Tải bản đầy đủ (.doc) (111 trang)

Tìm hiểu máy chạy thận nhân tạo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.68 MB, 111 trang )


TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
KHOA ĐIỆN TỬ VIỄN THÔNG
Luận văn tốt nghiệp
ĐỀ TÀI:
TÌM HIỂU VỀ MÁY
CHẠY THẬN NHÂN TẠO
GV HƯỚNG DẪN: THs. PHẠM PHÚC NGỌC
SINH VIÊN : ĐOÀN HỮU PHONG
LỚP : CĐĐTYS - K2
Mục lục:

1
Lời mở đầu 4
Chương I Tổng quan về sinh lý hệ tiết niệu 4
1. Tổng quan về thận 4
2. Khái niệm về thận nhân tạo và phương pháp cấy 12
2.1 Khái niệm về thận nhân tạo 12
2.2 Cấy thận 13
2.3 Hỗ trợ của máy với bệnh nhân 16
2.3.1 Lịch sử phát triển 16
2.3.2 Khái niệm 19
2.3.3 Phân loại 19
Chương II: tổng quan về máy chạy thận nhân tạo 22
1. Giới thiệu chung về máy lọc máu 22
1.1 Khái niện 22
1.2 Mục đích sử dụng 25
1.3 Sơ đồ khối trung 25
1.4 Hệ thống bảo vệ 30
1.5 Hệ thống và các tham số điều trị 30
2. Sơ đồ và nguyên lý hoạt động 37


2.1 Sơ đồ và nguyên lý hoạt động của phần máu 37
2.1.1 Sơ đồ mạch 37
2.1.2 Nguyên lý hoạt động 38
2.2 Sơ đồ khối chung và nguyên lý hoạt động của phần dịch 45
2.2.1 Sơ đồ và các kí hiệu trong sơ đồ 45
2.2.2 Nguyên lý hoạt động 46
2.2.3 Các thành phần liên quan trong phần dịch 53
2.3 Sơ đồ và chức năng của phần panel vận hành 56
2.3.1 Sơ đồ 56
2.3.2 Chức năng 56
3. Quá trình chuẩn bị phân tách và các sản phẩm của module siêu lọc 60
3.1 Quá trình chuẩn bị phân tách 60
3.2 Sản phẩm của UFCM 60

2
3.2.1 Giới thiệu chung 60
3.2.2 Phương pháp lọc bằng Volumetric 62
3.3 Thiết lập chức năng của buồng cân bằng 64
3.4 Lấy chất lỏng từ vòng lặp 65
4. Giới thiệu về nguồn 66
4.1 Sơ đồ khối 66
4.2 Sự phân bố nguồn 69
4.2.1 Thiết bị UK 69
4.2.2 Thiết bị điện áp cao 70
4.2.3 Thiết bị điện áp thấp 71
4.3 Hệ thống tiếp đất 72
5. Quá trình khử và rửa 72
5.1 Khử bằng hoá chất 72
5.2 Khử bằng nhiệt 74
5.3 Tự động khử bằng nhiệt 75

6. Hệ thống điều khiển các chỉ số kỹ thuật 76
6.1 Chỉ số liên quan tới máu 76
6.2 Sự quản lý Heparin 77
6.3 Điều khiển áp suất máu 77
6.4 Bộ quan sát áp suất máu 80
6.5 Chuẩn bị dịch phân tách 81
6.6 Điều khiển siêu lọc 82
6.7 Báo động có khí 83
7. Các vật liệu dùng cho Dialysate, dung dịch và nước 85
7.1 Vật liệu 85
7.2 Các đường lưu lượng 85
8. Sơ đồ mạch chi tiết của một số mạch trong máy thận nhân tạo 86
8.1 Sơ đồ mạch chi tiết biểu thị độ dẫn 86
8.2 Sơ đồ mạch chi tiết biểu thị áp suất tĩnh mạch 89
8.3 Sơ đồ mạch chi tiết biểu thị áp suất phân tách 90
8.4 Sơ đồ mạch chi tiết điều khiển nhiệt độ 91

3
8.5 Sơ đồ mạch chi tiết biểu thị nhiệt độ 94
8.6 Sơ đồ mạch chi tiết của bơm máu 95
8.7 Sơ đồ mạch chi tiết của bơm UF 98
8.8 Sơ đồ mạch chi tiết của mạch phát hiện bọt khí 99
9. Lưu đồ dòng thuỷ lực 100
Lời mở đầu:
Xã hội ngày càng phát triển, cuộc sống con người dần được nâng cao và cái
thiện. Bên cạnh đó thì ô nhiễm môi trường, sinh hoạt không điều độ dẫn đến phát
sinh nhiều bệnh tật nói chung và bệnh thận nói riêng đối với loài người.
Trong thời kì trước trình độ khoa học kĩ thuật con người còn thấp kém nên
thường tin vào mê tín hơn thưc tế. Ngày nay khi công nghệ y học phát triển, các
nhà khoa học, bác sĩ đã đưa ra sự tiếp cận khác nhau tới việc điều trị các bộ phận

trong cơ thể con người. Chẳng hạn như đối với bệnh suy thận, một trong những
phương pháp mới là điều trị bằng chạy thận nhân tạo (dialysis) và cấy ghép.
Từ khi áp dụng phương pháp chạy thận nhân tạo, ngành y học đã thu được
những kết quả đáng kể và kinh nghiệm trong quá trình điều trị suy thận, cấy
thận. Giờ đây, thận nhân tạo có thể được sử dụng một cách phổ biến, hơn
300.000 bệnh nhân mắc bệnh thận trong giai đoạn cuối mỗi ngày trên toàn thế
giới đang được điều trị bằng phương pháp này.
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ SINH LÝ HỆ TIẾT NIỆU

