Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Vai trò và giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng ODA tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.82 KB, 23 trang )

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ ODA
1. Nguồn gốc ra đời.
Sau đại chiến thế giới thứ II các nước công nghiệp phát triển đã thoả thuận
về sự trợ giúp dưới dạng viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay với điều kiệm ưu
đãi cho các nước đang phát triển. Tổ chức tài chính quốc tế WB( Ngân hàng thế
giới) đã được thành lập tại hội nghị về tài chính- tiền tệ tổ chức tháng 7 năm 1944
tại Bretton Woods( Mỹ) với mục tiêu là thúc đẩy phát triển kinh tế và tăng trưởng
phúc lợi của các nước với tư cách như là một tổ chức trung gian về tài chính, một
ngân hàng thực sự với hoạt động chủ yếu là đi vay theo các điều kiện thương mại
bằng cách phát hành trái phiếu để rồi cho vay tài trợ đầu tư tại các nước.
Tiếp đó một sự kiện quan trọng đã diễn ra đó là tháng 12 năm 1960 tại Pari
các nước đã ký thoả thuận thành lập tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển( OECD).
Tổ chức này bao gồm 20 thành viên ban đầu đã đóng góp phần quan trọng nhất
trong việc dung cấp ODA song phương cũng như đa phương. Trong khuôn khổ
hợp tác phát triển , các nước OECD đã lập ra các uỷ ban chuyên môn trong đó có
uỷ ban hỗ trợ phát triển ( DAC) nhằm giúp các nước đang phát triển phát triển kinh
tế và nâng cao hiệu quả đầu tư.
2. Khái niệm, đặc điểm.
ODA là tên gọi tắt của ba chữ tiếng Anh: Official Development Assistance,
có nghĩa là Hỗ trợ phát triển chính thức hay còn gọi là Viện trợ phát triển chính
thức. Về thực chất, ODA là sự chuyển giao một phần thu nhập quốc gia từ các
nước phát triển sang các nước đang và chậm phát triển.
Theo Quy chế quản lý và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức
ban hành kèm theo Nghị định 131/2006/NĐ-CP ngày 09/11/2006 của Chính Phủ
thì ODA được định nghĩa như sau: “Hỗ trợ phát triển chính thức (gọi tắt là ODA)
được hiểu là hoạt động hợp tác phát triển giữa Nhà nước hoặc Chính Phủ nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với Nhà tài trợ là Chính phủ nước ngoài, các
tổ chức tài trợ song phương và các tổ chức liên quốc gia hoặc liên chính phủ”.
Phân loại nguồn vốn ODA
Theo Nhà tài trợ:
- ODA song phương: là nguồn vốn ODA của Chính phủ một nước cung cấp


cho Chính phủ nước tiếp nhận. Thông thường vốn ODA song phương được tiến
hành khi một số điều kiện ràng buộc của nước cung cấp vốn ODA được thoả mãn
- ODA đa phương: là nguồn vốn ODA của các tổ chức quốc tế cung cấp cho
Chính phủ nước tiếp nhận. So với vốn ODA song phương thì vốn ODA đa phương
ít chịu ảnh hưởng bởi các áp lực thương mại, nhưng đôi khi lại chịu những áp lực
mạnh hơn về chính trị.
Căn cứ theo mục đích:
- Hỗ trợ cơ bản: Là những nguồn lực được cung cấp để đầu tư xây dựng cơ
sở hạ tầng kinh tế, xã hội và môi trường. Đây thường là những khoản cho vay ưu
đãi.
- Hỗ trợ kỹ thuật: Là những nguồn lực dành cho chuyển giao tri thức, công
nghệ, xây dựng năng lực, tiến hành nghiên cứu cơ bản hay nghiên cứu tiền đầu tư,
phát triển thể chế và nguồn nhân lực… hình thức hỗ trợ này chủ yếu là viện trợ
không hoàn lại.
Theo hình thức cung cấp:
- ODA không hoàn lại: là hình thức cung cấp vốn ODA mà nước tiếp nhận
không phải hoàn trả lại cho các Nhà tài trợ.
- ODA vay ưu đãi (hay còn gọi là tín dụng ưu đãi): là khoản vay với các điều
kiện ưu đãi về lãi suất, thời gian ân hạn và thời gian trả nợ, bảo đảm “yếu tố không
hoàn lại” (còn gọi là “thành tố hỗ trợ”) đạt ít nhất 35% đối với các khoản vay có
ràng buộc và 25% đối với các khoản vay không ràng buộc;
- ODA vay hỗn hợp: là các khoản viện trợ không hoàn lại hoặc các khoản
vay ưu đãi được cung cấp đồng thời với các khoản tín dụng thương mại, nhưng
tính chung lại có “yếu tố không hoàn lại” đạt ít nhất 35% đối với các khoản vay có
ràng buộc và 25% đối với các khoản vay không ràng buộc.
ODA có những đặc điểm chủ yếu sau:
 Vốn ODA mang tính ưu đãi
Vốn ODA có thời gian cho vay( hoàn trả vốn) dài, có thời gian ân hạn dài.
Chẳng hạn, vốn ODA của WB, ADB, JBIC có thời gian hoàn trả là 40 năm, thời
gian ân hạn là 10 năm. Ngoài ra, vốn ODA còn có thành tố viện trợ không hoàn lại

tùy thuộc thời gian cho vay,thời gian ân hạn và lãi suất viện trợ. ODA chỉ dành
riêng cho các nước đang và chậm phát triển, vì mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội.
Về thực chất, ODA là sự chuyển giao có hoàn lại hoặc không hoàn lại trong những
điều kiện nhất định một phần tổng sản phẩm quốc dân từ các nước phát triển sang
các nước đang phát triển. Do vậy, ODA rất nhạy cảm về mặt xã hội và chịu sự điều
chỉnh của dư luận xã hội từ phía nước cung cấp cũng như từ phía nước tiếp nhận
ODA.
 Vốn ODA mang tính ràng buộc
Các nhà tài trợ có thể ràng buộc nước nhận về địa điểm chi tiêu hay một số điều
kiện chặt chẽ khác. Vốn ODA mang yếu tố chính trị thể hiện ở chỗ Các nước viện
trợ vừa gây ảnh hưởng chính trị nhằm xác định vị thế và ảnh hưởng của mình đồng
thời thực hiện xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ tư vấn vào nước tiếp nhận viện trợ để
mở mang thị trường tiêu thụ sản phẩm và thị trường đầu tư. Xét về lâu dài, các nhà
tài trợ sẽ có lợi về mặt an ninh, kinh tế, chính trị khi kinh tế các nước nghèo tăng
trưởng. Họ đòi hỏi nước tiếp nhận phải thay đổi chính sách phát triển cho phù hợp
vơí lợi ích của bên mình.
 ODA là nguồn vốn có khả năng gây nợ
Khi tiếp nhận và sử dụng nguồn vốn ODA do tính chất ưu đãi nên gánh nặng nợ
thường chưa xuất hiện. Một số nước do không sử dụng hiệu quả ODA có thể tạo
nên sự tăng trưởng nhất thời nhưng sau một thời gian lại lâm vào vòng nợ nần do
không có khả năng trả nợ.
Các nguồn cung cấp ODA chủ yếu:
Trong thời kỳ chiến tranh lạnh và đối đầu Đông Tây: Trên thế giới tồn tại 3 nguồn
ODA chủ yếu:
- Liên xô cũ, Đông Âu.
- Các nước thuộc tổ chức OECD.
- Các tổ chức quốc tế và phi Chính phủ.
Hiện nay, trên thế giới có hai nguồn ODA chủ yếu: các nhà tài trợ đa phương, và
các tổ chức viện trợ song phương.
* Các nhà tài trợ đa phương gồm :

