Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Đồ án môn học kinh tế quản lý công nghiệp vấn đề luên kêt kinh tế trong ngành may mặc việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.23 KB, 20 trang )

Đề án môn học Kinh tế và Quản lý Công nghiệp

Đoàn Duy Cường

Mở đầu
Liên kết kinh tế là một trong những hình thức hợp tác ở trình độ cao của
con người trong quá trình sản xuất, kinh doanh. Hợp tác giữa con người với
con người đã xuất hiện từ khi xã hội lồi người xuất hiện thơng qua việc ở
theo bầy đàn và biết cùng nhau săn bắn, hái lượm. Qua thời gian, cùng với sự
phát triển của lực lượng sản xuất, trình độ hợp tác ngày càng phát triển cao
hơn. Ngày nay để tăng hiệu quả của sự phối hợp, thì việc liên kết giữa các
đơn vị trong sản xuất là một tất yếu khơng thể phủ nhận. Vì vậy, thuật ngữ
liên kết kinh tế đã xuất hiện và ngày càng được nói đến nhiều trong xã hội
hiện đại.
Nhận thức được vai trò ngày càng lớn của liên kết kinh tế trong quá trình
lao động sản xuất nên trong đề án môn học Kinh tế và quản lý Công nghiệp
em tìm hiểu và nghiên cứu về liên kết sản xuất trong ngành may mặc ở Việt
Nam. Trên cơ sở lý thuyết được học và tìm hiểu các tài liệu liên quan, em
chọn đề tài đề án môn học là :"Vấn đề liên kết kinh tế trong ngành may
mặc Việt Nam". Qua việc nghiên cứu vấn đề này em hi vọng có thể đưa ra
một mơ hình cụ thể để giúp các doanh nghiệp kinh doanh trong ngành may
mặc có được sự liên kết tốt nhất trong sản xuất.
Kết cấu đề án gồm ba phần:
-

Phần 1 gồm những vấn đề chung về liên kết kinh tế.

-

Phần 2 là phát triển các mối quan hệ liên kết kinh tế trong ngành


may mặc Việt Nam.
-

Phần 3 đưa ra các giải pháp.

1


Đề án môn học Kinh tế và Quản lý Công nghiệp

1.

Đoàn Duy Cường

Những vấn đề chung về liên kết kinh tế

1.1. Khái niệm liên kết kinh tế.
Liên kết kinh tế là một hiện tượng kinh tế - xã hội khách quan của nền
sản xuất hàng hóa có sự phân cơng lao động xã hội phát triển. Những biểu
hiện của hoạt động liên kết kinh tế đã ra đời và tồn tại từ lâu trong lịch sử phát
triển kinh tế thế giới cũng như tại Việt Nam. Nước ta là nước nơng nghiệp,
trong q trình sản xuất chúng ta có thể nhận ra sự liên kết chặt chẽ giữa
trồng trọt và chăn ni: trồng trọt thì cung cấp thức ăn cho chăn nuôi, ngược
lại chăn nuôi lại là nguồn cung cấp phân bón dồi dào cho trồng trọt.
Hiểu một cách khái quát thì liên kết kinh tế là một hạm trù phản ánh mối
quan hệ phối hợp hoạt động kinh tế giữa các chủ thể kinh tế với nhau để thực
hiện những nhiệm vụ sản xuất kinh doanh nhất định, nhằm đem lại hiệu quả
kinh tế cao nhất cho mỗi bên tham gia. Liên kết kinh tế là sự thiết lập các mối
quan hệ giữa các chủ thể sản xuất, kinh doanh, có thể giữa các doanh nghiệp
thuộc cùng lĩnh vực hoạt động, giữa các đối tác cạnh tranh hoặc giữa các

doanh nghiệp có các hoạt động mang tính chất bổ sung, nhằm tiết kiệm thời
gian, tiết kiệm chi phí, đạt hiệu quả cao hơn trong sản xuất - kinh doanh, tạo
ra sức mạnh cạnh tranh, cùng nhau chia sẻ các khả năng, mở ra những thị
trường mới.

1.2. Đặc điểm của liên kết kinh tế.
Cần phải phân biệt rõ các quan hệ liên kết kinh tế, không phải quan hệ
kinh tế nào cũng được coi là quan hệ liên kết kinh tế. Chỉ những quan hệ kinh
tế nào phản ánh sự phối hợp mang tính cộng đồng trách nhiệm của các chủ
thể kinh tế có liên quan thì mới được coi là quan hệ liên kết kinh tế.
Đặc điểm cơ bản của liên kết kinh tế là các bên tham gia cùng có lợi, vì
thế các bên đều tự nguyện thiết lập các mối quan hệ phối hợp mang tính cộng
đồng. Điều này có nghĩa là các chủ thể kinh tế khi đã thực hiện liên kết kinh

2


Đề án môn học Kinh tế và Quản lý Công nghiệp

Đoàn Duy Cường
tế sẽ ràng buộc lẫn nhau khá chặt chẽ về chia sẻ lợi ích hay rủi ro và có trách
nhiệm cao trong tổ chức thực hiện các hoạt động liên kết kinh tế.
Với tính chất là hiện tượng kinh tế - xã hội khách quan nên các chủ thể
có thể là: doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, các tổ chức kinh tế - xã hội,
chính quyền địa phương, cơ quan quản lý nhà nước các cấp… tham gia hoạt
động liên kết kinh tế với những nội dung phong phú. Liên kết kinh tế có thể
thực hiện ở tất cả các khâu của quá trình sản xuất cũng như tái sản xuất mở
rộng từ khâu chuẩn bị các yếu tố phục vụ sản xuất, sản xuất, nghiên cứu ứng
dung khoa học công nghệ, đào tạo, bảo vệ tài nguyên môi trường, tổ chức
khai thác thị trường cho đến phân phối tiêu thụ sản phẩm.