4
1. Tổng quan về thận
Thận có hình dẹp của một hạt đậu, chiều dài khoảng 10cm, bề ngang khoảng
5cm và dày khoảng 2,5 cm.
Thận nằm ở hai bên cột sống, dựa vào các bắp thịt lưng ở phần trên của bụng
và được che chở ở phía trên bằng hoành cách mô và xung quanh bằng các xương
sườn. Thận được neo vào thành bụng để khỏi di động. Ðôi khi, dây neo lỏng lẻo,
thận lắc lư vô hại trong bụng.
Mỗi thận được bọc trong một bao xơ và gồm có một lớp vỏ bên ngoài và
phần tủy ở bên trong. Thành phần hoạt động chính yếu của thận là cả triệu những
đơn-vị-thận (nephron) ở trong vỏ và tủy thận. Ðây là một hệ thống những ống
lọc tuy nhỏ li ti nhưng có khả năng gạn lọc rất tinh vi, công hiệu mà chỉ tạo hóa
mới tạo ra được.
Dưới con mắt thường, đơn-vị-thận nom giống như những hạt cát. Khi nhìn
qua kính hiển vi, chúng có hình dáng của những con sâu, đầu to với nhiều ống
vòng soắn suýt lấy nhau (cuộn tiểu cầu-glomerulus) và một thân đuôi dài, rỗng
ruột. Cuộn tiểu cầu là nơi lọc sơ bộ các chất thải trong máu vào các tiểu quản
(tubule) của thận. Mỗi ngày, cả một tấn máu được hai trái thận liên tục thanh lọc.
Khả năng này nhiều gấp đôi nhu cầu của cơ thể. Vì thế, khi một trái thận bị suy
thì trái thận khỏe mạnh còn lại có đủ sức làm việc nhiều hơn để giúp cơ thể hoạt


5
động bình thường.
Hình 1: Mô hình quả thận
Nhiệm vụ của thận
Với cả triệu những đơn vị thận để thanh lọc máu, thận có những nhiệm vụ quan
trọng như sau:
-Thải ra khỏi cơ thể những phần tử cặn bã của sự chuyển hóa thực phẩm,
những chất độc hại, muối khoáng dư thừa Nếu không được loại ra ngoài, các
chất này sẽ gây ra nhiều bệnh tật cho nhiều cơ quan, bộ phận con người, đôi khi
đưa tới tử vong.
Ure là chất thải chính của sự tiêu hóa chất đạm và được sản xuất ở gan,
chuyển sang máu rồi được thận bài tiết ra ngoài cơ thể.
Số lượng trung bình của ure trong máu là từ 8-25mg/100cc Trên mức độ này là
có hại cho cơ thể, một tình trạng mà khoa học gia Hy lạp khi xưa gọi là “Nước

6
tiểu máu”(uremia).
Duy trì mức độ nước trong cơ thể cố định dù là nước luôn luôn ra, vào cơ
thể theo nhịp điệu khác nhau, lúc nhiều lúc ít. Nếu nhiệm vụ này bị rối loạn,
nước sẽ được giữ lại, đưa tới phù nước dưới bàn chân, hoặc ứ nước trên vùng
bụng.
Mỗi ngày có khoảng từ 160 tới 180 lít nước chạy qua thận nhưng chỉ có từ 1-1.5
lít được thải ra ngoài (nước tiểu). Khoảng 98% nước được thận tái hấp thụ, đưa
trở lại máu.
-Giữ lại các huyết bào và các chất dinh dưỡng trong huyết tương như acid
amine, chất đạm, glucose, khoáng chất
-Ðiều hòa sự cân bằng giữa acid và kiềm trong các dung dịch cơ thể. Chất
acid đến từ thực phẩm, kiềm từ các loại thuốc như thuốc chống acid bao tử
-Duy trì sự cân bằng của các khoáng chất như potassium, sodium Nếu chỉ
hơi cao là potassium đã đủ làm cho tim ngưng đập

-Sản xuất các chất kích thích tủy tạo hồng huyết cầu, như chất erythropoietin
-Giữ huyết áp bình thường. Rất nhiều trường hợp cao huyết áp là hậu quả
của thận suy.
Nguyên nhân thận suy
Thận suy khi khả năng lọc máu của tiểu cầu thận bị rối loạn hoặc ngưng hoạt
động. Suy thận có thể là cấp tính hoặc mãn tính.
Suy cấp tính xẩy ra rất nhanh vì huyết áp đột nhiên xuống rất thấp sau khi cơ
thể bị chấn thương trầm trọng hoặc do biến chứng của phẫu thuật, trong trường
hợp nhiễm khuẩn hoặc trong các bệnh nặng Ðây là một tình trạng rất nghiêm
trọng cần được điều trị liên tục tại bệnh viện. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp,
thận có thể phục hồi được khả năng vài tuần hoặc vài tháng, sau cơn hiểm nghèo.

7
Trong suy thận kinh niên, khả năng lọc máu của thận giảm từ từ và thường là
do hậu quả của một số bệnh như viêm thận tiểu cầu, tiểu đường, cao huyết áp, đa
nang thận Khi khả năng lọc của thận chỉ còn từ 5 tới 10% thì thận đi vào giai
đoạn cuối và cần thận nhân tạo hoặc thay ghép thận.
Sau đây là một số nguyên nhân có thể đưa tới suy thận:
a. Nguyên nhân ở phía trên thận như sự giảm khối lượng nước ngoài tế bào trong
các trường hợp phỏng nặng, đi tiểu nhiều, xuất huyết, trướng bụng nước, giảm
dung lượng máu vì bệnh tim hoặc do nhiễm độc máu, suy chức năng gan, tác
dụng hại của một số hóa chất, dược phẩm
b. Từ trái thận trong các bệnh của bệnh thận, do nhiễm trùng thận, thương tích
thận, do tác dụng xấu của hóa chất dược phẩm lên thận, trong bệnh tiểu đường,
cao huyết áp Sử dụng quá nhiều và quá lâu các loại thuốc chống đau như
aspirin, phenacetin là một trong những nguyên nhân thường thấy.
c. Các yếu tố tới từ phía dưới thận như sạn tiết niệu, tắc nghẽn ống dẫn tiểu, rối
loạn các khả năng của bàng quang, sưng nhiếp tuyến
Hậu quả của suy thận:
a. Khi thận suy, chất thải ure, creatinine sẽ tràn ngập máu, mất cân bằng giữa

