Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Qui luật kế thừa và giao lưu văn hoá - Sự nhận thức và vận dụng trong thực tiễn nước ta ?

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.57 KB, 10 trang )

Câu 3: Qui luật kế thừa và giao lưu trong phát triển văn hoá - Sự nhận thức
và vận dụng trong thực tiễn nước ta ?
Tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Đảng ta đã khẳng định văn hoá
là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự
phát triển kinh tế -xã hội và sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước. Do vậy văn hoá có vai trò vô cùng to lớn và vị trí hết sức quan trọng.
Công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế xã hội của đất nước phải gắn chặt với
việc xây dựng và phát triển nền văn hoá dân tộc. Đó là nền văn hoá tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, có cái riêng, cái quá khứ độc đáo của truyền thống, tâm
hồn, cốt cách, lối sống, phong tục và tập quán Việt Nam, kết hợp những tinh hoa
văn hoá nhân loại, đồng thời dung hợp, tích hợp những giá trị văn hoá của thời
đại.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin thì văn hóa chỉ gắn liền với con
người và xã hội loài người. Cội nguồn của sự tồn tại và phát triển văn hóa là ở
hoạt động sáng tạo của con người. Đó là hoạt động nhằm để hiểu biết, khám phá
và sáng tạo. Thực hiện hoạt động đó con người vừa sáng tạo ra bản thân mình
với tư cách là người vừa đồng thời sáng tạo ra “thiên nhiên thứ hai” của chính
mình, đó chính là thế giới của văn hóa.
Theo Mác thì văn hóa gắn liền với sức sáng tạo và năng lực của con người
và sự sáng tạo đó bao giờ cũng bắt đầu từ lao động. Lao động đã sáng tạo ra con
người và xã hội loài người, làm cho con người ngày càng trở thành thật sự
Người. Chính trong quá trình lao động văn hóa đã in dấu ấn của mình trong đó
và thẩm thấu trong từng yếu tố của lao động, làm cho lao động lúc ban đầu như
là cái bản năng đầu tiên của con người trở thành cái người ta gọi là văn hóa lao
động. Văn hóa hình thành và phát triển trên cơ sở hình thành và phát triển của
con người. Trình độ phát triển chung của văn hóa phụ thuộc trực tiếp vào trình
độ làm chủ tự nhiên của con người.
V.I.Lênin, người kế tục sự nghiệp của Mác và Ănghen từ chỗ quan niệm
xem văn hóa với tư cách là sự phát triển lực lượng bản chất của con người đã
nhấn mạnh và phân tích sâu thêm về mặt xã hội của văn hóa với cách tiếp cận tư
hình thái kinh tế - xã hội. Luận điểm “Văn hóa vô sản = chủ nghĩa cộng sản” đã


nói lên toàn vẹn sự phát triển lực lượng bản chất của con người và sự thẩm thấu
của văn hóa trong tất cả các yếu tố cấu thành hình thái kinh tế - xã hội đã đến
mức tinh tế, chín muồi.
Chủ tịch Hồ Chí Minh - danh nhân văn hóa nhân loại cũng tiếp cận văn hóa
theo nghĩa rộng của từ này. Người đã viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích
của cuộc sống, loài người đã sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo
1
đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ sinh
hoạt hằng ngày về ăn, ở, mặc và các phương thức sử dụng khác. Toàn bộ những
sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi
phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra
nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”.
Từ những phân tích trên, chúng ta đi đến định nghĩa: Văn hoá, với tư cách
là một hiện tượng xã hội, chính là sự phát triển của những năng lực bản chất của
con người, không ngừng nâng cao trình độ làm chủ của con người đối với tự
nhiên, xã hội, bản thân, nhằm thõa mãn nhu cầu về sự hiểu biết, khám phá, sáng
tạo theo hướng ngày càng vươn tới giá trị đích thực của chân - thiện - mỹ. Hay
nói cách khác, văn hoá chính là sự phát triển những năng lực bản chất của con
người hướng tới các giá trị nhân văn.
Văn hoá xét đến cùng là hoạt động tinh thần thuộc về ý thức của con người,
ý thức xã hội. Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, văn hoá có những mối
liên hệ biện chứng với các hình thái ý thức xã hội khác và tuân theo những qui
luật chung của đời sống xã hội. Cũng như mọi hiện tượng tự nhiên và xã hội,
văn hoá luôn nằm trong quá trình phát triển và biến đổi không ngừng. Sự phát
triển từ thấp đến cao, sự thay đổi từ nền văn hoá này sang một nền văn hoá khác
là hiện tượng thường xuyên xảy ra trong lịch sử. Cắt nghĩa một cách khoa học
các hiện tượng đó có nghĩa là chỉ ra qui luật phát triển của văn hoá. Các qui luật
của sự phát triển văn hoá đó là qui luật kế thừa và qui luật giao lưu văn hoá.
Kế thừa là quy luật cơ bản của sự phát triển văn hoá.
+ Quy luật là mối liên hệ bản chất, tất yếu, phổ biến, khách quan thường xuyên ổn