Liên kết kinh tế có thể diễn ra ở phạm vi không gian hẹp như liên kết
kinh tế giữa các bên trong một khu công nghiệp, một địa phương, một vùng
kinh tế nhưng cũng có thể diễn ra ở phạm vi rộng lớn như toàn quốc gia, giữa
các quốc gia hay phạm vi toàn cầu.
Hoạt động liên kết kinh tế có thể thực hiện trong thời gian ngắn và cũng
có thể diễn ra một cách liên tục, thường xuyên. Chúng cũng có thể được là
những hoạt động công khai , được pháp luật cho phép, khuyến khích và bảo
trợ. Nhưng cũng có thể là những quan hệ liên kết kinh tế không được pháp
luật cho phép như các liên kết kinh tế ngầm

1.3. Các hình thức liên kết kinh tế.
1.3.1. Hình thức liên kết dọc
Hình thức liên kết dọc được thực hiện khi doanh nghiệp tổ chức liên kết
với các nhà cung ứng hay với khách hàng trong kênh phân phối. Đây là một
dạng của liên kết hố trong cơng nghiệp kết hợp các giai đoạn chế biến
nguyên liệu từ khâu khai thác đến khâu chế tạo ra thành phẩm và có khi cả
tiêu thụ sản phẩm. Chẳng hạn như trong ngành luyện kim, từ khai thác quặng
- luyện gang - luyện thép - cán thép - vật liệu thép. Liên kết sản xuất theo
chiều dọc có các dạng: liên kết phía trên (hay gọi là thượng lưu), tức liên kết

3


Đề án môn học Kinh tế và Quản lý Công nghiệp

Đoàn Duy Cường
cả khâu cung ứng vật tư; liên kết phía dưới (hay gọi là hạ lưu), tức liên kết cả
khâu tiêu thụ sản phẩm; hoặc liên kết cả phía trên và phía dưới.
Nhà cung ứng
nguyên vật liệu


Doanh nghiệp

Khách hàng

1.3.2. Hình thức liên kết ngang.
Hình thức liên kết kinh tế theo chiều ngang thực chất là việc phân nhỏ
các giai đoạn trong một chuỗi sản xuất. Ví dụ trong ngành may yêu cầu các
bước từ dệt sợi, nhuộm vải, cắt, may, hoàn thiện sản phẩm và mang bán. Việc
phân nhỏ này do sự phân công lao động xã hội làm tách rời các khâu. Liên kết
ngang sẽ liên kết các khâu lại với nhau làm cho quá trình sản xuất trở nên trôi
chảy và thống nhất với nhau. Như thế khơng những tiết kiệm được các chi phí
sản xuất khơng đáng có mà cịn giảm thiểu những sai lệch về các tiêu chuẩn,
kích cỡ, mầu sắc… tạo tiền đề cho việc tiêu chuẩn hóa các sản phẩm, làm cho
các sản phẩm có tính lắp lẫn cao hơn, mang lại nhiều tính năng sử dụng cho
khách hàng.
Ý tưởng

Thiết kế

Cắt

May

Phân phối
và tiêu thụ

1.4. Tính tất yếu phải liên kết kinh tế.
1.4.1. Tất yếu khách quan của liên kết kinh tế.
Liên kết kinh tế là yêu cầu bức thiết trong vấn đề phát triển kinh tế

không chỉ ở phương diện chủ quan mà thực sự là một tất yếu khách quan của
nền kinh tế.
Trước hết do yêu cầu bảo đảm tính thống nhất của quá trình tái sản xuất
– xã hội, tái sản xuất mở rộng. Do tác động của sự phát triển phân công lao
động xã hội và của lực lượng sản xuất làm cho q trình đó bị phân chia thành
nhiều khâu độc lập tách rời nhau. Có nhiều cách để thực hiện sự kết hợp các
4


Đề án môn học Kinh tế và Quản lý Công nghiệp

Đồn Duy Cường
khâu nhưng nếu thơng qua liên kết kinh tế sẽ chặt chẽ và mang lại hiệu quả
kinh tế cao hơn.
Liên kết kinh tế là một hoạt động kinh tế cũng sẽ tuân theo các quy luật
kinh tế như quy luật tích tụ, tập trung hóa sản xuất và xã hội hóa sản xuất, hay
như quy luật cạnh tranh và tối đa hóa lợi nhuận. Hoạt động trong nền kinh tế
thị trường khiến các doanh nghiệp luôn đề ra những biện pháp thích hợp và có
hiệu quả cao trong hoạt động sản xuất kinh doanh mà thích hợp hơn cả là liên
kết kinh tế.
Thứ ba liên kết kinh tế là hậu quả tất yếu của cuộc cách mạng khoa học
công nghệ hiện đại. Với những bước phát triển mới sâu rộng, tác động tới mọi
ngành kinh tế quốc dân, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Các doanh nghiệp
phải tăng cường liên kết để nắm bắt, ứng dụng nhanh các thành tựu mới của
tiến bộ khoa học công nghệ. Từ đó tăng khả năng sản xuất đáp ứng kịp thời
nhu cầu mới phát sinh do tác động của khoa học cơng nghệ.
1.4.2. Vai trị của liên kết kinh tế.
Liên kết kinh tế giúp doanh nghiệp khắc phục những bất lợi về quy mơ.
“To khơng phải là tốt”- Đó là câu châm ngôn mà chúng ta vẫn thường gặp
trong đời sống hàng ngày. Câu nói có vẻ hài hước này, thực ra lại rất đúng

trong tổ chức sản xuất kinh doanh công nghiệp. Chúng ta đều biết, trong hoạt
động sản xuất kinh doanh, mỗi doanh nghiệp đều có một hoặc vài lĩnh vực
hoạt động chủ đạo, mang tính đặc thù, chuyên biệt. Bên cạnh đó, là một loạt
các hoạt động phụ, mà bản thân doanh nghiệp không thể thực hiện được,
nhưng nó lại khơng thể thiếu đối với dây chuyền sản xuất chính. Ví dụ như:
Một nhà máy dệt vải, ngồi ngun liệu chính là sợi phải mua của các nhà
máy kéo sợi, họ còn cần dùng đến rất nhiều loại vật liệu phụ khác như bột sắn
để cung cấp cho khâu hồ sợi; ống giấy cho cuộn vải; bao tải, dây đai cho khâu
đóng kiện.v.v... chưa kể một loạt các loại phụ kiện khác như con thoi, go, cua
roa, tay đập... bắt buộc phải có, để duy trì hoạt động cho các máy dệt.

