Tải bản đầy đủ (.doc) (52 trang)

Ảnh hưởng của văn hoá Ấn Độ đến tộc người Chăm ở Việt Nam và người Chăm đã tiếp nhận nó ra sao và được thể hiện như thế nào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (284.05 KB, 52 trang )

Mở đầu
1. tính cấp thiết của đề tài
Một cộng đồng c dân không chỉ sống trong mối quan hệ với môi trờng tự
nhiên mà con luôn tồn tại trong mối quan hệ với xã hội các dân tộc xung
quanh. Cách thức ứng xử với môi trờng xã hội là một thành tố của hệ thống văn
hoá.
Với vị trí ngã t đờng, con ngời Việt Nam luôn quan tâm tới việc tiếp
nhận các giá trị văn hoá nhân loại : Tiếp thu văn hoá Trung Hoa, ta có Nho giáo
và Đạo giáo. Văn hoá phơng Tây đem lại KiTô Giáo và những giá trị văn hoá
vật chất và tinh thần mơí mẻ, tiếp thu văn hoá ấn Độ, ta có nền Phât giáo Việt
Nam và nền văn hóa Chăm độc đáo. Sự hội nhập văn hoá giữa Chămpa và ấn
Độ trớc đây đã góp phần tạo nên sự đa dạng cho nền văn hoá Việt nam đa sắc
tộc
Cùng với thời gian và sự biến đổi nhà nớc Chănpa suy tàn các dấu ấn về
chính trị cũng bị xoá sạch và chỉ để lại trong dân tộc Chăm và các bộ tộc khác
một di sản văn hoá đậm ảnh hởng ấn Độ với những nét riêng độc đáo. Vậy văn
hoá ấn Độ đã có mặt ở Chămpa từ bao giờ, bằng con đờng nào?. Vai trò và ảnh
hởng của văn hoá ấn Độ đến với tộc ngời Chăm có sâu rộng hay không, có lấn
át đựoc lớp văn hoá bản địa hay không ? đợc thể hiện ra sao? Để đáp ứng và lý
giải phần nào đòi hỏi đó khoá luận đi vào nghiên cứu đề tài: ảnh hởng của văn
hoá ấn Độ đến tộc ngời Chăm ở Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho tới hiện nay ở nớc ta cha có nhiều công trình nghiên cứu quy mô về
văn hoá Chăm ở Việt nam, số lợng tác giả nghiên cứu về văn hoá Chăm ở Việt
Nam hiện tại là rất hạn chế. Các bài viết chủ yếu xuất hiện trên một số tạp chí
nghiên cứu, báo . với dung l ợng nhỏ, xoay quanh các đề tài nh: Lễ hội, kiến
trúc, điêu khắc, nghệ thuật . Nhìn chung ảnh h ởng của văn hoá ấn Độ đến tộc
ngời Chăm ở Việt Nam hiện nay cha đợc các công trình khoa học nào đề cập
một cách hệ thống, toàn diện và đầy đủ. Dù sao những công trình nghiên cứu đó
là những đóng góp to lớn cho việc nhận diện rõ hơn văn hoá dân tộc Chăm dới
góc độ khoa học và là những tài liệu vô cùng quý báu để khoá luận lấy làm t


liệu học tập và kế thừa .
3. Mục đích, nhiệm vụ và pnhạm vi nghiên cứu của khoá luận
Mục đích của khoá luận là đi vào tìm hiểu những nh hởng của văn
hoá ấn Độ đến tộc ngời Chăm ở Việt Nam và ngời Chăm đã tiếp nhận nó ra
sao và đợc thể hiện nh thế nào. Thực hiện mục đích trên, khoá luận tập trung
giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu chung về vơng quốc Chămpa
- Văn hoá ấn Độ và văn hoá Chăm
- Một số biểu hiện của văn hoá ấn Độ đến văn hoá Chăm
- Phạm vi nghiên cứu: Đi sâu vào tìm hiểu sự giao lu giữa hai nền văn
hoá ấn Độ và Chămpa, trong đó chú ý đến những dấu ấn còn lại của văn
hoá ấn Độ với ngời Chăm hiện nay
4. Phơng pháp nghiên cứu của khoá luận
Khoá luận đợc thực hiện với một số phơng pháp: phơng pháp phân tích
tổng hợp, thống kê, đối chiếu, so sánh ..
5. ý nghĩa khoá luận
Khoá luận chỉ đống góp một phần nhỏ cho việc tìm hiểu và nhận diện rõ
hơn cho sự giao lu, ảnh hởng giữa văn hoá ấn Độ và Chămpa. Văn hoá Chăm
cũng nh các giá trị của nó cần đợc trân trọng, gìn giữ trong đời sống chung của
cộng đồng các dân tộc Việt Nam
6. Kết cấu khoá luận :
Ngoài phần mở đầu, kết luận, dạnh mục tài liệu tham khảo, khoá luận
gồm 3 chơng, 8 mục
Chơng 1
Tìm hiểu chung về Vơng Quốc Chăm Pa
1.1. Sự ra đời và hình thành của Vơng quốc Chăm
Theo kết quả điều tra dân số thì tính đến ngày 1/4/1989 dân tộc Chăm có
98.971 ngời đứng thứ 14 trong số 54 dân tộc Việt Nam.
Ngời Chăm sống tập trung chủ yếu ở hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận
(trên 89%), số ít ở An Giang, Đồng Nai, Tây Ninh, thành phố Hồ Chí Minh. Tại

miền Tây các tỉnh Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa. Ngoài ra còn có nhóm
Chăm miền núi - Chăm - láng giềng của ngời Ê Đê, Ba Na.
Ngời Chăm có lịch sử c trú lâu đời ở ven biển miền Trung. Họ đã lập nên
nớc Lâm ấp - Chăm Pa phát triển rực rỡ vào cuối thế kỷ thứ II.
Về mặt chủng tộc, ngời Chăm (cùng với một số dân tộc Tây Nguyên)
thuộc nhóm ngữ hệ Nam Đảo, là một bộ phận của nhóm loại hình Inđônêxia, xa
kia c trú rải rác tại nam Đèo Ngang đến Bình Thuận.
Theo các tài liệu Trung Quốc, vào năm 192, thừa lúc nhà Hậu Hán suy
yếu (sau cuộc khởi nghĩa có quy mô lớn nhng bị đàn áp đẫm máu của Hai Bà
Trng), một viên chức quận Tờng Lâm (phía Nam Thừa Thiên ngày nay) là Khu
Liên đã lãnh đạo ngời Chăm nổi lên khởi nghĩa thắng lợi lập nên Vơng quốc
Lâm ấp (xứ Rừng) hay Chăm Pa, Tân Th, một tài liệu Trung Quốc năm 280 xác
định:
"Vơng quốc về phía Nam, giáp nớc Phú Nam. Hai nớc gồm rất nhiều bộ
lạc và liên kết với nhau, lợi dụng núi non hiểm trở, họ không chịu quy phục
Trung Quốc".
Từ thời điểm này, trên rẻo đất miền Trung nổi lên một tiểu quốc độc lập
chịu ảnh hởng của ấn Độ.
Vơng quốc Lâm ấp vốn là một quốc gia sớm phát triển ở Đông Nam á,
hảng hải Lâm ấp rất nổi tiếng và đã từng thực hiện chủ quyền Nhà nớc trên các
đảo lớn ở biển Đông, mà thủ tịch cổ của Trung Quốc thờng gọi là Giao Chỉ D-
ơng (biển của Giao chỉ). Quần đảo Hoàng Sa - Trờng Sa, ngời Lâm ấp gọi là
B'lao Brai Kân (Cù lao bãi lớn). Đó là loại địa danh chắc chắn cổ nhất trong lịch
sử quần đảo này. Ngời Chăm H're còn ghi nhớ một bài kinh cúng khi ra khai
thác quần đảo Hoàng Sa - Trờng Sa vào các tháng 1 - 4 hàng năm theo lịch cổ.
Vơng quốc Lâm ấp với tên gọi có tính chất quốc tế lúc bấy giờ là
Sinhapura (thành phố S Tử) dựa trên nền văn hóa vốn có đã phát triển của chính
mình, sớm tiếp thu sâu sắc văn hóa ấn Độ, sáng tạo nên nền văn hóa rất độc
đáo, mà hàng loạt di tích kiến trúc còn lu lại khắp cả tỉnh ven biển miền Trung -
đỉnh cao nhất tập trung tại địa bàn Quảng Nam - Đà Nẵng. Phía Nam vơng quốc