định và quy định sự tồn tại và phát triển của các sự vật, hiện tượng Trong tính tương
đối của mối quan hệ biện chứng giữa cái phổ biến, cái đặc thù, cái đơn nhất, các nhà
khoa học chia quy luật thành 3 loại: 1) Quy luật riêng là loại quy luật chỉ tác động trong
một phạm vi nhất định nào đó và được một khoa học chuyên ngành nghiên cứu; 2) Quy
luật chung là quy luật tác động trong một phạm vi rộng lớn hơn và được một số bộ môn
khoa học chuyên ngành nghiên cứu; 3) Quy luật phổ biến là loại quy luật tác động cả tự
nhiên, xã hội và tư duy - đó là quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật. Những quy
luật và tính quy luật phát triển của văn hóa thuộc quy luật và tính quy luật chung.
Kế thừa là một phạm trù chỉ mối liên hệ bản chất, phổ biến, khách quan, tất
yếu vốn có bên trong sự vận động và phát triển của các sự vật hiện tượng; nó chỉ
sự giữ lại, duy trì và truyền lại những nhân tố tích cực, những yếu tố hợp lý để
tạo ra cơ sở, tiền đề cho sự tồn tại của các sự vật hiện tượng đã có và cho sự ra
đời và phát triển của cái mới, cái tiến bộ.
2
Từ bản chất sâu xa của kế thừa như đã nêu trên, chúng ta có thể khẳng định
kế thừa là quy luật cơ bản của sự phát triển văn hóa, không có kế thừa thì sẽ
không có sự phát triển văn hóa, tất nhiên sự kế thừa ấy phải là sự kế thừa có
chọn lọc, kế thừa sáng tạo, vì kế thừa không sáng tạo, không chọn lọc thì nhiều
lắm cũng chỉ giữ gìn di sản như “giữ gìn trang giấy cũ” chứ không thể nói đến
sự phát triển. Sự kế thừa và sáng tạo đảm bảo cho văn hoá một quá trình phát
triển tiệm tiến, khi nhanh khi chậm nhưng liên tục.
Sự nghiệp xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải biết kế thừa
có chọn lọc những giá trị văn hoá của dân tộc và nhân loại. Bản thân sự ra đời
của chủ nghĩa Mác đã nói lên điều đó. Lê nin nói: Chủ nghĩa Mác sở dĩ giành
được ý nghĩa lịch sử trên toàn thế giới về mặt hệ tư tưởng của giai cấp vô sản
cách mạng là vì chủ nghĩa mác không những đã không vứt bỏ những thành tựu
hết sức quý báu của thời đại tư sản, mà trái lại, còn tiếp thu và cải tạo tất cả
những gì quý báu của tư tưởng và văn hoá nhân loại Lênin cũng luôn luôn
nhắc nhở những người cộng sản rằng: “Nền văn hóa vô sản không phải từ trên
trời rơi xuống, nó không phải do những người tự cho mình là nhà chuyên môn

