Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Nguyên tắc lịch sử cụ thể phân tích thực tế kinh tế xã hội nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (96.09 KB, 15 trang )

MỤC LỤC
A.

Mở bài...............................................................................................................1

B.

Nội dung...........................................................................................................2
1.

Nội dung nguyên tắc lịch sử - cụ thể.........................................................2

2.

Yêu cầu của nguyên tắc lịch sử cụ thể......................................................2

3.

Cơ sở triết học của nguyên tắc lịch sử cụ thể...........................................4

4.

3.1.

Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến........................................................4

3.2.

Nguyên lí về sự phát triển....................................................................5

Ví dụ về nguyên tắc phương pháp luận lịch sử cụ thể.............................5


4.1.

Khái niệm kinh tế thị trường định hướng XHCN.............................5

4.2.

Tính tất yếu khách quan phát triển kinh tế thị trường định hướng

xã hội chủ nghĩa...............................................................................................6
4.3.

Thành tựu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN...............8

4.4.

Hạn chế của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN...................9

4.5.

Giải pháp hoàn thiện, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng

XHCN ở Việt Nam.........................................................................................11
C.

Kết luận......................................................................................................13

D.

Tài liệu tham khảo....................................................................................14



A. Mở bài.
Đất nước ta sau khi giành được độc lập tự do và sau rất nhiều năm đổi
mới đã có những thành tựu đáng kể trong phát triển kinh tế xã hội. Ngun
nhân của sự thành cơng đó một phần là do sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và
Nhà nước, và cũng là sự đồng lòng chung sức của nhân dân. Để hiểu được rõ
hơn sự vận dụng những lí luận của chủ nghĩa Mác – Lenin vào thực tiễn nước
ta, bài tiểu luận Triết học này e xin chọn chủ đề 3: “: Trình bày nội dung, yêu
cầu và cơ sở triết học của nguyên tắc lịch sử - cụ thể. Nêu và phân tích một ví
dụ về nguyên tắc phương pháp luận lịch sử - cụ thể”.

1


B. Nội dung.
1. Nội dung nguyên tắc lịch sử - cụ thể.
Quan điểm lịch sử cụ thể trong triết học Mac - Lenin cho rằng, mọi sự
vật, hiện tượng của thế giới đều tồn tại, vận động và phát triển trong những
điều kiện thời gian và không gian cụ thể, xác định, những điều kiện này sẽ có
ảnh hưởng trực tiếp tới tính chất, đặc điểm của sự vật. Cùng một sự vật nhưng
nếu tồn tại trong những điều kiện khơng gian và thời gian cụ thể khác nhau thì
tính chất, đặc điểm của những sự vật đó sẽ khác nhau, thậm chí có thể làm thay
đổi hồn tồn bản chất của sự vật, hiện tượng.
Ví dụ: Ḿn đánh giá đúng về một con người thì phải đặt con người
đó vào hoàn cảnh cụ thể bởi vì có những phẩm chất, tính cách phù hợp với thời
kì này mà khơng phù hợp với thời kì khác.
2. Yêu cầu của nguyên tắc lịch sử cụ thể.
Quan điểm lịch sử có 6 yêu cầu:
Thứ nhất: Nguyên tắc lịch sử-cụ thể yêu cầu phải nghiên cứu sự vật,
hiện tượng trong sự vận động và phát triển trong từng giai đoạn cụ thể của nó;