- Các tổ chức thuộc hệ thống Liên Hiệp Quốc như :Chương trình phát triển của
Liên Hiệp Quốc (UNDP) ; Quĩ nhi đồng Liên Hiệp Quốc (UNICEF). Tổ chức Nông
nghiệp và lương thực (FAO); Chương trình lương thực thế giới (WFP+ Tổ chức y tế
thế giới (WHO)…
- Các tổ chức tài chính quốc tế như:+ Quĩ tiền tệ quốc tế (IMF)+ Ngân hàng thế
giới (WB)+ Ngân hàng phát triển Châu á (ADB)…
- Liên minh Châu Âu (EU), Các tổ chức phi Chính phủ (NGO), Tổ chức xuất khẩu
dầu mỏ (OPEC), Quĩ Cô - Oét.
* Các nước viện trợ song phương:
- Các nước thành viên Uỷ ban Hỗ trợ phát triển (DAC) của tổ chức Hợp tác và phát
triển kinh tế (OECD) và Các nước phát triển.
3. Vai trò của nguồn vốn ODA
a. Đối với nước xuất khẩu vốn
Viện trợ song phương tạo điều kiện cho các công ty của bên cung cấp hoạt động
thuận lợi hơn tại các nước nhận viện trợ một cách gián tiếp. Cùng với sự gia tăng
của vốn ODA, các dự án đầu tư của những nước viện trợ cũng tăng theo với những
điều kiện thuận lợi, đồng thời kéo theo sự gia tăng về buôn bán giữa hai quốc gia.
Ngoài ra, nước viện trợ còn đạt được những mục đích về chính trị, ảnh hưởng của họ
về mặt kinh tế - văn hoá đối với nước nhận cũng sẽ tăng lên.
b. Đối với các nước tiếp nhận
Thông qua ODA, các nước đang và kém phát triển sẽ có thêm vốn để phục vụ cho
quá để nhập khẩu máy móc thiết bị hiện đại từ các nước phát triển. ODA mang lại
nguồn lực cho đất nước, tạo ra cơ hội giúp các nước tiếp nhận được những điều kiện
tốt nhờ nâng cấp cơ sở hạ tầng tạo ra tiền đề đầu cho sự phát triển về lâu dài, giúp
các nước chịu các gánh nặng nợ lớn thực hiện việc thanh toán nợ tới hạn ; các nước
đang lâm vào tình trạng phá giá đồng nội tệ có thể phục hồi đồng tiền… Thông qua
nước cung cấp ODA nước nhận viện trợ còn có thêm nhiều cơ hội mới để tham gia
vào các tổ chức tài chính thế giới, đạt được sự giúp đỡ lớn hơn về vốn từ các tổ chức
này.
c. Đối với Việt Nam

Xuất phát từ kinh nghiệm của các nước trong khu vực như: Hàn Quốc,
Malaixia và từ tình hình thực tế trong nước, trong những năm gần đây Việt Nam đã
và đang thực hiện chiến lược phát triển kinh tế với xu hướng mở rộng và đa dạng
hoá các mối quan hệ kinh tế quốc tế. Một trong những mục tiêu chính trong chiến
lược này là thu hút ODA cho phát triển kinh tế. Vai trò của ODA được thể hiện ở
một số điểm chủ yếu sau:
ODA là nguồn bổ sung vốn quan trọng cho đầu tư phát triển
Sự nghiệp CNH, HĐH mà Việt Nam đang thực hiện đòi hỏi một khối lượng
vốn đầu tư rất lớn mà nếu chỉ huy động trong nước thì không thể đáp ứng được. Do
đó, ODA trở thành nguồn vốn từ bên ngoài quan trọng để đáp ứng nhu cầu vốn cho
đầu tư phát triển. Trải qua hai cuộc chiến tranh những cơ sở hạ tầng kỹ thuật của
chúng ta vốn đã lạc hậu lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề hầu như không còn gì,
nhưng cho đến nay hệ thống kết cấu hạ tầng đã được phát triển tương đối hiện đại
với mạng lưới điện, bưu chính viễn thông được phủ khắp tất cả các tỉnh, thành phố
trong cả nước, nhiều tuyến đường giao thông được làm mới, nâng cấp, nhiều cảng
biển, cụm cảng hàng không cũng được xây mới, mở rộng và đặc biệt là sự ra đời
của các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao đã tạo ra một môi
trường hết sức thuận lợi cho sự hoạt động của các doanh nghiệp trong và ngoài
nước. Bên cạnh đầu tư cho phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ thuật một
lượng lớn vốn ODA đã được sử dụng để đầu tư cho việc phát triển ngành giáo dục,
y tế, hỗ trợ phát triển ngành nông nghiệp …
ODA giúp cho việc tiếp thu những thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại và phát
triển nguồn nhân lực
Một trong những yếu tố quan trọng góp phần đẩy nhanh quá trình CNH,
HĐH đất nước đó là yếu tố khoa học công nghệ và khả năng tiếp thu những thành
tựu khoa học tiên tiến của đội ngũ lao động. Thông qua các dự án ODA các nhà tài
trợ có những hoạt động nhằm giúp Việt Nam nâng cao trình độ khoa học công
nghệ và phát triển nguồn nhân lực như: cung cấp các tài liệu kỹ thuật, tổ chức các
buổi hội thảo với sự tham gia của những chuyên gia nước ngoài, cử các cán bộ
Việt Nam đi học ở nước ngoài, tổ chức các chương trình tham quan học tập kinh

