Tải bản đầy đủ (.doc) (163 trang)

Nghiên cứu sự phát triển nông nghiệp ở tỉnh hải dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (834.07 KB, 163 trang )

MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, nông nghiệp là ngành sản xuất
vật chất lâu đời nhất. Nhân loại đã trải qua nhiều phương thức sản xuất nhưng sản
xuất nông nghiệp vẫn có vai trò quan trọng trong hoạt động kinh tế xã hội của loài
người. Nông nghiệp không chỉ cung cấp trực tiếp lương thực, thực phẩm cho đời
sống hàng ngày của con người mà còn là hoạt động cung cấp nguyên liệu quan
trọng cho công nghiệp chế biến, tạo nguồn hàng xuất khẩu. Bên cạnh đó, nông
nghiệp còn đóng vai trò to lớn trong việc sử dụng, bảo vệ đất, nguồn nước cũng như
cải thiện môi trường.
Ở Việt Nam, nông nghiệp, nông dân và nông thôn có vai trò quan trọng trong
suốt quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ VI, nông nghiệp nước ta có những bước phát triển vượt bậc, giá trị và giá trị sản
lượng nông nghiệp liên tục tăng, chủng loại cây trồng, vật nuôi đa dạng hơn, cơ cấu
nông nghiệp đang chuyển dịch theo hướng tích cực. An ninh lương thực được giữ
vững, nhiều sản phẩm nông nghiệp trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực như gạo,
thủy hải sản, cà phê Đời sống nhân dân được cải thiện cả vật chất và tinh thần.
Hải Dương là một tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng có nhiều lợi thế để sản xuất
nông nghiệp. Những năm qua, sản xuất nông nghiệp đạt được thành tựu khá vững
chắc. Năm 2010, GDP nông, lâm, thủy sản trong cơ cấu GDP của tỉnh chiếm 23%
cao hơn so với cả nước (20,6%) và cao hơn các tỉnh đồng bằng sông Hồng (12,6%).
Khu vực nông nghiệp thu hút 54,5% lực lượng lao động của tỉnh. Tuy nhiên, trong
quá trình CNH, HĐH, diện tích đất nông nghiệp ngày càng giảm, thị trường nông sản
có nhiều biến động, những rủi ro trong nông nghiệp do chịu ảnh hưởng của thiên
tai đang gây ra những khó khăn cho phát triển nông nghiệp Hải Dương.
Để sản xuất nông nghiệp Hải Dương tiếp tục ổn định và phát triển trong giai
đoạn hiện nay cũng như có những định hướng chiến lược cho tương lai, những
nghiên cứu về sự phát triển nông nghiệp cần phải có sự nhìn nhận đúng vai trò,
đánh giá một cách khách quan các nguồn lực cho phát triển nông nghiệp của tỉnh.
Xuất phát từ thực tế phát triển nông nghiệp của tỉnh, đề tài “Nghiên cứu sự phát
triển nông nghiệp ở tỉnh Hải Dương” được lựa chọn làm luận án Tiến sĩ nhằm góp


phần luận giải quá trình phát triển nông nghiệp tỉnh Hải Dương từ năm 2000 đến
nay dưới tác động của các nhân tố bên trong cũng như bên ngoài. Từ đó đề xuất
những giải pháp có cơ sở khoa học cho quá trình phát triển nông nghiệp của tỉnh
trong các giai đoạn tiếp theo.
2. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Trên thế giới
- Trong hệ thống lí luận về phát triển kinh tế trên thế giới, những nghiên cứu
lí luận về giai đoạn phát triển kinh tế chiếm một vị trí quan trọng. Tiêu biểu cho
hướng nghiên cứu này là nhà kinh tế người Mỹ, Walter W. Rostow. Theo lí thuyết
của W. Rostow: quá trình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia được chia thành 5 giai
đoạn: xã hội truyền thống, chuẩn bị cất cánh, cất cánh, tăng trưởng và mức tiêu
dùng cao và ứng với mỗi giai đoạn là một dạng cơ cấu kinh tế đặc trưng thể hiện
bản chất phát triển của giai đoạn ấy. Theo mô hình này, then chốt nhất là giai đoạn
“cất cánh” [dẫn theo 67]. Để chuẩn bị điều kiện cất cánh nền kinh tế phải có một
hoặc nhiều ngành chủ đạo cho “cất cánh”. Nông nghiệp trong giai đoạn chuẩn bị
“cất cánh” có nhiệm vụ như một cuộc cách mạng nông nghiệp nhằm đảm bảo lương
thực, thực phẩm cho dân cư. Lí thuyết của ông có ý nghĩa trong việc xác định trình
độ phát triển của mỗi quốc gia trong mỗi giai đoạn và đưa ra những gợi ý cho các
nhà hoạch định chiến lược Việt Nam “đi tắt đón đầu” cho sự lựa chọn cơ cấu kinh
tế. Tuy nhiên, tăng trưởng là một quá trình liên tục chứ không phải đứt đoạn nên
khó có thể phân chia thành những giai đoạn chính xác như vậy. Mặt khác, sự tăng
trưởng và phát triển ở một số nước không nhất thiết phải phân chia 5 giai đoạn như
trên và “tại sao cất cánh lại xảy ra ở nước này mà không xảy ra ở nước khác?” thì lý
thuyết chưa giải thích được điều đó.
- Học thuyết Keynes: ra đời trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế cuối những
năm 29 đầu những năm 30 của thế kỷ XX [dẫn theo 95]. Nội dung của học thuyết
rất rộng, bao hàm nhiều vấn đề khác nhau để giải quyết các vấn đề của chủ nghĩa tư
bản lúc bấy giờ, trong đó có một số điều có thể vận dụng như là cơ sở lí luận cho
việc hoạch định chiến lược phát triển kinh tế nói chung và nông nghiệp nói riêng.
Xuất phát từ chỗ đánh giá cao vai trò của tiêu dùng và trao đổi, học thuyết

này vạch rõ vai trò to lớn của thị trường với phát triển kinh tế, từ đó xác định rõ cần
phải áp dụng nhiều biện pháp nâng cao nhu cầu tiêu dùng, kích thích “cầu có hiệu
quả”, tức là tìm biện pháp mở rộng thị trường trong và ngoài nước. Ý tưởng này gợi
lên suy nghĩ về quá trình công nghiệp hóa, đồng thời cũng là quá trình phát triển
kinh tế hàng hóa, tìm và mở rộng thị trường.
- Nhìn nhận vai trò của thị trường lao động nông thôn và quá trình công
nghiệp hóa nông nghiệp như một tiến trình chuyển dịch lao động giữa hai lĩnh vực
chính nông nghiệp và công nghiệp, Lewis đưa ra mô hình nguồn lao động vô hạn và
thị trường không hoàn hảo. Theo Lewis [dẫn theo 67], một nền kinh tế nông nghiệp
ở giai đoạn đầu phát triển, lao động nông thôn sống chủ yếu bằng nghề nông rất
đông. Trong quá trình công nghiệp hóa, lao động chuyển sang lĩnh vực công nghiệp,
phần đóng góp về GDP và tỷ lệ lao động của lĩnh vực nông nghiệp đến một thời
điểm nhất định sẽ giảm xuống. Một chiến lược phát triển kinh tế thành công phải
đảm bảo cho quá trình chuyển tiếp này diễn ra êm đẹp, lao động nông thôn đi thẳng
sang sản xuất công nghiệp và dịch vụ mà không làm tăng lao động thất nghiệp ở thành phố.
- Tiếp thu và phát triển các lý thuyết của các nhà kinh tế đã công bố về các
quá trình phát triển nông nghiệp, Peter Timmer phân quá trình phát triển nông
nghiệp của một nước thành 4 giai đoạn [dẫn theo 69]. Mỗi giai đoạn kèm theo các
chính sách thích hợp của chính phủ cần ban hành.
Giai đoạn 1 được đặc trưng bởi năng suất lao động nông nghiệp tăng lên và
lao động trong lĩnh vực chuyển sang các lĩnh vực khác một cách chậm chạp. Do
vậy, chính sách của chính phủ giai đoạn này là tập trung vào đầu tư đẩy mạnh
nghiên cứu khoa học và tạo ra công nghệ mới, đầu tư vào kết cấu hạ tầng nông thôn,
tạo ra cơ cấu thị trường và giá cả có lợi cho nông dân nhằm kích thích phát triển sản
xuất và áp dụng công nghệ mới.
Giai đoạn 2 là giai đoạn nông nghiệp đóng góp cho nền kinh tế, lĩnh vực
nông nghiệp nhờ tạo ra sản phẩm dư thừa, sẽ chuyển các nguồn lực tài chính và lao
động sang các khu vực khác của nền kinh tế với tốc độ nhanh, chủ yếu đầu tư cho
quá trình công nghiệp hóa. Chính sách của chính phủ trong giai đoạn này là tiếp tục
duy trì tăng trưởng ổn định cho lĩnh vực nông nghiệp.