về văn hóa vô sản phát minh ra Nền văn hóa vô sản phải là sự phát triển hợp
quy luật của tổng số những kiến thức mà loài người đã tạo ra dưới ách áp bức
của xã hội tư bản, của xã hội bọn địa chủ, của xã hội quan lại. Tất cả những con
đường lớn, con đường nhỏ đó đã và đang tiếp tục đưa tới nền văn hóa vô sản”.
Kế thừa không chỉ là tiếp thu và sử dụng có chọn lọc những giá trị văn hoá
của dân tộc và nhân loại mà còn biết thúc đẩy, phát triển nó lên thành những giá
trị văn hoá mới phù hợp với sự tiến bộ của xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết
chỉ rõ: “Cái gì cũ Cái gì cũ mà xấu thì phải bỏ… Cái gì cũ mà tốt, thì phải phát
triển thêm… Cái gì mới mà hay, thì ta phải làm…”.
Nền văn hóa Việt Nam được phát triển đa dạng, phong phú đầy bản sắc
như ngày nay cũng chính là sản phẩm của sự kế thừa truyền thống văn hóa tốt
đẹp của cha ông và tinh hoa văn hóa nhân loại. Có thể nói không kế thừa được
tinh hoa văn hóa nhân loại thì sẽ không xây dựng được nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, và nếu không kế thừa được truyền thống văn hóa tốt đẹp của cha ông
thì cũng không thể có một nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc.
Vì vậy Đảng ta đã xác định: “Bảo tồn và phát huy truyền thống tốt đẹp của
dân tộc kết hợp với mô hình giao lưu văn hóa với nước ngoài, tiếp thu tinh hoa
văn hóa nhân loại để làm giàu đẹp thêm nền văn hóa Việt Nam và góp phần làm
phong phú thêm nền văn hóa nhân loại”.
Giao lưu văn hóa - quy luật phát triển của mọi nền văn hóa
3
Kế thừa di sản văn hóa không có nghĩa là đóng khung trong di sản, không
chỉ có kế thừa văn hóa truyền thống và còn phải biết kế thừa tinh hoa văn hóa
nhân loại, cho nên kế thừa văn hóa không tách rời giao lưu văn hóa và nó đã trở
thành quy luật trong sự phát triển văn hóa.
Giao lưu văn hóa theo quan điểm hiện đại, nó là một phạm trù dùng để chỉ
sự trao đổi trên cơ sở dung hợp, tích hợp những dòng tư tưởng, những giá trị văn
hóa vật thể và phi vật thể các dân tộc để tạo ra cơ sở, tiền đề cho sự tồn tại lẫn
nhau giữa các nền văn hóa trong quá trình hợp tác và phát triển. Giao lưu văn
hóa thực chất là sự trao đổi các giá trị văn hóa vừa làm nảy sinh các giá trị văn

hóa mới vừa làm nảy sinh các hình thức giao lưu kiểu mới theo quy luật nhân
quả.
Giao lưu văn hóa là quy luật phát triển của văn hóa bởi vì giao lưu văn hóa
là cả một quá trình dung hợp, tích hợp những cái đúng, cái tốt, cái đẹp, cái hữu
ích, cái hợp lý, tiến bộ, tích cực của các nền văn hóa các dân tộc trong một cộng
đồng quốc gia; giữa nền văn hóa dân tộc này với nền văn hóa của dân tộc khác,
nó vừa nâng cao được văn hóa truyền thống, vừa khắc phục được sự hẫng hụt
của nền văn hóa cổ truyền, nó làm cho các nền văn hóa ngày càng xích lại gần
nhau, tạo ra được những điều kiện khả thi để nhân dân và các dân tộc trên thế
giới cùng đấu tranh thực hiện những khát vọng mà loài người xưa nay hướng
tới: hòa bình, độc lập, tự do, dân chủ, công bằng, bác ái.
Qua lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, nền văn hoá Việt nam
phát triển mạnh mẽ cho đến ngày nay là sản phẩm của cả một quá trình giao lưu
văn hóa trên cơ sở dung hợp, tích hợp nền văn hóa Trung Hoa, văn hóa Ấn Độ,
văn hóa Pháp, văn hóa xã hội chủ nghĩa Đông Âu, văn hóa Đông Nam Á với văn
hóa dân tộc trên cơ sở chọn lọc phù hợp với truyền thống tốt đẹp của mình đã
tạo nên bản sắc văn hóa độc đáo hiếm thấy trên thế giới. Không có giao lưu văn
hóa thì sẽ không có chữ Nôm, chữ quốc ngữ, không có thơ mới, tiểu thuyết,
truyện ngắn, sân khấu, nhiếp ảnh, báo, phát thanh, truyền hình Nói một cách
ngắn gọn, không có giao lưu văn hóa với nước ngoài thì không có nền văn hóa
Việt Nam hiện đại như ngày nay. Ở các vùng núi xa xôi hẻo lánh cũng vậy,
không có giao lưu văn hóa thì sẽ không có sự phát triển văn hóa các dân tộc
thiểu số. Văn hóa các dân tộc thiểu số hiện nay có sự phát triển phong phú, đa
dạng và cao hơn nhiều so với trước đây cũng không tách rời quy luật này.
Sự nhận thức và vận dụng trong thực tiễn nước ta
Nhận thức sâu sắc các quy luật này từ trước đến nay, Đảng ta đã đề ra
đường lối: Kế thừa truyền thống văn hóa tốt đẹp trong cộng đồng các dân tộc
Việt Nam, mở rộng giao lưu văn hóa với nước ngoài, tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại để “làm giàu đẹp thêm nền văn hóa dân tộc” và “góp phần làm phong
4