nước và các chất điện phân, kali lên cao, calci giảm, chất đạm thất thoát Ure là
sản phẩm phân hủy chính trong sự chuyển hóa của chất đạm và được thận lọc bài
tiết ra ngoài. Tích tụ ure trong máu khi bị suy thận sẽ đưa tới buồn nôn, ngủ lịm,
suy nhược cơ thể và có thể tử vong nếu không được điều trị
b- Thiếu hồng cầu: Thận tiết ra hormon erythropoietin để kích thích tủy sản
xuất hồng huyết cầu. Khi thận suy, hormon nay giảm và đưa tới thiếu hồng cầu.
Hồng cầu chở oxy tới các tế bào. Thiếu oxy, tế bào không sử dụng được năng
lượng từ thực phẩm, do đó người bệnh dễ bị mệt mỏi, da xanh nhợt. Thận nhân
tạo không phục hồi được khả năng sản xuất kích thích tố này của thận.

8
c- Loạn dưỡng xương thường thấy ỏ 90% bệnh nhân suy thận đặc biệt là
người cao tuổi và phụ nữ trong thời kỳ mãn kinh. Nguyên do đưa tới rối loạn là
thận không duy trì được mức độ bình thường của calcium và phosphore trong
máu. Xương trở nên mỏng, yếu, thay đổi hình dạng và dễ gẫy.
d- Rối loạn giấc ngủ. Rối loạn này rất thường thấy ở người suy thận, lọc
máu. Bệnh nhân luôn luôn ở trong tình trạng mệt mỏi, nhức đầu, ngây ngất, buồn
rầu, rối loạn giờ giấc ngủ, đau nhức cơ thể, bồn chồn
đ- Ngứa ngoài da trong khi hoặc sau khi lọc máu, vì ure huyết quá cao
e- Ðau nhức xương khớp vì chứng thoái hóa dạng tinh bột amyloidosis: chất
đạm trong máu lên cao, đóng vào khớp xương và gân gây đau nhức, cứng khớp
Lọc máu
Phương pháp lọc máu với thận nhân tạo được áp dụng .khi khả năng loại bỏ
chất phế thải và nước dư trong máu của thận chỉ còn khoảng từ 5 tới 10% so với
mức độ bình thường.
Suy thận cấp tính không đáp ứng với điều trị thì lọc máu có thể được áp
dụng trong một thời gian ngắn cho tới khi thận hoạt động trở lại. Suy thận kinh
niên thì phải lọc máu suốt đời, nếu không được thay ghép thận.
Mục đích của thận nhân tạo là để mang lại sức khỏe cho cơ thể, bằng cách:
-Loại bỏ chất thải, muối khoáng và nước dư trong máu, tránh ứ đọng trong

cơ thể.
-Duy trì huyết áp ở mức bình thường.
-Giữ thăng bằng một số hóa chất trong máu
Hệ thống lọc máu thận nhân tạo đầu tiên được thành hình trong thế chiến thứ
II. Máu được dẫn qua một ống làm bằng màng bán thấm, nhúng trong dung dịch
nước rửa máu. Màng bán thấm để các phân tử nhỏ như chất thải ure chạy qua và
máu sạch được truyền trở lại cơ thể.
Trong những thập niên vừa qua, thận nhân tạo đã được cải tiến với nhiều

9
hiệu năng và dễ dàng sử dụng hơn.
Nguyên tắc của sự lọc máu thực ra rất giản dị:
Máu từ cơ thể được dẫn vào một hệ thống lọc đặc biệt gọi là dialyser hoặc
“thận nhân tạo”. Dung dịch rửa máu (dialysate) được cho lưu hành xung quanh
thận nhân tạo để lấy ra các chất phế thải ure, creatinine Máu sạch chứa tế bào
máu, chất dinh dưỡng được đưa trở lại cơ thể.
Việc đưa máu ra vào cơ thể hơi phức tạp hơn.
Thường thường là có hai kim: một để lấy máu ra khỏi cơ thể và một kim dẫn
máu trở lại cơ thể. Có ba cách để tạo ra nơi cắm kim cho việc lọc máu:
-Tạo ra một lỗ rò vĩnh viễn (fistula) giữa một động mạch và một tĩnh mạch,
máu sẽ vào tĩnh mạch nhiều hơn, trở nên mạnh hơn và lớn hơn và chịu đựng
được sự cắm kim chích thường xuyên trong việc lọc máu. Hai kim được cắm vào
lỗ rò: một để hút máu từ cơ thể đưa tới máy lọc, một để đưa máu sạch trở lại cơ
thể.
Việc thực hiện lỗ rò này phải được dự trù trước và đôi khi phải cần thời gian
là cả năm vết nối mới lành và mới sử dụng được lỗ rò Thường thường lỗ rò
được làm ở cẳng tay, đôi khi ở cánh tay, phía tay ít dùng trong công việc hằng
ngày. Cách này được phổ biến vì ít gây khó khăn lại dùng được lâu hơn
-Tạo ra một cầu nối giữa tĩnh mạch và động mạch bằng một ống nhựa tổng
hợp, có nhiệm vụ như một tĩnh mạch, máu ra vô qua cầu nối này.