Giai đoạn 3 lĩnh vực nông nghiệp tham gia mạnh hơn vào quá trình phát triển
kinh tế thông qua kết cấu hạ tầng cải thiện, thị trường lao động và thị trường vốn
phát triển, thúc đẩy sự liên kết giữa kinh tế nông thôn và thành thị. Lĩnh vực nông
nghiệp sẽ chịu ảnh hưởng nhiều hơn bởi giá cả thay đổi và bởi các vận động vĩ mô
trong kinh tế thương mại. Trong giai đoạn này, lao động nông nghiệp sẽ giảm xuống
và chuyển tài nguyên cũng như lao động từ nông nghiệp sang các lĩnh vực khác của nền
kinh tế sẽ bị chững lại. Chính sách của chính phủ trong giai đoạn này cần thúc đẩy tính
hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp, điều tiết thu nhập giữa nông thôn và thành thị.
Giai đoạn 4 được đặc trưng bởi hoạt động sản xuất nông nghiệp trong nền
kinh tế công nghiệp, trong đó lao động nông nghiệp chiếm tỷ lệ thấp và ngân sách
chi cho nhu cầu tiêu thụ lương thực và thực phẩm chiếm phần nhỏ trong ngân sách
chi tiêu của các gia đình thành thị.
Nếu theo mô hình này, Việt Nam đang ở đầu giai đoạn phát triển thứ nhất và
có một số lĩnh vực có sự gối đầu sang giai đoạn thứ 2.
- Với công trình đoạt giải Nobel năm 1993 “Áp dụng lý thuyết kinh tế và
phương pháp định lượng trong giải thích các thay đổi về kinh tế và tổ chức” của
Douglass C.North [dẫn theo 69], Ông chia quá trình phát triển của mỗi nền kinh tế
thành 4 thời kỳ tùy theo chi phí thông tin và cưỡng chế thực hiện hợp đồng của mỗi
thời kỳ: đó là thời kì tự cung, tự cấp trong quy mô nông nghiệp làng xã; thời kỳ sản
xuất hàng hóa nhỏ, quan hệ sản xuất kinh doanh vươn ra ngoài phạm vi làng xã, tới
mức vùng; thời kì sản xuất hàng hóa quy mô trung bình và thời kì sản xuất hàng hóa
với quy mô lớn.
- Vấn đề phân bố không gian của ngành nông nghiệp (Tổ chức lãnh thổ nông
nghiệp) đã có sức thu hút mãnh mẽ sự chú ý của nhiều nhà khoa học. Người đầu
tiên đưa ra ý tưởng về tổ chức lãnh thổ sản xuất nông nghiệp là nhà khoa học người
Đức J.H.Von Thunen (1783 - 1850). Đầu những năm 1800, Ông đã đề xuất "lí
thuyết vành đai giữa trung tâm và ngoại vi" [135].
Dựa trên các kết quả tính toán của mình, Thunen kết luận về vai trò của
thành phố đối với sự phát triển nông nghiệp. Nếu vùng sản xuất ở quá xa trung tâm
thành phố thì chi phí vận chuyển sẽ rất cao, hay ở quá gần trung tâm đô thị thì giá

địa tô chênh lệch cũng rất lớn. Cả hai trường hợp trên đều không thu được lợi nhuận
tối đa. Một sản phẩm nông nghiệp thu được lợi nhuận tối đa sẽ có một khoảng cách
tương ứng nhất định với nơi tiêu thụ. Khi chi phí vận chuyển biến thiên, trên vùng
sản xuất nông nghiệp sẽ xuất hiện các vành đai sản xuất. Theo ông, xung quanh một
thành phố trung tâm (với giả thiết là hoàn toàn cô lập với các trung tâm khác) có thể
tồn tại và phát triển 5 vành đai sản xuất chuyên môn hóa nông nghiệp theo nghĩa
rộng liên tục từ trong ra ngoài, gồm: vành đai 1 là thực phẩm tươi sống; vành đai 2
là lương thực, thực phẩm; vành đai 3 là cây ăn quả; vành đai 4 là lương thực và
chăn nuôi; vành đai 5 là vành đai lâm nghiệp. Tùy theo điều kiện cụ thể về điều
kiện tự nhiên, tập quán sản xuất của cư dân và quy mô của thành phố trung tâm mà
xác định số lượng vành đai, cũng như bán kính của mỗi vành đai nông nghiệp.
Mô hình 5 vành đai nông nghiệp thể hiện bước đầu về ý tưởng tổ chức lãnh
thổ. Tuy nhiên, vành đai nông nghiệp theo lí thuyết của Thunen cũng bộc lộ hạn
chế. Đó là các vành đai nông nghiệp này mới chỉ được nghiên cứu trong sự tương
tác giữa hai nơi ở cùng một thời điểm, mà trên thực tế có rất nhiều trung tâm cùng
tồn tại và chúng đều có những tác động khác nhau lên sự xuất hiện của các vành đai
nông nghiệp.
- Một trong những chuyên gia Xô Viết hàng đầu nghiên cứu về tổ chức lãnh
thổ sản xuất nông nghiệp là K.I.Ivanov. Trong luận án tiến sĩ với đề tài "Tổ chức
lãnh thổ sản xuất các sản phẩm nông nghiệp và việc tính toán điều kiện của địa
phương" (1967), ông đã phát triển tư tưởng của N.N.Kôlôxôvxki về các thể tổng
hợp lãnh thổ sản xuất và đưa nó vào lĩnh vực nông nghiệp. Về phương diện lí
thuyết, K.I.Ivanov xây dựng cơ sở cho phương pháp dòng (băng chuyền) trong việc
tổ chức sản xuất của nhiều phân ngành nông nghiệp. Nhiều tư tưởng và quan niệm
mới của ông đã được ứng dụng trong lĩnh vực lập mô hình các hệ thống lãnh thổ.
Lần đầu tiên, giáo trình chuyên ngành "Tổ chức lãnh thổ sản xuất nông
nghiệp" được giảng dạy tại trường tổng hợp Matxcơva vào năm 1967 và được xuất
bản năm 1974 sau khi ông mất.
Ngoài công trình quan trọng nói trên, K.I.Ivanov còn có hàng loạt các công
trình khác liên quan tới TCLTNN như "Tiến bộ khoa học kĩ thuật và các hình thức

mới về TCLTNN gắn liền với sự tiến bộ này" (1969), "Một số vấn đề và phương pháp
luận và phương pháp tiếp cận hệ thống trong việc nghiên cứu TCLTNN" (1971), "Hệ
thống lãnh thổ sản xuất nông nghiệp" (1971) [Dẫn theo 87].
2.2. Ở Việt Nam
Trên cơ sở hệ thống lí luận phát triển kinh tế nói chung và phát triển nông
nghiệp nói riêng của các nhà kinh tế thế giới, các nhà khoa học, các nhà kinh tế của
Việt Nam đã kế thừa và phát triển lí luận về sự phát triển nông nghiệp cả cơ sở lí
luận, cơ sở thực tiễn cũng như vai trò và các điều kiện phát triển của nông nghiệp
nước ta.
- Nghiên cứu những vấn đề cơ sở lí luận của nông nghiệp, nhóm tác giả
Nguyễn Thế Nhã, Vũ Đình Thắng [58] đã hệ thống hóa một cách có chọn lọc những
cơ sở lí luận của nông nghiệp như vai trò, vị trí, đặc điểm của ngành nông nghiệp.
Mặt khác, các tác giả đã phân tích lịch sử phát triển nông nghiệp Việt Nam, xu
hướng và những biện pháp tạo điều kiện cho nông nghiệp nước ta phát triển trong
xu thế hội nhập.
Theo các tác giả này, chiến lược phát triển của nông nghiệp Việt Nam là
hướng tới một nền nông nghiệp hàng hoá đa dạng có sức cạnh tranh cao nhằm
phát huy lợi thế so sánh của cả nước và từng vùng sinh thái, áp dụng các thành
tựu tiến bộ khoa học - công nghệ, khoa học quản lý nhằm tạo nhiều sản phẩm
với chất lượng cao, tạo việc làm tăng thu nhập cho nông dân Nhanh chóng đổi
mới cơ cấu sản xuất trong nội bộ từng ngành trên cơ sở đảm bảo an ninh lương
thực, thực phẩm, khai thác có hiệu quả lợi thế so sánh, thay thế nhập khẩu một
số nông sản.
- Một trong những tác giả có nhiều công trình viết về nông nghiệp, nông thôn
Việt Nam là Đặng Kim Sơn. Tác giả đã nghiên cứu tổng quan một số vấn đề về phát
triển nông nghiệp và nông thôn trên thế giới [dẫn theo 71] trong điều kiện khoa học,
công nghệ phát triển nhanh. Ông đặt sự phát triển của nông nghiệp trong bối cảnh
toàn cầu hóa kinh tế cũng như nhìn nhận vai trò của Nhà nước và các tổ chức phi
chính phủ và của người nông dân trong phát triển nông nghiệp, nông thôn. Tác giả
đã đánh giá một cách khái quát về tình hình và đặc điểm nông nghiệp, nông thôn