biết phân tích mỗi tình hình cụ thể trong hoạt động nhận thức và hoạt động
thực tiễn là yếu tố quan trọng nhất trong các yếu tố của nội dung nguyên tắc
lịch sử-cụ thể. Nguyên tắc lịch sử-cụ thể được V.I.Lê nin nêu rõ và cô đọng:
“Xem xét mỗi vấn đề theo quan điểm sau đây: một hiện tượng nhất định đã
xuất hiện trong lịch sử như thế nào, hiện tượng đó đã trải qua những giai đoạn
phát triển chủ yếu nào, và đứng trên quan điểm của sự phát triển đó để xét xem
hiện nay nó đã trở thành như thế nào”. Bản chất của nguyên tắc này nằm ở chỗ,
trong quá trình nhận thức sự vật, hiện tượng, trong sự vận động, trong sự
chuyển hóa qua lại của nó, phải tái tạo lại được sự phát triển của sự vật, hiện
tượng ấy, sự vận động của chính nó, đời sống của chính nó.
Thứ hai: Ngun tắc lịch sử-cụ thể u cầu phải nhận thức được vận
động có tính phổ biến, là phương thức tồn tại của vật chất, nghĩa là phải nhận
thức được sự vận động làm cho sự vật, hiện tượng xuất hiện, phát triển theo
2


những quy luật nhất định và hình thức của vận động quyết định bản chất của
nó; phải chỉ rõ được những giai đoạn cụ thể mà nó đã trải qua trong q trình
phát triển của mình; phải biết phân tích mỗi tình hình cụ thể trong hoạt động
nhận thức và hoạt động thực tiễn thì mới có thể hiểu, giải thích được những
thuộc tính, những mối liên hệ tất yếu, những đặc trưng chất và lượng vốn có
của sự vật, hiện tượng.
Thứ ba: Nguyên tắc lịch sử-cụ thể không chỉ yêu cầu nhận thức những
thay đổi diễn ra trong sự vật, hiện tượng, nhận thức những trạng thái chất
lượng thay thế nhau, mà còn yêu cầu chỉ ra được các quy luật khách quan quy
định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng, quy định sự tồn tại hiện
thời và khả năng chuyển hóa thành sự vật, hiện tượng mới thơng qua sự phủ
định. Chỉ khi đã tìm được mối liên hệ khách quan, tất yếu giữa các trạng thái
chất lượng, tạo nên lịch sử hình thành và phát triển của sự vật, hiện tượng đang
nghiên cứu; tạo nên các quy luật quy định sự tồn tại và chuyển hóa của nó, quy

định giai đoạn phát triển này sang giai đoạn phát triển khác cho tới trạng thái
chín muồi và chuyển hóa thành trạng thái khác hay thành các mặt đối lập của
nó thì mới có thể giải thích các đặc trưng chất lượng và số lượng đặc thù, nhận
thức được bản chất của nó.
Thứ tư: Nguyên tắc lịch sử-cụ thể còn đòi hỏi phải xem xét các sự vật,
hiện tượng trong các mối liên hệ cụ thể của chúng. Việc xem xét các mặt, các
mối liên hệ cụ thể của sự vật, hiện tượng trong quá trình hình thành, phát triển
cũng như diệt vong của chúng cho phép nhận thức đúng đắn bản chất các sự
vật, hiện tượng và từ đó mới có định hướng đúng cho hoạt động thực tiễn của
con người. Đối với việc nghiên cứu quá trình nhận thức, nguyên tắc lịch sử-cụ
thể cũng địi hỏi phải tính đến sự phụ thuộc của q trình đó vào trình độ phát
triển của xã hội, trình độ phát triển của sản xuất và các thành tựu khoa học
trước đó.
-Thứ năm: Sự kiện tuy có vai trị quan trọng đối với nguyên tắc lịch
sử-cụ thể nói riêng và đối với các nguyên tắc khác nói chung, nhưng nguyên
tắc lịch sử-cụ thể không kết hợp các sự kiện riêng lẻ, mô tả các sự kiện, mà tái
3


hiện sự kiện, chỉ ra mối liên hệ nhân quả giữa các sự kiện với nhau, khám phá
quy luật và phân tích ý nghĩa và vai trị của chúng để tạo nên bức tranh khoa
học về các quá trình lịch sử.
-Thứ sáu: Nhận thức sự vật, hiện tượng theo nguyên tắc lịch sử-cụ thể
là cần thấy các mối liên hệ, sự biến đổi của chúng theo thời gian, cũng như
trong những không gian tồn tại khác nhau của mỗi mặt, mỗi thuộc tính, đặc
trưng củasự vật, hiện tượng; tránh khuynh hướng giáo điều, chung chung, trừu
tượng, không cụ thể. Mặt khác, cũng cần đề phịng khuynh hướng tuyệt đối hóa
tính cụ thể, không thấy sự vật, hiện tượng trong cả quá trình vận động, biến
đổi. Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải vừa thấy tính cụ
thể, vừa thấy cả quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng là điều tất yếu.