-Trường hợp cấp bách, dùng một ống nhựa cắm vào tĩnh mạch ở cổ, ngực
hoặc dưới bẹn để máu ra vô
Mỗi lần lọc máu, kim có thể được cắm vào cùng chỗ với lần trước hoặc theo
kiểu nấc thang từ dưới lên tên rồi ngược lại.
Trong cả ba phương thức vừa kể, một số rủi ro có thể xảy ra như nhiễm
trùng, máu chẩy chậm vì huyết cục ở chỗ cắm kim.
Bệnh nhân nên lưu ý chăm sóc nơi cắm kim:

10
- Bảo đảm là chuyên viên kiểm soát nơi cắm kim trước khi điều hành máy
lọc.
- Giữ gìn nơi cắm kim luôn luôn sạch sẽ
- Chỉ sử dụng chỗ cắm kim cho việc lọc máu chứ không phải cho việc tiêm
thuốc trị bệnh khác.
- Khi đo huyết áp, đừng đặt bao lên trên chỗ cắm kim.
- Không mang nữ trang trên chỗ cắm kim.
- Ðừng nằm đè lên chỗ cắm kim
- Ðùng nâng mang vật nặng với cánh tay có chỗ cắm kim.
- Ðếm nhịp tim đập mỗi ngày tại mạch máu nơi cắm kim.
Ðịa điểm để lọc máu
Việc lọc máu có thể được thực hiện tại bệnh viện, trung tâm lọc máu hoặc
ngay tại nhà riêng.
Nếu là tại nhà thương hoặc trung tâm thận nhân tạo thì lịch trình không thay
đổi sẽ là ba lần một tuần. Bệnh nhân có thể chọn những ngày thứ Hai, thứ Tư và
thứ Sáu hoặc thứ Ba, thứ Năm và thức Bẩy trong tuần, buổi sáng hoặc buổi
chiều, nhưng nên nhớ là thời gian mỗi lần lọc máu kéo dài từ 3 tới 5 giờ. Các
chuyên viên y tế có thể hướng dẫn cho bệnh nhân và thân nhân cách thực hiện
lọc máu ở nhà cũng như phương thức đối phó với khó khăn có thể xẩy ra. Thời
gian cần để huấn luyện là 4, 5 tuần lễ.
Ưu điểm việc lọc máu tại nhà là người bệnh không phải cách ngày đi tới

trung tâm, thời gian lọc ngắn hơn vì dung dịch lấy ra mỗi lần đều ít, do đó giảm
thiểu được một vài khó chịu như nhức đầu, buồn nôn, mệt mỏi
Có nhiều phương thức lọc máu tại nhà:
a-Lọc máu theo quy ước thông thường, ba lần một tuần, mỗi lần lâu từ 3 tới
5 giờ.
b-Lọc máu với thời gian thu gọn. thực hiện với loại máy đặc biệt từ năm tới

11
bẩy lần một tuần, mỗi lần kéo dài khoảng 2 giờ.
c-Lọc máu ban đêm ở nhà. Thực hiện mỗi buổi tối hoặc cách tối, trong khi
bệnh nhân ngủ, kéo dài từ 6 đến 8 giờ.
Lọc máu qua Xoang phúc mạc
Phúc mạc là lớp màng thanh dịch lót xoang bụng, mặt ngoài áp vào vách
bụng, mặt kia bao bọc các cơ quan trong bụng. Xoang phúc mạc có một hệ thống
huyết quản rộng lớn. Do đó, trong cách lọc máu này, phúc mạc được sử dụng
như một màng lọc và có công dụng như thận nhân tạo.
Một dung dịch gọi là chất thẩm tách gồm có nước, khoáng chất và đường
dextrose được đưa vào xoang phúc mạc bằng một cái ống nhỏ mềm. Ðường
dextrose sẽ thu hút chất thải, hóa chất và nước dư thừa trong máu vào dung dịch
này. Sau vài giờ, dung dịch chứa chất thải được hút ra ngoài, bỏ đi và một dung
dịch thẩm tách mới lại được bơm vào xoang.
Phương thức được làm đi làm lại nhiều lần trong ngày để thanh lọc máu.
Cách lọc máu này ít tốn kém, bệnh nhân có thể tự thực hiện lúc nào cũng
được. Tuy nhiên, bệnh nhân cần được bác sĩ đặt cho một ống vĩnh viễn vào bụng
để chuyền dịch thẩm tách và phải giữ gìn ống sạch sẽ để tránh viêm xoang bụng.

2. Khái niệm về thận nhân tạo và phương pháp cấy thận
2.1 Khái niệm về thận nhân tạo
Khi công nghệ y học mới được giới thiệu, các bác sĩ đã đưa ra sự tiếp cận
khác nhau tới việc điều trị các cơ quan. Một trong những phương pháp mới là

điều trị thận bằng phương pháp chạy thận nhân tạo (dialysis) và cấy ghép.
Thận nhân tạo đã được giúp đỡ điều trị cho nhiều bệnh nhân bị suy thận và
tiếp tục được cập nhập với sự đổi mới của công nghệ sinh học. Tuy nhiên thận
nhân tạo hoặc trung tâm thẩm tách gặp những trở ngại như công nghệ đắt tiền và
phức tạp. Dialyzers đã cung cấp các hệ thống mà chúng không mang lại lợi ích

12
lớn cho những bệnh nhân điều trị lâu dài. Tuy nhiên điều trị dialyzer dễ hơn cấy
thận, có rất nhiều thành công với các bệnh nhân điều kiện sức khoẻ tốt.
Tuy nhiên cũng có một số sự cố căn bệnh thận, trong khi không phổ biến, xảy
ra phần lớn ở những người trẻ tuổi, thận lấy ra các khoáng cặn dư thừa từ cơ thể,
và khi chúng không làm việc được hiệu quả chức năng, bệnh nhân sẽ phát triển
dần thành căn bệnh thận suy. Trong nhiều trường hợp ở các phương pháp không
có sự cố trong điều trị, bệnh nhân phải đi điều trị liên tục. Thận nhân tạo hoặc
dialyzer là hệ thống được thiết kế để trợ giúp cuộc sống tức lấy các sản phẩm cặn
dư thừa từ bệnh nhân thay cho thận của họ. Một bệnh nhân điều trị bằng thận
nhân tạo mất khoảng 12 h mỗi ngày, 2-3 lần một tuần. Nó làm việc trong vòng 1-
2 tháng sau khi bệnh nhân đợi cấy thận từ người cho. Điều trị này gây ra một số
vấn đề tài chính tới nhiều đất nước bởi vì dialyzer để mua và duy trì rất tốn kém.
Dialyzer sử dụng nứơc sạch để lấy ra các chất không sạch và cặn bã dư thừa
trong mạch máu bệnh nhân. Nước sử dụng trong dialyzer phải là nước sạch đặc
biệt, ngược lại nếu nước không tinh khiết đưa vào bệnh nhân sẽ gây ra các vấn
đề rất lớn.
2.2 Cấy thận
Định nghĩa
Cấy thận là quá trình giải phẫu để lấy ra thận khoẻ mạnh từ người sống hoặc một
người đã chết về bệnh não và cấy nó vào cơ thể bệnh nhân mà thận không còn
chức năng nữa.
Cấy thận bao gồm quá trình giải phẫu và đề cập tới chức năng của thận, từ người
cho tới bệnh nhân ở giai đoạn cuối. Trong suốt quá trình thực hiện, bác sĩ phẫu