phú thêm nền văn hóa của nhân loại”. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên CNXH được thông qua tại Đại hội VII của Đảng đã ghi rõ “Kế
thừa và phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của tất cả các dân tộc
trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại, xây dựng một xã hội dân
chủ, văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người…”
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khoá VIII) xác định: “Văn hóa Việt Nam là thành quả hàng nghìn năm lao
động sáng tạo, đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các
dân tộc Việt Nam, là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn
minh thế giới để không ngừng hoàn thiện mình. Vǎn hóa Việt Nam đã hun đúc
nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân
tộc.”
Sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay đòi hỏi chúng ta phải phát huy cao độ
năng lực tinh thần của con người Việt nam về trí tuệ, đạo đức tinh thần, đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược
là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”. Muốn phát huy tối đa năng lực con người Việt nam phục vụ
cho sự phát triển, nhất thiết chúng ta phải làm sống dậy và phát huy sức mạnh
của văn hóa truyền thống - yếu tố đã từng làm nên cội nguồn của sức mạnh dân
tộc, giúp dân tộc ta vượt qua bao thăng trầm của lịch sử.
Sự thay đổi về cơ cấu kinh tế, kết cấu xã hội, nhu cầu tăng nhanh về văn
hoá của mọi tầng lớp dân cư, quá trình dân chủ hoá xã hội,…đang là những yếu
tố làm thay đổi đời sống văn hoá dân tộc. Hơn nữa, trước thực trạng suy thoái về
tư tưởng, đạo đức, lối sống ở một bộ phận “không nhỏ” cán bộ, đảng viên và
quần chúng ngày càng “phổ biến hơn”, “tinh vi hơn”, “nghiêm trọng hơn” đòi
hỏi chúng ta phải chấn hưng nền văn hoá dân tộc.
Việt nam là đất nước có truyền thống dân tộc vô cùng phong phú giàu tính
nhân văn qua lịch sử ngàn năm văn hiến. Những giá trị của văn hoá và truyền
thống của dân tộc ngày nay vẫn mang tính thời đại. Do vậy việc kế thừa và phát
huy truyền thống của dân tộc trong thời đại ngày nay là vô cùng cần thiết.