5


Đề án môn học Kinh tế và Quản lý Công nghiệp

Đoàn Duy Cường
Ngoài mặt liên kết kinh tế giúp doanh nghiệp khắc phục được những hạn

chế về quy mơ, thì ở một khía cạnh khác, liên kết kinh tế cịn giúp cho doanh
nghiệp phản ứng nhanh với những thay đổi của thị trường. Điều đó được thể
hiện ở việc nhu cầu của thị trường là luôn thay đổi, buộc các doanh nghiệp
vừa phải luôn thay đổi mẫu mã của các sản phẩm hiện có, vừa phải tìm cách
đa dạng hố sản phẩm. Để có được những thay đổi phù hợp với nhu cầu của
thị trường, doanh nghiệp cần phải có thơng tin và có đủ khả năng triển khai
nhanh các phương án sản xuất mới. Chính sự liên kết kinh tế sẽ giúp cho
doanh nghiệp đạt được điều đó. Một doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng may
mặc thời trang, khi có một mốt mới xuất hiện, doanh nghiệp muốn triển khai
sản xuất theo mẫu này. Mặc dầu nguyên liệu chính vẫn là vải, song, sản phẩm
mới lại có nhu cầu sử dụng nhiều loại phụ liệu mới như ru băng, hạt cườm...

Muốn triển khai sản xuất, doanh nghiệp phải liên kết với các cơ sở khác để có
được các phụ liệu này.
Liên kết kinh tế giúp cho các doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm của mình
được nhanh hơn. Điều đó được thể hiện rất rõ qua sự liên kết của hệ thống các
nhà thương mại với các nhà sản xuất, thơng qua hình thức đại lý bán hàng.
Với hình thức liên kết này, các cửa hàng kinh doanh sẽ nhận làm đại lý bán
buôn hay bán lẻ sản phẩm cho doanh nghiệp sản xuất. Và nhờ đó, sản phẩm
của doanh nghiệp sẽ được đưa vào thị trường một cách nhanh chóng hơn, kịp
thời hơn.
Liên kết kinh tế cịn giúp cho các doanh nghiệp có thể tiếp cận nhanh
chóng với các công nghệ và kỹ thuật mới, nhờ sự phối hợp với các nhà nghiên
cứu ở các trường đại học hay cơ sở nghiên cứu trong và ngoài nước.
Ngoài những lợi ích trên, liên kết kinh tế còn giúp cho doanh nghiệp
giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh. Phát triển sản xuất là một q trình vận
động khơng ngừng, tích tụ tập trung rồi lại chia tách, sáp nhập để đáp ứng nhu
cầu phát triển của xã hội và phù hợp với khả năng nội tại của doanh nghiệp,

6


Đề án môn học Kinh tế và Quản lý Công nghiệp

Đồn Duy Cường
với mục đích tìm kiếm lợi nhuận cao nhất, mà lại giảm thiểu được rủi ro. Q
trình đó diễn ra thực chất là thông qua các hoạt động liên kết kinh tế.
Đứng trước một dự án sản xuất lớn, nhiều khi vượt quá khả năng sản
xuất của doanh nghiệp . Nếu doanh nghiệp bỏ, thì sẽ mất cơ hội làm ăn,
nhưng nếu doanh nghiệp đơn độc một mình triển khai thực hiện dự án, nhiều
khi, do không kham nổi, sẽ dễ dẫn đến hiệu quả thấp, thậm chí thua lỗ. Để
tránh được hiện tượng này, nhiều doanh nghiệp đã biết phân tán rủi ro bằng

cách mời gọi các doanh nghiệp khác cùng tham gia thực hiện dự án, mỗi
doanh nghiệp đảm nhận một phần công việc, tuỳ theo năng lực của từng
doanh nghiệp. Như vậy, mỗi doanh nghiệp tham gia dự án chỉ phải chịu một
phần rủi ro nếu có. Ở một khía cạnh khác, hai doanh nghiệp, trước đây là đối
thủ của nhau, cạnh tranh nhau trên cùng một loại sản phẩm, trong cùng một
thị trường. Nay, để giảm thiểu rủi ro do cạnh tranh, họ liên kết lại, cùng thoả
hiệp để phân chia thị trường, kể cả việc sáp nhập để tạo nên độc quyền nhóm.
1.4.3. Phân tích mơi trường chung.
Hiện tại, liên kết kinh tế ở Việt Nam đã xuất hiện ở nhiều lĩnh vực. Đã
có nhiều ví dụ minh chứng cho sự thành cơng của liên kết kinh tế, như liên
kết giữa các doanh nghiệp sản xuất và lắp ráp ôtô, xe máy với các cơ sở sản
xuất linh kiện, phụ tùng; liên kết trong gia công sản xuất hàng may mặc (liên
kết giữa các cơ sở sản xuất công nghiệp); liên kết trong thi cơng xây dựng các
cơng trình lớn... (liên kết trong sản xuất công nghiệp, xây dựng); liên kết giữa
các doanh nghiệp chế biến nông sản, thực phẩm với bà con nông dân trồng
nguyên liệu... (liên kết giữa công và nông nghiệp). Hình thức liên kết cũng
khá đa dạng, như gia công, thầu phụ, liên doanh, liên kết giữa các doanh
nghiệp trong cùng nhóm sản phẩm hay hiệp hội ngành nghề...
Tuy nhiên, liên kết kinh tế ở Việt Nam đang tồn tại những nhược điểm
sau:
Liên kết kinh tế chưa trở thành nhu cầu bức xúc trong hoạt động của
doanh nghiệp. Theo một tỷ lệ hiện nay, trên 50% số doanh nghiệp được hỏi,
7