nghiệm ở những nước phát triển, cử trực tiếp chuyên gia sang Việt Nam hỗ trợ dự
án và trực tiếp cung cấp những thiết bị kỹ thuật, dây chuyền công nghệ hiện đại
cho các chương trình, dự án. Thông qua những hoạt động này các nhà tài trợ sẽ góp
phần đáng kể vào việc nâng cao trình độ khoa học, công nghệ và phát triển nguồn
nhân lực của Việt Nam và đây mới chính là lợi ích căn bản, lâu dài đối với chúng
ta.
ODA giúp cho việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế
Các dự án ODA mà các nhà tài trợ dành cho Việt Nam thường ưu tiên vào
phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ thuật, phát triển nguồn nhân lực tạo điều kiện
thuận lợi cho việc phát triển cân đối giữa các ngành, các vùng khác nhau trong cả
nước. Bên cạnh đó còn có một số dự án giúp Việt Nam thực hiện cải cách hành
chính nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước. Tất cả
những điều đó góp phần vào việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế ở Việt Nam.
ODA góp phần tăng khả năng thu hút FDI và tạo điều kiện để mở rộng đầu tư phát
triển
Các nhà đầu tư nước ngoài khi quyết định bỏ vốn đầu tư vào một nước,
trước hết họ quan tâm tới khả năng sinh lợi của vốn đầu tư tại nước đó. Do đó, một
cơ sở hạ tầng yếu kém như hệ thống giao thông chưa hoàn chỉnh, phương tiện
thông tin liên lạc thiếu thốn và lạc hậu, hệ thống cung cấp năng lượng không đủ
cho nhu cầu sẽ làm nản lòng các nhà đầu tư vì những phí tổn mà họ phải trả cho
việc sử dụng các tiện nghi hạ tầng sẽ lên cao. Một hệ thống ngân hàng lạc hậu cũng
là lý do làm cho các nhà đầu tư e ngại, vì những chậm trễ, ách tắc trong hệ thống
thanh toán và sự thiếu thốn các dịch vụ ngân hàng hỗ trợ cho đầu tư sẽ làm phí tổn
đầu tư gia tăng dẫn tới hiệu quả đầu tư giảm sút.
Như vậy, đầu tư của chính phủ vào việc nâng cấp, cải thiện và xây mới các
cơ sở hạ tầng, hệ thống tài chính, ngân hàng đều hết sức cần thiết nhằm làm cho
môi trường đầu tư trở nên hấp dẫn hơn. Nhưng vốn đầu tư cho việc xây dựng cơ sở
hạ tầng là rất lớn và nếu chỉ dựa vào vốn đầu tư trong nước thì không thể tiến hành
được do đó ODA sẽ là nguồn vốn bổ sung hết sức quan trọng cho ngân sách nhà
nước. Một khi môi trường đầu tư được cải thiện sẽ làm tăng sức hút dòng vốn FDI.

Mặt khác, việc sử dụng vốn ODA để đầu tư cải thiện cơ sở hạ tầng sẽ tạo điều kiện
cho các nhà đầu tư trong nước tập trung đầu tư vào các công trình sản xuất kinh
doanh có khả năng mang lại lợi nhuận.
Rõ ràng là ODA ngoài việc bản thân nó là một nguồn vốn bổ sung quan
trọng cho phát triển, nó còn có tác dụng nâng cao trình độ khoa học, công nghệ,
điều chỉnh cơ cấu kinh tế và làm tăng khả năng thu hút vốn từ nguồn FDI góp phần
quan trọng vào việc thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG
NGUỒN VỐN ODA TẠI VIỆT NAM
1. Thực trạng huy động vốn ODA tại Việt Nam.
Các nhà tài trợ và lĩnh vực ưu tiên tài trợ cho Việt Nam:
Trên thế giới hiện nay có 4 nguồn cung cấp ODA chủ yếu là: Các nước
thành viên của DAC; Liên Xô cũ và các nước Đông Âu; Một số nước arập và một
số nước đang phát triển. Trong các nguồn này ODA từ các nước thành viên DAC
là lớn nhất. Bên cạnh ODA từ các quốc gia thì ODA từ các tổ chức viện trợ đa
phương cũng chiếm một khối lượng lớn trong đó bao gồm: Các tổ chức thuộc hệ
thống Liên hợp quốc, Liên minh châu âu(EU), các tổ chức phi chính phủ(NGO),
các tổ chức tài chính quốc tế( WB, ADB, IMF)…
Nhà tài trợ Ưu tiên toàn cầu Ưu tiên ở Việt Nam
Nhật
CHLB Đức
Mỹ
Pháp
Canađa
Hạ tầng kinh tế & dịch vụ
Phát triển kinh tế; cải thiện điều
kiện sống
Tăng trưởng kinh tế; ổn định
dân số và sức khoẻ

Phát triển đô thị; GTVT; giáo
dục; khai thác mỏ
Cơ sở hạ tầng; phát triển khu
vực tư nhân; MT
Nhiều lĩnh vực
Thúc đẩy phát triển kinh tế &
Hạ tầng kinh tế & dịch vụ
Hỗ trợ cải cách kinh tế; phát
triển hệ thống GT
Cứu trợ nạn nhân chiến tranh &
trẻ em mồ côi
Phát triển nhân lực; GTVT;
thông tin liên lạc
Hỗ trợ kinh tế & TC; hỗ trợ thiết
chế & quản lý
Xoá đói giảm nghèo; GTVT
Xoá đói giảm nghèo; GTVT.
Anh
WB
IMF
tăng phúc lợi.
Cân bằng về mậu dịch quốc tế;
ổn định tỷ giá hối đoái.
Hỗ trợ cán cân thanh toán& điều
chỉnh cơ cấu.
Cùng với xu hướng tăng lên của ODA Việt Nam đã thực hiện đa phương hóa
với các nhà tài trợ. Hiện nay, đã có 28 nhà tài trợ song phương và 23 tổ chức tài trợ
đa phương cho Việt Nam, ngoài ra còn có trên 350 tổ chức phi chính phủ hoạt
động tại Việt Nam cung cấp bình quân một năm khoản 100 triệu USD viện trợ
không hoàn lại. Trong đó Nhật Bản là quốc gia viện trợ song phương lớn nhất,

