MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU……………………………………………………………….1
NỘI DUNG
I. Hiến pháp Mỹ 1787………………………………………………………1
II. Sự áp dụng các nguyên tắc của học thuyết phân chia quyền lực trong
quá trình xây dựng và phát triển của bộ máy nhà nước Mỹ………… 2
1. Nguyên tắc ba bộ phận của nhà nước có nguồn gốc hình thành khác
nhau………………………………………………………………………… 2
2. Nguyên tắc ba bộ phận của nhà nước có nhiệm kì khác nhau ……… 2
3. Nguyên tắc ba bộ phận của nhà nước có sự độc lập và kiềm chế lẫn nhau,
bảo đảm cho chúng không bị loại trừ hoặc tiếm quyền……………………3
4. Một số hạn chế trong quá trình thực hiện các nguyên tắc của học thuyết
phân quyền…………………………… …………………………………….5
KẾT LUẬN………………………………………………………………… 5
1
LỜI MỞ ĐẦU
Nội dung cốt lõi của học thuyết phân chia quyền lực cho rằng, quyền
lực nhà nước luôn có xu hướng tự mở rộng, tự tăng cường vai trò của mình.
Bất cứ ở đâu có quyền lực là xuất hiện xu thế lạm quyền và chuyên quyền,
cho dù quyền lực ấy thuộc về ai. Do vậy, để đảm bảo các quyền tự do cơ bản
của công dân, ngăn ngừa các hành vi lạm quyền của các chủ thể nắm giữ
quyền lực nhà nước thì phải thiết lập pháp chế nhằm giới hạn quyền lực nhà
nước. Cách tốt nhất để chống lạm quyền là giới hạn quyền lực bằng các công
cụ pháp lý và cách thực hiện không phải là tập trung quyền lực, mà là phân
chia nó ra. Để tìm hiểu về việc áp dụng nguyên tắc của học thuyết phân chia
quyền lực vào bộ máy nhà nước Mỹ, em xin chọn đề tài: “Đánh giá việc áp
dụng các nguyên tắc của học thuyết phân chia quyền lực trong quá trình xây
dựng và phát triển của bộ máy nhà nước Mỹ” làm đề tài cho bài tập lớn học
kì của mình.
NỘI DUNG
I. Hiến pháp Mỹ 1787.
Ngày 17/9/1787, Hiến pháp Hoa Kỳ - bộ luật tối cao của nước Mỹ
được thông qua, thiết lập nhà nước cộng hòa tổng thống. Bản hiến pháp này
đã xác lập cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước, chức năng, nhiệm vụ của các
nhánh quyền lực.
Hiến pháp 1787 đã tạo cơ sở pháp lý cho việc áp dụng một cách cứng
rắn và triệt để các nguyên tắc của học thuyết phân chia quyền lực trong tổ
chức bộ máy nhà nước. Với một bản hiến pháp có giá trị bền vững, hầu như
không phải thay đổi kể từ Hiến pháp đầu tiên, nước Mỹ đã duy trì được sự ổn
định trong hoạt động của bộ máy nhà nước và chính thể tổng thống cộng hoà
trong suốt hơn 2 thế kỷ qua.
Hiến pháp Mỹ đã thể hiện sự áp dụng đầy đủ và triệt để thuyết phân
chia quyền lực. Nguyên tắc tổ chức nhà nước được chia ra ba quyền: lập
pháp, hành pháp và tư pháp. Ba cơ quan giữ ba quyền này có quyền hành và
thực thi quyền lực đó một cách hoàn toàn độc lập, tạo ra sự cân bằng và đối
trọng quyền lực giữa các nhánh quyền, để ngăn ngừa sự lạm dụng quyền lực.
Việc tổ chức nhà nước theo thuyết phân quyền không chỉ nhằm chống lại sự
độc đoán, chuyên quyền và dàn xếp mâu thuẫn trong nội bộ giai cấp tư sản,
mà còn nhằm che đậy bản chất của nhà nước tư sản, lừa bịp quần chúng nhân
dân.
2
II. Sự áp dụng các nguyên tắc của học thuyết phân chia quyền lực trong
quá trình xây dựng và phát triển bộ máy nhà nước Mỹ.