Đề án môn học Kinh tế và Quản lý Công nghiệp

Đồn Duy Cường
cho biết khơng có hoặc chưa có nhu cầu tìm kiếm sự liên kết; khoảng 30% số
doanh nghiệp cho biết đang có nhu cầu tìm kiếm sự liên kết kinh tế để bù đắp

sự thiếu hụt trong năng lực sản xuất của mình; và chỉ có gần 20% số doanh
nghiệp cho biết là họ ln có nhu cầu tìm kiếm các mối liên kết để nâng cao
hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, cả hiện tại và tương lai.
Ngay trong một doanh nghiệp, nhu cầu liên kết kinh tế, nếu có xuất hiện,
cũng chỉ tồn tại trong ý tưởng của các lãnh đạo doanh nghiệp, mà chưa trở
thành nhu cầu của tất cả thành viên trong doanh nghiệp. Thực tế điều hành
sản xuất kinh doanh cho thấy, chính các cán bộ quản lý cấp trung gian là
những người dễ dàng nhận ra các nhu cầu về liên kết nhất, mà nếu họ khơng
nêu ra, thì chủ doanh nghiệp cũng khó lịng mà nhận thấy. Đó là chưa kể, nếu
những người lao động trực tiếp không nhận thức rõ được các lợi ích của liên
kết kinh tế, thì trong công việc, họ sẽ không triệt để tuân thủ các quy định của
các hợp đồng kinh tế, và do vậy sẽ dẫn đến hiệu quả không cao của doanh
nghiệp khi thực hiện các liên kết kinh tế. Nhiều khi liên kết kinh tế lại được
thực hiện bởi các mệnh lệnh hành chính, như sự sáp nhập, hình thành các tổng
cơng ty, cơng ty... kể cả việc hình thành các mơ hình cơng ty mẹ - cơng ty
con, đang được triển khai rầm rộ hiện nay, nếu không được rút kinh nghiệm
để điều chỉnh kịp thời, nên hiệu quả thực sự của liên kết kinh tế không cao,
đôi khi lại có tác dụng ngược lại.
Mơi trường kinh doanh chưa thuận lợi cho liên kết kinh tế. Liên kết kinh
tế bấy lâu nay, chủ yếu vẫn là quá trình vận động tự thân của doanh nghiệp.
Nhà nước hầu như chưa có được các cơ chế, chính sách cụ thể, tạo điều kiện
hay khuyến khích cho liên kết kinh tế phát triển.
Về phía doanh nghiệp, khi có nhu cầu tìm kiếm sự liên kết, nhưng khơng
biết tìm ở đâu, bởi các thơng tin về đối tác đôi khi không đầy đủ hoặc không
đủ tin cậy để doanh nghiệp đi đến quyết định có nên liên kết với đối tác đó
hay khơng. Nếu các hoạt động kiểm tốn và cơng khai thơng tin được tiến

8



Đề án môn học Kinh tế và Quản lý Công nghiệp

Đồn Duy Cường
hành một cách thường xun thì cũng là cách giúp doanh nghiệp có điều kiện
để tìm hiểu thơng tin về các đối tác của mình một cách có hiệu quả hơn.
Năng lực liên kết của các doanh nghiệp Việt Nam cịn nhiều hạn chế,
điều đó được thể hiện ở uy tín của các doanh nghiệp chưa cao, chưa đủ sức
thu hút các doanh nghiệp nhỏ khác làm vệ tinh cho mình. Những doanh
nghiệp có đủ năng lực như Lilama, Sông Đà... chưa nhiều, làm cho các quan
hệ về liên kết kinh tế khó phát triển. Hy vọng rằng, với sự ra đời của một số
tập đoàn kinh tế như Điện lực, Than và khoáng sản, Dệt may..., các mối quan
hệ về liên kết kinh tế sẽ có điều kiện phát triển hơn.
Sự nhỏ bé về quy mô thị trường, đặc biệt là thị trường xuất khẩu, làm
cho các doanh nghiệp khó tiến hành các hoạt động liên kết. Song, vấn đề này
sẽ sớm được khắc phục khi Việt Nam hiện đã chính thức gia nhập Tổ chức
Thương mại thế giới WTO.
Cơ chế chính sách của Nhà nước chưa có nhiều quy định liên quan đến
việc thúc đẩy các mối liên kết kinh tế phát triển hoặc đã có thì lại khó đi vào
cuộc sống do tâm lý sản xuất nhỏ, manh mún trong nhiều lĩnh vực của nền
kinh tế.

9


Đề án môn học Kinh tế và Quản lý Công nghiệp

2.

Đoàn Duy Cường


Phát triển các quan hệ liên kết kinh tế của các

doanh nghiệp may mặc Việt Nam.
2.1. Đặc điểm ngành may mặc Việt Nam
Trong ngành công nghiệp dệt may ở Việt Nam hiện nay, may mặc là lĩnh
vực tập trung và có khả năng cạnh tranh xuất khẩu cao nhất. Hình thức sản
xuất, lưu thơng hàng dệt may chủ yếu là gia cơng ủy thác, trong đó các doanh
nghiệp may của Việt Nam nhập khẩu nguyên phụ liệu từ nước ngoài rồi sản
xuất và xuất khẩu thành phẩm. Ngành may tuy liên tục đầu tư mở rộng sản
xuất, đổi mới thiết bị và dây chuyền đồng bộ chuyên sản xuất một mặt hàng
như dây chuyền may sơ mi, may quần âu, quần Jean, complet, hệ thống giặt
là... nhưng cũng chưa đáp ứng được yêu cầu xuất khẩu ngày càng cao.
Hình thức gia cơng ủy thác khơng được chính phủ đánh giá cao, lý do
chính là xuất khẩu theo hình thức này thu được rất ít giá trị gia tăng cho các
doanh nghiệp Việt Nam. Việc ngành may phải lựa chọn hình thức gia cơng ủy
thác là do ngành dệt, nhuộm trong nước còn chậm phát triển và thiếu sức cạnh
tranh.
Đặc điểm của ngành là phục vụ nhu cầu hàng ngày của con người nên
những chiến lược phát trển luôn theo hướng phục vụ tốt nhất nhu cầu đó.
Nhưng sự phát triển thượng tầng trong chuỗi sản xuất ngành dệt may Việt
Nam chưa được chú trọng nên mẫu mã không đa dạng, nghèo nàn, chưa có sự
thay đổi kịp thời trước biến đổi nhu cầu thị trường. Tuy nhiên với những lợi
thế riêng biệt như vốn đầu tư không lớn, thời gian thu hồi vốn nhanh, thu hút
nhiều lao động và có nhiều điều kiện mở rộng thị trường trong và ngoài nước
với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Với những lợi thế
đó, cơng nghiệp dệt may Việt Nam đã có những bước đi riêng của mình trên
con đường tiến tới thành cơng.