Lâm ấp tiếp giáp với một thuộc quốc của phù Nam Bia ký Võ cạnh nổi tiếng đã
ghi rõ, ngời đứng đầu thuộc quốc này là "Đấng hậu duệ của nhà vua
Crimara , hậu duệ xứng đáng với thanh danh dòng họ của (nhà vua) Crimara". -
Crimara vốn là một danh tớng rất nổi tiếng đợc tôn lên làm vua phù Nam. Lâm
ấp và Phù Nam đã tiến hành nhiều cuộc chiến tranh xâm chiếm lẫn nhau.
Vơng quốc Phù Nam (từ phù Nam có thể phiên âm từ Phnom có nghĩa là
núi của tiếng Khmer) là một quốc gia ngay từ buổi đầu tiên đã đợc xây dựng
trên cơ sở một nền nông nghiệp trồng lúa khá phát triển bắt nguồn từ vùng
ruộng nơng trung nguyên sông Cửu Long của c dân Môn - Khmer, kết hợp với
nghề biển cổ truyền của c dân Nam Đảo. Trên cơ tầng đó, các đạo sĩ Bàlamôn
từ ấn Độ đến đã tổ chức một quốc gia mô phỏng theo mô hình ấn Độ trên tất cả
các mặt: tổ chức chính trị, thiết chế xã hội, đô thị hóa, giao thông, kỹ thuật,
công nghiệp cùng một hệ thống tôn giáo và các nền văn hóa kèm theo trong đó
có đạo Bàlamôn đóng vai trò chi phối.
Theo sách sử ghi: Năm Vinh Minh thứ 9 (491) vua Phù Nam sai sứ dâng
cống nạp hoàng đế Trung Quốc và đợc phong là Lâm ấp Vơng. Nh vậy trong
thời gian này Lâm ấp chịu sự thống trị của đế quốc Phù Nam. Đến cuối thế kỷ
V Lâm ấp mới giành đợc độc lập (theo Nam Tề Th, q. 58, 4b Lâm ấp). Cũng từ
đấy Phù Nam dần dần đi vào con đờng suy yếu, sức ép tấn công từ hai phía là
Chân Lạp và Lâm ấp đã quyết định sự sụp đổ của vơng quốc Phù Nam.
Vơng quốc Lâm ấp chiếm toàn bộ lãnh thổ của thuộc quốc Phù Nam từ
phía Nam Đèo Cả đến tiếp giáp Đồng Nai. Trên địa bàn đó có hai khu vực hành
chính chủ yếu, ở phía Nam là Panduranga (Bình Thuận, Ninh Thuận) và phía
Bắc là Koh Th'ra (Thara) - Nha Trang, theo ngôn ngữ Malayo cổ, địa danh này
có nghĩa là: Bải biển hình cong lỡi liềm.
Lâm ấp mở rộng lãnh thổ vào phía Nam đa lại một sự kiện chính trị to
lớn là sự hình thành một vơng quốc mới bao gồm Lâm ấp là chủ thể và phần đất
rộng lớn vốn là thuộc quốc của Phù Nam. Vơng quốc mới hình thành mà th tịch
cổ Trung Quốc gọi là Hoàng Vơng, và sau đổi thành Champapura - Chiêm
Thành. Chăm là tên tự gọi, nay trở thành tên chính thức của dân tộc.

Ngoài ra còn có những tên khác nh Chàm (thực ra tên này do ngời Kinh
gọi biến âm từ Chăm mà ra), Lồi, Hời hay Chiêm, Chiêm Thành mà ta đã kể
đến ở trên. Quốc hiệu Chăm Pa xuất hiện vào lúc nào không rõ, chỉ biết rằng
bia kí sớm nhất có nhắc đến tên này đợc khắc vào cuối thế kỷ VI [Ngô Văn
Doanh 1994: 6]
2
. Chăm pa là tên một loài hoa, miền Bắc gọi là hoa đại, miền
Nam gọi là hoa sứ. Dạng rút gọn của nó chính là Chăm, biến âm là Chàm. Âm
Hán Việt là Chiêm Thành, rút gọn là Chiêm. ảnh hởng của ấn Độ đối với văn
hóa Chăm phát huy mạnh mẽ trong khoảng thế kỷ VII đến hết thế kỷ XV, khi
Chămpa chấm dứt sự tồn tại với t cách quốc gia của mình.
Văn minh Chămpa đã tắt, hay đúng hơn các nhà nớc Chămpa đã không
còn tồn tại từ vài trăm năm nay, song tộc Chăm và các tộc bà con theo mẫu hệ
còn đó: Chăm H'rê, chăm H'roi, Raglai, Tarai, Rhaday Văn hóa Chăm vẫn
còn đây, sống động ở Ninh Thuận (với làng gốm Bàu Trúc) Bình Thuận là các
phế tích "Thành Lời", giếng "Hời", "cánh đồng Chăm" theo cách gọi của ngời
Kinh - Việt ở Bình - Trị - Thiên, Nam - NgãI - Bình - Phú, Khánh Hòa - Phan
Rang, Phan Rí, Phan Thiết Đó còn là những lễ hội rất Chăm đi vào đời sống
văn hóa chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Cái riêng hòa trong cái
chung, tất cả góp mình làm nên bản sắc, văn hiến cho dải đất hình chữ S bên bờ
biển Đông.
1.2. Vài nét về đặc điểm tự nhiên và xã hội của Vơng quốc Chăm Pa
1.2.1. Thiên nhiên miền Trung với Vơng quốc Chăm pa
Ngời Chăm sống trên dải đất hẹp miền Trung. Nói đến miền Trung ai
cũng biết đấy là miền có địa thế hẹp chiều Tây - Đông, dằng dặc chiều Bắc -
Nam.
Phía Tây là dải Trờng Sơn, ngời Pháp gọi là Chaine annamitique. Đoạn
Trờng Sơn nam từ Quảng Nam đến Vũng Tàu gọi là Nam Sơn. Trờng Sơn mênh
mông chân núi (Pie'rnont) mà ngời Nga gọi là miền trớc núi (pretgorie = Sơn c-
ớc). Từng đoạn từng đoạn dải núi - đồi này lại đâm ngang ra biển Đông, chia

cắt miền Trung thành từng vùng - xứ - tỉnh, đi từ Bắc vô Nam Trung Bộ là ta cứ
lần lợt qua "một đèo, một đèo, lại một đèo". Đèo Ba Dội, đèo Ngang, đèo Hải
Vân, đèo Cù Mông, đèo Cả
Dới chân đèo là các sông lớn nhỏ, đều chảy ngang theo chiều Tây - Đông
ra biển, sông ngắn, nớc biển xanh, ít phù sa, nhiều cửa sông sâu tạo thành vịnh
cảng là nơi đậu thuyền rất tốt. Vận động tạo sơn còn ném ra biển xa rất nhiều
các đảo và quần đảo. Những Hoàng Sa - Trờng Sa, Hòn Cỏ - Hòn La, hòn Nồm,
Hòn Gió (Quảng Bình) Cồn Cỏ (Quảng Trị) Cù Lao Chàm (Quảng Nam), Lý
Sơn (Quảng Ngãi), Phú Quý (Phú Yên) Hòn Tre (Khánh Hòa) tạo ra những
"bình phong" ngăn chặn bớt sóng gió biển Đông.
Bờ biển miền Bắc "lõm" vào đất liền thành vịnh Hạ Long và Bái Tử
Long, kỳ quan di sản văn hóa thế giới 94, song lại bị đảo Hải Nam "thút nút" ở
bên ngoài.. Bắt đầu từ miền Trung, đờng bờ biển Việt Nam "ỡn" cong, "lồi" ra
phía biển Đông, hứng gió bão sóng thần thật đấy, song "chất biển" trong văn
hóa Chămpa ngày trớc, văn hóa các vùng Trung Bộ Việt Nam ngày nay rất mặn
mà nh chợp, mắm ruốc, mắm nêm, nớc mắm, các loại đặc sản miền Trung,
Luồng cá biển cũng chạy gần bờ miền Trung hơn miền Bắc. Miền Trung lại có
mùa ma lệch pha với hai đầu Bắc Nam đất nớc (mùa khô Bắc - Nam là từ cuối
tháng 10 đến đầu tháng 4). ở miền Trung mùa hè (tháng 4 - tháng 10) khô
nóng, lại gặp gió Tây (gió phơn) rất khô nóng thổi từ Lào qua (xa bà con ta gọi
là gió "Lào") nên nói nh một câu ca dân gian Quảng Trị "tháng ba, tháng bốn,
tháng khốn, tháng nạn ". Bốn năm liền 92 - 95 cứ vào tháng 7 - 8 tôi vô công
tác Quảng Trị - Quảng Bình và hởng trọn 30/30 ngày nắng gió Tây ngoài cồn
cát nóng khô. Càng nóng, càng ăn cay, và đấy là một bản sắc văn hóa ăn Chăm
pa - Trung Bộ (Hoàng phủ Ngọc Tờng đã tìm cách giải thích hiện tợng này).
Ngời Chăm sống trên giải đất miền Trung, giữa một bên là dãy Trờng
Sơn cao vút, bên kia là biển Đông sâu thẵm. Sự đối chọi đó của thiên nhiên đã
tạo ra những sản vật đặc biệt (nh Trầm, hơng, vàng ) nh ng đồng thời sự thiếu
hài hòa đó của tự nhiên cũng tạo nên một miền khí hậu khắc nghiệt, bao nhiêu
nớc ma rơi xuống núi đều trôi tuột ra biển cả, khiến cho đất đai miền Trung trở

