạng hoá rộng rãi các mặt hàng sản xuất và đã đạt tốc độ tăng trởng
nhanh, trung bình từ 7% đến 8% hàng năm. Sản lợng GNP bình quân theo đầu
ngời là 2000 USD năm 1984. Danh mục các mặt hàng xuất khẩu có thêm dầu
cọ, gỗ, ca cao và hạt tiêu. Không những thế Malaysia còn là nớc đứng đầu thế
giới về cao su, thiếc, dầu cọ và gỗ nhiệt đới và là nớc có khối lợng xuất khẩu
lớn nhất về dầu mỏ và khí tự nhiên hoá lỏng.
Bằng những chính sách thiết thực nhằm thu hút vốn đầu t nớc ngoài và
ngành công nghiệp, số lợng hàng xuất khẩu tăng nhanh, nhất là về các linh kiện
điện tử, hàng tiêu dùng đồ điện, sản phẩm dệt may và các mặt hàng công nghiệp

khác, góp phần đáng kể tăng trởng kinh tế .
Sau những năm 1981- 1982, các mặt hàng xuất khẩu truyền thống của
Malaysia giảm giá, làm giảm thu nhập và đầu t. Nhà nớc Malaysia đã tìm cách
kích thích nền kinh tế và đẩy nhanh tăng trởng công nghiệp bằng việc tăng đầu
t vào một số dự án cơ sở hạ tầng và công nghiệp nặng. Chi tiêu chính phủ tăng
bằng cách đi vay nợ nớc ngoài để mau các cổ phần của các công ty nớc ngoài
với mục đích có điều kiện kiểm soát các công ty lớn của nớc ngoài. Do vậy nợ
nớc ngoài của Malaysia tính đến năm 1984 đã tăng tới 15 tỷ đô la. Năm 1985-
1986, do ảnh hởng của giá dầu mỏ và dầu cọ trên thế giới giảm nhanh, sản lợng
GNP theo đầu ngời giảm xuống còn 1600 USD bình quân đầu ngời, thâm hụt
lớn trong ngân sách nhà nớc. Chính phủ đã phải thay đổi một số chính sách nh
bãi bỏ một vài mục tiêu và chỉ tiêu tăng trởng trong kế hoạch lần thứ 5 (1986-
1990), chú trọng hơn về khu vực t nhân, t nhân hoá một số công ty quốc doanh
và chính phủ; công ty vận tải quốc gia và hàng không quốc gia đợc bán một
phần thông qua các nhà đầu t thông qua thị trờng chứng khoán.
Nền kinh tế Malaysia bắt đầu đợc phục hồi từ năm 1987 liên tục đến năm
1989 nhờ sự cải thiện về giá cả hàng hoá và tăng trởng trong sản xuất công
nghiệp. GDP thực tế tăng 4,7% năm 1987, 9,5% năm 1988 và 7,7% năm 1989.
Hàng xuất khẩu chiến hơn 3/4 tăng trởng, dẫn tới cán cân thanh toán d thừa, đầu
t nớc ngoài tăng lên, nợ nớc ngoài giảm.
18

×