10



Đề án môn học Kinh tế và Quản lý Công nghiệp

Đoàn Duy Cường

2.2. Thực trạng ngành may mặc Việt Nam
Trong xu thế hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, ngành may mặc đang
phải đối mặt với nhiều thách thức lớn, phải cạnh tranh ngang bằng với các
cường quốc xuất khẩu lớn như Trung Quốc, Ấn Độ, Inđônêxia, Pakixtan, Hàn
Quốc.... Đặc biệt, từ 1/1/2006, thuế xuất nhập khẩu hàng dệt may từ các nước
Asean vào Việt Nam sẽ giảm từ 40-50% như hiện nay xuống tối đa còn 5%
nên hàng may mặc Việt Nam phải cạnh tranh quyết liệt với hàng nhập từ các
nước trong khu vực. Theo tính tốn của Tổng cơng ty Dệt may Việt Nam
(Vinatex), năm 2004, các doanh nghiệp may đã dành tới hơn 92% lượng sản
phẩm để xuất khẩu. Điều đó cho thấy thị trường nội địa chưa được chú trọng
đúng mức.
Một trong những điểm yếu nhất của ngành may Việt Nam đó là ngành
phụ trợ chưa phát triển tương ứng. Bởi hiện nay khoảng 70% nguyên liệu phải
nhập khẩu, đặc biệt là vải, mỗi năm phải nhập trên 2 tỷ USD. Vinatex đang
xây dựng chương trình sản xuất dệt thoi để tăng tỷ lệ vải cung ứng cho ngành
may. Đặt mục tiêu đến năm 2010 phải có 1 tỷ mét vải trong đó 500 triệu phục
vụ cho xuất khẩu. Thế nhưng ở Việt Nam, dường như các doanh nghiệp vẫn
chưa thực sự quan tâm và phát triển các dòng sản phẩm cao cấp. Sản xuất các
sản phẩm có tính khác biệt cao nhằm vào các thị phần chuyên biệt, tránh áp
lực cạnh tranh giá thấp trên thị trường phổ thông là một trong những giải pháp
kinh doanh khôn ngoan mà một số doanh nghiệp trong ngành may mặc đã
thực hiện thành công trong thời gian qua. Điển hình như: vải địa kỹ thuật
cơng nghệ cao công ty Dệt vải Công nghiệp Hà Nội, veston nam xuất khẩu
của May Nhà Bè, vải thun 4 chiều của công ty Lan Trần, vải gấm xuất khẩu
của Dệt May Phước Thịnh... Tuy nhiên có một điều đáng tiếc là những sản

phẩm điển hình như vậy vẫn cịn quá ít, đa số các doanh nghiệp dệt may vẫn
đang sản xuất chủ yếu các sản phẩm phổ thông và đang chịu sức ép cạnh
tranh về giá ngày càng lớn từ ngành dệt may của Trung Quốc, Ấn Độ...

11


Đề án môn học Kinh tế và Quản lý Công nghiệp

Đoàn Duy Cường
Thị trường lớn nhất của dệt may Việt Nam là thị tường Mỹ, tiếp theo là

thị trường EU và Nhật. Theo Hiệp hội Dệt may Việt Nam, năm 2004, mặc dù
có nhiều khó khăn do thiếu hạn ngạch xuất khẩu vào thị trường Mỹ nhưng
ngành dệt may vẫn đạt mức tăng trưởng gần 20% so với năm 2003 với trị giá
xuất khẩu 4,386 tỷ USD. Trong đó xuất khẩu vào thị trường Mỹ tăng 25,37%,
EU tăng 31,37%, Nhật Bản tăng 11,06%. Đặc biệt, kim ngạch xuất khẩu các
mặt hàng không bị áp đặt hạn ngạch vào thị trường Mỹ tăng từ 20% năm
2003 lên 33% năm 2004. Kéo theo đó năng lực sản xuất cũng tăng trưởng rất
mạnh: năng lực sản xuất sợi đạt 200.000 tấn, tăng 122,5%; năng lực sản xuất
vải đạt 600 triệu mét, tăng 33,3%; năng lực may đạt 1.300 triệu sản phẩm,
tăng 116,7% và thu nhận thêm 300.000 lao động.
Năm 2007 là năm đánh dấu mức tăng trưởng cao của ngành dệt may, với
con số 34.5%, đạt kim ngạch xuất khẩu 7,78 tỷ USD, tiếp tục là mặt hàng
xuất khẩu lớn nhất Việt Nam cùng với dầu thơ. Trong đó, Tập đồn dệt may
Việt Nam có một bước chuyển quan trọng từ tăng về lượng sang hiệu quả
kinh tế, tổng doanh thu đạt hơn 22.348 tỷ đồng, kim ngạch xuất khẩu đạt
1,452 tỷ USD, lợi nhuận đạt 556 tỷ đồng. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn đạt
15.6% so với mức trung bình từ 10-12% trong nhiều năm trước. Đây là thành
quả bước đầu của q trình chuyển đổi mơ hình quản lý doanh nghiệp chuyển

từ doanh nghiệp nhà nước sang công ty cổ phần.

2.3. Kinh nghiệm từ quốc tế
2.3.1. Những tích cực từ Trung Quốc
Trung Quốc với mệnh danh là "công xưởng của thế giới" có một nền
cơng nghiệp dệt may phát triển. Điều này có được do chính phủ Trung Quốc
đã có những chính sách phát triển ngành ngay từ giai đoạn đầu. Với việc
khuyến khích các doanh ngiệp may mặc sử dụng hiệu quả nguồn lao động dồi
dào trong nước kết hợp với chun mơn hóa sản xuất, chính phủ Trung Quốc
đã lái con tàu dệt may đi theo một lộ trình hiệu quả. Lúc đầu quốc gia này thu
hút FDI để sản xuất các sản phẩm lắp ráp, gia công, sau đó thơng qua liên kết
12