thuật đã rạch trên sườn hay hông bệnh nhân và cấy thận mới ở trên khu vực
xương chậu và dưới vùng chức năng của thận bởi đường động mạch và tĩnh
mạch thận tới động mạch và tĩnh mạch ở vùng gần xương chậu của bệnh nhân.

13
Ống niệu quản của thận mới sau đó được gắn trực tiếp với bàng quang của bệnh
nhân.
Mục đích:
Cấy thận được thực hiện trên bệnh nhân với căn bệnh thận suy kinh niên, hoặc
căn bệnh thận ở giai đoạn cuối. Bệnh ở giai đoạn cuối xảy ra khi có bệnh hoặc
gây nguy hiểm vì vậy chúng không thể kéo dài thời gian đáp ứng lấy đi các chất
lưu và chất dư thừa từ cơ thể hoặc duy trì lượng thích hợp về trung tâm thận điều
chỉnh hoá chất trong mạch máu. Không lọc trong thời gian dài hoặc cấy thận là
không tránh được.
Cách thức tiến hành
Người cho thận là người có liên quan họ hàng hoặc không liên quan họ hàng với
người bệnh, nhưng nếu có quan hệ họ hàng thì có cơ hội tốt hơn cho thận ( tức
thận khoẻ và phù hợp hơn cho bệnh nhân).
Quá trình giải phẫu để lấy thận từ người cho được gọi là nephrectomy. Thận
của người cho được bảo quản thông qua sự gây mê và các vết cắt được tiến hành
bên trên mặt hoặc phía trước của bụng. Mạch máu kết nối thận tới người cho
được cắt và kẹp.Và ống niệu quản cũng được cắt giữa bàng quang và thận. Thận
và vùng gắn kết với niệu quản được lấy từ người cho. Các ống và niệu quản
trong người cho sau đó được buộc thắt và vết rạch được khâu lại cùng nhau. Quá
trình tương tự được sử dụng để hoàn tất đối với thận chết. Mặc dù cả hai quả
thận được lấy ra cùng lúc, và máu và tế bào mẫu đối với loại mô cũng được lấy.
Mỗi lần thận lấy từ người cho và xác chết được đặt trên nước đá và phun dung
dịch bảo quản lạnh. Thận có được phun dung dịch trong 24 - 48 h cho tới khi cấy
đặt vào vị trí của người nhận.


14
Trong suốt quá trình giải phẫu, thận của bệnh nhân phải được bảo quản và dùng
thuốc kháng sinh để tránh nhiễm trùng. Một ống đặt trong bàng quang trước khi
phẫu thuật. Sau khi phẫu thuật thì thận của bệnh nhân tốt hay xấu phụ thuộc vào
môi trường làm thận suy. Thận của người cho và nhận sẽ cảm thấy không thoải
mái trong vùng rạch. Thuốc làm dịu đau được tiêm vào trong khi phẫu thuật.
Bệnh nhân cũng có cảm giác đau tê cóng, gây ra bởi hệ thống dây thần kinh, gần
hoặc trên vết vạch.
Quá trình cấy ghép thận được tiến hành thông thường dưới dạng gây tê và mất
khoảng 2-3h. Quá trình tiến hành lấy cơ quan cũ và thay thế bằng cơ quan mới.
Tuy nhiên thận mới đặt vào vị trí thấp hơn vị trí cũ. Các mạch máu của thận mới
được kết nối với nhau mà các mạch máu đó cung cấp cho chân và niệu quản của
thận mới được gắn với bàng quang của bệnh nhân. Nếu các nối ghép đó liền thì
bệnh nhân có thể ăn và uống bình thường.
Đề phòng
Các bệnh nhân có tiểu sử về bệnh tim, phổi, u, bệnh viêm gan không thích hợp
cho thận.
Rủi ro xảy ra
Với bất kì cuộc giải phẫu nào, việc cấy thận mang lại một số rủi ro cho cả
người cho và người nhận. Sự biến chứng bao gồm sự viêm nhiễm và chảy máu.
Biến chứng phổ biến nhất đối với người nhận thận là đường dẫn nước tiểu. Xấp
xỉ 5% qu á trình cấy thận trải qua nguy hiểm là trong đường dẫn.
Thận mà người nhận sẽ bắt đầu chức năng ngay lập tức, hoặc có thể bắt đầu quá
trình tạo nước tiểu. Chức năng thận của người cho sẽ bắt đấu sớm hơn người
nhận. Xác suất trải qua vài nguy hiểm trong suốt quá trình giải phẫu và lưu trữ.