nên hết sức khô cằn. Sống trong khung cảnh đó, con ngời phải một mặt vật lộn
với thiên nhiên và mặt khác, giành giật với các láng giềng xung quanh. Và có lẽ
chính đây là lý do để tạo nên nét khu biệt của ngời Chăm với những cộng đồng
c dân khác trên đất nớc Việt Nam.
1.2.2. Hiểu thêm về nền nông nghiệp Chăm pa
Những hình ảnh phổ biến nhất về lịch sử sinh thái và kinh tế Chăm pa có
thể hình dung ra nh sau: Thiếu những đồng bằng rộng lớn do vậy thiếu luôn cả
một nền nông nghiệp phát triển, là một cờng quốc biển yếu tồn tại chủ yếu nhờ
vào việc bán ra những mặt hàng lâm sản nhng với số lợng không lớn và ít hiệu
quả. Tuy vậy những cố gắng khá mạnh mẽ nhằm kiểm soát những con đờng
buôn bán cùng những điều kiện kinh tế và sinh thái của mình đã cho phép Chăm
pa trở nên hùng mạnh sau thế kỷ 13 hoặc 14.
"Chăm pa có thể đã có vai trò lớn trong các hệ thống buôn bán ở biển
Nam Trung Quốc khi đề cập tới việc lịch sử sinh thái của Chăm pa mà giờ là
miền Trung Việt Nam cần phải đợc nghiên cứu trong hệ thống "những vùng
khô" [từ điển Chàm - Việt- Pháp. Trung tâm văn hoá Chăm, Phan Rang, 1971]
Theo chính sử nhà Tấn (265 - 420), Lâm ấp đã tấn công Nhật Nam
(vùng Bình - Trị - Thiên hiện nay) thuộc quyền cai trị của Trung Quốc vào năm
347, vì vị quan cai quản Nhật Nam ngời Trung Quốc khi đó quá tham lam và:
"Vì Lâm ấp thiếu ruộng lúa nớc và thèm muốn đất Nhật Nam" [Jingshu (Tấn
Th), Vol 97. P2546, Liangshu (Lơng Th) Vol, 54 P.784] .
Đoạn miêu tả về Chiêm Thành trong Lingwai Daida, tập sách ghi chép về
tỉnh Quảng Tây và các nớc ở Nam Hải biên soạn năm 11781, có nói "Tất cả đất
đai đều là cát trắng, đất trồng trọt đợc thì rất hiếm". Trong số các đồng bằng
thuộc duyên hải miền Trung, chỉ có đồng bằng Thanh - Nghệ - Tĩnh là tơng đối
lớn, còn các đồng bằng khác nhỏ hẹp, do phù sa bồi lấp các vùng biển cũ. Đất
phần lớn là đất cát pha, thuận lợi cho việc phát triển các cây công nghiệp hàng
năm (lạc, mía, thuốc lá ) nh ng không thật thuận lợi cho cây lúa.
Mặc dầu cũng nh nhiều vùng khác trên đất nớc Việt Nam là cùng nằm
trong vùng khí hậu á Châu gió mùa, nhng một số đặc điểm của địa thế đã khiến

cho khu vực Nam Trung Bộ, đặc biệt là vùng Ninh Thuận - Bình Thuận trở
thành vùng khô hạn nhất nớc ta. Lợng ma trung bình hàng năm ở Phan Rang rất
thấp (695m/m) và chỉ trong 52 ngày. ở Phan Rí là 770m/m trong 70 ngày.
Trong những tháng mùa ma vũ lợng hàng tháng chỉ khoảng 100m/m (vũ lợng
tối đa ở tháng 5 và tháng 10).
Sông ngắn, dốc, lợng ma thấp, đất đai khô cằn không đủ tạo lên những
đồng bằng phì nhiêu, rộng lớn nh đồng bằng sông Hồng hay sông Cửu Long.
Nh vậy chỉ có những vùng đất hẹp bên trong dân c đông đúc thuận lợi cho sản
xuất nông nghiệp (vùng đất ấy không chỉ là những đồng bằng mà còn là cao
nguyên và thung lũng sông nh hai huyện Tây Sơn và An Khê ở phía Tây Bình
Định, nh các huyện Krông Pa và Ayunpa ở phía Tây tỉnh Phú Yên) đủ để đáp
ứng cơ bản về nhân lực và vật lực cho bộ máy của thể chế địa phơng. Suốt dải
đất miền Trung còn để lại nhiều dấu tích của những công trình trị thuỷ mang lại
màu xanh cho cây cối nh các hệ thống dẫn nớc hình kỷ hả, các đập nớc, hồ n-
ớc Ng ời Chăm đã thuần dỡng đợc giống lúa không cần nhiều nớc đợc gọi là
"lúa Chiêm" (Chiêm Thành) là những giống lúa nhanh chín, có thể chịu đợc cả
khô hạn và ngập nớc, vì vậy mà thích hợp với những điều kiện thủy lợi không
thuận.
Ta có thể thấy rằng nông nghiệp của Chăm pa không phải là thế mạnh
của Vơng quốc này - nếu nh không muốn nói là rất kém phát triển.
Sự khắc nghiệt của thiên nhiên, diện tích trồng trọt và trữ lợng thấp là
những lý do để vơng quốc Chămpa bị cản trở trong việc phát triển một nền nông
nghiệp mạnh và toàn diện. Hơn bao giờ hết con ngời cần phải thích nghi với
môi trờng và vợt lên trên hoàn cảnh, đơng đầu và chiến thắng. Những c dân
Chămpa đã làm đợc điều đó, khi họ đã khẳng định và tìm cho mình chỗ đứng
trên chính mảnh đất gian nan này.
1.2.3. Ưu thế lâm, ng, thơng nghiệp của Vơng quốc Chămpa
Chămpa luôn nổi tiếng là xứ sở của trầm hơng. Trầm hơng của Nhật Nam
đã đợc ngời Trung Quốc biết đến rất sớm từ khoảng thế kỷ 3 sau công nguyên
và luôn đợc ghi chép là cống vật của Chămpa.

Theo lời nhà sử học Ba T là Ibn Abei Yak Kuh viết vào khoảng năm 875
- 880 thì trầm hơng Chăm pa đợc đánh giá là tốt nhất thế giới.
Sách Thuỷ Kinh Chú cho biết ngời ta phải mua gỗ trầm của Chămpa:
"Bằng lợng vàng nặng tơng đơng".
Còn trữ lợng vàng của Chămpa thì lớn đến mức trở thành huyền thoại.
Cái gì đã cuốn hút ngời ấn Độ vợt biển đến Đông Nam á ngày càng nhiều vào
những thế kỷ đầu công nguyên?
Có hai động lực chủ yếu: Thứ nhất là nguồn hơng liệu phong phú với gỗ
trầm hơng, kỳ nam, các loại dầu thơm, long não, cánh kiến trắng và thứ hai là
nguồn vàng - nhất là khi ấn Độ mất nguồn mua vàng từ Xibêri và Trung á. Một
loạt địa danh Đông Nam á đợc ghi lại bằng chữ Phạn với những đặc sản điển
hình của địa phơng nh: Xứ Vàng (Suvarna - dvipa) Thành Phố Vàng
(Karakapuri), Đảo Long Não (Karguradvipa), Đảo Dừa (Narikeladvipa).
Sách Lơng Th của Trung Quốc ghi rằng: "nớc đó có núi vàng, đá đều
màu đỏ, trong đó sinh ra vàng. Vàng ban đêm bay ra giống nh đom đóm" [Ngô
Văn Doanh 1994. 13].
Tuy nhiên, không phải tất cả những mặt hàng xuất đi của Chămpa đều là
lâm sản và khoáng vật. Vào đầu thế kỷ 17, Zhang Xie, dựa vào những nguồn tài
liệu Trung Quốc trớc đó đã làm một bảng danh sách những sản phẩm của
Chămpa nh sau: "Vàng, bạc, thiếc, sắt, ngọc "bao mu", ngọc trai "cheng -
Shuichu" ngọc trai lửa, hổ phách, pha lê, ốc tiền?, các loại đá "pusashi" sừng tê,
ngà voi, mai rùa, trầm hơng, gỗ đàn hơng, long não, xạ hơng, đinh hơng, hồng
thuỷ, dầu lửa, bông, vải "Zhaoxia", vải có vẻ màu, vải bông trắng, chiếu lá cọ,
sáp ong vàng, lu huỳnh, gỗ vang, gỗ mun, tre, gạo, tổ yến, hạt tiêu, cau, dừa,
mít, cây "Haiwuzi" cây anit, ớt lựu nhục đậu khấu, tê giác, s tử, voi, vợn, khỉ
trắng, voi trắng, chim "chiji", vẹt, chim "Shanji", chim "guifei", rùa [(Nguồn:
Zbang Xie, Dongxi, Yankao - Bản dịch tiếng Anh của Komai Yoshiaki - trờng
Đại học KyoTo, 1967, tr 121-5, có thể tham khảo Zonghua Shuju, Peking,
1981, tr 26 - 20]. Trong danh mục đã nêu ở trên, chiếm hầu hết là các mặt hàng
lâm thổ sản. Có lẽ đây cũng chính là sự đền bù thoả đáng của tự nhiên cho sự