Đề án môn học Kinh tế và Quản lý Công nghiệp

Đoàn Duy Cường
dọc với các tập đoàn đa quốc gia để nhận giấy phép sản xuất của họ, Trung
Quốc chuyển sang các sản phẩm thuộc lĩnh vực công nghệ cao giữ thương
hiệu gốc ở nước ngoài nhưng lại được sản xuất thiết kế trong nước. Sản phẩm
may mặc của Trung Quốc ngay lập tức chiếm lĩnh thị trường với những ưu
điểm không thể chối cãi: mẫu mã đa dạng, chủng loại phong phú, giá rẻ, chất
lượng tốt…Đặc biệt là với việc chun mơn hóa sản xuất cao, áp dụng cơng
nghệ hiện đại đã liên kết các doanh nghiệp lại với nhau. Hình thức liên kết sản
xuất đã giúp các doanh nghiệp dệt may Trung Quốc giảm thiểu những chi phí
phụ như: tìm kiếm nguồn cung ứng ngun vật liệu,các cơng nghệ phụ trợ,
khách hàng…Gần đây Trung Quốc tiến thêm một bước nữa khi sản xuất
nhiều sản phẩm công nghệ cao nhờ phát triển các liên kết ngang và liên kết
hỗn hợp trong các lĩnh vực như nghiên cứu chế tạo, thiết kế mẫu mã sản
phẩm, thiêu thụ và thương mại…Những sản phẩm này do Trung Quốc tự thiết

kế và sản xuất mang thương hiệu của mình rất nổi tiếng trên thế giới với chất
lượng tốt và thị phần lớn.
Hiện nay, ngành may mặc Trung Quốc gặp khơng ít khó khăn như: giá
đồng nhân dân tệ tăng làm giảm lợi nhuận, các thị trường lớn như Mỹ và EU
kiện bán phá giá, các đối thủ cạnh tranh ngày càng mạnh hơn…Là nhà xuất
khẩu dệt may lớn nhất thế giới, Trung Quốc đã có nhiều nỗ lực để tháo gỡ
những khó khăn nói trên, trong đó có việc tìm kiếm các thị trường và nước
ngoài, cũng như hạn chế những tác động bất lợi do chi phí ngày càng leo
thang gây ra bằng cách đổi mới công nghệ. Với việc tăng cường liên kết giữa
các doanh nghiệp đã giúp họ chống đỡ lại nhiều khó khăn một cách hiệu quả.
Bên cạnh đó, các nước đang phát triển ở châu Á và châu Phi đã và đang trở
thành động lực tăng trưởng chủ chốt đối với ngành xuất khẩu dệt may của
Trung Quốc. Giá trị xuất khẩu dệt may của nước này dự kiến tăng 15% trong
năm 2008.

13


Đề án môn học Kinh tế và Quản lý Công nghiệp

Đoàn Duy Cường

2.3.2. Bài học từ thất bại của Thái Lan
Dệt may Thái Lan một thời kì trước đây phát triển rất rực rỡ, nhưng
trong một vài năm gần đây họ vấp phải rất nhiều khó khăn do chi phí tăng
cao. Các doanh nghiệp may mặc của họ gặp khốn đốn và giải thể hàng loạt.
Nguyên nhân của việc này là do các doanh nghiệp dệt may Thái Lan làm ăn
theo chủ nghĩa cá nhân, mạnh ai người đấy làm mà khơng có sự hợp tác với
nhau. Ngược lại so với Trung Quốc, người Thái làm giai đoạn đầu rất tốt
nhưng chiến lược lâu dài thì rất kém. Dệt may Thái Lan có thời kì hồng kim

khi sản phẩm gia cơng có chất lượng tốt, giá cả phải chăng. Nhưng phần
thượng nguồn trong chuỗi giá trị sản xuất ngành của họ gần như bằng 0. Thái
Lan không đi theo con đường liên kết dọc nhằm thuê lại các thương hiệu nổi
tiếng và dần dần đầu tư vào nghiên cứu và thiết kế mẫu mã, họ làm thuê vẫn
là làm thuê. Đồng thời công nghiệp phụ trợ của Thái Lan không tăng trưởng
theo kịp với tốc đọ tăng trưởng ngành may mặc dẫn đến việc thiếu nguyên vật
liệu trầm trọng. Hiện nay khi giá đồng bath giảm và giá nguyên vật liệu tăng
cao, người Thái mới bắt đầu lúng túng đi tìm con đường đúng khi khuyến
khích liên kết, đầu tư vào khu vực thượng nguồn…

2.4. Những khó khăn, yếu kém trong khâu quản lý và liên kết
kinh tế.
Tổ chức sản xuất của các doanh nghiệp mang tính khép kín, biệt lập theo
kiểu mạnh ai nấy làm. Quan hệ liên kết ngành còn rất hạn chế, chẳng hạn:
Trong khâu sản xuất, mặc dù nhiều doanh nghiệp may có cơng nghệ và sản
phẩm sản xuất giống nhau, nhưng các doanh nghiệp chưa có sự trao đổi, chia
sẻ kinh nghiệm sản xuất, về trang thiết bị và đào tạo lao động. Trong khi
doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp có vốn nước ngồi rất căng thẳng để hồn
thành những hợp đồng lớn thì doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp tư nhân lại
thiếu việc, nhưng khơng có sự chia sẻ hay hợp tác. Trong ngành cịn tình
trạng những máy móc chun dùng đắt tiền có tính chất quyết định đối với
chất lượng sản phẩm, các doanh nghiệp tư nhân khơng đủ sức trạng bị thì ở
14


Đề án môn học Kinh tế và Quản lý Công nghiệp

Đồn Duy Cường
doanh nghiệp nhà nước lại khơng phát huy hết cơng suất, gây ra lãng phí rất
lớn. Doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn nước ngồi chưa phát huy