15
Bệnh nhân phải trải qua sự khó khăn về thẩm thấu trong vài tuần trong khi thận
mới đang thiết lập sự thích ứng về chức năng.
Thành công trong quá trình cấy thận phụ thuộc vào khả năng thích ứng giữa thận

của người cho và người nhận. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp thì chức năng
của thận tốt được hơn 25 năm.
Qua nghiên cứu các cuộc giải phẫu người ta nhận thấy thận của người cho không
có biến chứng lâu dài từ việc mất đi một quả thận và quả thận còn lại sẽ tăng
chức năng để bù cho quả thận kia.
Thận cấy vào có thể không được chấp nhận bởi bệnh nhân. Sự loại bỏ xảy ra khi
hệ thống miễn dịch của bệnh nhân tác động tới thận mới. Sự không thích ứng có
thể xảy ra sau khi giải phẫu, hoặc sau vài tháng hoặc vài năm. Sự không thích
ứng không phổ biến ở tuần đầu tiên sau giải phẫu và được điều trị bằng cách
tiêm thuốc chống nhiễm trùng với liều cao. Nếu thận không thích hợp bởi cơ thể
thì thận lại tiếp tục suy. Bệnh nhân lại tiếp tục phải dùng đến sự trợ giúp của
máy. Và quá trình cấy ghép cũng có thể được tiến hành lại nếu điều kiện cho
phép.
2.3 Hỗ trợ của máy vào bệnh thận
2.3.1 Lịch sử phát triển
Loại thiết bị y tế đưa ra sự lựa chọn rộng về thiết bị phục hồi từ các hãng
như Cobe, Fresenius, Baxter, và Althin. Chúng ta nhận sự cần thiết cho chi phí
vận hành của máy, với chi phí rủi ro cho thiết bị lớn, càng ngày càng nhiều
dialysis có thể cung cấp cho bạn khi làm việc với nó biết cách tiết kiệm.Tất cả sự
phục hồi được thực hiện bởi chất lượng công nghệ đào tạo.
Một công ty phần lan CORVALLIS đang sử dụng công nghệ tinh vi từ trường
đại học mỹ Oregon để phát triển máy chạy thận xách tay mà sẽ dùng để điều trị

16
tại nhà, có thể hơn một trăm nghìn người đã khổ sở với sự điều trị tại nhà về căn
bệnh không có sự giúp trừ khi đi tới bệnh viện ba ngày trong một tuần.
Dòng máy dialysis dựa trên nền công nghệ 30 năm và hệ thống lọc mà chỉ
khoảng 28 % hiệu suất. Michael Baker nói những vấn đề quan trọng liên quan về
máy dialysis tại nhà, công ty phát triển thiết bị bằng vệc quy trình tái tạo sự phát
triển công nghệ tinh vi bên ngoài trường cao đẳng công nghiệp, hiệu suất lọc của

skyrockets vào khoảng 90 %. Chúng ta có thể giảm kích thước của máy từ kích
thước của cái tủ lạnh xuống kích thước của một miếng có thể mang như hành lý,
cái điều trị có thể xách tay.
Những nhà nghiên cứu OSU (Oregon State University) và cộng với dialysis tại
nhà các nhà chính quyền nói là giảm kích thước và tăng hiệu quả cứu sống
nhiều bậnh nhân bởi vì quá trình điều trị được làm trong nhà trong khi buổi tối
bệnh nhân ngủ. Nhiều bệnh nhân điều trị bằng dialysis bây giờ có hạn chế di
chuyển và các cơ hội khác do thời gian điều trị chi phối mà thời gian kéo dài 4
giờ.
Một sự tăng trưởng lớn về nghiên cứu đòi hỏi lâu dài hoặc thường xuyên hơn
trong việc điều trị tại nhà không chỉ đưa ra chuẩn đoán cao cấp, nhưng cũng là
cơ hội để giảm giá thành. Sự khám phá đang được cân nhắc nhiều và nhiều bệnh
nhân điều trị đòi hỏi sự tin cậy về sức khoẻ, sự thuận tiện và chất lượng cuộc
sống của loại máy điều trị tại nhà được đề cập. Chúng ta đã phát động thêm loại
máy này nhằm đưa đến sự cải thiện cho bệnh nhân điều trị với sự cải tiến công
nghệ.
Máy chạy thận tại nhà đã được tìm bởi Altman Browning và công ty, công ty
phát triển sản phẩm phần lan mà công ty này đã làm việc chặt chẽ với các nhà
nghiêm cứu tại trường cao đẳng công nghiệp OSU để phát triển công nghệ tinh
vi mới được sử dụng trong ứmg dụng điều trị. Các chuyên gia nghiên cứu nói về
công nghệ, được biết là các vật liệu đa lớp và các thiết bị, hoặc MMD

17
( multiscale materials and device), cuối cùng có thể phát triển loại thiết đeo bên
mình, hoặc bằng việc cấy.
Công nghệ MMD cho phép chúng ta giảm một bộ lọc mà bộ lọc cao hơn 8
inches bằng bộ lọc có kích thước 3 inches của khoảng 4 hình lập phương. Khi
côngn nghệ này phát triển, khả năng về thiết bị cấy trở nên rất thực tế.
Jim Curtis, là kỹ sư công nghệ hemodialysis mắc bệnh tâm thần, làm việc như
người quản lý đối với ngành yhọc ở phía bắc mỹ, một công ty vận hành số