khắc nghiệt của mảnh đất nơi đây. Để cho ngời Chăm có thể tự hào mà rằng
"Đây là xử sở giàu có sản vật quý hiếm bậc nhất" trong vùng.
Một trong những ghi chép về hải thuyền lớn của Zhenghe vào đầu thế kỷ
15 có ghi"nhiều ngời làm nghề chài lới, ít ngời làm nghề gieo trồng, bởi vậy
thóc gạo không nhiều" [Ma Huan, Yingya Shenglan (Taipai, 1970) tr 4].
Để lý giải điều trên không phải là một điều khó. Bởi từ trứoc đến nay
Chămpa vẫn đợc coi là một Vơng quốc biển. Có thể thấy một điều rằng biển
miền Trung lắm tôm, cá và các hải sản khác. Tỉnh nào cũng có bãi tôm, bãi cá,
nhng các bãi tôm, bãi cá lớn nhất là ở biển cực Nam Trung Bộ. Hiện nay, chỉ
tính riêng các tỉnh thuộc cực Nam Trung Bộ sản lợng thủy sản hàng năm là 120
- 150 nghìn tấn (trong đó có nhiều loại cá quý nh cá thu, cá ngừ, cá trích, cá
nục, cá hồng tôm hùm, tôm he, mực). N ớc mắm Phan Thiết ngon nổi tiếng
cũng là sản phẩm của Nam Trung Bộ.
Có thể nói, ngay từ rất sớm ý thức đợc nguồn lợi này, ngời Chăm đã vơn
ra chiếm lĩnh biển khơi với nghề đánh cá.
Đợc thiên nhiên phú cho 1000 km bờ biển giàu có về các loại cá, lại có
nhiều vũng và vịnh tốt mà từ ngàn năm trớc công nguyên ngời Nam Đảo đã biết
giong buồm tìm đến. Chăm pa còn đợc xem nh một cái "chợ tự nhiên" vì những
sản vật quý hiếm trong rừng nội địa, nh trầm hơng và các loại hơng liệu, dợc
liệu hay của biển nh ngọc trai, mai rùa Những sản phẩm đó từng là nỗi
đam mê của cả ngời ấn Độ và Trung Hoa Đặc biệt, cái "chợ tự nhiên" này lại
nằm giữa tuyến đờng biển nối Trung Hoa và ấn Độ, chiếm vị trí quan trọng
nhất trên tuyến đờng biển Nam Trung Hoa. Có lẽ chính vì vậy mà nơi đây sớm
là nơi thu hút những tàu bè gần xa cập bến. Đối với vơng quốc cổ này, biển là
điều kiện đầu tiên mở ra con đờng giao lu với các nớc trong và ngoài khu vực.
Bờ biển miền Trung dài khúc khuỷa, nhiều vũng vịnh rất thuận lợi cho
việc mở những hải cảng ven biển cho tàu bè neo đậu, trao đổi, buôn bán hàng
hóa. Ngay từ rất sớm ở phù Nam đã xuất hiện một cảng thị đó là óC Eo. ở đây
ghi nhận quá trình tiếp xúc khá sớm giữa nhà nớc phù Nam với các nớc khác.
Trong các hiện vật đào đợc ở óc Eo có các hiện vật của các vơng triều ấn Độ,

Trung á, Đông Hán và Bắc Nguỵ Ng ời ấn Độ mang đến đây kỹ thuật làm
thuyền đi biển phát triển ngành thơng nghiệp và cả kỹ thuật nông nghiệp khô
với chiếc cày do bò kéo mà ngày nay ngời Châu Ro vẫn còn bảo lu với cái tên
Lơngal.
Cùng với sự lớn mạnh của Vơng quốc Chăm pa, ngày càng có nhiều các
thị cảng ra đời dọc bờ biển Nam Trung Bộ đánh dấu sự phát triển và vai trò của
Chămpa trong hệ thống buôn bán ở biển Nam Trung Quốc. Nhiều mối quan hệ
với nhiều màu sắc khác nhau đã từng đến và đi trên vùng biển này. Quan hệ
kinh tế theo những tuyến đờng thơng mại, quan hệ chính trị bang giao ngợc
xuôi với những đoàn triều cống, rồi chiến tranh và xung đột quân sự Đi theo
sau tất cả những quan hệ đó, nhng lại có sức lan toả mạnh mẽ hơn, rộng hơn,
nhanh hơn là giao lu văn hóa và tơng tác văn hóa khu vực. Có thể thấy dấu ấn
của sự giao lu này còn để lại một cách sâu sắc trong nền nghệ thuật của Vơng
quốc cổ Chăm pa. Trong bối cảnh giao lu văn hóa đầu thế kỷ đầu công nguyên,
Chămpa đã tiếp nhận tự nhiên và hoà bình nền văn hóa ấn Độ. Sản phẩm của sự
giao lu, tiếp xúc này đã tìm đợc cho mình chỗ đứng trong lòng xứ sở Chăm, đợc
các thế hệ Chăm trân trọng và giữ gìn cho đến ngày nay.
1.2.4. C dân Chămpa
Về mặt chủng tộc, ngời Chăm (cùng với một số dân tộc Tây Nguyên)
thuộc nhóm ngữ hệ Nam Đảo, là một bộ phận của nhóm loại hình Inđônêxia.
Ngời Inđônêxia c trú trên toàn bộ địa bàn Đông Nam á cổ đại. Đó là một vùng
rộng lớn, phía Bắc tới sông Dơng Tử, phía Đông tới vùng quần đảo Philipin,
phía Nam tới hải đảo Inđônêxia và phía Tây tới bang Assam của ấn Độ. Chính
vì vậy có ngời còn cho rằng về mặt chủng tộc, ngời Chăm có lẽ vốn là "những
ngời thuộc dòng dõi quý tộc của ấn Độ, bị thất thế ở chính quốc nên phiêu bạt
giang hồ đi tìm đất nớc để dung thân [Lê văn siêu 1972: 335 ]
ấn Độ từ xa xa là một trong những trung tấm lớn nhất của thế giới, sánh
vai với La Mã, Trung Quốc, nhng khác với La Mã và Trung Quốc, ấn Độ không
xâm lấn ai, không mở rộng lãnh thổ. Trong những hớng ra đi chính ngời ấn Độ
chọn hớng gió mùa, ngả về phơng Đông. Gió mùa dẫn dắt họ đi. Miền Bắc ấn

có một quá trình phát triển lâu dài và đầy biến động nên có thể có nhóm đi ra
ngoài từ sớm tìm đất mới làm ăn sinh sống ( Chămpa, kanboja, kalinga )
Giữa thiên nhiên và con ngời Chămpa và ấn Độ nếu đi sâu vào tìm hiểu
ta thấy dờng nh ít nhiều có sự tơng đồng ứng đối. Nếu nh ấn Độ có nhiều núi
cao rừng già bí hiểm có bờ biển dài, có Sa mạc nóng cháy. Thì Chămpa thì
cũng có Trờng Sơn cao vút, biển Đông sâu thẳm đèo cao hiểm trở.
Sống trong khung cảnh đó , con ngời phải một mặt vật lộn với thiên nhiên
và mặt khác phải giành giật với các láng giềng xung quanh. Trong quá trình tồn
tại của Vơng Quốc mình, ngời Chăm cũng từng nhiều lần cớp bóc các buôn, sóc
K'mer ở phía nam đánh lên vùng Tây nguyên của ngời Thợng và vùng vẫy tiến
ra Bắc, lấn chiếm vùng đất phía Nam Đèo Ngang của Giao Châu ( sau này là
Đại Việt ) điều này đã đợc lu lại ở bia ký Chăm đợc ghi nhận trong nhiều sách
sử nh sử nhà Tấn, Thuỷ Kinh Chú, Đại Việt Sử Ký toàn th Thế nh ng việc
chinh phạt ít nhiều là cần thiết cho tất cả các thủ lĩnh các "Mandala " Đông
Nam á, kể cả của K'mer và Đại Việt thời kỳ đầu, để nhằm chứng tỏ uy lực của
mình, nhằm phân chia lại các thành viên liên minh và nhằm kiểm soát các con
đờng buôn bán.
Chính cuộc sống nh vậy đã rèn luyện cho con ngời Chăm trong lịch sử
một tính cách cứng rắn và cơng nghị, thợng võ. Đó cũng chính là một phần nét
riêng tạo nên phong cách đất nớc và con ngời Chămpa
Chơng 2
Văn hoá ấn độ và dân tộc chăm
2.1. Những con đờng đa văn hoá ấn độ đến với xứ sở Chăm pa
Tấm bia ký của vua Chămpa tên là PrakasadharmaVikrantavácman I (nửa
đầu thế kỷ VII ) tìm thấy ở Mỹ Sơn ( tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng ) có ghi lại
huyền thoại về một ngời ấn Độ tên là Kaurdinya đến lập quốc tại Chămpa.
Huyền thoại kể rằng, Kaurdinya, " một ngời Bàlamôn vĩ đại" nhận đợc cây giáo
do ácvathanan, con trai của Đrona tặng.. Ngài phóng cây giáo xuống đất chỉ
nơi ngài xây đế đô lơng lai. Ngài lấy nữ chúa của đất nớc đó và sáng lập ra một
vơng triều. Nữ chúa tên là Sôma và là con gái của vua Rắn Naga. Rồi thì các