được vai trò đầu đàn về kỹ thuật, định hướng về sản phẩm, mẫu mốt, chưa có
sự hỗ trợ hay hướng dẫn về kỹ thuật cho các doanh nghiệp nhỏ của địa
phương.
Còn trong khâu tiêu thụ, mỗi doanh nghiệp tự tổ chức hoạt động tiêu thụ
từ nghiên cứu thị trường, tìm kiếm khách hàng, tổ chức kênh phân phối, xây
dựng thương hiệu, quảng cáo... theo kiểu "đèn nhà ai nhà nấy rạng" thậm chí
cịn tranh giành khách hàng, thị trường của nhau để cho khách hàng được dịp
ép giá.
Có thể nói mức độ liên kết giữa các doanh nghiệp trong sản xuất, tiêu
thụ còn rất lỏng lẻo, mỗi doanh nghiệp đơn phương đương đầu cạnh tranh với
những đối thủ lớn rõ ràng sẽ vơ cùng khó khăn. Cách làm này không thể tồn
tại được trong bối cảnh cạnh tranh quốc tế đang đặt ra rất gay gắt với ngành
Dệt May.
Cơ cấu sản phẩm của các doanh nghiệp đa dạng nhưng tương tự nhau,
dẫn đến tình trạng chồng chéo. Các doanh nghiệp chưa tìm cho mình sản
phẩm mũi nhọn có tính chất đột phá, nên nên khó có chỗ đứng vững chắc trên
thị trường, việc tiêu thụ sản phẩm khó khăn, cạnh tranh nội bộ ngành tăng lên
không cần thiết. Đồng thời do sản xuất dàn trải nên doanh nghiệp không đủ
khả năng đi sâu hoàn thiện tất cả các chủng loại sản phẩm, từ đó dẫn đến chất
lượng sản phẩm khơng cao, mức độ chuẩn hố sản phẩm thấp.

15


Đề án môn học Kinh tế và Quản lý Công nghiệp

3.

Đoàn Duy Cường


Giải pháp phát triển các quan hệ liên kết giữa

các doanh nghiệp may mặc Việt Nam
3.1. Chiến lược phát triển của ngành may mặc
Vấn đề cốt lõi trong chính sách phát triển ngành may mặc là nên khuyến
khích phát triển quy mô sản xuất để giải quyết vấn đề xã hội hay là hạn chế
phát triển quy mô để đầu tư phát triển các hợp phần của chuỗi sản xuất có giá
trị gia tăng cao hơn như thiết kế, phụ trợ, thương mại hóa…Vì thế chiến lược
tăng trưởng tập trung áp dụng cho ngành không những tận dụng tối đa lợi thế
về lao động dồi dào, giá thấp, cần cù mà còn giải quyết được nhiều việc làm
từ đó hạn chế và giải quyết tận gốc các vấn đề xã hội.
Để thực hiện cầnchuyển đổi nhanh sở hữu từ doanh nghiệp nhà nước
sang khu vực phi nhà nước thơng qua các hình thức chư cổ phần hóa, bán
doanh nghiệp, sáp nhập…Bên cạnh đó là phát triển cơng nghiệp phụ trợ bao
gồm cả phụ trợ quy trình và phụ trợ chi tiết. Để tăng sức cạnh tranh trên thị
trường thế giới cần cơ cấu ngành theo hiệp hội và nhóm doanh nghiệp, hình
thành các tập đồn doanh nghiệp theo khu vực. Và cuối cùng nhằm đảm bảo
cho sự phát triểnbền vững, ngành may mặc Việt Nam cần phát triển các trung
tâm mẫu mốt, gắn công nghiệp may mặc với văn hóa Việt Nam, tạo sự khác
biệt hóa sản phẩm.
Phấn đấu đến 2010: dịch chuyển hết các doanh nghiệp sản xuất trong
ngành về khu vực nông thôn, khu, cụm công nghiệp. Giá trị sản xuất công
nghiệp của ngành đạt 10 tỷ USD, đến 2020 đạt khoảng 15-16 tỷ USD, đáp
ứng khoảng 70-80% nhu cầu may mặc trong nước.

3.2. Chính sách của nhà nước với ngành may mặc
Với vai trò là người dẫn đường, người định hướng cho các doanh nghiệp
may mặc, nhà nước cần tổ chức nghiên cứu tầm nhìn dài hạn đối với nền kinh
tế nói chung và ngành may mặc nói riêng. Từ đó làm rõ những cơ hội và
thách thức về các nguồn tài nguyên, năng lượng, môi trường, dân số, giáo

16


Đề án môn học Kinh tế và Quản lý Công nghiệp

Đoàn Duy Cường
dục, đào tạo, an ninh xã hội…và đưa ra những khuyến nghị thích hợp với các
doanh nghiệp.Cụ thể cần:
-

Đầu tư cho công tác nghiên cứu, quy hoạch phát triển ngành, các cơ

chế chính sách hỗ trợ phát triển.
-

Phát huy sức mạnh tổng thể của các thành phần kinh tế, khai thác

mọi nguồn lực cho phát triển. Tăng cường hợp tác, liên kết giữa các doanh
ngiệp trong và ngoài ngành, giữa các ngành để khai thác tối đa lợi thế của
nhau để cùng phát triển.
-

Phát triển thị trường hàng hóa kết hợp cả thị trường trong nước lẫn

thị trường quốc tế, đặc biệt chuẩn bị các điều kiện cho ngành hội nhập vững
vàng.
-

Nắm bắt kịp thời, chính xác mọi thơng tin có liên quan đền hoạt


động của ngành. Cần thường xuyên theo dõi diễn biến tình hình kinh tế thế
giới và khu vực để có giải pháp phù hợp và kịp thời.

-

Tiếp tục đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngồi, đổi mới cơng nghệ,

đổi mới quản lý.

3.3. Giải pháp từ bản thân với mơ hình cơng ty mẹ - con.
Mơ hình Cơng ty mẹ - Cơng ty con được đánh giá là một dạng mơ hình
tổ chức sản xuất tiên tiến, đang được áp dụng phổ biến trên thế giới; Nhờ kiểu
góp vốn linh hoạt nên các doanh nghiệp phát triển nhanh chóng về qui mơ,
tạo cơ sở để hình thành các tập đồn kinh tế lớn mạnh. Ở Việt Nam, mơ hình
này cũng đã bắt đầu được triển khai trong một số ngành và kết quả cho thấy
mơ hình tổ chức sản xuất mới này tỏ ra có nhiều ưu thế hơn, đã mang lại hiệu
quả sản xuất kinh doanh tốt cho các đơn vị. Trong ngành dệt may cả nước đã
có 06 cơng ty chuyển sang hoạt động theo mơ hình cơng ty mẹ - cơng ty con
là Công ty Dệt May Hà Nội, Công ty Dệt Phong Phú, Công ty Dệt Nam Định,
Công ty Dệt May Hồ Thọ, Cơng ty May Việt Tiến và Cơng ty May Nhà Bè.
Kết quả kinh doanh thực tế đều khẳng định là các công ty này đã thành công
hơn sau khi chuyển sang mơ hình mới, củng cố và tạo được vị thế vững chắc
17