Những điều khoản đầu tiên của Hiến pháp 1787 đã quy định: Quyền lập
pháp trao cho Nghị viện (Điều 1); Quyền hành pháp trao cho Tổng thống
(Điều 2); Quyền tư pháp được trao cho tòa án tối cao (Điều 3).
Trên cơ sở của thuyết phân quyền, nhà nước tư sản Mỹ đã được tổ chức
theo ba nguyên tắc sau:
- Ba bộ phận của nhà nước có nguồn gốc hình thành khác nhau.
- Ba bộ phận đó có nhiệm kì khác nhau.
- Ba bộ phận đó có sự độc lập và kiềm chế lẫn nhau, bảo đảm cho
chúng không loại trừ hoặc tiếm quyền của nhau.
=> Các nguyên tắc này đã được cụ thể hóa trong quá trình xây dựng cơ
cấu tổ chức bộ máy nhà nước.
1. Nguyên tắc ba bộ phận của nhà nước có nguồn gốc hình thành khác
nhau.
a. Nghị viện.
Hạ nghị viện là cơ quan dân biểu, do dân chúng các tiểu bang bầu lên.
Số đại biểu tỉ lệ với số dân của tiểu bang. Thượng nghị viện là cơ quan đại
diện của các bang. Mỗi tiểu bang có hai thượng nghị sĩ.
Khi là nghị sĩ của một viện thì không được bầu là nghị sĩ của viện kia
và cũng không được làm thành viên của cơ quan hành pháp hay cơ quan tư
pháp.
b. Tổng thống.
Tổng thống do toàn dân bầu ra, nhưng theo đầu phiếu gián tiếp. Các
cuộc bầu cử nghị viện và bầu cử tổng thống không được tiến hành đồng thời.
Các bộ trưởng do tổng thống bổ nhiệm, và các quan chức này không
thể là nghị sĩ.
c. Pháp viện tối cao.
Pháp viện tối cao gồm 9 thẩm phán do tổng thống bổ nhiệm và được sự
chấp thuận của thượng nghị viện.
2. Nguyên tắc ba bộ phận của nhà nước có nhiệm kì khác nhau.
- Nghị viện: Hạ nghị viện: các thành viên của hạ nghị viện có nhiệm kì 2
năm. Còn Thượng nghị viện: có nhiệm kì 6 năm. Sau mỗi hai năm có thể bầu
lại 1/3 thượng nghị sĩ.
3
- Tổng thống: Nhiệm kì của tổng thống là 4 năm. Không ai có thể hơn 2 lần
giữ cương vị tổng thống.
- Pháp viện tối cao: Các thẩm phán của pháp viện tối cao có nhiệm kì suốt
đời.
3. Nguyên tắc ba bộ phận của nhà nước có sự độc lập và kiềm chế lẫn
nhau, bảo đảm cho chúng không bị loại trừ hoặc tiếm quyền.
a. Hoạt động độc lập của ba bộ phận của nhà nước.
- Nghị viện.
Hiến pháp Mỹ 1787 quy định tất cả các quyền lập pháp đều thuộc về
nghị viện bao gồm Thượng nghị viện và Hạ nghị viện. Việc thiết lập 2 viện
với cơ chế kiềm chế nhau giữa chúng sẽ làm giảm bớt ưu thế của cơ quan lập
pháp để nó cân bằng với bộ máy hành pháp. Từ năm 1913, 2 viện đều được
cử tri bầu ra.
Cả hai viện của nghị viện có những thẩm quyền chung như sau:
+ Có quyền thông qua tất cả các đạo luật. Một đề xuất được Nghị viện xem
xét được gọi là một dự luật. Nếu đa số thành viên mỗi viện (Thượng viện và
Hạ viện) thông qua (trong trường hợp Tổng thống phủ quyết, thì tỷ lệ đa số
phải là hai phần ba), thì dự luật sẽ trở thành luật. Tuy nhiên, quyền làm luật
của Nghị viện bị giới hạn. Điều I, Mục 9 của Hiến pháp cấm nghị viện thông
qua một số loại luật.
+ Được xây dựng chính sách biểu thuế và giám sát thu thuế.
+ Được quyền phê chuẩn dự án ngân sách của chính quyền liên bang do
Chính phủ tổng thống phê chuẩn.
+ Có quyền tuyên bố chiến tranh và phân bổ ngân sách quốc phòng.