vua chúa Chămpa thuộc vơng triều Indra pra ( giữa thế kỷIX - cuối thế kỷ X)
coi mình là hậu duệ của Bhrigu - một nhà vật trong sử thi Mahabharata của ấn
Độ , tổ tiên của dòng họ Bhagava. Tất nhiên hai tài liệu trên mang tính huyền
thoại nhiều hơn lịch sử thế nhng một điều chắc chắn là vơng quốc Chămpa với
cái tên Lâm ấp đã đi vào lịch sử cuối thế kỷ thứ 2 sau công nguyên. Mà Chăm
pa - một trong những vơng quốc cổ đại ra đời sớm nhất ở Đông Nam á lại là
quốc gia ngay từ đầu đã chịu ảnh hởng của văn hoá ấn Độ.
Do nằm ở một vị trí địa lý thuận lợi bên bờ biển Đông, do có những
nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú mà ấn Độ thời cổ cần, nên ngay từ
những thế kỷ đầu trớc công nguyên, những thơng nhân ấn trên đờng đi tìm h-
ơng liệu và vàng đã đặt chân lên vùng đất ven biển miền Trung Việt Nam mà
sau này nơi đó trở thành Vơng Quốc Chămpa.
Những thơng nhân ấn Độ đầu tiên đó đã có những tiếp xúc buôn bán với
thổ dân nơi đây và lập ra những thơng điếm ở đây, chủ yếu là những hải cảng
ven biển mặc dầu cho đến nay vẫn cha phát hiện ra những bằng cớ vật chất về
những thơng điếm đầu tiên của ngời ấn ở Chămpa, nhng có thể giả định rằng
những của biển thuận lợi cho thuyền bè cập bến để buôn bán hay tạm dừng
chân mà sau này trở thành các cảng lớn của Chămpa; nh Chiêm Cảng ( gần Hội
An ) Châu Sa ( tỉnh Quảng Ngãi ) Thi Nại ( gần Quy Nhơn ) Nha Trang ( tên xa
là Kau thana ), Panđuranga ( nay là Phan Rang ) đã là những địa điểm lý t ởng
cho ngời ấn mở những thơng điếm của mình. Không phải ngẫu nhiên mà tên
đất nớc của ngời Chăm - Chămpa, tên những vùng đất của Vơng Quốc Chămpa
nh Amaravati, Panđuranga đều là những tên một vùng nào đó ở ấn Độ.
Ngoài những tài liệu bia ký và sử liệu trên đất nớc của Vơng Quốc
Chămpa còn tìm thấy những hiện vật , vật chất cụ thể cho chúng ta biết đến thế
kỷ V - VI, Chămpa là một trong những quốc gia cổ nhất ở Đông Nam á tiếp
nhận nhiều ảnh hởng của ấn Độ, hay nói nh một số nhà nghiên cứu là quốc gia
" ấn Độ hoá " thế mà, cho đến nay, hầu nh không có một t liệu nào mà chúng ta
đợc biết nói về quá trình thu nhập những ảnh hởng của ấn Độ vào lãnh thổ
Chămpa cổ. Vì vậy, để tìm những nguyên nhân và những điều kiện khiến

Chămpa sớm trở thành quốc gia "ấn Độ hoá" , các nhà khoa học đã phải sử
dụng những phơng pháp phân tích và suy diễn gián tiếp khác nhau, những ph-
ơng pháp đó là: phân tích vị trí địa lý cũng nh những điều kiện khách quan và
chủ quan khiến ấn Độ và Chămpa cũng nh các khu vực ở Đông Nam á sớm có
những mối quan hệ sâu sắc về lịch sử và văn hóa.
Vùng bán đảo Đông Dơng và Nam Dơng quần đảo, với những đặc thù
về khí hậu về ( nhiệt đới gío mùa ) địa lý ( đặc biệt là vai trò của biển ) từ xa
xa đã trở thành cầu nối hay ngã t đờng của những nền văn hoá lớn trên thế giới.
Hơn thế nữa, trớc khi chịu tác động của những ảnh hởng ấn Độ cả Đông Nam
á , đã là một khu vực văn hoá ( văn hoá Nam á ) phát triển và khu biệt với
những đặc thù chính: 1) Trồng lúa nớc 2) Thần dỡng trâu bò 3) Sử dụng công cụ
thô sơ bằng kim loại 4) Thành thạo trong nghề đi biển 5) Vị trí của phụ nữ đợc
đề cao 6) Tín ngỡng vật linh giáo, tục thờ cúng tổ tiên và thổ thần, 7) Thiết nhị
nguyên về vũ trụ, 8) Việc sử dụng những ngôn ngữ có đơn tố có khă năng phát
sinh phong phú bằng tiền tố, hậu tố và trung tố Nh vậy khi tới Đông Nam á
ngời ấn Độ đẫ đối diện không phải với những ngời mông muội mà là những xã
hội có tổ chức, có một nền văn minh đã khá phát triển có nhiều nét giống nh
với văn hoá của mình. Ngợc lại ngày từ thời tiền sử nhất là từ thời đại kim khí,
với tính chất đại cơng của địa hình và với sự phát triển khá cao của nghề đi
biển, ngời Đông Nam á đã truyền văn minh của mình về phía Tây tới tận
Madagaska, về phía Bắc tới tận Nhật Bản về phía Đông tới tận vùng đảo Thái
Bình Dơng.
Tuy cha có những tài liệu cụ thể, nhng rất có khả năng từ thời tiền sử, ấn
Độ và Đông Nam á đã có những quan hệ với nhau. Có thể kể ra đây là một vài
dẫn chứng: trong văn hoá Đông Sơn ở Bắc Việt Nam và văn hoá Sa Huỳnh ở
miền Trung Việt Nam đã có những đồ trang sức bằng thuỷ tinh hay mã não và
những hạt chuỗi vẽ màu có nguồn gốc ấn Độ. Còn nhà khoa học ấn Độ ông
MananohanGhosh cho rằng chuyện Âu Cơ đẻ trăm trứng của ngời Việt rất
giống với câu chuyện về cục thịt của Gàdhari sinh ra 100 ngời con trai của ấn
Độ trong sử thi Mahabharata Thế nh ng nếu nh không có một sức ép nào đó

