LỜI MỞ ĐẦU
Quốc hội và Chính phủ là hai cơ quan cao nhất Nhà nước song đảm
nhiệm những trọng trách riêng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Tuy nhiên, để có được sự đồng bộ trong hoạt động của bộ máy Nhà nước, giải
quyết các vấn đề của đời sống xã hội cũng như đảm bảo lợi ích toàn dân thì mối
quan hệ giữa hai cơ quan cao nhất này là điều tất yếu cần thiết lập và tăng
cường. Vậy, Quốc hội và Chính phủ có mối quan hệ gì? Mối quan hệ này được
thể hiện trong pháp luật hiện hành ra sao? Đó là những loại văn bản nào? Biểu
hiện của mối quan hệ này trên thực tế ra sao? Chúng ta hãy cùng nhau nghiên
cứu để tìm câu trả lời cho những thắc mắc trên.
NỘI DUNG
I. Một số nét cơ bản về Quốc hội và Chính phủ
1. Quốc hội:
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực
Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội có
quyền quyết định những vấn đề quan trọng nhất của đất nước và của nhân dân
thông qua Hiến pháp, các đạo luật; quyết định những chính sách cơ bản về đối
nội, đối ngoại, mục tiêu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nước; bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm những viên chức cao cấp
nhất của bộ máy nhà nước; Quốc hội biểu hiện tập trung ý chí và quyền lực của
nhân dân trong phạm vi toàn quốc, đại diện cho ý chí và lợi ích của nhân dân
lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
Nhiệm kỳ của Quốc hội là 5 năm, việc cử tuyển các đại biểu Quốc hội
đảm bảo cho nhân dân có quyền lựa chọn và bổ sung những đại diện mới vào
cơ quan quyền lực nhà nước của mình.
Chức năng của quốc hội bao gồm những phương diện lớn:
- Là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp.
- Quyết định những chính sách cơ bản nhất về những vấn đề quan trọng nhất
của đất nước.
- Thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước để
đảm bảo cho Hiến pháp, pháp luật được thi hành triệt để và thống nhất, bộ máy
Nhà nước hoạt động đồng bộ, có hiệun lực và hiệu quả.
2. Chính phủ:
Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Nhà
nước; đảm bảo việc tôn trọng và chấp hành Hiến pháp và pháp luật; phát huy
quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đảm
bảo ổn định và nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân.
Nhiệm kỳ của Chính phủ là 5 năm bằng với nhiệm kỳ của Quốc hội.
Chính phủ chịu trách nhiệm trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công
tác với Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.
3. Các yếu tố chi phối mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ
Một là, bản chất nhà nước thể hiện qua tính giai cấp và tính xã hội.
Nước ta hiện nay là nhà nước xã hội chủ nghĩa nên tính xã hội thể hiện rõ nét
hơn tính giai cấp.
` Hai là, nguyên tắc tổ chức quyền lực Nhà nước, đó là Nhà nước
của nhân dân, nhân dân bầu ra cơ quan đại diện cao nhất, có quyền thành lập ra
các cơ quan khác trong đó có chính phủ.
III. Mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ theo pháp luật hiện hành
1. Về vị trí, tính chất, chức năng của Quốc hội và Chính phủ
Điều 83 Hiến pháp 1992 quy định: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao
nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam...”.
Tại điều 109 Hiến pháp 1992 có quy định như sau: “Chính phủ là cơ
quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất...”.
Vậy, căn cứ điều 83 và điều 109 Hiến pháp 1992 ta nhận thấy giữa Quốc
hội có mối quan hệ chặt chẽ về vị trí, tính chất: đều là cơ quan nhà nước cao
nhất (Quốc hội – cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, Chính phủ – cơ quan
hành chính nhà nước cao nhất). Về chức năng, Chính phủ là cơ quan chấp hành
của Quốc hội nên giữa hai cơ quan này có mối quan hệ tương tác với nhau, hỗ
trợ lẫn nhau trong việc thực hiện chức năng của mình.
2. Về tổ chức, trật tự hình thành
Tại điểm 8 Điều 84 Hiến pháp 1992: “Quốc hội quyết định thành lập, bãi
bỏ Bộ, cơ quan ngang Bộ của Chính phủ; thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh
địa giới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; thành lập hoặc giải thể đơn vị
hành chính- kinh tế đặc biệt”. Khoản 7 Điều 2 Luật tổ chức Quốc hội năm 2001
quy định: “Quốc hội có quyền bầu, miễn nhiệm thủ tướng Chính phủ đồng thời
có quyền phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về bổ nhiệm, miễn nhiệm,
cách chức phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ”.
Theo điểm 2 Điều 144 Hiến pháp 1992 sửa đối năm 2001, chỉ có Quốc hội mới
có quyền phê chuẩn đề nghị trên của Thủ tướng Chính phủ, còn Ủy ban Thường
vụ Quốc hội có quyền ấy khi Quốc hội không còn họp nữa. Mặt khác, người giữ
chức danh quan trọng trong Chính phủ ngoài Thủ tướng Chính phủ, các thành
viên khác không nhất thiết là đại biểu Quốc hội (Điều 110 Hiến pháp)
Điều 5 Luật tổ chức Chính phủ quy định: “Nhiệm kỳ của Chính phủ theo
nhiệm kỳ của Quốc hội. Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chính phủ tiếp tục làm việc
cho đến khi Quốc hội khóa mới thành lập Chính phủ mới”.