3. Cơ sở triết học của nguyên tắc lịch sử cụ thể.
Cơ sở của quan điểm lịch sử cụ thể chính là hai nguyên lí của phép
biện chứng duy vật: Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến và Nguyên lí về sự phát
triển.
3.1.

Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến.

Mối liên hệ phổ biến là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự qui
định, sự tác động qua lại, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng
hay giữa các mặt của một sự vật, hiện tượng trong thế giới.
Khái niệm mối liên hệ phổ biến nói lên rằng mọi sự vật hiện tượng
trong thế giới dù phong phú và đa dạng nhưng đều tồn tại trong mối liên hệ
giữa các sự vật và hiện tượng khác, đều chịu sự tác động, sự qui định lẫn nhau,
làm tiền đề cho sự phát triển của nhau, không sự vật nào tồn tại biệt lập ngoài
mối liên hệ với các sự vật khác.
Mối liên hệ phổ biến nói lên rằng tất cả các bộ phận, các yếu tố, các
giai đoạn phát triển khác nhau của mỗi sự vật đều có tác động qui định lẫn
nhau, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề tồn tại cho mình.
Mối liên hệ phổ biến có những đặc điểm sau:
4


Tính khách quan: Liên hệ là vốn có của các sự vật, hiện tượng, không
phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người, là điều kiện tồn tại và phát
triển của các sự vật hiện tượng, con người không thể tạo ra được mối liên hệ
của các sự vật hiện tượng mà chỉ có thể nhận thức và vận dụng mối liên hệ đó.
Tính đa dạng: Các sự vật hiện tượng trong thế giới là đa dạng, phong
phú. Do đó mối liên hệ phổ biến cũng đa dạng, phong phú được thể hiện qua
nhiều hình thức: mối liên hệ chung – riêng, bên trong – bên ngoài, trực tiếp –

gián tiếp, tất nhiên – ngẫu nhiên, cơ bản – khơng cơ bản.
3.2.

Ngun lí về sự phát triển.

Ngun lí về sự phát triển là một phạm trù triết học dùng để chi quá
trình vận động tiến từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn
thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật.
Mọi sự vật hiện tượng của thế giới đều khơng ngừng biến đổi và
chuyển hóa lẫn nhau, cái mới kế tiếp cho cái cũ, giai đoạn sau kế thừa từ giai
đoạn trước tạo thành quá trình phát triển tiến lên mãi mãi. Phát triển là khuynh
hướng chung tất yếu của các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan.
Nguồn gốc, nguyên nhân của sự phát triển là sự thống nhất và đấu
tranh của các mặt đối lập trong bản thân sự vật, hiện tượng.
Cách thức và hình thái của sự phát triển là sự thay đổi dần về lượng
dẫn đến thay đổi về chất và ngược lại.
4. Ví dụ về nguyên tắc phương pháp luận lịch sử cụ thể.
Có rất nhiều ví dụ có thể áp dụng phương pháp luận lịch sử cụ thể, tuy
nhiên e xin chọn phân tích về tính tất yếu xây dựng nền kinh tế thị trường ở
nước ta hiện nay.
4.1.

Khái niệm kinh tế thị trường định hướng XHCN.