Tuy nhiên, xuất phát từ nguyên tắc đối trọng và cân bằng quyền lực nên
hai viện (Thượng viện và Hạ viện) có chức năng và quyền hạn khác nhau.
Như vậy thẩm quyền của Quốc hội Mỹ được quy định theo hướng bảo
đảm cho nó vừa có toàn quyền khi thực hiện các chức năng của mình và vừa
đủ khả năng kiềm chế đối trọng với tổng thống.
- Tổng thống.
Theo Hiến pháp 1787, tổng thống vừa là nguyên thủ quốc gia, vừa là
người đứng đầu bộ máy hành pháp. Điều II đã trao “Quyền hành pháp” cho
Tổng thống. Ngày nay, ngành hành pháp có 15 bộ cấp nội các. Mỗi bộ có một
số tổng cục, cục và các cơ quan khác. Ngoài ra còn có một phần ngành hành
pháp nằm ngoài các bộ. Tất cả đều thực thi quyền hành pháp do Tổng thống
ủy nhiệm và chịu trách nhiệm cuối cùng trước Tổng thống.
4
Tổng thống đứng đầu nhà nước, đứng đầu bộ máy hành pháp, thực hiện
chức năng của nguyên thủ quốc gia, thực hiện chức năng của thủ tướng chính
phủ, lại gần như độc lập với Quốc hội. Vì vậy, tổng thống có quyền hành rất
lớn, là trung tâm quyền lực của bộ máy nhà nước:
+ Tổng thống bổ nhiệm các bộ trưởng
+ Tổng thống là tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang và chịu trách
nhiệm cao nhất về quốc phòng của đất nước.
+ Tổng thống trình các dự án luật và sự án ngân sách lên nghị viện
+ Tổng thống kí các điều ước quốc tế và cử các đại diện ngoại giao.
+ Tổng thống bổ nhiệm thẩm phán của pháp viện tối cao
+ Tổng thống ban bố hoặc phủ quyết các đạo luật của nghị viện.
Ngoài ra Tổng thống và chính phủ không chịu trách nhiệm trước Nghị
viện, cũng độc lập với các thành viên khác của chính phủ nhờ quyền hoàn
toàn quyết định các chính sách của chính phủ không cần qua nội các. Tổng
thống hoàn toàn nắm quyền điều hành và quản lý mọi lĩnh vực của đất nước.
- Pháp viện tối cao.
Quyền của ngành tư pháp Hoa Kỳ được quy định trong Hiến pháp. Chủ
thể của quyền tư pháp là pháp viện tối cao và các tòa án cấp dưới, hệ thống
tòa án Mỹ được pháp luật trao cho những quyền năng hoàn toàn độc lập để
giữ thế “kiềng ba chân” trong việc thực hiện quyền lực nhà nước. Tư pháp
độc lập với hành pháp và lập pháp, hơn thế còn độc lập với cả dân chúng. Vì
nó không được nhân dân bầu và không phải chịu trách nhiệm gì trước nhân
dân.
Pháp viện tối cao có những quyền hạn chủ yếu sau: Phán quyết các đạo
luật có hợp hiến hay không, Quyền diễn giải các quy định (giải thích pháp
luật), Quyền tối cao về xét xử.
b. Sự kiềm chế và đối trọng quyền lực giữa ba bộ phận của nhà nước.
Sau khi nước Mỹ ra đời, hai đảng tư sản được thành lập (Đảng Cộng
hòa ra đời năm 1851, Đảng Dân chủ ra đời năm 1791). Hai đảng này thay
nhau cầm quyền và thực hiện chức năng kìm chế và đối trọng quyền lực.
Ngoài ra, theo Hiến pháp, quyền hành pháp thuộc về Nghị viện. Tuy
nhiên, Tổng thống có quyền phủ quyết các dự án luật do Nghị viện đưa ra.
Khi đó, dự luật này lại chuyển lại hai viện. Và lần này, đạo luật đó phải được
từng viện thông qua với đa số tuyệt đối. Khi đó, tổng thống phải kí ban bố.