chiếm 42,9% và Ngân hàng thế giới là cơ quan viện trợ đa phương lớn nhất, chiếm
hơn 26,6 % trong tổng số vốn ODA cho Việt Nam. Các nhà tài trợ lớn tiếp theo là
Ngân hàng Phát triển Châu Á hơn 14,4%; Pháp hơn 4,4%; Đức hơn 2,9%; Đan
Mạch hơn 2,7%; Thụy Điển hơn 2%; Trung Quốc 1,5%; Úc 1,4%; Liên minh Châu
Âu 1,3%.
a. Giai đoạn 1993 – 2005
Công tác vận động nguồn vốn hỗ trợ phát triển (ODA) trong thời kỳ 2001 - 2005
đã được thực hiện tích cực, theo chủ trương của Đảng và Nhà nước Việt Nam sẵn
sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì
hoà bình, độc lập và phát triển. Việc vận động ODA đã được thực hiện dưới nhiều
hình thức khác nhau và ở tất cả các cấp từ Trung ương đến cơ sở cũng như ở các
cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài.
Tổng lượng ODA cam kết đạt 14,7 tỷ USD
Thông qua các Hội nghị CG thường niên, các nhà tài trợ đã cam kết ODA cho Việt
Nam với mức năm sau cao hơn năm trước và dự kiến tổng lượng đạt 14,7 tỷ USD
trong giai đoạn 2001 - 2005. Số vốn ODA cam kết nói trên bao gồm viện trợ không
hoàn lại chiếm khoảng 15 - 20%, phần còn lại là vốn vay ưu đãi. Số vốn ODA cam
kết này được sử dụng trong nhiều năm, tuỳ thuộc vào thời hạn của các chương
trình và dự án cụ thể. Giai đoạn 2001-2005, ODA đã bổ sung khoảng 11% tổngvốn
đầu tư toàn xã hội và khoảng 17% tổng vốn đầu tư từ Ngân sách Nhà nước. Để sử
dụng nguồn vốn ODA đã cam kết, Việt Nam đã ký kết với các nhà tài trợ các điều
ước quốc tế về ODA (dự án, nghị định thư, hiệp định, chương trình). Tính từ năm
2001 đến hết 2004, tổng giá trị các điều ước quốc tế về ODA đã được ký kết đạt
8.781 triệu USD, trong đó 7.385 triệu USD vốn vay và 1.396 triệu USD viện trợ
không hoàn lại, chiếm khoảng 78% tổng nguồn vốn ODA đã được cam kết trong
cùng giai đoạn
b. Giai đoạn 2006 – 2010
Ngành, lĩnh vực Gía trị ODA theo
hiệp định 2001-2005
Dự báo giá trị

ODA theo hiệp
định 2006-2010
Dự báo
giá trị
ODA
cam
kết
Tỷ USD Tỷ
trọng
đầu tư
Tỷ
USD
Tỷ
trọng
đầu tư
Tỷ
USD
Nông nghiệp, thuỷ lợi, thuỷ
sản kết hợp với phát triển
nông thôn và xoá đói giảm
nghèo
1,6 14,6% 2,2-2,5 18%0 2,9-3,3
Năng lượng và công nghiệp 2,1 18,7% 1,9-2,2 16% 2,6-2,9
Giao thông, bưu chính-viễn
thông, cấp thoát nước và đô
thị
2,9 26,3% 3,6-4,1 30% 4,8-5,5
Y tế, giáo dục và đào tạo,
môi trường, khoa học công
nghệ và các ngành khác

4,5 40,4% 4,3-
4,9%
36% 5,8-6,6
Tổng 11,1 100% 12,0-
13,6
100% 16,0-
18,2
Nguồn: Trung tâm thông tin và dự báo Kinh tế-xã hội Quốc gia
Trong 3 năm 2006-2008, tình hình vận động và thu hút ODA có sự bứt phá
mạnh mẽ. Với đặc trưng là Hội nghị CG cho Việt Nam thường tổ chức vào cuối
năm, do vậy Hội nghị CG năm nay đưa ra cam kết ODA cho năm sau. Cam kết
ODA tại Hội nghị CG năm 2005: 3,74 tỷ USD, năm 2006: 4,45 tỷ USD, năm 2007:
5,43 tỷ USD và năm 2008: 5,0146 tỷ USD. Tổng vốn ODA đã ký trong ba năm
2006-2008 đạt 11,070 tỷ USD (trong đó, vốn vay: 10,143 tỷ USD, viện trợ không
hoàn lại: 0,927 tỷ USD).
Đ ể hi ệ n t h ự c h ó a s ố v ố n 5 , 9 1 4 t ỷ U S D O D A đ ã c a m k ế t
t ạ i H ộ i n g h ị thường niên Nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam (Hội nghị
CG) năm 2008,cũng như những cam kết của các năm trước, các nhà tài trợ
đã hợp tác chặt chẽvới các Bộ, ngành và địa phương trong việc xây dựng và phê
duyệt dự án, ký kết các điều ước quốc tế cụ thể về ODA. Tổng vốn
ODA đã ký từ năm 2009 đạt 5.793 triệu USD (trong đó, vốn vay: 5.530
triệu USD, viện trợ không hoàn lại:263 triệu USD), cao hơn 46,66% so với
vốn ODA ký kết năm 2008.
Một số nhà tài trợ có giá trị vốn ODA đã ký lớn như Nhật Bản
(2.112,28triệu USD), WB (1.445,86 triệu USD) và ADB (1.330,7
triệu USD). Nhữngchương trình, dự án có giá trị lớn được ký kết tập trung chủ
yếu vào lĩnh vực giaothông, cấp thoát nước và phát triển đô thị, bao gồm: "Xây
dựng đường vành đai 3H à N ộ i " ( 2 4 5 , 2 7 t r i ệ u U S D ) ; “ C ả i t h i ệ n
m ô i t r ư ờ n g n ư ớ c t h à n h p h ố H u ế ” (182,48 triệu USD) do JBIC tài trợ;
“Khoản vay hỗ trợ khắc phục tác động khủnghoảng” trị giá 500 triệu USD, “Phát