Việt Nam sau 20 năm đổi mới và phát triển [68]. Quá trình đổi mới của nông nghiệp
Việt Nam bắt đầu từ đổi mới về chính sách và thể chế, đổi mới trong tổ chức sản
xuất. Ở đây, vai trò của Nhà nước là cực kỳ quan trọng trong công tác quy hoạch,
kế hoạch, xây dựng kết cấu hạ tầng cho nông nghiệp, nông thôn. Từ sự phát triển
nông nghiệp của Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc…tác giả đã đúc kết
thành những bài học kinh nghiệm cho sự phát triển nông nghiệp của Việt Nam. Từ
đó xây dựng mô hình CNH từ phát triển nông nghiệp.
- Nhìn nhận vai trò của nông nghiệp, Vũ Đình Thắng, Hoàng Văn Đinh [82]
và nhiều tác giả khác đều khẳng định nông nghiệp là ngành kinh tế quan trọng
trong nền kinh tế quốc dân. Vai trò của nông nghiệp không những đảm bảo lương
thực, thực phẩm cho nhân dân, thúc đẩy chăn nuôi, góp phần tạo việc làm và phân
công lao động mà còn là nguyên liệu thúc đẩy sự phát triển các ngành kinh tế khác
như công nghiệp, giao thông vận tải, dịch vụ Mặt khác, nông nghiệp phát triển
tạo điều kiện để công nghiệp hóa nông thôn, một bộ phận đông đảo của dân số
nước ta. Trong bối cảnh toàn cầu và hội nhập kinh tế quốc tế, nông nghiệp phát
triển, tạo điều kiện nâng cao lợi thế cạnh tranh của nông sản Việt Nam đối với thị
trường khu vực và quốc tế.
- Nông nghiệp là ngành kinh tế gắn chặt với các điều kiện tự nhiên và các
điều kiện kinh tế xã hội. Nông nghiệp phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên mà trước
hết là gắn liền với tài nguyên đất, nước, khí hậu Mỗi sự biến đổi của các điều
kiện tự nhiên đều tác động sâu sắc đến hoạt động sản xuất nông nghiệp. Viết về vấn
đề này, Đào Châu Thu đã phân tích tài nguyên đất của nước ta và nhấn mạnh ý
nghĩa của đất đối với sản xuất nông nghiệp. Tác giả cũng đã phân chia độ dốc của
vùng núi Việt Nam và xây dựng mô hình canh tác hợp lí trên đất dốc, đồng thời đặt
ra những thách thức trong quá trình canh tác trên đất dốc [91].
Cùng khía cạnh này, Phạm Văn Cơ [13] đã đánh giá vai trò của đất trong quá
trình xây dựng nông thôn mới, bên cạnh đó, tác giả cũng đưa ra các mô hình sử
dụng hợp lí, có hiệu quả tài nguyên đất vùng nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa.
- Đánh giá và phân loại đất Việt Nam theo phương pháp của FAO, Tôn Thất
Chiểu và Lê Thái Bạt [14] đã so sánh, đối chiếu những tính chất vốn có của vạt đất

cần đánh giá với tính chất theo yêu cầu của đối tượng sử dụng. Việc đánh giá thích
nghi đất có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với công tác quy hoạch phát triển ngành
trồng trọt, chăn nuôi, phát triển lâm nghiệp và việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng.
- Đánh giá quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, Ngô Đình Giao [34] đã rút ra bài học kinh nghiệm từ quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của một số quốc gia trong khu vực và thế giới như: Ấn
Độ, Hàn Quốc, Singapo, Indonexia, Malaixia, Thái lan và Philippin. Từ thực tế
công nghiệp hóa của các nước này, tác giả đã phân tích thực trạng chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp nước ta và đánh giá những tồn tại của chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp. Từ đó, ông đề xuất phương hướng quá trình công nghiệp hóa
của Việt Nam trong nông nghiệp là phát triển theo hướng đa dạng hóa, có năng
suất, chất lượng, hiệu quả ngày càng cao, có độ bền vững về kinh tế và sinh thái,
nhằm thực hiện mục tiêu trực tiếp là: đảm bảo an ninh lương thực, thực phẩm cho
tiêu dùng trong nước, nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, sản phẩm cho xuất
khẩu và tạo ra thị trường rộng lớn cho tiêu thụ sản phẩm của công nghiệp và các
ngành dịch vụ. Theo hướng trên, nông nghiệp phải tăng cả diện tích, sản lượng,
năng suất (bao gồm năng suất đất, năng suất vật nuôi, năng suất lao động) và hiệu
quả.
- Nghiên cứu về sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, Lê Du Phong và
Nguyễn Thành Độ [62] đánh giá quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp trong
nền kinh tế của nước ta tuy có nhiều tiến bộ nhưng cũng bộc lộ những khó khăn,
thách thức trong tiến trình hội nhập. Trong đó, cơ cấu ngành nông nghiệp đang tồn
tại những bất hợp lí nghiêm trọng thể hiện ở sự chuyển biến còn chậm chạp, các ngành
nông – lâm – ngư nghiệp chưa gắn kết lại với nhau trong một cơ cấu kinh tế thống
nhất, thậm chí còn gây trở ngại và mâu thuẫn trong quá trình phát triển. Mặc dù đã
xuất hiện mô hình kết hợp nông - công nghiệp, gắn nông nghiệp với công nghiệp
chế biến nhưng nhìn chung, sản xuất nông nghiệp chưa tạo thành một thể thống
nhất gắn bó. Tình trạng phát triển rời rạc, không gắn với chế biến và thị trường tiêu
thụ đang là phổ biến.
- Một trong những đặc trưng nổi bật của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông

nghiệp, theo Vũ Đình Thắng [82], là một quá trình và cũng không thể có một cơ cấu
hoàn thiện, bất biến. Nói cách khác, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là một
tất yếu khách quan, nhưng đó không phải là quá trình vận động tự phát, mà con
người cần phải tác động để thúc đẩy quá trình chuyển dịch này nhanh và hiệu quả
hơn. Trên cơ sở nhận thức và nắm bắt được quy luật vận động khách quan, con
người tìm và đưa ra những biện pháp đúng đắn tác động để làm cho quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra đúng mục tiêu và định hướng đã vạch ra.
Ngoài ra, tác giả đã phân loại hệ thống các chỉ tiêu đánh giá trình độ và hiệu
quả kinh tế của cơ cấu kinh tế nông thôn.
Các chỉ tiêu đánh giá trình độ cơ cấu kinh tế gồm có: cơ cấu giá trị sản
xuất, cơ cấu lao động, cơ cấu sử dụng đất, cơ cấu vốn đầu tư. Các chỉ tiêu đánh giá
hiệu quả kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp: năng suất ruộng đất
(Tính theo giá trị), năng suất cây trồng và vật nuôi, giá trị tổng thu nhập, hiệu quả
vốn đầu tư, năng suất lao động nông thôn, thu nhập bình quân một khẩu, một lao
động nông nghiệp.
- Nghiên cứu về sự phát triển, phân bố và kĩ thuật gieo trồng, trong các công trình
[27], [28], [29], Bùi Huy Đáp tập trung phân tích đặc điểm sinh thái của cây lúa.
Trong điều kiện miền Bắc có mùa đông lạnh, nông dân đồng bằng Bắc Bộ thường
trồng lúa vào vụ mùa là chính để tránh rét và có mưa. Những vùng trũng và những
nơi có điều kiện thủy lợi mới gieo cây vụ chiêm trong điều kiện giá lạnh nên năng
suất thấp. Các công trình nghiên cứu của ông đã được đúc kết từ lí thuyết và thực tế.
Từ đó ông đưa ra thời điểm gieo, cấy cho vụ lúa xuân ở miền Bắc là trước và sau
lập xuân là thích hợp nhất. Cho đến nay, vụ lúa chiêm, xuân ở miền Bắc nước ta
được gieo trồng đại trà, cho năng suất cao góp phần đảm bảo an ninh lượng thực
trong nước và tạo nguồn hàng cho xuất khẩu.
Nghiên cứu về đặc điểm sinh thái một số cây trồng chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả
của nông nghiệp Việt Nam, Đào Thế Tuấn [96] đã đi tiên phong trong nghiên cứu cơ sở khoa
học và thực tiễn của việc xác định cơ cấu cây trồng hợp lí. Tác giả đã phân tích đặc điểm sinh
thái cây lúa, ngô… Từ những nghiên cứu cá thể, năm 1965 tác giả đã chuyển sang
nghiên cứu sinh lí ruộng lúa năng suất cao với việc nghiên cứu quá trình quang hợp,

dinh dưỡng khoáng… Công trình nghiên cứu này đặt cơ sở cho việc tạo ra những
cánh đồng 10 tấn/ha vào những năm 70 của thế kỉ trước tại các HTX tỉnh Thái Bình,
Hưng Yên…
- Cùng nghiên cứu về cây lúa, Vũ Tuyên Hoàng [38, 39] đã nghiên cứu thành công
công trình đưa lúa chiêm xuân trồng vào vụ mùa. Sau thành công này, lần lượt các giống lúa
đông xuân 1, đông xuân 2 và đông xuân 3 ra đời cho năng suất cao và được trồng cả vụ chiêm
xuân và vụ mùa, điển hình là NN8. Ngày nay, những giống lúa của ông ít được gieo trồng,
nhưng việc nghiên cứu tạo ra nó và đưa vào sử dụng rộng rãi ở miền Bắc những năm 70 – 80
của thế kỷ trước góp phần không nhỏ để giải quyết vấn đề lương thực quốc gia.
- Đánh giá nông nghiệp Việt Nam sau 15 năm đổi mới, Nguyễn Sinh Cúc
[16] đã tổng kết những thành công cũng như những tồn tại của nông nghiệp
Việt Nam từ 1986 đến nay, đồng thời đưa ra những giải pháp và triển vọng cho
nông nghiệp Việt Nam từ bài học kinh nghiệm CNH, HĐH nông nghiệp và phát
triển nông thôn của một số nước trên thế giới. Tác giả đã xây dựng 3 mô hình
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn vùng đồng bằng sông Cửu Long đó là mô
hình đa dạng hóa nông nghiệp gắn với công nghiệp nông thôn, mô hình phát
triển công nghiệp và dịch vụ và mô hình gắn công nghiệp, dịch vụ với nông
nghiệp hàng hóa…
- Một trong những vấn đề bức bách nhất mà ngành nông nghiệp Việt Nam chưa làm
được là ổn định đầu ra của sản phẩm. Đề cập đến vấn đề này, Võ Tòng Xuân [129] có
nhiều bài viết, trong đó tiêu biểu là Nghiên cứu ứng dụng chuỗi giá trị sản xuất và
tiêu thụ nông sản. Trong công trình này, tác giả đề cập đến các tình huống dẫn đến
những thành công và thất bại vừa qua của thị trường nông nghiệp Việt Nam, phân
tích những điều kiện đáp ứng thị trường và phương pháp vĩ mô cần áp dụng để tạo
ra thị trường hấp dẫn cho nông nghiệp Việt Nam. Để chứng minh cho luận điểm của
mình, tác giả đã đưa ví dụ về sự thành công của Malaixia với cây cọ dầu. Việc triển
khai một chương trình nghiên cứu ứng dụng để tìm ra khung chính sách đồng bộ về
chiến lược phát triển thị trường, bắt đầu từ xác định các mặt hàng có lợi thế tương
đối vùng nhiệt đới, tổ chức nghiên cứu toàn diện về sản xuất, chế biến và bảo quản
mặt hàng, tổ chức tìm thị trường và giữ thị trường, cung cấp thông tin thị trường, tổ