khiến cho ngời ấn ào ạt đến Đông Nam á vào những thế kỷ đầu trớc và sau
công nguyên thì những quan hệ qua lại vừa nêu trên không thể khiến Đông
Nam á trở thành một khu vực" ấn Độ hoá " nh đã có trong lịch sử chính những
tài liệu ấn Độ đã cho chúng ta biết về những sức ép đó.
Trong cuốn sách Anthasastra (khảo cứu về tổ chức chính trị và hành
chính ) của Kaudilya, vị thợng th của vua Chardragupta ( cuối thế kỷ IV đầu thế
kỷ III trớc công nguyên ) có đoạn khuyên nhà Vua chiếm đoạt đất đai của các
Vơng Quốc khác hoặc di dân quá đông của mình tới đó. Các tập jatata ( bổn
sinh kinh ) của Phật giáo, sử thi Ramayana và đặc biệt cuốn Niddơsa có ghi lại
những lời tờng thuật của những ngời đi biển ấn Độ, có nhắc tới các địa danh
nh Giava, Suma tra, Xuvanabhumi ( Xứ vàng ) ở Đông Nam á. Vậy nguyên
nhân nào đã khiến ngời ấn Độ vợt biển tới các vùng Đông Nam á các nguyên
nhân thì có nhiều nhng các nhà khoa học đều thống nhất cho rằng yếu tố thơng
mại là nguyên nhân chủ yếu khiến ngời ấn Độ vào những thế kỷ đầu công
nguyên, đã tìm đờng vợt biển tới Đông Nam á sức hút của các nguồn hơng liệu,
của vàng và nhiều lâm thổ sản quý hiếm đã là điểm nhấn cho sự tìm đến của các
thơng nhân ấn Độ. Hơn nữa Chămpa xa là nơi có nhiều hải cảng mang tính
quốc tế quan trọng. Theo sử liệu Trung Quốc ( Tân đờng th, Địa lý chí ) vào
những thế kỷ VII- X trên con đờng biển từ Quảng Châu ( Trung Quốc ) Bagdad.
( ả Rập ) thuyền bè Trung Quốc, Ba T, ả Rập, Srivijaya bao giờ cũng ghé
qua Chiêm Bất Lao (cù lao chàm) Lăng Sơn Môn Độc ( Quy Nhơn ), Cổ Đát
quốc ( Kauthara - tức Nha Trang hiện nay ) Bôn Là Lăng Châu ( Panduranga -
Phan Rang và Phan Thiết hiện nay )
Các nhà khoa học đã hình dung ra quá trình hình thành các " thuộc địa "
của những lái buôn tìm vàng ấn Độ ở Đông Nam á bằng cách dựa trên những
dự kiện đã diễn ra ở nơi khác và trong những thời gian khác nhau. Trong những
hoàn cảnh tơng tự ví dụ G. Ferăng đã hình dung về ảnh hởng của ấn Độ ở Giava
nh sau:
" Hai hoặc ba tàu biển ấn Độ cùng nhau vợt biển và tiến dần tới Giava.
Những ngời mới đến liền giao thiệp với các thủ lĩnh địa phơng và tranh thủ đợc

cảm tình của họ bằng cách biếu tặng phẩm chăm sóc ngời bệnh, phân phát bùa
hộ mệnh Đi vào đất mới ng ời ấn Độ không có phiên dịch do đó họ phải học
tiếng bản xứ. Về sau, họ kết hôn với con gái các thủ lĩnh địa phơng và từ đấy,
ảnh hởng của họ trong lĩnh vực văn hoá và tôn giáo mới có cơ phát triển. Ngời
vợ bản xứ đã đợc họ huấn luyện, trở thành ngời tuyên truyền t tởng và tín ngỡng
mới đắc lực nhất Để phổ biến những điều mới ấy, ng ời Giava phải dùng thuật
ngữ ấn " chắc hẳn, ngời ấn đã tới Chămpa nh đã tới Giava.
Sau những thơng nhân thậm chí là cùng với thơng nhân tới Đông Nam á
là những trí thức ngời ấn ( các tu sĩ Bàlamôn giáo, các nhà s Phật giáo) và nếu
không thì khó có thể hiểu đợc về sự phát sinh ở Đông Nam á những nền văn
minh thấm nhuần sâu sắc những ảnh hởng của ấn Độ nh văn minh của ngời
Khơme của ngời Giava và của ngời Chămpa. Theo G.xơdes việc thết lập những
vơng quốc thành nhà nớc có tổ chức ở Đông Nam á của ngời ấn có thể diễn ra
theo hai cách: hoặc một ngời ấn buộc c dân bản địa, trong đó có ít hoặc nhiều
ngời ấn làm hạt nhân phải thừa nhận mình là thủ lĩnh, hoặc một thủ lĩnh địa
phơng hấp thụ nền văn minh ấn Độ cả hai trờng hợp trên chắc là đã diễn ra. Nh-
ng dù một triều đại có nguồn gốc ấn Độ nh xảy ra đối với trờng hợp đầu, thì sự
thuần nhất cũng không lâu bền, vì ngời ấn Độ phải kết hôn với ngời địa phơng.
Nhiều truyền thuyết của các nớc Đông Nam á thời cổ nh Phù Nam, Chân Lạp,
Chămpa đã phần nào nói tới việc thiết lập các quốc gia " ấn Độ hoá" ở vùng
này.
ảnh hởng của nền văn minh ấn Độ tới Đông Nam á , chủ yếu là sự
bành trớng của một nền văn hoá có tổ chức dựa trên quan điểm ấn Độ về vơng
quyền mà tiêu biểu là ấn Độ giáo hoặc Phật giáo, văn học nghệ thuật và lấy
tiếng Phạn làm phơng tiện biểu đạt ngời ấn không hề tiến hành ở Đông Nam á
một cuộc xâm lăng vũ trang nào và không hề thôn tính tên tuổi một quốc gia
hoặc một đô thị nào. Các vơng quốc " ấn Độ hoá " chỉ có những quan hệ về mặt
truyền thống với các triều vua ấn Độ, mà không lệ thuộc về chính trị. Điều này
khác hẳn sự bành trớng bằng bạo lực, bằng chinh phục của ngời Trung Hoa vì
thế những nớc ấn Độ " chinh phục" đợc một cách hoà bình và bằng những ảnh

hởng văn hoá vẫn duy trì đựoc bản chất của mình và phát huy nó lên.
Tất nhiên, vai trò những ngời ấn là rất lớn trong việc du nhập và truyền
bá văn hoá ấn Độ vào các nớc Đông Nam á . Nhng, những ngời gốc Đông
Nam á, sau khi sang ấn Độ về, cũng đã có một vai trò nhất định trong công
việc truyền bá các phong tục và tôn giáo của ấn Độ và đất nớc mình
Lịch sử của các Quốc gia ở Đông Nam á đã cung cấp nhiều trờng hợp
nh vậy. Một bia ký Chămpa thế kỷ VII đã nói đến một vị có danh hiệu là
Gangraja ( trị vào thế kỷ thứ V ) " nổi tiếng về đức tài, thông thái, anh dũng đã
thoái vị và từ giã đất nớc để đi đến sông Hằng."
Do thâm nhập chủ yếu qua văn hoá mà lại bằng những phơng thức hoà
bình ,nên những ảnh hởng của ấn Độ đã để lại những dấu ấn thật sâu sắc đối
với vơng quốc Chămpa cũng nh đối với các quốc gia cổ đại khác ở Đông Nam
á. Thế nhng, những ảnh của ấn Độ cha bao giờ xoá bỏ những truyền thống văn
hoá tốt đẹp vốn có của những c dân bản địa đã tạo điều kiện cho những ảnh h-
ởng ấn Độ phát triển phù hợp trên mảnh đất mà chúng bén rễ.
Nh vậy, cho đến thế kỷ V - VI, những hạt giống của nền văn minh ấn
Độ, đã đợc gieo trồng và bắt đầu đâm chồi nảy lộc trên mảnh đất Chămpa. Bắt
đầu từ thế kỷ VII cho đến tận cuối thế kỷ XV - khi Chămpa chấm dứt sự tồn tại
của mình nh một quốc gia; những tài liệu văn bia, những hiện vật chất hiện còn
đã cho phép chúng ta biết đợc về cả một chặng đờng dài nhiều thế kỷ mà ngời
Chămpa đã lựa chọn và phát triển những truyền thống văn minh ấn Độ vào nền
văn hoá của mình ra sao. Có thể nói, ảnh hởng của ấn Độ đã là yếu tố vô cùng
quan trọng để tạo nên nền văn hoá cổ đại Chămpa cũng nh những nền văn hoá
rực rỡ khác ở Đông Nam á nh Ăngco, Pagan, Srivitgaja. Các nhà nghiên cứu
đã có lý khi cho rằng, các nớc Đông Nam á ( Trong đó có Chămpa ) chỉ đi vào
lịch sử trong chừng mực chịu ảnh hởng của nền văn minh ấn Độ, và nếu không
có ấn Độ thì chúng ta sẽ biết rất ít về quá khứ của những Quốc gia ở đây,
không hơn gì quá khứ của Tân Ghinê hoặc ôxtrâylia Thế nhng, cũng theo nhận
định của các nhà nghiên cứu và thực tế cũng đã chứng minh. Nếu nhờ ảnh hởng
của nền văn minh ấn Độ mà Chămpa cũng nh các nớc khác ở Đông Nam á có