triển toàn diện thành phố Thanh Hóa” trị giá104,7 triệu USD do ADB và Hàn
Quốc tài trợ; “Tín dụng ngành giao thông vậntải để nâng cấp mạng lưới
đường bộ giai đoạn 2” trị giá 183,51 triệu USD; “Xâydựng tuyến đường sắt đô thị
thành phố Hà Nội” trị giá 150,43 triệu USD do NhậtBản tài trợ; và “Khoản tài trợ
bổ sung cho Dự án năng lượng nông thôn II” trị giá200 triệu USD, “Chương
trình bảo đảm chất lượng trường học” trị giá 127 triệuUSD, “Cung cấp
nước sạch và thủy lợi tỉnh Bình Thuận” trị giá 19,74 triệu USD và “Thoát nước và
xử lý nước thải thành phố Cà Mau” trị giá 17,89 triệu USD doÝ tài trợ, …Ngoài
ra, còn có một số khoản viện trợ không hoàn lại như: “Pháttriển nông
nghiệp miền Tây Nghệ An giai đoạn III” trị giá 7,79 triệu USD
doLuxembourg viện trợ, “Chương trình hợp tác chung với Liên Hợp Quốc
về bìnhđẳng giới” trị giá 4,6 triệu USD do Chương trình phát triển của
Liên Hợp Quốc (UNDP) viện trợ,…
Trong năm 2010, vốn vay khoảng 3,2 tỷ USD, vốn viện trợ không hoàn lại
khoảng 300 triệu USD. So với mức giải ngân ODA năm 2009, giải ngân theo các
chương trình, dự án năm 2010 dự kiến tăng 30%, đạt 2,942 tỷ USD. Cũng trong
năm 2010, tổng giá trị vốn ODA được ký kết thông qua các Hiệp định ước đạt
3,172 tỷ USD, trong đó vốn vay đạt 3,034 tỷ USD, viện trợ không hoàn lại đạt 138
triệu USD. Như vậy, mức ký kết ODA năm 2010 thấp hơn dự kiến (4,093 tỷ USD)
chủ yếu do chậm trễ trong việc chuẩn bị các thủ tục thẩm định và phê duyệt dự án,
Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho hay. Tại Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho
Việt Nam năm 2010, cộng đồng các nhà tài trợ đã cam kết tài trợ cho Việt Nam 7,9
tỷ USD.
2. Thực trạng sử dụng và quản lý vốn ODA tại Việt Nam
a. Giai đoạn 2001 – 2005
Nguồn vốn ODA đã được ưu tiên sử dụng cho các lĩnh vực như giao thông
vận tải; phát triển nguồn và mạng lưới truyền tải và phân phối điện; phát triển nông
nghiệp và nông thôn bao gồm thuỷ lợi, thuỷ sản, lâm nghiệp kết hợp xoá đói giảm
nghèo; cấp thoát nước và bảo vệ môi trường; y tế, giáo dục và đào tạo khoa học và
công nghệ, tăng cường năng lực và thể chế Cơ cấu sử dụng ODA gần sát với yêu

cầu do Đại hội IX đề ra.
Nguồn vốn ODA đã được giải ngân tính cho ngân sách nhà nước (không bao
gồm phần giải ngân cho các khoản chi tại nước tài trợ, chi cho chuyên gia ) trong
giai đoạn từ năm 2001 đến hết năm 2004 ước đạt khoảng 6.172 triệu USD, bằng
71,9% tổng giá trị các điều ước quốc tế về ODA đã ký kết và bằng 55% tổng lượng
ODA đã cam kết trong thời kỳ này. Dự kiến giải ngân trong năm 2005 sẽ đạt
khoảng 1.700 triệu USD.
Mức giải ngân ODA khác nhau giữa các nhà tài trợ và giữa các loại hình dự
án. Các dự án hỗ trợ kỹ thuật thường có mức giải ngân cao (chủ yếu là chi cho
chuyên gia, mua sắm thiết bị, máy móc và đào tạo). Các dự án đầu tư xây dựng
thường giải ngân chậm do mất nhiều thời gian cho công tác chuẩn bị đầu tư như
đền bù, di dân và tái định cư, đấu thầu và xét thầu. Nhìn chung, giải ngân ODA
trong thời gian qua mới đạt khoảng 70 - 80% kế hoạch đề ra.
Công tác quản lý nhà nước về ODA đã được tăng cường. Năm 2001, Chính
phủ đã ban hành Nghị định mới về quản lý và sử dụng ODA, tạo ra khung pháp lý
chặt chẽ và khá đồng bộ đối với công tác quản lý nhà nước về ODA. Trong giai
đoạn 2001 - 2005, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính đã ban hành nhiều văn
bản pháp quy hướng dẫn thực hiện Nghị định nói trên của Chính phủ. Công tác
quản lý nhà nước về ODA ở các cấp về cơ bản đã tập trung vào một đầu mối, ở
Trung ương là Bộ Kế hoạch và Đầu tư, ở các Bộ là các Vụ Kế hoạch và Đầu tư
hoặc Vụ Hợp tác quốc tế, ở các tỉnh là các Sở Kế hoạch và Đầu tư. Tuy nhiên, ở
một số địa phương công tác quản lý ODA vẫn còn phân tán, ảnh hưởng tới công
tác phối hợp và sử dụng có hiệu quả nguồn lực này.
Nhìn chung, sự ổn định chính trị, xã hội; công cuộc đổi mới được tiếp tục cả
chiều sâu lẫn bề rộng, nền kinh tế có tăng trưởng liên tục, năm sau cao hơn năm
trước; công tác xoá đói giảm nghèo đạt được những kết quả rõ rệt; nhiều vấn đề
phát triển xã hội đạt được những tiến bộ khích lệ, chủ động hội nhập quốc tế được
triển khai tích cực đã tạo ra một môi trường rất thuận lợi để vận động ODA hỗ trợ
cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội trong 5 năm 2001 - 2005.
b. Giai đoạn 2006 – 2010

Vốn ODA trong giai đoạn 2001-2009 Đơn vị: tỷ USD
Năm Cam kết Ký kết Giải ngân Tỷ lệ giải
ngân
2001-2005 13,03 10,16 8,06 0,62
2006-2009 5,28 _ 2,5 0,42
Nguồn: Bộ kế hoạch và Đầu tư
Vốn ODA được phân bố theo ưu tiên mà Chính Phủ đề ra cho các ngành
kinh tế, trong đó chủ yếu cho lĩnh vực giao thông vận tải, bưu chính viễn thông
,năng lượng và công nghiệp với đối tượng là dự án cơ sở hạ tầng chiếm tỷ lệ lớn
nhất với 35,15%. Tiếp đến là lĩnh vực giáo dục đào tạo, y tế, môi trường và công
nghệ là 25,9%, nông nghiệp, phát triển nông thôn chiếm15,9%.
Các lĩnh vực sử dụng vốn ODA trong thời gian qua gồm có: nâng cấp và xây
dựng mới trên 3700 km đường quốc lộ, hơn 1000 km đường tỉnh lộ, hơn 10000 km
đường nông thôn, hàng trăm cây cầu lớn nhỏ, nhiều cảng biển, sân bay, gần chục
nhà máy nhiệt điện, thủy điện có tổng công suất thiết kế chiếm tới hơn 40% tổng
công suất điện hiện nay của cả nước, hàng chục công trình thủy lợi, cấp nước đô
thị và nông thôn, hàng trăm trường học, bệnh viện được xây hoặc nâng cấp.Ngoài
ra nhiều công trình nghiên cứu tư vấn về các loại quy hoạch, về cải cách thể chế
kinh tế, về đổi mới hoạt động tài chính ngân hàng cũng được thực hiện bằng vốn
ODA. Theo kinh nghiệm của các nước sử dụng ODA của Mỹ, Nhật bản, WB,
ADB là sử dụng vào việc xây dựng nhiều công trình hạ tầng cơ sở quan trọng ở
Việt nam, việc xây dựng hạ tầng cơ sở kinh tế - xã hội là yếu tố cấp bách, nhưng
nguồn vốn trong nước chỉ có thể đáp ứng được 40%. Vì vậy ODA chủ yếu để đầu
tư cho hạ tầng kinh tế - xã hội, điều này cũng phù hợp với định hướng của các
nước và tổ chức tài trợ.
Cơ cấu sử dụng vốn ODA theo ngành lĩnh vực trong giai đoạn 2006-2009
Ngành, lĩnh vực
Hiệp định ODA kí kết 2006-2009
Tổng Tỷ lệ %
Nông nghiệo và phát triển nông thôn kết hợp