chức sản xuất quy mô lớn bằng các HTXNN hoặc trang trại; sửa đổi thêm nữa các
luật đầu tư và luật hợp đồng để các nhà đầu tư yên tâm; đẩy mạnh công tác giáo dục
và đào tạo nguồn nhân lực cho các ngành, đặc biệt ngành quản lý, kinh doanh nông
nghiệp và tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng nông thôn.
Dưới góc độ địa lí học, các nhà khoa học Địa lí thuộc khoa Địa Lí, trường
Đại học Sư phạm Hà Nội có nhiều công trình, giáo trình địa lí nông nghiệp có ý
nghĩa cả lí luận và thực tiễn.
- Tác giả Lê Thông [87] đã đúc kết những đóng góp của các nhà địa lí Xô
Viết về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp, đồng thời đánh giá một cách tổng quát các
nhân tố ảnh hưởng tới việc hình tổ chức lãnh thổ nông nghiệp, một số hình thức tổ
chức lãnh thổ nông nghiệp phổ biến hiện nay trên thế giới.
Trước khi viết về Tổ chức lãnh thổ sản xuất nông nghiệp trên Thế giới [86],
Tác giả đã phân tích đặc điểm sản xuất nông nghiệp hiện nay, từ đó tác giả đã phân
tích các hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp của các nước XHCN và TBCN, so
sánh để thấy điểm giống và khác nhau giữa các hình thức tổ chức lãnh thổ sản xuất
nông nghiệp này. Trên cơ sở phân tích các hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp,
Ông đã có những dự báo về xu hướng phát triển nông nghiệp trên thế giới.
Kế thừa cơ sở lí luận và thực tiễn phát triển nông nghiệp trên thế giới, Lê
Thông [88] cũng đã nêu bật vai trò, đặc điểm, các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát
triển nông nghiệp Việt Nam cũng như những kết quả mà nông nghiệp Việt Nam đã
đạt được xét theo khía cạnh ngành và khía cạnh lãnh thổ. Từ những kết quả này, tác
giả đã phác họa bức tranh nông nghiệp Việt Nam trong tương lai.
- Viết về các vùng kinh tế Việt Nam, tập thể tác giả Lê Thông, Nguyễn Quý
Thao, Nguyễn Minh Tuệ, Nguyễn Thị Sơn và Lê Thị Mỹ Dung [90] đã có những
đánh giá tổng quan về vùng, các loại vùng tiêu biểu. Khi phân chia các vùng kinh
tế, các tác giả phân tích, so sánh các vùng kinh tế của Nga và của Việt Nam, đồng
thời cũng phân tích, đánh giá các vùng trọng kinh tế trọng điểm theo quan niệm của Ngô
Doãn Vịnh.
- Viết về Địa lí nông nghiệp, Nguyễn Viết Thịnh, Đỗ Thị Minh Đức [84]
ngoài việc phân tích vai trò, đặc điểm của ngành nông nghiệp, các tác giả còn khẳng

định các nhân tố tự nhiên, các nhân tố kinh tế xã hội là những nguồn lực cho sự phát
triển nông nghiệp. Từ những nguồn lực này, các tác giả đã phân tích sự phát triển và
phân bố nông nghiệp dưới góc độ cơ cấu ngành và cơ cấu lãnh thổ nông nghiệp cả
những mặt tích cực cũng như những bất cập cần phải khắc phục, từ đó định hướng
cho sự phát triển và phân bố nông nghiệp trong tương lai.
- Cùng quan điểm với các tác giả trên, Nguyễn Minh Tuệ, Nguyễn Viết
Thịnh, Lê Thông [100] đã phân tích vai trò, đặc điểm và các nhân tố ảnh hưởng đến
sự phát triển và phân bố nông nghiệp thế giới. Ngoài ra, tác giả phân tích sâu sắc
đặc điểm sinh thái của một số loại cây trồng, vật nuôi phổ biến hiện nay trên thế
giới. Tác giả đã vẽ một bức tranh nông nghiệp thế giới xét theo cơ cấu ngành và cơ
cấu lãnh thổ.
Các công trình khoa học trên đều nghiên cứu tổng quan cơ sở lí luận và cơ sở
thực tiễn của phát triển nông nghiệp nói chung và nông nghiệp Việt Nam nói riêng.
Trên cơ sở đánh giá các điều kiện phát triển nông nghiệp nước ta, các tác giả đã
phác họa bức tranh của nông nghiệp Việt Nam cả hiện tại và tương lai cũng như đánh
giá sự phát triển nông nghiệp theo 7 vùng kinh tế.
- Bên cạnh các công trình nghiên cứu có tính chất hệ thống, quy mô lớn, nông
nghiệp cũng là một chủ đề rộng lớn, có sức hấp dẫn đối với các nghiên cứu sinh và
được các nghiên cứu sinh lựa chọn làm đề tài cho luận án tiến sĩ của mình.
Trong luận án tiến sĩ khoa học kinh tế trường Đại học kinh tế Quốc dân năm
1995: Nghiên cứu vấn đề chuyển dịch cơ cấu các ngành sản xuất nông nghiệp tỉnh
Đồng Nai [49], Phan Trung Kiên đã phân tích sâu sắc các nhân tố ảnh hưởng đến
ngành sản xuất nông nghiệp tỉnh Đồng Nai, thực trạng cơ cấu các ngành sản xuất
nông nghiệp tỉnh Đồng Nai. Từ thực tế chuyển dịch cơ cấu đó, tác giả đưa ra định
hướng và những giải pháp cho sự phát triển nông nghiệp tỉnh Đồng Nai đến năm
2000 và 2010.
Trong luận án tiến sĩ Địa lí của trường Đại học Sư phạm Hà Nội năm 2008:
Phát triển cây công nghiệp lâu năm ở tỉnh Lâm Đồng [64], Mai Hà Phương đã kế
thừa cơ sở lí luận của các nhà khoa học trong lĩnh vực kinh tế học và sinh thái
học, trên cơ sở đánh giá các điều kiện tự nhiên đặc biệt là đánh giá các điều kiện

thích nghi của đất tỉnh Lâm Đồng đối với một số cây công nghiệp như cà phê,
cao su, hồ tiêu, điều Tác giả đã phân tích hiện trạng phát triển và phân bố một
số cây công nghiệp chính của tỉnh Lâm Đồng, từ đó đề xuất một số giải pháp chủ
yếu nhằm thực hiện chuyển dịch cơ cấu cấy công nghiệp lâu năm ở tỉnh Lâm
Đồng giai đoạn 2010 và 2015.
Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp tỉnh Nghệ An [75] là luận án tiến sĩ địa lí
trường Đại học sư phạm Hà Nội năm 2012. Trong luận án, Nguyễn Thị Trang
Thanh đã đúc kết các mô hình tổ chức lãnh thổ nông nghiệp trên thế giới và Việt
Nam, từ đó phân tích các mô hình tổ chức lãnh thổ nông nghiệp hiện có của tỉnh
Nghệ An cũng như hiệu quả của từng hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp này.
Trên cơ sở đó, bước đầu tác giả đã có những nhận định, kiến nghị và đề xuất các
giải pháp để hình thành các hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp của Nghệ An
cho những năm tiếp theo phù hợp với điều kiện thực tế của tỉnh.
2.3. Ở Hải Dương
Phát triển nông nghiệp là vấn đề được các cấp các ngành, các địa phương luôn
quan tâm đề cập.
- Chương trình hành động thực hiện Nghị Quyết Hội nghị lần thứ 7 BCH TW
khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn [103] đã xác định nông nghiệp là
ngành kinh tế quan trọng cần được đầu tư đảm bảo nhu cầu an ninh lương thực,
thực phẩm và tiến tới ngành sản xuất hàng hóa.
- Báo cáo tóm tắt - Rà soát bổ sung quy hoạch phát triển kinh tế xã hội tỉnh
Hải Dương đến năm 2020 [111] đã đề cập đến xu hướng phát triển và chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông nghiệp của tỉnh đến năm 2020, ngoài việc đánh giá thực trạng
nông nghiệp Hải Dương giai đoạn 2006 – 2008 còn đưa ra mục tiêu, chương trình
hành động và các giải pháp để đến năm 2020, nông nghiệp Hải Dương không những
đảm bảo an ninh lương thực, thực phẩm mà còn là tỉnh trọng điểm lương thực, thực
phẩm của cả nước.
- Các đề án chuyển đổi cơ cấu cây trồng [108], chuyển đổi cơ cấu ngành chăn
nuôi [113], Quy hoạch diện tích đất trồng lúa đảm bảo an ninh lương thực tỉnh Hải
Dương đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 [106] đã khẳng định vai trò của