lượng 11 bệnh viện dùng máy dialysis. Ông nói công nghệ MMD có tiềm năng
tới cuộc cách mạng hoá về bệnh thận kinh niên bởi vì nó có thể mặt bằng tốt như
khoảng cách nhỏ. Nhiều nghiên cứu đưa ra cho bệnh nhân tốt về quá trình thẩm
thấu nhanh, nhưng thời gian dài.
Công dân Canada gần đây nghiên cứu và đã có sự so sánh các bệnh nhân người
hiểu biết cách điều trị máy dialysis (3lần một tuần và mỗi lần là 4 giờ) truyền
thống tới bệnh nhân người hiểu cách chạy về đêm ( tám giờ về đêm), Curtis nói
thời gian bình phục cho phép điều trị đã gảm từ 6 giờ xuống chỉ còn khoảng 7
phút. Máy chạy dialysis về đêm đưa ra cho bệnh nhân nhiều thời gian trong cuộc
sống bởi vì họ đã sử dụng ngay thời gian ngủ, và họ không phải sử dụng nhiều
giờ mỗi tuần cảm thấy cảm phờ phạc hoặc cảm giác đáng sợ trước và sau điều
trị. Dẫn tới căn bệnh thận kinh niên là căn bệnh đái đường và chứng bệnh tăng
huyết áp, Curtis nói. Gần 2011 số người đau khổ về căn bệnh đã trông đợi
600,000 sự đơn độc ở U.S.
Trong suốt 1960, Dr. Richart Drake đã phát triển máy Drake Willock, cái chạy
nhanh vì vậy là hệ thống máy bán tốt nhất trên thế giới. Công ty phần lan chính
của Drake là DWS, Inc, đã thuê 250 công nhân trước khi bán vào năm 1970.
Drake bây giờ không còn nữa vì nó đa sử dụng công nghệ MMD trong máy lọc
thận tại nhà là một ưu điểm quan trọng. Đây là một tiến trình vượt trộn chính bởi

18
các bộ lọc luôn luôn có một vấn đề.Giảm kích thước và tăng hiệu quả là rất quan
trọng.
Mặc dù các công ty khác, như Hewlett-Packard cộng tác với những nhà nghiên
cứu OSU để cải tiến công nghệ MMD trong các thiết bị mới, Altman Browning
là công ty đầu tiên trong lĩnh vực thương mại hoá các sản phẩm .
Đây là một mẫu tiêu biểu về công nghệ MMD. Chúng đang được phát triển
ở đây tại trường đại học Oregon, trong sự cộng tác với trường đại học Oregon
khác và việc kinh doanh, sẽ đột ngột cải thiện cuộc sống, Ron Adams nói công
việc chính tại OSU.


Hình 3: Mô hình lọc máu
2.3.2 Khái niệm
Dialysis là sự điều trị mà nó mang lại một số tác dụng tốt cho thận. Nó cần
cho bạn khi thận của bạn không thể kéo dài khả năng chăm sóc cơ thể bạn.
Giống như chức năng của thận, dialysis giữ cho cơ thể bạn ở trạng thái cân bằng.
Lấy lại lượng chất cặn bã, muối và cộng thêm nước để ngăn chặn chúng hình
thành trong cơ thể. Giữ ở mức an toàn về hoá học trong máu, như canxi, natri,
carbonate. Và hỗ trợ điều chỉnh áp suất máu. Bạn cần dialysis khi bạn ở giai
đoạn cuối của bệnh thận, thường thì mất khoảng 85-90 % chức năng của thận.

19
2.3.3 Phân loại
Có hai loại đó là hemodialysis và perioneal dialysis:
a. Hemodialysis
Trong hemodialysis máu được bơm từ cơ thể tới bộ lọc mà bộ lọc được chế tạo
dưới dạng mao mạch nhựa nhỏ xíu. Máu được làm sạch khi đi qua mao mạch
nhựa nhỏ xíu và các chất dư thừa bị khuếch tán. Máu sạch sau đó được đưa trở
lại cánh tay. Hemodialysis được thực hiện ở một trung tâm dialysis trong 4 giờ
một lần và ba lần một tuần.Dialysis được thực hiện thông qua một phương tiện
arteriovenous:
+Thuận lợi : Bệnh nhân không bắt buộc phải qua đào tạo
+Khó khăn: Dialysis ghép sai, thiếu tự do

Hình 4: Mô hình Hemodialysis
b. Peritoneal dialysis:
Loại máy này máu của bạn được làm sạch bên trong cơ thể. Bác sĩ sẽ phẫu
thuật để đặt ống nhựa nhỏ được gọi là catheter vào bụng làm lối vào. Trong suốt
quá trình điều trị, vùng bụng được lọc chậm với dialysate qua catheter. Máu ở
động mạch và tĩnh mạch của các lỗ hổng màng bụng. Chất lỏng và sản phẩm dư

thừa được lấy ra ngoài máu nhờ máy dialyzes trong. Có hai loại peritoneal
dialysis chính:

20
+CAPD(Continous Ambulatory Peritoneal) là loại peritoneal dialysis mà
làm việc không có thiết bị. Bạn có thể tự làm, thường 4-5 lấn trong một ngày tại
nhà hoặc cơ quan. Bạn đặt túi dialysate vào khoang màng bụng thông qua ống.
Dialysate ở đó khoảng 4 - 5 h trước khi nó được dẫn trở lại tuí và loại ra. Bạn
dùng một túi mới trong mỗi lần điều trị .
+CCPD(Continous Cycling Peritoneal Dialysis) thường được làm việc tại
nhà có sử dụng một loại máy đặc biệt gọi là cycler. Loại này tương tự như
CAPD loại trừ một số cycle xảy ra. Mỗi cycle thường kéo dài 1-1/2 h và quá
trình trao đổi được thực hiện trong suốt buổi tối trong khi bạn ngủ
+ Ưu điểm của nó là tự do và ít kim đâm vào cơ thể
+ Nhược điểm là chứng viêm màng bụng và màng bụng hỏng


21
Hình 5: Mô hình Pertiontal dialysis
CHƯƠNG II:
TỔNG QUAN VỀ MÁY CHẠY THẬN NHÂN TẠO
1. Giới thiệu chung về máy lọc máu
1.1 Giới thiệu

Máy lọc máu được thiết kế theo tiêu chuẩn hiện nay IEC 60601-2 -16 của máy
thận nhân tạo. Trên thực tế các thông số điều trị có thể kiểm soát được bởi hệ
thống (ví dụ như độ dẫn, mức siêu lọc). Hệ thống theo dõi hoàn chỉnh bao gồm
các bộ phận cảm nhận, hệ thống điện và bộ vi xử lý. Chức năng của hệ thống bảo
vệ được kiểm định kỳ trước mỗi lần vận hành. Khi có các trục trặc được phát
hiện trong quá trình kiểm tra trước khi vận hành thì máy sẽ không thể hoạt động.