Trước tiên, đó là kế thừa và phát huy lòng yêu nước nồng nàn của dân tộc
đã được cha ông ta hun đúc thành tinh thần hay chủ nghĩa yêu nước Việt nam
Hai là, Phát huy truyền thống đoàn kết, tinh thần “tương thân tương ái”,
“đồng cam cộng khổ”, “chung sức chung lòng” …… của dân tộc Việt nam làm
điểm tựa cho đất nước cất cánh, vươn tới đỉnh cao của văn minh nhân loại.
5
Ba là, Nêu cao tấm gương đầy nghĩa khí của các anh hùng dân tộc, lòng
dũng cảm, ý chí bất khuất, tinh thần kiên định của cha ông .
Bốn là, kế thừa và phát huy lòng nhân ái, bao dung, trọng nghĩa tình với
đạo lý “ thương người như thể thương thân” của dân tộc.
Năm là, kế thừa truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo …. Đây thực sự là
những phẩm chất mang giá trị nhân văn cao cao cả của thời đại, đồng thời đã tạo
dựng một đất nước ngàn năm văn hiến.
Tuy nhiên trong quá trình kế thừa và phát huy truyền thống của dân tộc cần
phải:
Một là, phải xuất phát từ một xã hội hiện đại thì mới thấy rõ được bộ mặt
truyền thống, từ kết cấu sự vận động đến khả năng mà nó có thể đạt được trong
các điều kiện lịch sử xác định. Chẳng hạn, nếu xem xã hội Việt Nam hiện đại là
sự phát triển lên từ xã hội truyền thống thì hiểu được xã hội Việt Nam ngày nay
là điều kiện để thấy rõ truyền thống của mình.
Hai là, phải kế thừa có phê phán văn hoá truyền thống, không bê nguyên si
văn hoá truyền thống mà cần có sự gạt bỏ, lọc bỏ, vượt qua những hạn chế lịch
sử của văn hoá truyền thống, nghĩa là chỉ tiếp thu những tinh hoa, những hạt
nhân hợp lý của nó để làm phong phú thêm nền văn hoá đương đại và phục vụ
tốt nhất cho mục tiêu phát triển.
Ba là, phải nâng cao những gì đã được kế thừa từ truyền thống lên ngang
tầm thời đại mới ở một trình độ mới, bằng cách bổ sung thêm những tư tưởng
mới, thổi thêm sinh khí của thời đại mới cho phù hợp với hoàn cảnh hiện đại và
mới tiếp tục phát huy tác dụng trong điều kiện mới.
Bốn là, quá trình kế thừa văn hoá truyền thống phải gắn liền với sự phát

triển sáng tạo trong đó kế thừa những yếu tố tích cực chính là tạo tiền đề, tạo
động lực cho sự phát triển và sáng tạo. Điều này cho phép tạo ra nền văn hoá
mới vừa mang bản sắc dân tộc, vừa mang tính thời đại, đồng thời còn tạo ra môi
trường thuận lợi để hoà nhập vào nền văn hoá thế giới.
Đối với giao lưu văn hoá
Để chấn hưng dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XXI, để mở cửa và hội nhập
quốc tế, nhất định chúng ta phải quảng bá những di sản văn hóa, những tinh hoa
tư tưởng Việt Nam trong giao lưu, tiếp xúc và đối thoại với các nền văn hóa của
các dân tộc trên thế giới. Việc mở cửa để hoà nhập với khu vực và các nước trên
6
thế giới, tiếp thu các thành tựu văn hoá, văn minh của nhân loại đòi hỏi chúng ta
phải có một trình độ văn hoá tương ứng để tiếp biến các thành tựu đó và làm chủ
được quá trình công nghệ để công nghệ hoá, hiện đại hoá đất nước. Không một
dân tộc nào có thể đứng ngoài hoặc quay lưng với xu thể toàn cầu hoá và cuộc
cách mạng khoa học - công nghệ đang phát triển mạnh mẽ và lan rộng khắp thế
giới. Các quốc gia, dân tộc muốn tiến lên phải hoà nhập vào trào lưu chung, phải
biết lợi dụng thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại; đồng
thời phải chống lại những ảnh hưởng tiêu cực của xu hướng toàn cầu hoá và mặt
trái của quá trình hiện đại hoá đang diễn ra hiện nay, đó là:
- Xu hướng tuyệt đối hoá một mô hình phát triển - mô hình CNTB phương
Tây. Xu hướng này cho rằng muốn tiến lên HĐH-CNH thì các nước đang phát
triển phải đi con đường mà Tây Âu đã đi. Hiện đại hoá có nghĩa là Tây Âu hoá
( hay Mỹ hoá ), lấy Tây Âu làm mẫu mực.
- Xu thế nhất thể hoá đời sống nhân loại, xu hướng áp đặt văn hoá và “đế
quốc chủ nghĩa” trong văn hoá, do hậu quả của quá trình toàn cầu hoá và hiện
đại hoá hiện nay. Xu hướng nhất thể hoá đời sống nhấn loại là đồng dạng hoá lối
sống nhân loại thông qua các sản phẩm vật chất và tinh thần.
- Xu hướng áp đặt văn hoá và “đế quốc chủ nghĩa” trong văn hoá, đem giá
trị của dân tộc này áp đặt cho dân tộc khác ( như tự do, nhân quyền, dân chủ,
công bằng,… ), lấy sản phẩm văn hoá của dân tộc này thay thế hoặc lấn át sản