nông nghiệp Hải Dương nhưng cũng đặt ra những thách thức to lớn của sản xuất
nông nghiệp Hải Dương trước sức ép từ sự gia tăng dân số trong điều kiện đất nông
nghiệp đang bị thu hẹp.
Có thể thấy, những công trình trên đều xác định rõ vai trò và các nhân tố tác
động đến sản xuất nông nghiệp, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và lựa
chọn mô hình phát triển của nông nghiệp Hải Dương phù hợp với điều kiện thực
tiễn của tỉnh.
3. MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI
3.1. Mục tiêu
Vận dụng cơ sở lí luận, thực tiễn phát triển nông nghiệp Việt Nam, luận án
tập trung nghiên cứu những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển nông nghiệp tỉnh
Hải Dương, thực trạng phát triển và phân bố nông nghiệp tỉnh Hải Dương trong giai
đoạn 2000 – 2010. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình phát
triển nông nghiệp của tỉnh có hiệu quả hơn.
3.2. Nhiệm vụ
- Tổng quan có chọn lọc cơ sở lí luận, thực tiễn về phát triển nông nghiệp.
- Xác định các tiêu chí đánh giá sự phát triển nông nghiệp cho lãnh thổ cấp tỉnh.
- Đánh giá vai trò của các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển nông nghiệp tỉnh
Hải Dương.
- Phân tích thực trạng phát triển nông nghiệp tỉnh Hải Dương giai đoạn
2000 – 2010.
- Đề xuất các giải pháp cho phát triển nông nghiệp tỉnh Hải Dương đến
năm 2020.
3.3. Giới hạn
- Nội dung nghiên cứu: luận án tập trung nghiên cứu sự phát triển nông
nghiệp theo nghĩa rộng bao gồm sự phát triển của các ngành nông nghiệp, lâm
nghiệp và thủy sản xét theo cơ cấu ngành và cơ cấu lãnh thổ.
- Lãnh thổ nghiên cứu: luận án nghiên cứu sự phát triển nông nghiệp toàn bộ
tỉnh Hải Dương có phân hóa đến cấp huyện, thị xã và thành phố Hải Dương. Bên
cạnh đó, luận án đặt Hải Dương trong bối cảnh liên kết với vùng đồng bằng sông

Hồng và vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ trong quá trình nghiên cứu.
- Thời gian nghiên cứu: số liệu được nghiên cứu trong giai đoạn từ 2000 –
2010. Những số liệu mang tính dự báo và định hướng, luận án phân tích đến năm 2020.
4. CÁC QUAN ĐIỂM VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1. Các quan điểm nghiên cứu
a. Quan điểm tổng hợp lãnh thổ
Đây là quan điểm quan trọng trong nghiên cứu địa lí nói chung. Tính tổng
hợp được xem là tiêu chuẩn hàng đầu trong đánh giá giá trị khoa học của các công
trình nghiên cứu về các địa tổng thể. Trong nghiên cứu địa lí, tính tổng hợp được hiểu như sau:
- Tổng hợp là nghiên cứu đồng bộ, toàn diện các hợp phần của tổng thể địa lí
trong mối quan hệ tương tác lẫn nhau giữa chúng để tạo ra sự phân dị lãnh thổ.
- Tổng hợp là sự kết hợp có quy luật, có hệ thống trên cơ sở phân tích đồng
bộ và toàn diện các hợp phần của các địa tổng thể, đồng thời phát hiện và xác định
những đặc điểm đặc thù của các địa tổng thể.
Mọi sự vật và hiện tượng địa lí đều tồn tại và phát triển trong một không gian
lãnh thổ nhất định. Khoa học địa lí tìm ra sự phân hoá của các sự vật, hiện tượng và dự
kiến sự phân bố của chúng trong không gian.
Các hoạt động kinh tế nông nghiệp trong một vùng lãnh thổ là khai thác tổng hợp
các điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, điều kiện kinh tế -xã hội. Mỗi một vùng
lãnh thổ có những lợi thế so sánh riêng để chú trọng phát triển với các sản phẩm thế
mạnh mang tính chất đặc trưng.
Cơ cấu lãnh thổ tỉnh Hải Dương được coi như một thể tổng hợp tương đối
hoàn chỉnh, trong đó các yếu tố tự nhiên, kinh tế xã hội có mối quan hệ chặt chẽ, tác
động ảnh hưởng chi phối lẫn nhau. Các đơn vị hành chính cấp huyện, thành phố đều
có những lợi thế riêng để phát triển nông nghiệp nhưng có quan hệ qua lại với nhau.
Do vậy, trong quá trình tìm hiểu phân tích thực trạng phát triển kinh tế
nông nghiệp, luận án đã vận dụng quan điểm này để thấy được sự phân hóa về mặt
lãnh thổ sản xuất cũng như các thế mạnh riêng của mỗi đơn vị hành chính cấp
huyện trong phát triển. Từ đó đưa ra những định hướng phát triển có tính tổng hợp
nhằm khai thác tốt nhất những tiềm năng của tỉnh để đẩy nhanh sự tăng trưởng.

b. Quan điểm hệ thống
Trong hệ thống các ngành kinh tế quốc dân, mỗi một ngành kinh tế là một bộ
phận của hệ thống, tồn tại và phát triển trong mối quan hệ mật thiết với các phân hệ
còn lại trong hệ thống và với những yếu tố khác bên ngoài hệ thống (điều kiện tự
nhiên, thị trường…)
Bản thân các ngành kinh tế cũng là một hệ thống ở cấp thấp hơn của hệ
thống kinh tế quốc dân, được hình thành bởi các phần tử khác nhau (theo ngành,
lãnh thổ hoặc thành phần kinh tế…). Các phần tử cấu thành nên hệ thống này không
hoạt động đơn lẻ mà có mối quan hệ, tác động qua lại lẫn nhau và có quan hệ với
các hệ thống khác và ngày càng được mở rộng trong quá trình phân công và hợp tác
lao động. Bất cứ một thành tố nào của hệ thống thay đổi đều ảnh hưởng đến các
thành tố còn lại và làm thay đổi cả hệ thống. Khi một ngành, một lĩnh vực thay đổi,
nó sẽ kéo theo sự thay đổi của hệ thống các ngành kinh tế khác.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, việc xem xét quá trình phát triển kinh tế
nông nghiệp hiện nay trên lãnh thổ phải dựa trên quan điểm hệ thống, xem xét
chúng một cách toàn diện, đặt chúng trong mối quan hệ nhiều chiều, trong các hoàn
cảnh cụ thể, trong trạng thái vận động và phát triển của nông nghiệp. Các địa bàn
phân bố nông nghiệp được xem là các hệ thống con, các hệ thống có mối quan hệ
qua lại và tương tác lẫn nhau. Tính hệ thống làm cho quá trình thực hiện đề tài trở
nên logic và thông suốt. Khi nghiên cứu đánh giá quá trình phát triển kinh tế nông
nghiệp phải đặt chúng trong mối quan hệ với môi trường xung quanh. Vì vậy, cần
phải tìm hiểu các mối quan hệ qua lại, các tác động ảnh hưởng giữa các yếu tố trong
một hệ thống và giữa các hệ thống để đánh giá chính xác vấn đề nghiên cứu.
Như vậy, mặc dù luận án nghiên cứu về sự phát triển kinh tế nông nghiệp
của tỉnh Hải Dương, nhưng trên quan điểm hệ thống, nó lại được đặt trong hệ thống
lớn với các ngành kinh tế khác và với các lãnh thổ xung quanh.
Bởi vì nếu xét trên hệ thống lớn hơn, thì lãnh thổ tỉnh Hải Dương được coi là
một bộ phận của toàn vùng Đồng bằng Sông Hồng và của cả nước. Nếu xét cấp
thấp hơn thì lãnh thổ Hải Dương là một tập hợp bao gồm các hệ thống con (các
huyện, thành phố) có mối quan hệ tương tác mật thiết với nhau. Vì vậy luận án đã

nghiên cứu, tìm hiểu các mối quan hệ qua lại, các tác động ảnh hưởng giữa các yếu
tố trong một hệ thống và giữa các hệ thống để đánh giá chính xác vấn đề cần nghiên
cứu.
c. Quan điểm lịch sử - viễn cảnh
Mọi sự vật, hiện tượng địa lí dù lớn, nhỏ đều có quá trình phát sinh, phát triển
riêng của nó. Sự phát triển kinh tế nông nghiệp luôn luôn có sự thay đổi trong các thời
kỳ và luôn luôn ở trạng thái vận động, biến động không ngừng theo sự phát triển của
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Luận án vận dụng quan điểm lịch sử vào
nghiên cứu để thấy được những biến đổi của các yếu tố kinh tế nông nghiệp qua từng
giai đoạn phát triển kinh tế của tỉnh, từ đó đánh giá chính xác các triển vọng phát triển
của các ngành kinh tế nông nghiệp cũng như sự phân hóa lãnh thổ sản xuất; thấy được
quá trình hình thành và phát triển của ngành nông nghiệp trong quá khứ, hiện tại cũng
như đề xuất những giải pháp mới nhằm mục đích phát triển kinh tế nông nghiệp bền vững
và khai thác lãnh thổ có hiệu quả hơn trong tương lai.
d. Quan điểm phát triển bền vững
Quan điểm phát triển bền vững hiện nay đang là một quan điểm bao trùm
phát triển kinh tế, đặc biệt trong điều kiện của cách mạng khoa học công nghệ và
toàn cầu hóa.
Đặc điểm sản xuất nông nghiệp là phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, ngoài
mục đích kinh tế đơn thuần, vấn đề đặt ra khi phát triển nông nghiệp là cần phải
khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách hợp lí, phải tuân theo quy luật phát triển
của tự nhiên và đảm bảo môi trường. Có như vậy, hệ thống sinh thái mới được cân
bằng, môi trường không bị ô nhiễm, đảm bảo cho sự phát triển bền vững của nông
nghiệp, nông thôn nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Vận dụng vào luận án, việc phát triển kinh tế nông nghiệp của tỉnh Hải
Dương phải mang lại hiệu quả cao, hài hoà và bền vững cả về kinh tế, xã hội và bảo
vệ môi trường.
Những giải pháp cho sự phát triển nông nghiệp Hải Dương phải dựa trên
quan điểm phát triển bền vững. Phát triển nền kinh tế nông nghiệp phải gắn liền với
bảo vệ và tái tạo tài nguyên thiên nhiên, chống ô nhiễm môi trường, kết hợp hài hoà

phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống
của dân cư. Việc phát triển của ngày hôm nay không làm ảnh hưởng đến tương lai.
4.2. Các phương pháp nghiên cứu
a. Phương pháp thu thập và xử lý số liệu
Đây là phương pháp quan trọng, xuyên suốt quá trình nghiên cứu đề tài,
được sử dụng nhằm hệ thống lại các tri thức, tìm ra các nội dung mới về lí luận để
vận dụng chúng vào nghiên cứu đề tài.
Trong những năm gần đây có một số công trình nghiên cứu về Hải Dương
trên nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó có những vấn đề liên quan đến hướng
nghiên cứu của luận án. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả luận án đã thu thập,
phân tích và xử lý các tài liệu này sao cho các thông tin được chọn lọc là đáng tin
cậy và đảm bảo được sự đồng bộ. Một số kết quả phân tích, tổng hợp đã được tác
giả luận án kế thừa và sử dụng làm nguồn thông tin đầu vào để xử lý, phân tích
trong mối quan hệ đa chiều và bổ sung vào cơ sở dữ liệu Excel và Mapinfo.
Trong luận án, tác giả đã tiến hành thu thập các số liệu, tư liệu từ nhiều
nguồn khác nhau, ở các mốc thời gian khác nhau. Để thống nhất về thời gian, tác
giả chọn số liệu giai đoạn 2000 - 2010 để phân tích hiện trạng cũng như để xem xét
sự tăng trưởng và phát triển kinh tế nông nghiệp của tỉnh theo khía cạnh ngành và
lãnh thổ, trên cơ sở đó tiến hành các phương pháp nghiên cứu trong phòng. Về
nguyên tắc, chúng tôi sẽ sử dụng những hệ thống số liệu mới nhất được công bố gần
với thời điểm nghiên cứu nhất (2010). Để dự báo, định hướng cho phát triển nông
nghiệp Hải Dương trong tương lai, luận án có sử dụng số liệu đến năm 2020.
b. Phương pháp phân tích
Thực trạng nông nghiệp và cơ cấu nông nghiệp của tỉnh Hải Dương được
nhận biết thông qua phân tích các mối quan hệ về không gian, thời gian. Luận án đã
chú ý các mối quan hệ tự nhiên và nhân văn, các mối quan hệ hình thức và bản chất.
Việc xây dựng mô hình cho sự tăng trưởng và phát triển nông nghiệp cũng như
chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, luận án đã vận dụng phân tích các phản ứng tích
cực và tiêu cực khi có ngoại lực tương tác đánh giá, từ đó lựa chọn phương án tối
ưu. Quá trình phân tích đánh giá, đề xuất được tiến hành trên cơ sở so sánh tổng hợp

để rút ra các bản chất của hiện tượng kinh tế, hiện tượng địa lí phục vụ cho luận án.
Phương pháp này nhằm phân tích các số liệu điều tra, tính toán các thông số
trên cơ sở các số liệu đã thu thập được, xây dựng các bảng số liệu phục vụ cho việc
nghiên cứu của đề tài. Thống kê toán học sử dụng trong đề tài như là công cụ để
nhận biết các giá trị gần đúng, xác thực nhất với thực tiễn trên cơ sở số liệu đã
thu thập được từ Cục Thống kê, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Nông nghiệp…
c. Phương pháp bản đồ, GIS.
Bản đồ là “ngôn ngữ” tổng hợp, ngắn gọn, súc tích là phương thức thể hiện
trực quan các yếu tố tự nhiên, kinh tế, xã hội của các vùng lãnh thổ. Sử dụng bản đồ
là phương pháp nghiên cứu truyền thống đặc trưng của địa lí tự nhiên, địa lí kinh tế-
xã hội và nhiều môn học khác. Nghiên cứu về sự phát triển kinh tế nông nghiệp
cũng cần được khởi đầu bằng bản đồ hiện trạng và kết thúc bằng bản đồ quy hoạch
và định hướng phát triển [87].
Phương pháp sử dụng hệ thống thông tin địa lý GIS hình thành trên cơ sở của
phương pháp bản đồ kết hợp với những thành tựu công nghệ thông tin hiện đại. GIS
là tập hợp các thông tin theo các dạng, các lớp khác nhau, trên cơ sở đó phân tích, xử
lý và hiển thị các thông tin về vùng, về không gian kinh tế xã hội. Ưu điểm nổi trội
của GIS là khả năng truy cập và xử lý thông tin nhanh, kết hợp được đồng thời nhiều
loại thông tin, nhiều lớp thông tin về cùng một đối tượng địa lí trên một lãnh thổ.
Hệ thống thông tin địa lí (GIS) được thiết kế như một hệ thống chung để
quản lý dữ liệu không gian, nó có rất nhiều ứng dụng trong việc phát triển đô thị và
môi trường tự nhiên như: quy hoạch đô thị, quản lý nhân lực, nông nghiệp, điều
hành hệ thống công ích, lộ trình, nhân khẩu, bản đồ, giám sát vùng biển… Trong
phần lớn các lĩnh vực này, GIS đóng vai trò như là một công cụ hỗ trợ quyết định
cho việc lập kế hoạch hoạt động.
d. Phương pháp khảo sát, điều tra xã hội học
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả nhiều lần đi thực địa để thu thập tài liệu,
quan sát và kiểm chứng sự phát triển các ngành kinh tế nói chung và nông nghiệp
của tỉnh nói riêng. Sự phân bố các cơ sở sản xuất của các ngành kinh tế, sự phân bố
của các cây trồng, vật nuôi chủ yếu trên địa bàn cũng như ảnh hưởng của các điều

kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội đến các lĩnh vực sản xuất.
Tác giả đã tiến hành thực tế tại tất cả các địa phương trên địa bàn tỉnh Hải
Dương để trực tiếp thấy được những tiềm năng và thế mạnh kinh tế nông nghiệp
trên các địa bàn đó, đồng thời thấy được bức tranh phân bố sản xuất trên địa bàn tỉnh.
Từ thực tế khảo sát, chúng tôi sẽ đưa ra những nhận định khái quát cho sự
phát triển kinh tế nông nghiệp của địa bàn nghiên cứu cũng như có những dự báo
chính xác cho những năm tiếp theo.
Trưng cầu ý kiến đánh giá của các nhà quản lý, các chuyên gia trong lĩnh vực
có liên quan đến luận án đang tiến hành.
Phương pháp xác định hiện trạng phát triển về mặt không gian lãnh thổ của
đối tượng nghiên cứu cũng như các hoạt động sản xuất diễn ra trên nó và các hoạt
động sống diễn ra xung quanh nó. Cũng có thể kết hợp các phương pháp trên trong một
cuộc khảo sát thực địa.
Khi đã xác định mục tiêu và lựa chọn được phương pháp, cần phải có kế
hoạch làm việc, ngân sách và khung thời gian cụ thể. Ngoài ra, cần phải lập nhóm hỗ
trợ nghiên cứu để có thể hoàn thành tốt việc nghiên cứu.
e. Phương pháp dự báo
Dựa vào các tài liệu điều tra, phân tích đánh giá, trên cơ sở những biến đổi
kinh tế - xã hội, do sự tác động của sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp,
nông thôn trên địa bàn tỉnh, chúng tôi đưa ra những dự báo về sự phát triển của
nông nghiệp, nông thôn Hải Dương trong tương lai. Ngoài ra, khi tiến hành nghiên
cứu, chúng tôi đã kế thừa các kết quả nghiên cứu từ trước đến nay, đặc biệt là quy
hoạch phát triển nông nghiệp tỉnh Hải Dương, các nguồn thông tin, tư liệu, đã công
bố, báo cáo tổng kết của các ban ngành có liên quan. Các dự báo này là cơ sở để
chúng tôi đề xuất các giải pháp phát triển.
g. Phương pháp chuyên gia
Nội dung nghiên cứu có liên quan đến nhiều chuyên ngành thuộc lĩnh vực
nông nghiệp như thổ nhưỡng, trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản Trong
quá trình nghiên cứu, tác giả đã trực tiếp thảo luận và trưng cầu ý kiến các nhà khoa
học, các chuyên gia thuộc Viện nghiên cứu lương thực, thực phẩm, Viện nghiên cứu

giống thủy sản miền Bắc cũng như một số cán bộ Sở Nông nghiệp và phát triển
nông thôn tỉnh Hải Dương, Sở Tài nguyên và Môi trường để tiếp thu ý kiến,
phương pháp nghiên cứu, kế thừa nguồn tài liệu và học hỏi kinh nghiệm thực tiễn.
Nhờ đó đã giải quyết được những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện
các nhiệm vụ đặt ra.
5. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN
- Xây dựng, bổ sung và làm sáng tỏ hệ thống cơ sở lí luận và thực tiễn về
phát triển nông nghiệp trên cơ sở tổng quan các nghiên cứu đã có trong nước.
- Xác định hệ thống chỉ tiêu cơ bản đánh giá sự phát triển nông nghiệp để áp
dụng cho tỉnh Hải Dương.
- Đánh giá tổng hợp các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển nông nghiệp tỉnh
Hải Dương, chỉ ra những thuận lợi và khó khăn trong quá trình phát triển nông nghiệp.
- Phân tích thực trạng phát triển nông nghiệp tỉnh Hải Dương trong giai đoạn
2000 – 2010 xét theo cơ cấu ngành và cơ cấu lãnh thổ trên cơ sở vận dụng các tiêu
chí đã được lựa chọn.
- Trên cơ sở định hướng đến năm 2020, luận án đã đề xuất được một số giải
pháp cụ thể nhằm góp phần đẩy nhanh quá trình phát triển nông nghiệp tỉnh Hải
Dương có hiệu quả hơn trong giai đoạn tiếp theo.
6. CẤU TRÚC CỦA LUẬN ÁN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, phụ lục, các bản đồ
và bảng biểu, nội dung của đề tài được trình bày trong 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề phát triển nông nghiệp.
Chương II: Các nhân tố ảnh hưởng và thực trạng phát triển nông nghiệp tỉnh
Hải Dương trong giai đoạn 2000 - 2010.
Chương III: Định hướng và giải pháp chủ yếu về sự phát triển nông nghiệp
tỉnh Hải Dương đến năm 2020.
Chương I
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
CỦA VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP
1.1. Cơ sở lí luận