một quá khứ lịch sử văn hoá huy hoàng, thì chính Chămpa và các nớc ở khu
vực Đông Nam á, đã" trả ơn " một cách xứng đáng cho ấn Độ. Thứ nhất lịch
sử quá khứ của Đông Nam á đã giúp ngời ấn Độ rõ hơn giá trị ít nhiều mang
tính" khai hoá " của chính nền văn minh của họ. Thứ hai, chính Đông Nam á (
trong đó có Chămpa) đã cung cấp những tài liệu vô giá để hiểu ấn Độ hơn vì ở
Đông Nam á còn giữ lại đợc nhiều truyền thuyết cổ mà từ lâu đã biến mất khi
ấn Độ. Do đó mà trong khoa học nghiên cứu về ấn Độ đã hình thành hớng
nghiên cứu ấn Độ " từ Phía Đông", sau hết, ai cũng thấy một điều nh S.Lêvi đã
nhận xét " ấn Độ chỉ sáng tạo ra những kiệt tác tiêu biểu nhất nhờ ở tác động từ
bên ngoài hoặc trên nớc ngời " Ăngco, Bôrobudu,Pagan, các đền tháp và điêu
khắc Chămpa là những tác phẩm kỳ diệu của văn minh ấn Độ, nhng lại
không ở ấn Độ.
Đúng là vai trò của ấn Độ với lịch sử quá khứ của Chămpa cũng nh các
nớc khác ở Đông Nam á thật quan trọng và lớn lao. Nhng, ngời Chămpa nói
riêng và ngời Đông Nam á nói chung đã tiếp nhận một cách chọn lọc và sáng
tạo những ảnh hởng của ấn Độ để tạo nên nền văn hoá cổ mang đậm sắc thái
riêng của chính mình chứ không sao chép từ nguyên mẫu một cách thụ động.
Do có u thế của một nền văn minh lớn cũng nh u thế sớm hình thành
truyền thống đúc kết và ghi chép những thành tựu chính trị, văn học, nghệ
thuật, tôn giáo, phong tục của mình thành văn bản, nền văn hoá ấn Độ thời
cổ, thông qua sự truyền bá của các nhà buôn, các s tăng, tu sĩ đã dễ dàng
thâm nhập và bén rễ vào những c dân bản xứ của vơng quốc Chămpa sau này.
Vì mục đích chủ yếu và gần nh là duy nhất của ngời ấn đến Chămpa
cũng nh các vùng đất khác ở Đông Nam á là buôn bán và thiết lập những cơ sở
làm ăn lâu dài, nên những thơng nhân, thậm chí cả những tu sĩ, s tăng đều phải
tìm cách bám trụ lại những vùng đất mới. Do không phải là những ngời lính đi
xâm lợc, đi chiếm đất, nên cách duy nhất của những ấn ở Chămpa là thâm
nhập, là hoà vào với những ngời bản xứ. Và, cách hay nhất, dễ nhất để làm việc
đó là lấy vợ ngời bản xứ, là thông qua ngời bản xứ để truyền bá nền văn hoá của
chính mình. Chính bằng con đờng thâm nhập hoà bình và từ đó chính bằng cách

thâm nhập qua văn hoá đó mà văn minh ấn Độ dễ đợc những ngời dân Chămpa
chấp nhận và chấp nhận khá nhanh và triệt để..
Ngời ấn Độ đến với các thổ dân Chămpa cũng nh các thổ dân khác trong
khu vực Đông Nam á không phải nh những ngời văn minh đến với những ngời
mông muội, hoặc nh những ngời quá xa lạ đến với nhau nh kiểu ngời Âu đến
Phi Châu và á châu ở thời cận - hiện đại.
Khi những ngời ấn đầu tiên tới Chămpa, ngời dân ở đây không còn là
những ngời nguyên thuỷ nữa mà đã là những c dân của nền văn hoá phát triển
không thua kém gì nhiều dân tộc ở ấn Độ. Mặc dầu cha có đầy đủ cứ liệu để
chứng minh ngời Sa Huỳnh là tiền thân của ngời Chămpa, nhng chắc chắn chủ
nhân của nền văn hoá Sa Huỳnh - một nền văn hoá kim khí phát triển cao ở
Đông Nam á - phải là một bộ phận c dân quan trọng của vơng quốc Chămpa
sau này. Về nhiều mặt, c dân Chămpa không thua gì ngời ấn cả, có thua chăng
là thua cách tổ chức một xã hội ở mức cao hơn - mức quốc gia, vì khi ngời ấn
tới c dân Chămpa đang còn ở giai đoạn tiền nhà nớc, có thua chăng là thua ở
một t tởng , một tôn giáo với đầy đủ hệ thống giáo lý chặt chẽ và hấp dẫn và có
thua chăng là thua một hệ thống văn tự và văn bản hoàn chỉnh, tiện lợi. Hơn thế
nữa, văn hoá truyền thống của các c dân Chămpa có nhiều tơng đồng và gần gũi
với văn hoá của các dân tộc ấn Độ, vì thổ dân Chămpa cũng nh nớc Đông Nam
á, nói chung, về mặt nhân chủng học rất gần với nhiều dân tộc ấn Độ. Điều
này giúp ta phần nào hiểu đợc vì sao ngời dân Chămpa cũng nh Đông Nam á
dễ dàng chấp nhận và tiếp thu những thành tựu văn hoá, thậm chí cả những
thành tựu phát triển cao hơn của ấn Độ. Hay nói một cách khác , những truyền
thống văn hoá của các c dân Chămpa đã tìm đợc ở văn hoá ấn Độ những hình
thức thể hiện phù hợp nhng ở mức cao hơn.
Những bằng chứng về khảo cổ học cũng nh dân tộc học cho ta biết, khi
ngời ấn tới nhiều tộc ngời ở Đông Nam á trong đó có những c dân Chămpa
đã sống trong một xã hội tiền nhà nớc, nghĩa là trong xã hội đã có một tầng lớp
tù trởng lớn hay những thủ lĩnh lớn . Những ngời ấn chắc hẳn sẽ tìm cách bén
rễ vào tầng lớp xã hội bên trên này của Chămpa ở giai đoạn đầu khi họ tới đây.

Truyền thuyết về Kaundinya là một trong những bằng chứng tuy hoang đờng
nhng cũng phần nào phản ánh sự thực đó. Và một điều cũng rất tự nhiên là các
thủ lĩnh hay các t tởng của Chămpa đã rất nhanh chóng tiếp nhận những cách
tổ chức xã hội và chính quyền của ấn Độ để tạo lập ra những Quốc gia những
nhà nớc lớn. Mà những cách tổ chức đó hay khoa học về chính trị về luật pháp
đã đợc ngời ấn Độ đúc kết thành văn bản chi tiết. Để tổ chức đợc một nhà nớc
mang tính chất vơng quyền theo kiểu ấn Độ, không thể không có tôn giáo, mà
những tôn giáo đó lại sẵn ở ấn Độ, vì thiếu một trong ba thứ đó không thể thiết
lập lên một vơng quyền kiểu ấn Độ. Do đó, có thể nói, tính vơng quyền hay
mục đích nhằm thiết lập và củng cố vơng quyền là đặc trng đầu tiên nổi bật nhất
của quá trình bành trớng và du nhập văn hóa ấn Độ vào Chămpa cũng nh vào
các quốc gia cổ đại khác ở Đông Nam á.
Các đại diện tầng lớp trên của Chămpa đã tiếp nhận, thông qua ngời ấn
Độ, hầu nh tất cả những thành tựu văn hoá của ấn Độ để phục vụ cho việc thiết
lập và sau đó củng cố vơng quyền. Ngay từ những thời kỳ đầu lập quốc, vua
chúa và tầng lớp trên của Chămpa đã tiếp nhận chữ Phạn, đã học và làm theo
các trớc tác về khoa học chính trị và luật pháp của ấn Độ, đã chọn ấn Độ giáo
( chủ yếu là Siva giáo ) làm tôn giáo của triều đình.
Cũng hoàn toàn rất tự nhiên, một khi đã chấp nhận chữ viết, các văn
bản thành văn và tôn giáo, vua chúa Chămpa phải học và làm theo những hình
thức biểu hiện của văn bản, của tôn giáo, nghĩa là phải đọc các tác phẩm văn
học tôn giáo, phải xây dựng đền tháp thờ các thần, phải chạm khắc các hình
thần linh
ở ấn Độ, văn học nghệ thuật, âm nhạc, sân khấu, múa, hội lễ, phong tục
tập quán đều gắn bó chặt chẽ với tôn giáo, với v ơng quyền. Phục vụ cho thần
linh, phải có đền miếu, hình tợng, hội lễ, kinh sách ( cả dới dạng những tác
phẩm văn học, nghệ thuật âm nhạc và múa phục vụ cho việc củng cố vơng
quyền, ngoài tổ chức chính trị, xã hội và luật pháp, và còn có nhiều thứ khác đi
theo tôn giáo, cách sống , cách giải trí chính vì thế mà chúng ta thấy rõ rệt
một điều là triều đình Chămpa đã tiếp nhận gần nh toàn bộ những thành tựu