phẩm văn hoá của dân tộc khác bằng sức mạnh kinh tế, công nghệ hiện đại.
Các xu thế trên dẫn đến sự nghèo nàn đời sống văn hoá tinh thần của nhân
loại, làm suy giảm khả năng sáng tạo của các cộng đồng, huỷ diệt nền văn hoá
của nhiều quốc gia dân tộc, làm mất đi sự giao lưu văn hoá giữa các dân tộc và
sự phong phú, đa dạng, sinh động của văn hoá nhân loại.
Đối lập với các xu hướng trên là xu hướng phục hưng các nền văn hoá dân
tộc. Nhiều quốc gia dân tộc (như Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore,
Malaixia,…) trong quá trình phát triển đã ý thức được vai trò của văn hoá dân
tộc đối với sự nghiệp hiện đại hoá đất nước, đã tiến hành thành công công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nhưng không bị Tây Âu hoá. Ngay trong các
nước tư bản, xu hướng phục hưng văn hoá của các dân tộc, sắc tộc cũng nổi lên
mạnh mẽ, họ không muốn đánh mất văn hoá của mình để trở thành “cái bóng
của kẻ khác” và lệ thuộc vào văn hoá của người khác dẫn đến sự tàn lụi của dân
tộc và sắc tộc.
Vì thế, chúng ta giao lưu văn hóa với nước ngoài trong thời kỳ bùng nổ
thông tin, trong thời đại quốc tế hóa kinh tế do các tập đoàn tư sản mại bản chi
7
phối cũng như trước âm mưu “diễn biến hòa bình” của mọi thế lực thù địch,
chúng ta cần phải nắm vững các yêu cầu với những nguyên tắc chủ yếu sau đây:
Yêu cầu mang tính định hướng trong giao lưu văn hóa hiện nay là:
Thông qua các hình thức giao lưu văn hóa, các phương tiện thông tin đại
chúng để cả mạng Internet, phải giới thiệu với nhân dân thế giới cái hay, cái đẹp,
cái độc đáo của nền văn hóa Việt Nam cả truyền thống và hiện đại.
Phải gạn đục khơi trong, tiếp thu tinh hoa nhân loại để xây dựng một nền
văn hóa tiên tiến. Hiện nay vấn đề tiếp thu tinh hoa nhân loại có quan điểm
nghiêng về phương Tây và cũng có quan điểm cho rằng phải quay về phương
Đông. Nhưng theo quan điểm của Đảng ta, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại là
tiếp thu cái tiến bộ, tích cực, tiên tiến của cả nền văn hóa phương Đông và nền
văn hóa phương Tây.
Thực tiễn đương đại đã cho thấy rằng trong quá trình hội nhập, giao lưu

văn hóa nhiều nền văn hóa dân tộc đã đánh mất đi bản sắc văn hóa của dân tộc
mình, nhiều dân tộc đã trở thành bóng mờ của dân tộc khác, thậm chí không còn
tồn tại với tư cách là văn hóa dân tộc. Để giữ gìn và phát huy được bản sắc dân
tộc trong điều kiện nền kinh tế thị trường, đứng vững trước xu thế toàn cầu hóa
kinh tế, đánh bại âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch thiết
nghĩ cần nắm vững 3 nguyên tắc sau đây:
Giữ vững tính độc lập tự chủ trong giao lưu văn hóa và hợp tác quốc tế về
văn hóa, hòa nhập nhưng nhất định không thể hòa tan;
Không đóng cửa khép kín nhưng cũng không được buông lỏng và tùy tiện
trong lãnh đạo, quản lý;
Kế thừa và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại phải đi đôi với việc ngăn
ngừa có hiệu quả những sản phẩm văn hóa độc hại, đồi trụy, lai căng.
Tất nhiên, mở cửa và hội nhập thì cả “gió độc” và “chân lý” sẽ cùng vào.
Để đứng vững trong cạnh tranh và hội nhập, để “hòa nhập mà không hòa tan”,
“đổi mới mà không đổi màu” thì ngoài việc giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa trong quá trình phát triển, chúng ta phải “làm cho văn hóa thấm sâu vào
từng khu dân cư, từng gia đình, từng người, hoàn thiện giá trị mới của con người
Việt Nam, kế thừa các giá trị truyền thống của dân tộc và tiếp thu văn hóa của
loài người, tăng sức đề kháng chống văn hóa đồi trụy, độc hại. Nâng cao tính
văn hóa trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội và sinh hoạt của nhân
dân”.
8
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng “Đổi mới, tăng cường việc giới thiệu,
truyền bá văn hoá, văn học, nghệ thuật, đất nước, con người Việt Nam với thế
giới. Mở rộng, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động thông tin đối ngoại, hợp
tác quốc tế trong lĩnh vực văn hoá, báo chí, xuất bản. Xây dựng một số trung
tâm văn hoá Việt Nam ở nước ngoài và trung tâm dịch thuật, quảng bá văn hoá
Việt Nam ra nước ngoài.”
Tiếp thu những kinh nghiệm tốt về phát triển văn hoá của các nước, giới