Tuy thực hiện nguyên tắc phân lập các quyền dứt khoát theo chế độ
tổng thống, nhưng Nghị viện Hoa kỳ cũng có quyền kiểm soát rộng đối với
Chính phủ. Tổng thống bổ nhiệm các công chức cao cấp phải hỏi ý kiến của
5
Thượng viện và có thể bị từ chối. Chính việc áp dụng nguyên tắc phân quyền
chặt chẽ là cơ sở cho việc không chịu trách nhiệm lẫn nhau giữa lập pháp và
hành pháp. Lập pháp và hành pháp kìm chế và đối trọng lẫn nhau để không cơ
quan nào có thể tiếm quyền. Nghị viện không có quyền lật đổ Chính phủ và
ngược lại, Tổng thống cũng không có quyền giải tán Nghị viện trước thời hạn.
Tòa án Tối cao có quyền phán quyết hủy bỏ một bộ luật, cho dù bộ luật
này được Quốc hội thông qua và Tổng thống chấp nhận. Tòa án Tối cao cũng
được phép bác bỏ những quyết định khẩn cấp của Tổng thống, đây là biện
pháp kiểm tra và cân bằng đối với quyền lực của Tổng thống.
4. Một số hạn chế trong quá trình thực hiện các nguyên tắc của học
thuyết phân quyền.
Các Tổng thống đôi khi vẫn có sự quan tâm sát sao đến những quyết
định của Quốc hội, điều này đôi khi gây ra sự độc đoán, chuyên quyền trong
một số tình huống. Hơn nữa, quyền phủ quyết mà Hiến pháp trao cho Tổng
thống đảm bảo rằng các quan điểm của Nhà Trắng phải được lắng nghe.
Quyền lập pháp được Hiến pháp trao cho Quốc hội. Những năm trước
1900, đa số luật thông qua mỗi năm đều do Quốc hội đưa ra; các Thượng, Hạ
nghị sĩ dự thảo và thông qua luật. Nhưng sang thế kỷ 20, vai trò này đã đổi
chỗ. Thay đổi lớn nhất là vào thời kỳ Chính Sách Mới khi Tổng thống kiểm
soát chặt chẽ việc làm luật. Từ đó Quốc hội hầu như nhượng mọi quyền chủ
động cho ngành hành pháp.Trong hai thập niên vừa qua, gần 80% luật được
thông qua đều xuất phát từ ngành hành pháp.
Tư pháp ở Mỹ được đánh giá là có mức độ độc lập rất cao nhưng thực
chất vẫn can thiệp vào lập pháp, hành pháp đồng thời cũng chịu ảnh hưởng từ
phía các cánh quyền lực đó. Hiến pháp Mỹ không hề quy định cho Toà án có
quyền kiểm tra tính hợp hiến các đạo luật của Quốc hội. Nhưng Toà án Tối
cao Mỹ đã ảnh hưởng đến Quốc hội bằng quyền bảo hiến tự nhận. Chính điều
này đã thể hiện sự hạn chế với sự can thiệp lẫn nhau giữa các ngành lập pháp,
hành pháp, tư pháp.
KẾT LUẬN
Tuy còn một số khuyết điểm trong việc áp dụng, song có thể nói tại
Mỹ, học thuyết phân quyền đã được áp dụng thành công, đạt hiệu quả cao.
Điều này đã được chứng minh trên thực tế. Trong suốt hai thế kỉ từ khi ra đời,
tổ chức bộ máy nhà nước Mỹ luôn vững chắc và ổn định,nước Mỹ vẫn liên
tục phát triển và giữ vị thế của một cường quốc lớn mạnh bậc nhất thế giới.
6
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Lịch sử Nhà nước và pháp luật thế giới – Trường Đại học Luật
Hà Nội, NXB CAND, 2003
2. Hệ thống chính trị của Anh, Pháp, Mỹ - GS.TS Nguyễn Văn Huyên (Chủ
biên), NXB Lý luận chính trị, 2007
3. Bài viết Hệ thống kiềm chế và đối trọng trong bộ máy nhà nước Hoa Kỳ -
Đào Thị Thanh Thúy, Khoa Hành chính học, Học viện Hành chính
4. Bài luận Học thuyết phân chia quyền lực – Một cách tư duy về quyền lực
nhà nước – Bùi Ngọc Sơn, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội
5.
6.
7.
Đề học kỳ lịch sử thé giới
Đánh giá việc áp dụng các nguyên tắc của học thuyết phân chia quyền lực trong quá trình xây
dựng và phát triển của bộ máy nhà nước Mỹ.
7