1.1.1. Một số khái niệm.
1.1.1.1. Khái niệm về sự phát triển, phát triển kinh tế.
Hiện nay, mọi quốc gia đều phấn đấu vì mục tiêu phát triển và trải qua thời
gian, khái niệm về sự phát triển cũng đã đi đến sự thống nhất.
Theo quan điểm của Triết hoc, phát triển là khái niệm chỉ sự thay đổi về quy
mô và chất lượng của một sự vật, hiện tượng trong thời gian và không gian nhất
định. Sự thay đổi này bao hàm cả tăng lên hay giảm đi về quy mô và sự thay đổi về
chất lượng của sự vật, hiện tượng. Như vậy, phát triển là khái niệm về sự tồn tại và
vận động không ngừng của sự vật, hiện tượng trong thời gian và không gian cụ thể.
Suy rộng ra, một hệ thống tồn tại và vận động luôn trong thế phát triển. Mỗi hệ
thống vận động theo quy luật nhất định – quy luật của sự phát triển.
Phát triển kinh tế là gì? Đó là việc tổ chức và thúc đẩy những hoạt động của
con người vì mục đích trước hết là kinh tế, hay nói cách khác, phát triển kinh tế
chính là làm cho nền kinh tế tăng lên về quy mô và gia tăng chất lượng; đó được
xem như con đường dẫn con người tới ấm no, hạnh phúc và cải biến xã hội đi tới
tiến bộ.
Phát triển kinh tế, theo Ngô Doãn Vịnh [124] là sự thay đổi về mọi mặt của
nền kinh tế trong một thời kì nhất định. Nói đến sự phát triển kinh tế là nói cả đến
tăng giảm về quy mô sản lượng, chất lượng của sự thay đổi của nền kinh tế và cả
đến sự tiến bộ của xã hội. Sự phát triển kinh tế bao giờ cũng là sự mong muốn của
con người về sự tiến hóa của nền kinh tế từ trình độ phát triển thấp lên trình độ phát
triển cao hơn và kết quả, lợi ích do nó mang lại ngày một lớn hơn.
Theo Phạm Ngọc Linh và Nguyễn Thị Kim Dung [52], phát triển kinh tế
được hiểu là quá trình tăng tiến về mọi mặt của nền kinh tế. Phát triển kinh tế được
xem như là quá trình biến đổi cả về lượng và chất, nó là sự kết hợp một cách chặt
chẽ quá trình hoàn thiện của hai vấn đề kinh tế và xã hội của mỗi quốc gia. Theo
cách hiểu như vậy, nội dung của phát triển kinh tế được khái quát theo ba tiêu thức:
Một là, sự gia tăng tổng mức thu nhập của nền kinh tế và mức gia tăng thu
nhập bình quân trên một đầu người. Đây là tiêu thức thể hiện quá trình biến đổi về
lượng của nền kinh tế, là điều kiện cần để nâng cao mức sống vật chất của một quốc

gia và thực hiện những mục tiêu khác của phát triển.
Hai là, sự biến đổi theo đúng xu thế của cơ cấu kinh tế. Đây là tiêu thức
phản ánh sự biến đổi về chất kinh tế của một quốc gia. Để phân biệt các giai
đoạn phát triển kinh tế hay so sánh trình độ phát triển kinh tế giữa các nước với
nhau, người ta thường dựa vào dấu hiệu về dạng cơ cấu ngành kinh tế mà quốc
gia đạt được.
Ba là, sự biến đổi ngày càng tốt hơn trong các vấn đề xã hội. Mục tiêu cuối
cùng của sự phát triển kinh tế trong các quốc gia không phải là tăng trưởng hay
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, mà là việc xóa bỏ nghèo đói, suy dinh dưỡng, sự tăng
lên của tuổi thọ bình quân, khả năng tiếp cận đến các dịch vụ y tế, nước sạch, trình
độ dân trí giáo dục….Hoàn thiện các tiêu chí trên là sự thay đổi về chất xã hội của
quá trình phát triển.
Từ những sự phân tích trên, có thể đi đến thống nhất khái niệm phát triển
kinh tế:
Phát triển kinh tế là sự thay đổi về quy mô cả chất và lượng của nền kinh tế
và cả sự tiến bộ của xã hội.
1.1.1.2. Khái niệm nông nghiệp
Theo Từ điển Tiếng Việt: nông nghiệp “Là ngành sản xuất chủ yếu của xã
hội, có nhiệm vụ cung cấp sản phẩm ngành trồng trọt và chăn nuôi” [133].
Theo Từ điển kinh tế học “Nông nghiệp là quá trình sản xuất lương thực,
thực phẩm, thức ăn gia súc, tơ sợi và sản phẩm mong muốn khác bởi trồng trọt
những cây trồng chính và chăn nuôi đàn gia súc”[57].
Theo Bách Khoa toàn thư: “Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản
của xã hội, sử dụng đất để trồng trọt và chăn nuôi, khai thác cây trồng và vật nuôi
làm tư liệu và nguyên liệu lao động chủ yếu để tạo ra lương thực, thực phẩm và một
số nguyên liệu cho công nghiệp. Nông nghiệp là một ngành lớn, bao gồm nhiều
chuyên ngành: trồng trọt, chăn nuôi, sơ chế nông sản; theo nghĩa rộng, còn bao gồm
cả lâm nghiệp và thủy sản”[3].
Từ những định nghĩa trên, có thể thấy khái niệm về nông nghiệp đang được
nhìn nhận phù hợp với xu hướng phát triển. Nông nghiệp hiện đại đã vượt ra khỏi

nền nông nghiệp truyền thống, sản xuất nông nghiệp chủ yếu tạo ra lương thực cho
con người hay làm thức ăn cho gia súc. Các sản phẩm nông nghiệp ngày nay, ngoài
lương thực, thực phẩm truyền thống phục vụ cho con người còn các loại khác như:
sợi dệt (bông, len, lụa, lanh), lâm nghiệp và thủy sản sản xuất theo hướng sản xuất
hàng hóa, quan tâm đến việc đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm.
Trên cơ sở phân tích các khái niệm nông nghiệp ở trên, nông nghiệp có thể
được hiểu một cách khái quát “Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản của
xã hội, được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm các ngành nông, lâm và ngư nghiệp”.
Trong nền nền kinh tế hiện đại, nông nghiệp phải là một ngành phát triển
theo hướng sản xuất hàng hóa chứ không chỉ dừng lại của một nền nông nghiệp tự
cung, tự cấp.
Nông nghiệp phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa được hiểu là sản phẩm
của nông nghiệp được mang ra trao đổi trên thị trường và chịu sự chi phối của Quy
luật cung, cầu và Quy luật cạnh tranh. Nếu cung vượt cầu thì sản phẩm đó hoặc
thừa hoặc chịu bán với giá thấp, chịu thua lỗ. Ở một khía cạnh khác, cùng một loại
nông sản lưu thông trên thị trường nhưng sản phẩm nào có chất lượng tốt hơn, đáp
ứng được yêu cầu và thị hiếu của người tiêu dung, có giá cả hợp lý, rẻ hơn thì sản
phẩm đó được tiêu thụ dễ dàng [dẫn theo 68]. Như vậy, sản xuất hàng hóa trong
nông nghiệp đánh dấu một mốc quan trọng trong tiến trình phát triển nông nghiệp
của mối quốc gia. So với nền nông nghiệp tự cung, tự cấp, nông nghiệp hàng hóa có
những ưu thế nổi bật. Vì trong nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa, nông sản chịu sự
chi phối của các quy luật giá trị, quy luật cung cầu và quy luật cạnh tranh buộc các
tổ chức, các tập thể và các cá nhân sản xuất phải tổ chức lại, cải tiến kĩ thuật, tăng
năng suất, chất lượng, hạ giá thành, thay đổi mẫu mã cho phù hợp với người tiêu
dung. Từ đó, thúc đẩy nông nghiệp phát triển.
Trong những năm cuối của thế kỳ XX, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc
tế đang được các nhà nghiên cứu và hoạt động thực tiễn thế giới và Việt Nam quan
tâm. Nội dung chủ yếu của toàn cầu hóa về kinh tế, thực chất là hội nhập kinh tế
quốc tế. Tuy còn có những quan niệm khác nhau về hội nhập kinh tế quốc tế nhưng
có thể hiểu hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình chủ động gắn kết nền kinh tế và thị