Theo C. Mác, kinh tế thị trường là một giai đoạn phát triển tất yếu của
lịch sử mà bất cứ nền kinh tế nào cũng phải trải qua để đạt tới nấc thang cao
hơn trên con đường phát triển và nền kinh tế TBCN chính là nền kinh tế thị
5



trường phát triển đến trình độ phổ biến và hồn chỉnh. Nấc thang cao hơn chính
là nền kinh tế cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là nền kinh tế XHCN. Để
chuyển lên nấc thang này, nền kinh tế thị trường phải phát triển hết mức, phải
trở thành phổ biến trong đời sống kinh tế - xã hội.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tên gọi mà Đảng
Cộng sản Việt Nam đặt ra cho mơ hình kinh tế hiện tại của nước Cộng hòa Xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam. Kinh tế thị trường không được định nghĩa rõ ràng tuy
nhiên có thể hiểu nó mơ tả là một nền kinh tế thị trường nhiều thành phần,
trong đó khu vực kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, với mục tiêu dài hạn là
xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sản phẩm của thời
kỳ Đổi Mới, thay thế nền kinh tế kế hoạch bằng nền kinh tế hỗn hợp hoạt động
theo cơ chế thị trường. Những thay đổi này giúp Việt Nam hội nhập với nền
kinh tế toàn cầu. Cụm từ "định hướng xã hội chủ nghĩa" mang ý nghĩa là Việt
Nam chưa đạt đến chủ nghĩa xã hội mà đang trong giai đoạn xây dựng nền tảng
cho một hệ thống xã hội chủ nghĩa trong tương lai. Mơ hình kinh tế này khá
tương đồng với mơ hình kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa của Đảng Cộng
sản Trung Quốc, trong đó các mơ hình kinh tế tập thể, nhà nước, tư nhân cùng
tồn tại, và khu vực nhà nước giữ vai trị chủ đạo.
4.2.

Tính tất yếu khách quan phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.

Ngày nay kinh tế thị trường đã trở thành một công nghệ được hầu hết
các nước sử dụng để tổ chức nền kinh tế. Trước thực trạng phát triển của nền
kinh tế thế giới tuy khơng cịn sự đối đầu trực tiếp giữa hai hệ thống xã hội chủ
nghĩa (XHCN) và tư bản chủ nghĩa (TBCN), song sự phát triển kinh tế theo 2
con đường: đi lên CNXH và TBCN là khách quan. Vì vậy phát triển kinh tế thị
trường định hướng XHCN là tất yếu.

Việt Nam trước bối cảnh kinh tế thế giới phát triển theo hai chiều
hướng Xã hội chủ nghĩa và Tư bản chủ nghĩa. Mặt khác tình hình kinh tế chính
trị trong nước có nhiều khó khăn do đó Đảng, Nhà nước và nhân dân đã thống
6


nhất đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, gắn nhiệm vụ độc lập dân tộc với xây
dựng Xã hội chủ nghĩa. Do việc duy trì quá lâu và áp dụng một cách máy móc
mơ hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung của các nước làm cho nền kinh tế suy
thoái, khủng hoảng trầm trọng kéo dài trong suốt thập niên 70, 80, lạm phát gia
tăng giá cả đắt đỏ... nền sản xuất bị đình trệ. Trước tình hình đó Đảng và Nhà
nước đã có những chính sách hợp lí, khởi xướng cơng cuộc đổi mới, chuyển
đổi mơ hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự
quản lí của Nhà nước theo định hướng XHCN.
Từ Đại hội Đảng VI tháng 12 năm 1986 trên cơ sở khẳng định nền
kinh tế nước ta phát triển theo hướng nhiều thành phần, đa dạng hóa các loại
hình sở hữu gắn với các loại hình sản xuất kinh doanh, Đảng ta đã chỉ rõ kinh
tế xã hội chủ nghĩa bao gồm khu vực quốc doanh và khu vực tập thể cùng với
bộ phận kinh tế gia đình gắn liền với thành phần kinh tế đó. Các thành phần
kinh tế khác bao gồm: kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế
tự nhiên, tự cấp tự túc.
Việc phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ
chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta là tất yếu do trong nội tại nền kinh tế đất nước còn tồn tại những điều
kiện khách quan. Đi lên xây dựng đất nước từ một nền kinh tế kém phát triển
kỹ thuật thủ công lạc hậu, năng suất, hiệu quả thấp do chúng ta đã có thời kì
dài chịu sự đơ hộ của thực dân đế quốc với sự khai thác bóc lột đến cạn kiệt cả
sức người và nguồn tài nguyên lại chịu sự tàn phá nặng nề của hai cuộc chiến
tranh đế quốc ác liệt cả về nhân lực và vật lực. Công cuộc đổi mới tuy đã đạt
được những thành tựu nhất định song nền kinh tế vẫn tồn tại sự phân công lao