xóa đói giảm nghèo
2,89 15,90
Năng lượng và công nghiệp 3,36 22,97
Giao thông vận tải, bưu chính viễn thông,
cấp thoát nước và phát triển đô thị.
6,62 38,32
Y tế, giáo dục đào tạo, môi trường, khoa học
kĩ thuật, các ngành khác
4,4 25,48
Tổng 17,28 100
Nguồn: http://www.m pi.gov.vn
Sự phân bố nguồn vốn ODA giữa các vùng miền, giữa Trung ương và địa
phương mặc dù đã có những cải thiện nhất định song vẫn chưa đáp ứng yêu cầu.
Trong thời gian qua đã có 1 số chương trình, dự án ODA đã thực hiện xong
và hiện đang phát huy tác dụng tích cực trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội
Việt Nam như nhà máy điện tử dụng khí thiên thiên phú Mỹ 2 - giai đoạn 1, nhiều
bệnh viện ở các thành phố, các trường học đã được cải tạo và nâng cấp.
Nguồn ODA cũng đã hỗ trợ tăng cường năng lực phát triển thể chế cho
nhiều lĩnh vực quan trọng như tài chính, ngân hàng
Đối với nhiều chương trình, dự án ODA đã thực hiện phương thức đấu thầu
cạnh tranh quốc tế, do đó cơ quan hưởng thụ Việt Nam đã lựa chọn được các công
ty thực hiện dự án vừa đáp ứng được yêu cầu kỹ thuật và công nghệ, vừa tiết kiệm
được vốn vay.
Phân bố nguồn vốn ODA giữa các vùng
S
T
Vùng kinh tế ODA (triệu USD) Dân số ODA/người
(USD/người
)
Tổng Trong đó

T
vay Viện trợ
1
Vùng trung du
miền núi phía
bắc
409,33 342,85 66,48 11092,70 36,9
2
Vùng ĐB Sông
Hồng
3989,47 3925,36 64,11 19487,33 204,72
3
Vùng Bắc Trung
Bộ và duyên hải
miền trung
1566,05 1464,68 101,37 19658,30 79,66
4 Tây Nguyên 74,66 34,7 39,96 4931,07 15,14
5 Đông Nam Bộ 894,39 865,44 28,95 12460,57 71,78
6
ĐB sông Cửu
Long
907,16 813,25 93,91 17543,13 51,71
Liên vùng 8822,35 8143,5 678,85
Tổng số 16663,41 15989,78 1073,63 85173,1
CHƯƠNG III
THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ TRONG QUÁ TRÌNH HUY
ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG VỐN ODA TẠI VIỆT NAM
1. Thành tựu
1.1 Thành tựu trong quá trình huy động vốn ODA vào Việt Nam:
Các chính sách thu hút và sử dụng ODA của Việt Nam trong thời gian qua

đã phát huy hiệu quả.
Số liệu Bộ Kế hoạch - Đầu tư (KH-ĐT) cho thấy trong 5 năm 2006-2010,
tổng số vốn ODA cam kết cho Việt Nam đạt 31,7 tỷ USD, tăng 21,5% so với giai
đoạn 5 năm trước đó. Các chương trình, dự án tài trợ được ký kết trong thời kỳ
2006-2010 cũng đạt 20,1 tỷ USD, tăng 17,9% so với 5 năm trước. Vốn giải ngân
được trong thời kỳ này đạt 13,8 tỷ USD, tăng 17% so với giai đoạn trước đó.
Trong 6 tháng đầu năm 2011, việc huy động và giải ngân ODA tiếp tục đạt
kết quả ấn tượng, trong đó giải ngân vốn ODA đã tăng cao kỷ lục. Theo số liệu của
Bộ KH-ĐT, tổng giá trị giải ngân vốn ODA 5 tháng đầu năm 2011 ước tính đạt
1,26 tỷ USD, bằng 52,5% kế hoạch giải ngân của cả năm. Đây được xem là con số
giải ngân ODA cao kỷ lục so với nhiều năm trước đó. Dự báo cho 6 tháng đầu năm
nay, Bộ KH-ĐT ước tính khả năng vốn ODA giải ngân đạt khoảng 1,35 tỷ USD,
bằng 56,25% kế hoạch cả năm.
Vốn ODA ký kết cũng tăng rất cao trong 6 tháng đầu năm nay. Tổng số vốn
ODA ký kết trong 5 tháng đầu năm nay thông qua các hiệp định từ mức hơn 1 tỷ
USD trong các công bố chính thức cách đây khoảng hai tháng, vọt lên trên 1,66 tỷ
USD, tăng khoảng 20% so với cùng kỳ năm ngoái. Về hoạt động thu hút vốn
ODA, chỉ tính trong 4 tháng đầu năm đã có 11 dự án viện trợ chính thức được ký
kết với tổng giá trị 1.028,21 triệu USD, gấp hơn 2 lần so với cùng kỳ. Trong đó
vốn vay đạt 1.002,28 triệu USD, viện trợ không hoàn lại đạt 25,93 triệu USD.
Đáng chú ý có những dự án quy mô lớn như dự án xây dựng Nhà máy điện Nghi
Sơn 2 trị giá 365,82 triệu USD; dự án xây dựng cầu Nhật Tân 2 trị giá 304,25 triệu
USD.
1.2. Thành tựu trong quá trình sử dụng vốn ODA tại Việt Nam:
Công tác thu hút và sử dụng vốn ODA của Việt Nam trong những năm gần
đây được Đảng và các nhà đầu tư đánh giá là cơ bản có hiệu quả. ODA Việt Nam
đã có những tác động tích cực tới các ngành và lĩnh vưc cụ thể:
Trong lĩnh vực Nông nghiệp và phát triển nông thôn, vốn ODA đã góp
phần đáng kể phát triển hệ thống thuỷ lợi, lưới điện nông thôn, trường học, trạm y
tế, giao thông nông thôn, cấp nước sinh hoạt, tín dụng nông thôn quy mô nhỏ, phát