Trước khi nối máy với bệnh nhân cần xác định sự vận hành chính xác và nhịp
nhàng giữa hệ thống kiểm soát và hệ thống theo dõi, người sử dụng cần đối chiếu
giữa thông số hiển thị tại thanh giá trị với thông tin hiển thị. Thanh giá trị biểu
diễn các giá trị cài đặt, giá trị thực tế, các giá trị giới hạn báo động đối với hệ
thống kiểm soát. Nếu phát hiện sự không phù hợp giữa hai hệ thống thì hãy báo
cho kỹ sư.
Hệ thống theo dõi sẽ giúp máy làm việc trở nên an toàn đối với bệnh nhân, các
thông số điều trị sẽ nằm trong các giá trị giới hạn báo động. Điều đó có nghĩa là
hệ thống theo dõi có thể dừng bơm máu, kẹp đường máu trở về, không cho dịch
lọc vào quả lọc và báo động cho người vận hành bằng âm thanh và đèn báo. Đối

22
với hệ thống kiểm soát siêu lọc, áp lực siêu màng (TMP) được sử dụng như một
hệ thống theo dõi. Giới hạn báo động đối với TMP phụ thuộc vào giá trị hệ số
UF của màng lọc và tốc độ siêu lọc mong muốn và được cài đặt.
TMP = ( P
b out
– P
d out
), trong đó P
b out
là áp suất tĩnh mạch và P
d out
là áp suất đo
được trong chất dịch phân tách. Và giới hạn báo động là -100mmHg đến
500mmHg.
Nhằm mục đích bảo vệ bệnh nhân không bị mất máu ra ngoài thì máy có bộ
phận theo dõi áp lực tĩnh mạch. Hệ thống sẽ hoạt động theo sự thay đổi của áp
lực tĩnh mạch ví dụ khi áp lực giảm xuống dứơi giá trị giới hạn báo động. Khi có
hiện tượng máu chảy ra ngoài thì áp lực đường tĩnh mạch sẽ giảm xuống dưới

giá trị giới hạn báo động. Để tránh mất máu ra ngoài một điều quan trọng là phải
đảm bảo tất cả các điểm nối của hệ thống tuần hoàn ngoài cơ thể phải chặt và an
toàn, vị trí của kim chọc mạch máu phải đúng vị trí và chắc chắn. Giới hạn giá trị
báo động áp lực thấp nên được đặt càng gần với giá trị áp lực tĩnh mạch càng tốt.
Người vận hành nên theo dõi sát giá trị này.
Hệ thống theo dõi áp lực tĩnh mạch có tác dụng bảo vệ bệnh nhân không bị mất
máu ra ngoài. Hệ thống đo lường được tự động kiểm tra tới 0 mmHg trước mỗi
lần điều trị. Hơn thế nữa người sử dụng được hướng dẫn để kiểm tra sự dò rỉ
máu của màng lọc.
Hệ thống phát hiện dò máu được sử dụng bằng bộ phận cảm nhận so màu tự
động phát hiện có máu hay không thông qua tính trong suốt của dịch thải. Nếu
hệ thống không phát hiện ra các tình trạng này thì máy sẽ không thể thực hiện
điều trị.
Bộ phận phát hiện khí nhờ hệ thống cảm nhận bằng sóng siêu âm được điều
khiển bằng bộ phận vi xử lý, các thông tin sẽ được chuyển đến hệ thống và hệ
thống theo dõi. Hệ thống sẽ được kiểm tra trước mỗi lần điều trị.

23

Hình 1: Máy lọc máu
Ngoài ra hệ thống có cơ cấu điều chỉnh tốc độ siêu lọc là volumetric để đảm bảo
lượng dịch lấy ra từ bệnh nhân một cách chính xác. Hệ thống được trang bị bằng
hai máy tính hoạt động độc lập nhau nhưng đều có mục đích mang lại sự an toàn
cho bệnh nhân đó là hệ thống điều khiển và hệ thống bảo vệ. Trước mỗi lần vận
hành thì quá trình tự kiểm tra được hoàn thành để kiểm tra cho toàn bộ hệ thống
bảo vệ. Hệ thống dễ dàng và đơn giản cho việc vận hành:

24
+ Giá trị thiết lập báo động được hiển thị bằng màu đỏ
+ Giá trị đo hiển thị màu xanh

+ Tốc độ UF có thể được tính toán tự động thông qua gía trị thiết lập thể
tích UF và thời gian UF
Cho đến nay có các loại máy thận nhân tạo như COBE, TORAY, NIPRO,
AK95…
Riêng đối với máy COBE hiện nay hầu như không sử dụng vì độ an toàn không
cao và vì độ chính xác thấp, Toray được sử dụng nhiều nhất hiện nay vì độ chính
xác cao, độ ổn định và dễ sửa chữa và thay thế, AK95 và Nipro là loại máy mới
hiện nay hoạt động chính xác gần như tối đa, có thể quan sat dữ liệu trên máy
hoặc quan sát từ xa, dễ dàng nâng cấp nhưng chưa được ưa chuộm vì khó sửa
chữa và làm việc chưa ổn định.
1.2 Mục đích sử dụng
Hệ thống máy Gambro được thiết kế để lọc máu cho bệnh nhân theo chỉ định của
bác sĩ. Máy lọc máu gồm 3 phần chính : Phần lọc máu, phần dịch, và phần điều
khiển. Các phần chính này kết hợp với nhau để thực hiện chức năng như quả
thận của bệnh nhân, lấy ra các độc tố và bù một số chất cho bệnh nhân. Trong
mỗi phần lại gồm rất nhiều khối và chức năng khác hoạt động mật thiết với nhau.
Chính vì vậy máy lọc máu được coi là một thiết bị quan trọng hiện nay.
1.3 Sơ đồ khối chung
a. Đơn vị máu

25
Khối điều
khiển
Phần máu
Phần dịch
Dialyzer
Bệnh
nhân

×