Đề án môn học Kinh tế và Quản lý Công nghiệp

Đoàn Duy Cường
hơn trong ngành cũng như trên thị trường thế giới. Đối với các doanh nghiệp
ngành May, nếu tổ chức sản xuất theo mơ hình Cơng ty mẹ - Cơng ty con sẽ

mang lại cho họ những lợi ích sau:
-

Bên cạnh việc đi theo chiến lược chung của công ty mẹ, các doanh

nghiệp vẫn là những pháp nhân độc lập nên vẫn có thể phát huy được sự năng
động riêng của mình.
-

Những vấn đề lớn mà một cơng ty nhỏ, đơn lẻ giải quyết rất khó

khăn như: Vốn, đào tạo nhân lực, xây dựng thương hiệu, tìm kiếm khách hàng
nhập khẩu lớn, tổ chức kênh phân phối... sẽ tập trung về một đầu mối là cơng
ty mẹ có trách nhiệm đứng ra lo. Nhờ đó giảm bớt rủi ro, tiết kiệm chi phí do
phát huy được lợi thế về qui mơ.
-

Các cơng ty con sẽ chun mơn hóa cao hơn, tập trung chuyên sâu

vào chức năng sản xuất nên có điều kiện để hồn thiện kỹ thuật, hồn thiện
sản phẩm, nâng cao trình độ thành thạo của người lao động, nhờ đó nâng cao
năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, đó là yếu tố cơ bản để tăng khả
năng cạnh tranh của sản phẩm.
Công ty mẹ vừa thực hiện chức năng đầu tư tài chính vừa thực hiện chức
năng sản xuất - kinh doanh, có các các hoạt động chủ yếu sau:
-

Xây dựng chiến lược phát triển chung.

-


Tài chính và đầu tư: Cơng ty mẹ khai thác và tập trung các nguồn

vốn, cung cấp vốn cho các dự án, đầu tư vốn vào các công ty con.
-

Đào tạo nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ quản lý, kỹ thuật,

công nhân.
-

Cung cấp thông tin: thông tin về quản lý, về marketing.

-

Cung ứng nguyên liệu: Công ty mẹ là đầu mối khai thác tìm kiếm

nguồn cung cấp nguyên liệu cho các công ty con.
-

Quản lý việc xây dựng, sử dụng và bảo vệ thương hiệu chung.

18


Đề án môn học Kinh tế và Quản lý Công nghiệp

-

Đoàn Duy Cường

Tiêu thụ, xúc tiến thương mại: Giúp các cơng ty con tìm kiếm khách

hàng, đơn hàng, quảng bá sản phẩm, phát triển thị trường, tổ chức hệ thống
phân phối...
-

Nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ: Cung cấp, hỗ trợ kỹ

thuật cho công ty con, tạo điều kiện để trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm
nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ giữa các công ty con.
-

Điều phối sự liên kết giữa các công ty con.

Các cơng ty con vẫn có tư cách pháp nhân đầy đủ, có sự độc lập nhất
định trong sản xuất kinh doanh và có thể tìm các vệ tinh để hợp tác nhằm tăng
năng lực sản xuất. Thông qua công ty mẹ, các cơng ty con sẽ có sự chia sẻ về
vốn, về đào tạo, kỹ thuật, thông tin, nghiên cứu thị trường; tiêu thụ sản phẩm
dưới thương hiệu của công ty mẹ... Số lượng công ty con không hạn chế; các
công ty con sẽ đa dạng về qui mô cũng như hình thức sở hữu, gồm: Cơng ty
vốn nhà nước, các cơng ty liên doanh vốn nước ngồi, cơng ty cổ phần, công
ty TNHH. Các công ty con được chia thành 3 nhóm:
-

Nhóm 1 - Các cơng ty con chun về may: Đây là nhóm chủ lực

chịu trách nhiệm sản xuất sản phẩm chính, nhóm này sẽ tập hợp các cơng ty
may có sẵn trên địa bàn. Các cơng ty may sẽ được phân cơng sản xuất chun
mơn hố theo từng loại (hoặc nhóm) sản phẩm hồn chỉnh (mỗi cơng ty đảm
nhận chun mơn hố một hoặc một nhóm sản phẩm tương tự), hoặc được

phân công phối hợp hợp tác để sản xuất ra sản phẩm hồn chỉnh.
-

Nhóm 2 - Các công ty chuyên sản xuất phụ liệu cho ngành may: có

nhiệm vụ nghiên cứu sản xuất phụ liệu may như nút, chỉ, dây khố kéo, vải
lót...
-

Nhóm 3 - Trung tâm mẫu mốt: Có nhiệm vụ tạo mẫu cho vải và

cung cấp những mẫu mốt may mặc đa dạng kịp thời cho ngành may. Đây sẽ là
một đơn vị chuyên về thiết kế thời trang làm nòng cốt cho hoạt động thiết kế
thời trang trên địa bàn thành phố và khu vực miền Trung, đảm bảo tiến tới

19


Đề án môn học Kinh tế và Quản lý Công nghiệp

Đồn Duy Cường
chủ động về mẫu mốt, tạo uy tín nhãn hiệu riêng cho sản phẩm may, kể cả tạo
mốt cho vải.
Nhóm 2 và nhóm 3 là những doanh nghiệp sẽ được thành lập mới trong
đó ưu tiên cho việc thu hút các dự án đầu tư nước ngoài nhằm khai thác thế
mạnh về vốn và kỹ thuật của thành phần kinh tế này.
Mơ hình Cơng ty mẹ - Cơng ty con là mơ hình đáp ứng được u cầu về
liên kết giữa các doanh nghiệp, nhờ sự liên kết sẽ nâng cao năng lực sản xuất
và tạo ra sức mạnh cạnh tranh trong bối cảnh cạnh tranh quốc tế gay gắt hiện
nay. Để mơ hình đi vào hoạt động hiệu quả, sự liên kết giữa công ty mẹ với

các công ty con và giữa các công ty con với nhau diễn ra nhịp nhàng thuận
lợi, cần tuân thủ nghiêm túc các chính sách giao dịch trong nội bộ cơng ty và
hồn thiện các chính sách sao cho phù hợp với yêu cầu kinh doanh thực tế.

20



×