động, sự tư hữu về tư liệu sản xuất khá mạnh mẽ và sâu sắc, còn tồn tại nhiều
thành phần kinh tế, nhiều hình thức sản xuất kinh doanh.
Trên cơ sở xem xét quá trình vận động và phát triển của các thành
phần kinh tế ở nước ta qua việc thực hiện nhất quán chính sách về kinh tế
nhiều thành phần, Đảng và nhà nước đã tiếp tục khẳng định sự phát triển của
7


kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản
lí của Nhà nước.
Như vậy được xuất phát từ ý muốn chủ quan thu hẹp hay cản trở q
trình tiền tệ hóa các mối quan hệ kinh tế trong giai đoạn lịch sử hiện nay bằng
những hình thức khác nhau sẽ kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế nước ta.
Do đó chúng ta cần chủ động có những chính sách hợp lý để khuyến khích sự
phát triển của các thành phần kinh tế đúng mức, đúng hướng theo nguyên tắc
tự nhiên của kinh tế: có nhu cầu xã hội thì tất yếu có người đáp ứng yêu cầu đó
vào người nào thỏa mãn tốt hơn, tốt nhất nhu cầu xã hội sẽ tồn tại và phát triển.
4.3.

Thành tựu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.

Có thể nói, trải qua 35 năm đổi mới, mơ hình kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ngày càng hoàn thiện, trở thành đóng góp
lý luận cơ bản và sâu sắc của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tại Đại hội XIII, Đảng
ta nhận định: “Nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ngày càng đầy đủ hơn. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách tiếp tục
được hoàn thiện phù hợp với yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại
và hội nhập quốc tế. Các yếu tố thị trường và các loại thị trường từng bước
phát triển đồng bộ, gắn với thị trường khu vực và thế giới”. “Thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang dần được hoàn thiện theo hướng

hiện đại, đồng bộ và hội nhập”. Đường lối đổi mới kinh tế phù hợp với yêu cầu
khách quan đã giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất xã hội, thúc đẩy nền kinh tế
của nước ta tăng trưởng vượt bậc, đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt.
Nhờ vậy, sau 35 năm đổi mới, chúng ta đã giành được những thành tựu to lớn,
có ý nghĩa lịch sử, đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, trở thành
nước có thu nhập trung bình; hội nhập mạnh mẽ vào kinh tế khu vực và thế
giới, tạo thế và lực mới cho nền kinh tế.
Việt Nam từ một trong những nước nghèo nhất trên thế giới trở thành
quốc gia thu nhập trung bình thấp. Nếu như trong giai đoạn đầu đổi mới (1986
- 1990), mức tăng trưởng GDP bình quân hằng năm chỉ đạt 4,4%, thì giai đoạn
8