văn hoá của ấn Độ, từ chữ viết, văn bản, đến kiến trúc điêu khắc, từ luật, chính
trị tới văn học, ca múa, từ cách đi đứng, ăn chơi tới hệ thống đẳng cấp Không
phải ngẫu nhiên mà những gì th tịch cổ Trung quốc và bia ký Chămpa ghi lại
cũng nh những tác phẩm kiến trúc và điêu khắc mà vơng quốc cổ Chămpa để
lại là cả một bức tranh phong phú, sinh động và khá đầy đủ về ảnh h ởng
nhiều mặt của văn hoá ấn Độ đối với triều đình và tầng lớp trên của Chămpa.
Tất nhiên, để tạo ra đền tháp, những tác phẩm điêu khắc tuyệt mỹ, để
trình diễn những bản nhạc và những vũ điệu Tây thiên đầy quyến rũ phải có
sự tham gia, thậm chí là sự tham gia chủ yếu, của những ngời dân bình thờng đã
đợc học hành và đào luyện kỹ lỡng, nhng tất cả những cái đó đều nhằm phục
vụ cho vơng quyền và đều cho vua chúa và tầng lớp trên của quốc gia Chămpa
nằm giữ. Không phải ngẫu nhiên mà hầu nh tất cả những di sản văn hoá
Chămpa hiện còn đều mang tính vơng quyền và phục vơng quyền vì thế, chúng
tôi muốn nhấn mạnh một lần nữa, tính vơng quyền là đặc trng cơ bản nhất của
quá trình tiếp nhận những ảnh hởng của văn hoá ấn Độ ở Chămpa. Đặc trng này
không riêng cho Chămpa mà còn chung cho cả các quốc gia cổ đại khác ở Đông
Nam á . Điều này lý giải vì sao khi các vơng triều chịu ảnh hởng ấn Độ sụp đổ
thì những ảnh hởng ấn Độ cũng hoặc biến mất luôn hoặc phải biến đổi cho phù
hợp.
Tất nhiên, những ảnh hởng của văn hoá ấn Độ ở Chămpa cũng đợc dân
chúng tiếp nhận, hay nói cách khác, ảnh hởng của ấn Độ cũng đã bén rễ ở lớp
dới của xã hội Chămpa; nhng chủ yếu đời sống và sinh hoạt và văn hoá Chămpa
dân gian. Vì vậy, khi có một sự tác động mới vào đó, hoặc theo thời gian, những
ảnh hởng đó mất đi, biến đổi hoặc bị lãng quên. Một trong những bằng chứng
đầy thuyết phục cho điều này là, hiện nay khó có thể tìm thấy những ảnh hởng
của ấn Độ trong ngời Chăm hiện nay. ở những ngời Chăm theo Hồi giáo chúng
đã đợc thay bằng ảnh hởng của Đạo hồi, còn ở những ngời Chăm Bàlamôn, thì
chúng đã bị hoà nhập vào những yếu tố văn hoá dân gian truyền thống rồi. Kết
quả là, những dấu tích còn lại duy nhất cũng nh những gì đã đợc ghi lại thành
văn về ảnh hởng của ấn Độ đối với Chămpa, lại đều liên quan tới triều đình và

tầng lớp trên, hay nói một cách khác, là gắn với văn hoá cung đình của Chămpa.
Vì vậy, nói đến ảnh hởng của văn hoá ấn Độ ở Chămpa cổ, nghĩa là chủ yếu nói
đến những dấu ấn của ấn Độ trong văn hoá cung đình. ấn Độ là một trong
những nền văn hoá lớn nhng khác với Trung hoa hay đế chế LaMã, ngời ấn Độ
đem văn hoá mình đến cac quôc gia khác băng con đờng hoà bình. Một trong
những hớng đi mà ngời ấn Độ đã chọn, chính là hớng Đông, gió mùa đã dẫn
dắt họ đi. Và điểm dừng chân trong hành trình đó khi đến Việt Nam, họ đã chọn
Chămpa.
Bắt đầu từ sự xâm nhập của các thơng lái vợt biển xa đến đây, văn hoá ấn
Độ dần bén rễ và bắt nhịp vào cuộc sống của xã hội Chăm. ở mức độ này hay
mức khác văn hoá ấn Độ có thể chỉ đựơc tiếp nhận mạnh mẽ bởi vơng quyền
Chămpa hoặc cha tạo lập đợc ảnh hởng rộng trong đời sống dân gian. Mặc dầu
vậy, một điều không thể phủ nhận đựơc là: những ảnh hởng ấn Độ đã góp một
phần cực kì quan trọng vào quá trình hình thành ra vơng quốc Chămpa cũng nh
một nền văn hoá phát triển rực rỡ và đầy bản sắc - văn hoá Chăm. Ngợc lại
chính Chămpa, văn hoá Chămpa đã góp phần làm nên sức sống cũng nh giá trị
cho ấn Độ và nền văn minh ấn Độ.
2.2. Yếu tố bản địa trong quan hệ văn hoá Chăm - ấn Độ
Cũng nh ở những quốc gia khác trong khu vực Đông Nam á vì tiếp nhận
những yếu tố văn hoá ấn Độ để phục vụ cho vơng triều, nên vua chúa và tầng
lớp trên của Chămpa đã làm cho những ảnh hởng ấn Độ nhanh chóng bén rễ và
trùm lên khắp các lĩnh vực văn hoá cung đình. Chữ viết ấn Độ đợc dùng nh
một dạng chữ thiêng, các trớc tác và kinh bổn của ấn Độ đựơc đem ra học tập
và áp dụng, đền đài miếu mạo đợc dựng lên thờ các thần ấn Độ, các nghi lễ, các
trò chơi giải trí của ấn Độ luôn diễn ra trong cung cấm để phục vụ cho những
mục đích khác nhau của vua chúa
Cũng vì nhằm mục đích phục vụ vơng triều nên các vua chúa Chămpa đã
phải nhanh chóng biến những ảnh hởng của ấn Độ cho phù hợp với hoàn cảnh
đất nớc và dân chúng của mình. Dù có nhiều nét chung đến mấy đi nữa, thì đối
với Chămpa, văn hoá ấn Độ vẫn cứ là từ bên ngoài vào và có nhiều điều xa lạ

đối với văn hoá truyền thống của Chămpa. Vì vậy không có sự thay đổi, thì
những yếu tố ấn Độ khó có thể nhập đựơc vào mảnh đất Chămpa. Ngời đầu tiên
phải làm công việc này, không phải là ai khác, mà chính là vua chúa và tầng lớp
trên của triều đình Chămpa. Nhờ vậy, chỉ sau một thời gian ngắn, những cái vỏ,
những hình thức biểu hiện của ấn Độ đã nhanh chóng đựơc khuôn vào những
nội dung truyền thống bản địa và góp phần đẩy những nội dung đó lên một cấp
độ cao hơn.
Với bia ký Đông Yên Châu ( Quảng Nam - Đà Nẵng ) thế kỉ IV - V,
Chămpa là quốc gia đầu tiên ở Đông Nam á đã dựa trên văn tự ấn Độ sáng tạo
ra chữ viết của mình. Từ đó trở đi, ở Chămpa, bên cạnh chữ Phạn, đã tồn tại và
phổ biến chữ viết của ngời Chăm. Sau nhiều lần cải tiến từ dạng chữ vuông đến
chữ nét cuốn, văn tự một ngày một hoàn hảo để trở thành dạng chữ viết phổ
biến ở ngời Chăm hiện nay.
Cũng ngay từ thế kỷ IV - V, bia Đông Yên Châu cho chúng ta biết, bên
cạnh thờ các vị thần ấn Độ, các vua chúa Chăm còn duy trì tín ngỡng bản địa -
thờ thần rắn. Bên cạnh thờ thần rắn, các vị thần bản địa cũng dần dần đựơc đẩy
lên ngang tầm với các vị thần tối thợng ấn Độ và nhập vào cái vỏ của thần thoại
ấn Độ. Ví dụ điển hình cho hiện tợng này là sự tôn kính và sùng bái của các
vua chúa Chămpa dành cho nữ thần Mẹ của xứ sở - nữ thần Pô In Nagar. Muộn
hơn việc thờ Pô Nagar là việc triều đình và dân chúng Chămpa đã thần hoá một
số vị vua có công với nớc nh Pô Kaung Garai (1151 - 1205 ). Pô Rômê ( 1627 -
1651 ) và nhờ các vị vua đó d ới dạng Siva tại các tháp lớn. Hiện tợng thờ thần
vua ở Chămpa chỉ là một hình thức cao hơn của tín ngỡng thờ cúng tổ tiên
truyền thống của ngời Chăm. Khi tôn giáo của ấn Độ ngự trị trong triều đình
Chămpa, tín ngỡng thờ cúng tổ tiên không những mất đi mà còn đợc đẩy cao
lên tới tầm cỡ tôn giáo. Các bia ký cổ Chămpa luôn nói tới các vua, các đại thần
dựng thánh đờng thờ những tổ tiên đã mất dới dạng các vị thần ấn Độ. Đặc biệt,

×