trường của từng nước với kinh tế khu vực và thế giới thông qua các nỗ lực tự do hóa
thương mại và mở cửa trên các cấp độ đơn phương, song phương và đa phương. Từ
quan niệm về hội nhập kinh tế quốc tế như vậy, nền nông nghiệp hội nhập cũng
được hiểu là quá trình chủ động gắn kết nền nông nghiệp và thị trường nông sản
của từng nước với nền nông nghiệp khu vực và thế giới thông qua các hiệp định
thương mại trong lĩnh vực nông nghiệp ở các cấp độ đơn phương, song phương và
đa phương [dẫn theo 71].
Xuất phát từ sự hội nhập quốc tế trong nông nghiệp, mỗi nước sẽ đánh giá
đúng những thuận lợi, khó khăn, thời cơ và cả thách thức để phát triển nông nghiệp
của nước mình. Từ đó, có chiến lược phát triển nông nghiệp hợp lý để phát huy lợi
thế cạnh tranh cũng như khắc phục khó khăn trong sản xuất để đáp ứng nhu cầu của
nhân dân trong nước và thị trường khu vực, quốc tế.
Theo Ủy ban thế giới về môi trường và phát triển đưa ra năm 1987: phát
triển bền vững là sự phát triển đáp ứng nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến
khả năng đáp ứng nhu cầu của thế hệ tương lai. Trong thời đại ngày nay, phát triển
bền vững phải hướng tới và giải quyết các vấn đề cơ bản có liên quan chặt chẽ với
nhau. Bền vững về kinh tế, bền vững về chính trị, xã hội, bền vững về môi trường…
Điều này có nghĩa là sự phát triển bền vững phải bảo đảm sự hài hòa giữa tăng
trưởng nhanh và có hiệu quả, thực hiện sự công bằng xã hội và bảo vệ môi trường
sinh thái…
Phát triển nông nghiệp bền vững là sự phát triển mà đáp ứng được nhu cầu
tăng trưởng của nền kinh tế nhưng không làm suy thoái môi trường tự nhiên – con
người và đảm bảo được mức sống trên mức nghèo đói cho người nông dân [71].
Mục đích của phát triển nông nghiệp bền vững là kiến tạo một hệ thống bền vững
về mặt sinh thái, có tiềm lực về kinh tế, có khả năng thỏa mãn những nhu cầu của
con người mà không làm hủy diệt đất đai, không làm ô nhiễm môi trường. Nông
nghiệp bền vững không chỉ bảo vệ những hệ sinh thái đã có trong tự nhiên mà còn
tìm cách khôi phục những hệ sinh thái đã bị suy thoái. Nông nghiệp bền vững tạo ra
một hệ sinh thái nông nghiệp sản xuất lương thực, thực phẩm cho con người, thức
ăn cho chăn nuôi nhiều hơn so với hệ thống nông nghiệp tự nhiên.

1.1.1.3. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp là tổng thể các mối quan hệ kinh tế trong sản
xuất nông nghiệp, có mối quan hệ hữu cơ cả về lượng và chất của các ngành
trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, thủy sản [58]. Các mối quan hệ, tương tác
này không ngừng hoàn thiện và phát triển trong sự ổn định tương đối, trong các
mối quan hệ khăng khít, tác động và tùy thuộc lẫn nhau giữa các yếu tố, được
xác định bằng các quan hệ tỷ lệ về số lượng và chất lượng.
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp bao gồm các bộ phận chủ yếu: cơ cấu ngành,
cơ cấu lãnh thổ, cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu lao động…Các bộ phận này
có mối quan hệ tương tác lẫn nhau. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản
xuất, các mối quan hệ hữu cơ giữa các bộ phận trong nông nghiệp sẽ thay đổi
dẫn đến tăng năng suất lao động, thúc đảy sự phân công lao động xã hội và
hình thành các tổ chức sản xuất mới.
* Cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo ngành:
Đây là nội dung quan trọng nhất của cơ cấu kinh tế nông nghiệp, phản
ánh số lượng, vị trí, tỷ trọng các bộ phận cấu thành ngành kinh tế nông nghiệp,
nông thôn. Việc phân biệt cơ cấu theo ngành là dựa vào đặc tính kinh tế - kỹ
thuật của ngành. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo nghĩa rộng bao gồm cả nông
- lâm - thủy sản. Trong đó nông nghiệp bao gồm: trồng trọt, chăn nuôi và dịch
vụ nông nghiệp; thủy sản bao gồm: nuôi trồng, đánh bắt và dịch vụ hậu cần;
lâm nghiệp bao gồm trồng rừng và khai thác vv…
*Cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo lãnh thổ:
Đây là sự phản ánh mối quan hệ về số lượng, vị trí, tỷ trọng của các đơn
vị lãnh thổ nông nghiệp, đồng thời phản ánh tiềm năng kinh tế - xã hội và khả
năng khai thác các tiềm năng đó phục vụ cho mục tiêu phát triển nhất định. Cơ
cấu nông nghiệp theo lãnh thổ được hình thành dựa vào sự bố trí không gian
sản xuất nông nghiệp trên các vùng lãnh thổ, nó gắn bó chặt chẽ với cơ cấu
kinh tế nông nghiệp theo ngành trong một thể thống nhất. Chính sự khác biệt về
các yếu tố điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội đã tạo nên các đơn vị
lãnh thổ nông nghiệp, từ đó hình thành cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo lãnh

thổ. Những đơn vị lãnh thổ nông nghiệp này có sự khác biệt với nhau song
chúng lại cùng tồn tại trong mối quan hệ tác động qua lại với nhau.
*Cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo thành phần kinh tế
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo thành phần kinh tế được hình thành dựa
trên chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất, vì thế, có thể phân chia các thành phần
kinh tế nông nghiệp dựa trên các hình thức sở hữu thành các nhóm: kinh tế nhà
nước; kinh tế tập thể; kinh tế tư nhân… Là sự phản ánh mối quan hệ về số lượng, vị
trí, tỷ trọng của các thành phần kinh tế cấu thành nên kinh tế nông nghiệp.
1.1.1.4. Khái niệm tổ chức lãnh thổ nông nghiệp
Có nhiều công trình bàn về TCLTNN. Theo K.I.Ivanov (1974), TCLTNN
được hiểu là một hệ thống liên kết không gian của các ngành, các xí nghiệp nông
nghiệp và các lãnh thổ dựa trên cơ sở các quy trình kĩ thuật mới nhất, chuyên môn
hoá, tập trung hoá, liên hợp hoá và hợp tác hoá sản xuất; cho phép sử dụng có hiệu
quả nhất sự khác nhau theo lãnh thổ về các điều kiện tự nhiên, kinh tế, nguồn lao
động và đảm bảo năng suất lao động xã hội cao nhất. [Dẫn theo 87, tr.70].
Theo tác giả Nguyễn Viết Thịnh: TCLTNN là tổ chức các không gian nông
nghiệp (các tiểu vùng nông nghiệp) trên cơ sở đánh giá tác động tổng hợp của các
nhân tố tương đối tĩnh (các điều kiện sinh thái nông nghiệp) và các nhân tố động
(với các mức độ động khác nhau) như dân cư, lao động, mạng lưới đô thị, kết cấu
hạ tầng sản xuất và sinh hoạt, thị trường nông sản, chính sách phát triển nhằm
đánh giá được sự phân hóa lãnh thổ nông nghiệp đã định hình, sự hợp lí và chưa
hợp lí của nó; đưa một (hoặc hai, ba phương án định hướng TCLTNN, trong đó
phát hiện chính xác các địa bàn trọng điểm phát triển nông nghiệp theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa; đồng thời phát hiện các vùng khó khăn để đề xuất các
chính sách phát triển phù hợp [dẫn theo 85].
Tác giả Ngô Doãn Vịnh cho rằng: "TCLTNN là cách thức phối hợp, kết
hợp các đối tượng nông nghiệp trong một lãnh thổ xác định có tính tới mối quan
hệ với các đối tượng thuộc ngành và lĩnh vực khác trong thế vận động và phát
triển" [123, tr.90].
Như vậy, TCLTNN hiện nay không chỉ dựa vào những điều kiện sản xuất

hiện có, mà phải đặt trong mối quan hệ với các khu vực xung quanh, đặc biệt là
những nhu cầu của thị trường thì mới có thể phát triển bền vững được. Hay nói cách
khác, TCLTNN phải kết hợp được những yếu tố sẵn có và những yếu tố bên ngoài
để sản xuất một cách hiệu quả nhất về mặt kinh tế, xã hội và môi trường.
Từ các nội dung đã phân tích ở trên, theo chúng tôi: TCLTNN là sự sắp xếp
và phối hợp các đối tượng nông nghiệp trong mối liên hệ liên ngành, liên vùng, kết
hợp với nhu cầu thị trường trên một lãnh thổ cụ thể nhằm sử dụng hợp lí nhất các
tiềm năng tự nhiên, lao động, vị trí địa lí và cơ sở vật chất kĩ thuật để đem lại hiệu
quả cao về mặt kinh tế, xã hội và môi trường.
1.1.2. Vai trò và đặc điểm của nông nghiệp
1.1.2.1. Vai trò của nông nghiệp
- Nông nghiệp cung cấp lương thực, thực phẩm phục vụ nhu cầu cơ bản của
con người
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất xuất hiện sớm nhất của xã hội loài
người. Sản phẩm quan trọng hàng đầu mà con người làm ra để nuôi sống mình là
lương thực. Cùng với sự phát triển của khoa học – kĩ thuật, nông nghiệp ngày càng
được mở rộng, các giống cây trồng, vật nuôi ngày càng đa dạng và phong phú
[100]. Các Mác đã khẳng định, con người trước hết phải có ăn rồi sau đó mới nói
đến các hoạt động khác. Ông đã chỉ rõ: nông nghiệp là ngành cung cấp tư liệu sinh
hoạt cho con người và việc sản xuất ra tư liệu sinh hoạt là điều kiện đầu tiên cho
sự sống của họ và của mọi lĩnh vực sản xuất nói chung. Điều này khẳng định vai
trò đặc biệt quan trọng của nông nghiệp trong việc nâng cao mức sống dân cư, đảm
bảo an ninh lương thực quốc gia cũng như sự ổn định chính trị - xã hội của đất
nước. Từ đó, chúng ta có thể khẳng định ý nghĩa to lớn của vấn đề lương thực trong
chiến lược phát triển nông nghiệp và phân công lại lao động xã hội. Cho đến nay,

×