Như vậy, Quốc hội quyết định cơ cấu, tính chất và nguyên tắc hoạt động
của Chính phủ; có quyền bầu và phê chuẩn việc bổ nhiệm, miễn các thành viên
Chính phủ (như là: Thủ tướng Chính phủ, các phó Thủ tướng Chính phủ, các
Bộ trưởng, thủ tướng cơ quan ngang Bộ...); có quyền thành lập, bãi bỏ các Bộ,
cơ quan ngang Bộ theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ và nhiệm kỳ của
Chính phủ theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Giữa hai cơ quan này có mối quan hệ
mật thiết về tổ chức và trật tự hình thành và mặc dù Chính phủ do Quốc hội
thành lập nhưng chắc chắn Chính phủ cũng có những tác động nhất định đến
Quốc hội. Mối quan hệ này là biểu hiện quan trọng của sự ảnh hưởng, tác động
của lập pháp đối với hành pháp.
3. Về hoạt động
Trước hết, Quốc hội ban hành Hiến pháp, luật, nghị quyết còn Chính phủ chịu
trách tổ chức triển khai, kiểm tra việc thực hiện các điều luật, nghị quyết đó. Ở
nước ta, Quốc hội hoạt động thông qua phương thức chính là các kỳ họp Quốc
hội thường kỳ mỗi năm hai lần còn Chính phủ hoạt động thông qua kỳ họp
thường kỳ mỗi tháng một lần để thực hiện các luật và nghị quyết đã thông qua
của Quốc hội. Tuy nhiên, Chính phủ có quyền triệu tập kỳ họp bất thường của
Quốc hội căn cứ vào Điều 86 Hiến pháp 1992: “...Trong trường hợp Chủ tịch
nước, Thủ tướng Chính phủ hoặc ít nhất là một phần ba tổng số đại biểu Quốc
hội yêu cầu hoặc theo quyết định của mình, Ủy ban thường vụ Quốc hội triêu tập
Quốc hội họp bất thường...”. Các kỳ họp bất thường của Quốc hội nhằm giải
quyết những vấn đề xảy ra trong hoàn cảnh đặc biệt. Có thể nói, Chính phủ là
cơ quan đóng vai trò quan trọng trong việc đưa pháp luật đi vào đời sống, đây
là một quyền năng quan trọng mà Quốc hội trao cho Chính phủ, thể hiện mối
quan hệ chặt chẽ giữa hai cơ quan này.
Thứ hai, Chính phủ chịu trách trước Quốc hội, báo cáo công tác trước Quốc hội,
Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước. Ngược lại, Quốc hội cũng tiến
hành hoạt động giám sát đối với Chính phủ do các cơ quan của Quốc hội đảm
nhiệm. Điều 91 Hiến pháp 1992 quy định: “Ủy ban thường vụ Quốc hội có
nhiệm vụ và quyền hạn... giám sát hoạt động của Chính phủ...” hay Luật tổ chức
Quốc hội có quy định Hội đồng dân tộc và các Ủy ban Quốc hội có quyền kiến
nghị với Thủ tướng Chính phủ và các thành viên khác của Chính phủ về những
vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Thứ ba, mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ thể hiện thông qua mối quan
hệ giữa thành viên Chính phủ với Quốc hội. Đó là đại biểu Quốc hội có quyền
chất vấn đối với các thành viên Chính phủ, tức là các thành viên Chính phủ
phải trả lời các câu hỏi của đại biểu Quốc hội trong phạm vi nhiệm vụ và quyền
hạn của mình. Thành viên Chính phủ được chia thành hai loại chủ thể: thành
viên Chính phủ là đại biểu Quốc hội và thành viên Chính phủ không là đại biểu
Quốc hội. Do đó, các thành viên Chính phủ có thể phát biểu trước Quốc hội với
hai tư cách là thành viên Chính phủ và đại biểu Quốc hội.
Thứ tư, Quốc hội có quyền sửa đổi hay hủy bỏ văn bản do Chính phủ ban hành
khi văn bản này trái với các văn bản do Quốc hội ban hành. Cũng tại Điều 91
Hiến pháp 1992: “Ủy ban thường vụ Quốc hội có nhiệm vụ và quyền hạn... đình
chỉ việc thi hành các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; hủy bỏ các
văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ...”. Điều này thể hiện mối quan
hệ giữa Quốc hội và Chính phủ trong định hướng tư tưởng cho việc xây dựng
các dự án luật cũng như trong quá trình soạn thảo các dự án Luật, pháp lệnh.
Thứ năm, các cơ quan trực thuộc Quốc hội có quyền thẩm tra các dự án (luật,
pháp lệnh...) mà cơ quan Chính phủ thực hiện theo yêu cầu của pháp luật. Đây
là mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ trong quá trình xây dựng chương
trình, kế hoạch hoạt động. Từ chỗ Quốc hội định hướng tư tưởng cho Chính
phủ về việc thực hiện các dự án luật, pháp lệnh, Quốc hội tiếp tục tham gia
thẩm tra các dự án mà Chính phủ thực hiện. Đây được xem là khâu quan trọng
vì có như vậy mới đảm bảo các dự án luật, pháp lệnh này đi sâu vào thực tiễn.
4. Về hình thức văn bản
Mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ còn thể hiện trong hình thức
văn bản do hai cơ quan này ban hành. Điều 83 Hiến pháp 1992 nhấn mạnh:
“Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp...”. Như vậy, Hiến