1991 - 1995, tăng trưởng GDP bình quân đã đạt 8,2%/năm. Các giai đoạn sau
đó đều có mức tăng trưởng khá cao, riêng giai đoạn 2016 - 2019 đạt mức bình
quân 6,8. Liên tiếp trong 4 năm, từ năm 2016 - 2019, Việt Nam đứng trong top
10 nước tăng trưởng cao nhất thế giới, là một trong 16 nền kinh tế mới nổi
thành công nhất. Đặc biệt, trong năm 2020, trong khi phần lớn các nước có
mức tăng trưởng âm hoặc đi vào trạng thái suy thoái do tác động của đại dịch
COVID-19, kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng 2,91%, góp phần làm cho GDP
trong 5 năm (2016 - 2020) tăng trung bình 5,9%/năm, thuộc nhóm nước có tốc
độ tăng trưởng cao nhất khu vực và thế giới. Quy mô nền kinh tế được nâng
lên, nếu như năm 1989 mới đạt 6,3 tỷ USD thì đến năm 2020 đã đạt khoảng
343 tỷ USD. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt cả về vật chất và tinh
thần, năm 2020, thu nhập bình quân đầu người đạt trên 3.500 USD. Các cân
đối lớn của nền kinh tế về tích luỹ - tiêu dùng, tiết kiệm - đầu tư, năng lượng,
lương thực, lao động - việc làm… tiếp tục được bảo đảm, góp phần củng cố
vững chắc nền tảng kinh tế vĩ mơ. Tính theo chuẩn nghèo chung, tỷ lệ nghèo
giảm mạnh từ hơn 70% năm 1990 xuống còn dưới 6% năm 2018; hơn 45 triệu
người thoát nghèo trong giai đoạn từ năm 2002 đến năm 2018. Chỉ số đổi mới

sáng tạo toàn cầu của Việt Nam năm 2020 được xếp thứ 42/131 nước, đứng
đầu nhóm 29 quốc gia có cùng mức thu nhập. Xếp hạng về phát triển bền vững
của Việt Nam đã tăng từ thứ 88 năm 2016 lên thứ 49 năm 2020, cao hơn nhiều
so với các nước có cùng trình độ phát triển kinh tế.
4.4.

Hạn chế của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.

Tuy vậy, trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém. Cụ thể là:
Thứ nhất, quá trình đổi mới nhận thức về kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa diễn ra chậm, nhất là nhận thức về bản chất và nguyên
tắc vận hành của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nên đã tạo ra
sự thiếu đồng bộ, thiếu nhất quán và những bất cập trong q trình hồn thiện
thể chế kinh tế thị trường; do vậy, chưa huy động được tối đa tiềm lực để phát
9


triển kinh tế. Mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội chưa được xử lý
phù hợp, rõ ràng, minh bạch.
Thứ hai, tăng trưởng kinh tế còn chậm, chưa bền vững, vẫn ở dưới
mức tiềm năng, lực lượng sản xuất chưa được giải phóng triệt để, năng suất lao
động thấp, khả năng cạnh tranh quốc tế chưa cao.
Thứ ba, việc phân bổ các nguồn lực cho phát triển còn dàn trải, lãng
phí, chưa cơng bằng, chưa đem lại hiệu quả cao; vấn đề phân hóa giàu nghèo,
bất bình đẳng xã hội, tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng; đời sống vật chất
và tinh thần của một bộ phân dân cư, nhất là nông dân ở nông thôn, vùng sâu,
vùng xa chậm được cải thiện, ít được hưởng lợi từ thành quả tăng trưởng chung
của nền kinh tế. Yếu tố vật chất được đề cao, yếu tố tinh thần, đạo đức có lúc,
có nơi bị xem nhẹ. Do vậy, đã xuất hiện những biểu hiện của chủ nghĩa vị kỷ,

cá nhân, coi trọng đồng tiền, xem thường truyền thống đạo lý, tác động xấu tới
đời sống xã hội.
Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Đổi mới mạnh mẽ và có hiệu
quả mơ hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo và nguồn
nhân lực chất lượng cao. Xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thế chế phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ, hiện đại, hội nhập”.
“Tập trung ưu tiên hồn thiện đồng bộ, có chất lượng và tổ chức thực hiện tốt
hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách nhằm tạo lập mơi trường đầu tư kinh
doanh thuận lợi, lành mạnh, công bằng, thúc đẩy đổi mới sáng tạo; huy động,
quản lý và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển, nhất là đất đai,
tài chính; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền hợp lý, hiệu quả, đồng thời tăng
cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực bằng những biện pháp hữu
hiệu”.