triển nông thôn tổng hợp kết hợp xoá đói, giảm nghèo.
Nhờ có vốn ODA, ngành Năng lượng điện đã tăng đáng kể công suất
nguồn; phát triển và mở rộng mạng lưới phân phối điện, kể cả lưới điện nông thôn,
một số cơ sở sản xuất công nghiệp được đầu tư bằng nguồn vốn ODA đã góp phần
tạo công ăn việc làm ở một số địa phương.
Trong lĩnh vực Giao thông vận tải và Bưu chính viễn thông, vốn ODA đã
góp phần nâng cấp và phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật và cải thiện chất lượng dịch
vụ. Hệ thống đường bộ, đường sắt, đường thuỷ nội địa, cảng biển, đường hàng
không, cơ sở hạ tầng bưu chính, viễn thông đã có những bước phát triển rõ rệt.
Về Giáo dục và đào tạo, vốn ODA đã được sử dụng để tăng cường cơ sở vật
chất, kỹ thuật cho công tác dạy và học ở tất cả các cấp (giáo dục tiểu học, trung
học cơ sở, trung học phổ thông, giáo dục đại học, cao đẳng và dạy nghề); đổi mới
sách giáo khoa và chương trình giáo dục phổ thông; đào tạo nâng cao trình độ giáo
viên; gửi giáo viên và sinh viên đi đào tạo và bồi dưỡng ở nước ngoài; xây dựng
chính sách và tăng cường năng lực quản lý ngành.
Trong lĩnh vực Y tế, vốn ODA đã được sử dụng để tăng cường cơ sở vật
chất và kỹ thuật cho công tác khám và chữa bệnh, tăng cường công tác kế hoạch
hóa gia đình; phòng chống HIV/AIDS và các bệnh truyền nhiễm; đào tạo cán bộ y
tế; hỗ trợ xây dựng chính sách và nâng cao năng lực quản lý ngành.
ODA, làm hài hoà thủ tục giữa Việt Nam và các nhà tài trợ để thúc đẩy tiến
trình thực hiện các chương trình, dự án.
2 . Hạn chế trong việc huy động và sử dụng ODA:
Thứ nhất, công tác quy hoạch thu hút và sử dụng ODA chưa thực sự hướng
vào các lĩnh vực và vùng được ưu tiên.
Thứ hai, nhiều cơ quan thụ hưởng ODA của chúng ta chưa phát huy được
vai trò làm chủ trong việc thu hút và sử dụng ODA. Trong việc hình thành các dự
án ODA, các cơ quan thụ hưởng chưa xuất phát từ nhu cầu thực tế mà còn phụ
thuộc vào nhà tài trợ. Ngoài ra, trong quá trình thực hiện các dự án ODA, các đối
tác trong nước vẫn còn thiếu chủ động, còn trông chờ vào chuyên gia và tư vấn
nước ngoài.

Thứ ba, nhiều thủ tục và quy định liên quan tới ODA thiếu tính đồng bộ.
Ở trong nước các quy định về đấu thầu, về đền bù thiệt hại khi di dân và giải
phóng mặt bằng còn chưa thống nhất, quy trình và thủ tục ODA của ta còn phức
tạp, rườm rà làm kéo dài thời gian chuẩn bị và thực hiện các chương trình, dự án
đầu tư, ảnh hưởng đến tiến độ giải ngân và hiệu quả dự án.
Bên cạnh đó, các quy định của một số nhà tài trợ phức tạp, kém linh hoạt và
thiếu minh bạch, gây ra không ít khó khăn và chậm chễ cho quá trình thực hiện
các dự án.
Thứ tư, các văn bản pháp quy về quản lý và sử dụng ODA chưa được thực
hiện nghiêm chỉnh. Theo quy định, đàm phán điều ước quốc tế với nhà tài trợ phải
dựa trên cơ sở văn kiện dự án hoặc báo cáo nghiên cứu khả thi được cấp có thẩm
quyền phê duyệt. Song nhiều trường hợp, phía Việt Nam đã đàm phán và ký kết
khi dự án chưa được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Kết quả là sau khi ký kết phải
mất nhiều thời gian chỉnh sửa dự án, làm chậm giải ngân và giảm hiệu quả dự án.
Thứ năm, công tác theo dõi và đánh giá các chương trình, dự án ODA ở các
cấp, các ngành còn bị buông lỏng. Nhiều cơ quan chủ quản ở trung ương và các
tỉnh chưa quản lý được các dự án của mình. Quy định về báo cáo tình hình thực
hiện các chương trình, dự án ODA thực hiện thiếu nghiêm túc dẫn đến thất thoát
lãng phí. Thất thoát trong xây dựng cơ bản hiện nay của Việt Nam chiếm khoảng
20%-30% tổng vốn đầu tư trong từng dự án.
Thứ sáu, Quá trình tổ chức thực hiện dự án gặp nhiều ách tắc, kéo dài thời
gian dẫn đến tốc độ giải ngân vốn ODA chậm.
Những ách tắc chủ yếu diễn ra trong các khâu sau:
- Giải phóng mặt bằng: Theo tài liệu theo dõi của Bộ Kế hoạch và Đầu tư thì 80%
các dự án bị ách tắc, vướng mắc, chậm trễ là do nguyên nhân này
- Công tác đấu thầu: Thời gian tiến hành đấu thầu thường bị kéo dài do Việt Nam
mới làm quen với nguyên tắc và điều kiện đấu thầu theo thông lệ quốc tế.
3. Nguyên nhân
3.1. Nguyên nhân thành công
Chính phủ luôn coi trọng việc hoàn thiện môi trường pháp lý để quản lý và