thiệu các tác phẩm văn học, nghệ thuật đặc sắc của nước ngoài với công chúng
Việt Nam. Thực hiện đầy đủ cam kết quốc tế về bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ,
quyền tác giả các sản phẩm văn hoá. Xây dựng cơ chế, chế tài ngăn chặn, đẩy
lùi, vô hiệu hoá sự xâm nhập và tác hại của các sản phẩm đồi trụy, phản động;
bồi dưỡng và nâng cao sức đề kháng của công chúng, nhất là thế hệ trẻ.”
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
được bổ sung và phát triển trong năm 2011 đã khẳng định: “Xây dựng nền văn
hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất
trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho
văn hoá gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền
tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển. Kế thừa
và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn
hoá nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc
ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng
lợi''.
Đắk Nông có trên 29 dân tộc anh em cùng chung sống, trong đó có 3 dân
tộc bản địa là M’nông, Mạ, Ê đê, chiếm khoảng 10% dân số. Các dân tộc bản
địa ở Đắk Nông có vốn văn hóa truyền thống vật thể và phi vật thể rất đa dạng
và phong phú.
Trong quá trình giao lưu và hòa nhập, nhìn chung văn hóa vật chất các
dân tộc gốc ở Đắk Nông đã và đang chịu sự tác động và sức ép mạnh mẽ của
các phương tiện và lối sống hiện đại. Những ngôi nhà dài đang bị mất dần, hiện
chỉ còn lại ở một số nơi vùng sâu, vùng xa của người Ê đê, M’nông. Các nghề
truyền thống cũng bị mai một.
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về “Xây dựng nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, cụ thể là nhiệm vụ bảo tồn,
phát huy và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số bản địa, Tỉnh ủy Đắk Nông
đã ban hành các chỉ thị, chương trình để triển khai thực hiện. Trong đó, phải kể
đến 2 đề án hết sức quan trọng đó là đề án “Bảo tồn, phát huy lễ hội, hoa văn,
cồng chiêng và nhạc cụ dân gian dân tộc M’nông” và đề án “Bảo tồn không

9
gian văn hóa cồng chiêng tỉnh Đắk Nông”. Việc triển khai 2 đề án bảo tồn và
đã đạt được kết quả khích lệ. Trong công tác bảo tồn và phát huy văn hóa bản
địa, nhiệm vụ trọng tâm là tập trung vào việc bảo tồn, phát huy các giá trị văn
hóa bản địa, khôi phục và phát triển những giá trị văn hóa truyền thống đặc
sắc; đồng thời chú trọng hình thành những giá trị mới phù hợp với cuộc sống
hiện tại của đồng bào, phù hợp với tiến trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa địa
phương.
Tóm lại, tính quy luật và quy luật bao giờ cũng là xuất phát điểm để con
người nhận thức, vận dụng, hoạch định chiến lược, sách lược trong hoạt động
thực tiễn, cho nên trong sự nghiệp đổi mới Đảng ta đã xác định: Mọi đường lối,
chính sách của Đảng phải xuất phát từ thực tế, phải tôn trọng quy luật khách
quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật là điều kiện đảm bảo sự
lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Với sự xác định ấy, chúng ta có thể khẳng định
rằng: Sự nghiệp xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc có thành công hay không trước hết phụ thuộc vào việc chúng ta có nắm vững
và vận dụng đúng tính quy luật và quy luật chung của sự phát triển văn hóa hay
không.
10

×