10


4.5.

Giải pháp hoàn thiện, phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở Việt Nam

Thống nhất và nâng cao nhận thức về phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, xác định “Kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa là mơ hình kinh tế tổng qt của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội”(14). Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận
hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý
của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh,

dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất
nước. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều
hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó: kinh tế nhà nước giữ vai
trị chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát
triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước
ngồi được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch và kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Kinh tế nhà nước là công cụ, lực lượng vật
chất quan trọng đế Nhà nước ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều tiết, dẫn
dắt thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị
trường. Các nguồn lực kinh tế của Nhà nước được sử dụng phù hợp với chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển đất nước và cơ bản được phân bổ theo cơ
chế thị trường.
Tiếp tục hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, tập trung tháo gỡ các điểm nghẽn. Xây dựng và thực thi pháp
luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch nâng cao chất lượng, hiệu quả quản trị
quốc gia. Xây dựng khung khổ pháp luật, môi trường thuận lợi thúc đẩy phát
triển, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển kinh tế số; hỗ
trợ, khuyến khích sự ra đời, hoạt động của những lĩnh vực mới, mơ hình kinh
doanh mới. Tập trung sửa đổi những quy định mâu thuẫn, chồng chéo, cản trở
phát triển kinh tế. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, phân cấp, phân
11


quyền, ủy quyền gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương, trách nhiệm cá nhân và
nâng cao trách nhiệm phối hợp giữa các cấp, các ngành.
Phát triển đầy đủ và đồng bộ thị trường các yếu tố sản xuất, nhất là
các thị trường quyền sử dụng đất, khoa học, công nghệ. Bảo đảm đầy đủ quyền
tự do, an toàn trong hoạt động kinh doanh; huy động, phân bổ, sử dụng hiệu
quả các nguồn lực theo nguyên tắc thị trường. Xây dựng, hoàn thiện khung khổ
pháp lý, thử nghiệm cơ chế, chính sách đặc thù để thúc đẩy q trình chuyển

đổi số, kinh tế số, phát triển các mơ hình kinh tế mới, khởi nghiệp sáng tạo,
cung cấp dịch vụ công, quản lý và bảo vệ môi trường... Nhà nước thực hiện tốt
chức năng xây dựng và quản lý thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, cơ
chế, chính sách, phân bổ nguồn lực theo cơ chế thị trường. Bảo vệ quyền sở
hữu tài sản hợp pháp và quyền tự do kinh doanh, thực thi hợp đồng của người
dân, doanh nghiệp theo quy định của pháp luật. Sử dụng thể chế, các nguồn
lực, cơng cụ điều tiết, cơ chế, chính sách phân phối, phân phối lại để phát triển
văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh, nâng cao phúc
lợi xã hội và bảo vệ môi trường.

12


C. Kết luận.
Sau khi tìm hiểu về nền kinh tế nước ta sau giai đoạn đổi mới, ta càng
hiểu rõ hơn sự lãnh đạo sáng suốt và tài tình của Đảng, cùng với đó là sự vận
dụng quan điểm của chủ nghĩa Mac – Lenin trong từng điều kiện, tình huống
cụ thể để đưa ra quyết định đúng đắn nhất.
Để hồn thành bài tiểu luận trên, ngồi giáo trình Triết học Mác –
Lenin, em cũng tham khảo thêm giáo trình kinh tế chính trị Mac – Lenin và
tài liệu bên ngồi, cùng với đó là sự hướng dẫn của cơ. Do kiến thức còn hạn
chế nên bài làm còn nhiều thiếu sót, em mong cơ đóng góp ý kiến để bài
hoàn chỉnh hơn.

13


D. Tài liệu tham khảo
 Giáo trình Triết học Mác – Lenin
 />2018/823673/mot-so-van-de-ly-luan-va-thuc-tien-ve-nenkinh-te-thi-truong-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia-o-vietnam.aspx


14



×