sử dụng hiệu quả nguồn vốn ODA.
Việc chỉ đạo thực hiện ODA của chính phủ dần càng kịp thời và cụ thể như
đảm bảo vốn đối ứng, vấn đề VAT đối với các chương trình, dự án ODA, nhờ vậy
nhiều vướng mắc trong quá trình thực hiện các chương trình, dự án đã được tháo
gỡ.
Công tác theo dõi và đánh giá dự án ODA đã đạt được nhiều bước tiến bộ.
Nghị định 17/2001/NĐ-CP đã tạo khuôn khổ pháp lý tổ chức hệ thống theo dõi và
đánh giá chương trình, dự án ODA từ các Bộ, Ngành trung ương tới các địa
phương và các ban quản lý dự án.
Chính phủ đã phối hợp chặt chẽ với các nhà tài trợ nhằm tăng cường quản lý
ODA, làm hài hoà thủ tục giữa Việt Nam và các nhà tài trợ để thúc đẩy tiến trình
thực hiện các chương trình, dự án.
3.2. Nguyên nhân dẫn đến hạn chế
Thứ nhất, Công tác quản lý ODA còn bị chồng chéo, chưa tách bạch rõ trách
nhiệm của các cấp làm giảm hiệu lực điều hành, quản lý vốn ODA. , trình độ quản
lý dự án, tư vấn dự án chung đặc biệt là phía Việt Nam còn chưa đáp ứng được yêu
cầu, tính chuyên nghiệp của công chức Việt Nam còn thấp trong khi vai trò của các
tổ chức tư vấn tư nhân và phi chính phủ thường không được chấp nhận.
Thứ 2, việc thực hiện các thủ tục có liên quan tới đấu thầu, thanh toán, chế
độ báo cáo định kỳ, bố trí vốn chưa có tính chuyên nghiệp,thời gian lựa chọn dự
án, phát triển dự án và thẩm định dự án thường kéo dài, đặc biệt là các thủ tục hành
chính về phía Việt Nam.
Thứ 3, công tác thẩm định các dự án còn sơ sài dẫn đến hiệu quả sử dụng
vốn thấp.
Thứ 4, phần lớn các dự án dành cho các dân tộc thiểu số thường không tính
đến các khía cạnh xã hội và văn hoá của họ. Các dự án này thường không thất bại
vì lý do kinh tế mà do khía cạnh xã hội và văn hoá.
Thứ 5, sự thiếu công khai về thông tin trong hệ thống kế toán của Việt Nam,
những thủ tục phức tạp về giải ngân của các nhà tài trợ và tình trạng tham nhũng,
quan liêu đang ngày càng gia tăng ở Việt Nam cũng là những trở ngại lớn đối với

việc giải ngân các nguồn tài trợ quốc tế tại Việt Nam.
CHƯƠNG IV: GIẢI PHÁP
Trên cơ sở phân tích thành tựu, hạn chế trong quá trình huy động và sử dụng
ODA, một số biện pháp được đưa ra:
1. Giải pháp tăng cường huy động vốn ODA vào Việt Nam:
- Tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lí và điều hành công tác tiếp nhận ODA.
- Tăng cường công tác cán bộ, đầu tư đào tạo để nâng cao năng lực cho những
cán bộ thuộc bộ phận liên quan đến việc xác định nhu cầu đàm phán, kí kết những
hiệp định với đối tác nước ngoài nhằm nâng cao hơn nữa cả về số luợng và chất
lượng của nguồn vốn thu hút được.
- Những ngành và địa phương có nhu cầu về cung cấp vốn ODA cần nghiên
cứu kĩ những chính sách ưu tiên của các đối tác nước ngoài cũng như quy chế quản
lí và sử dụng vốn ODA của Chính phủ Việt Nam để tranh thủ sự giúp đỡ của
Chính phủ và các cơ quan có liên quan trong việc lập hồ sơ dự án và các thủ tục
xin viện trợ phù hợp với đối tượng ưu tiên.
2. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ODA tại Việt Nam
Chúng ta đã có một số thành công lớn trong công tác vận động đầu tư .Tuy
nhiên có được nguồn vốn mới chỉ là tiền đề, điều quan trọng hơn hết là làm thế nào
để hấp thụ, sử dụng có hiệu quả nguồn vốn nói trên. Để góp phần xử lí vấn đề này
cần phải thực hiện cho được những biện pháp sau:
Thứ nhất,nâng cao nhận thức trong việc sử dụng nguồn vốn ODA.
Tính chất ưu đãi của nguồn vốn ODA (thời gian, lãi suất ) thường làm cho
các cơ quan quản lí tiếp nhận có quan niệm hết sức dễ dãi và chủ quan về sự phân
phối và sử dụng nguồn vốn này. Các cơ quan được tiếp nhận nguồn vốn này chưa
thực sự chú ý đến yêu cầu hiệu quả, bỏ qua yếu tố chi phí thời cơ trong thẩm định,
đánh giá dự án, chưa quan tâm đầy đủ đến việc xác định các ưu tiên đầu tư, triển
khai dự án chậm và còn lãng phí. Những quan niệm sai lầm trên cần sớm được
chấn chỉnh, các cơ quan tiếp nhận nguồn vốn phải nhận thức được rằng nguồn vốn
phải hoàn trả vốn gốc và lãi vì vậy nếu sử dụng kém hiệu quả sẽ làm tăng gánh
nặng nợ cho quốc gia.

Thứ hai, Tăng cường công tác thẩm định theo dõi giám sát quá trình thực
hiện dự án.
Việc thẩm định dự án sẽ chọn lọc được các dự án tốt loại bỏ được các dự án
kém hiệu quả. Công tác theo dõi giám sát nhằm đảm bảo dự án được thực hiện
đúng tiến độ kế hoạch đề ra và tránh sự thất thoát lãng phí trong quá trình thực
hiện.
Thứ ba, thiết lập các định hướng ưu tiên đầu tư và tiến hành nghiên cứu khả
thi từng dự án chặt chẽ.
Cần tránh xu hướng dàn trải viện trợ nước ngoài trên một diện rộng bao quát
nhiều lĩnh vực, ngành hay địa phương. Trong điều kiện nguồn vốn hạn chế, để
nguồn vốn phát huy hiệu quả nhanh và rộng, nên tập trung đầu tư vào một số lĩnh
vực, vùng lãnh thổ có lợi thế tương đối và có khả năng gây tác động phát triển lớn.
Thứ tư, Cải tiến cơ chế quản lý và điều phối viện trợ.
Viện trợ nước ngoài có liên quan đến nhiều cơ quan chức năng ở trong nước
kể từ lúc vận động kinh phí tài trợ cho đến khi hoàn tất cam kết hoàn trả cho nên
thiết lập một cơ chế nhằm đảm bảo sự phối hợp nhịp nhàng , thông suốt của cả một
hệ thống tổ chức có liên quan đến việc trợ là vấn đề có ý nghĩa quan trọng.
Ngoài ra còn phải xác định khả năng trả nợ cả gốc và lãi trong tương lai để
xây dựng kế hoạch trả nợ, cập nhật các thông tin trong và ngoài nước về sự biến
động của các nhân tố có khả năng tác động đến nguồn vốn vay để xử lý kịp thời và
có những quyết định đúng đắn tránh tình trạng lỗ do những tác động của những
nhân tố khách quan khi dự án đã đi vào hoạt động.

×