Lâm nghiệp cộng đồng ở Việt Nam - Tiềm năng, cơ hội và thách thức
Hoàng Thái Sơn - Trường trung học Lâm nghiệp I Trung ương
Thành viên mạng lưới SURDM
(Sưu tầm)
Việt Nam với 2/3 diện tích là vùng đồi núi, đây là nơi sinh sống của hơn 24 triệu đồng bào thuộc
54 dân tộc, đặc biệt là cộng đồng các dân tộc ít người mà cuộc sống của họ luôn gắn bó mật thiết
với đất đai, rừng núi, đây cũng là nơi hoạt động chủ yếu của ngành lâm nghiệp, vì vậy, việc xã
hội hoá ngành lâm nghiệp không chỉ là một yêu cầu thực tế khách quan của Việt Nam mà nó còn
phù hợp với xu thế phát triển nghề rừng trên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát triển.
Quá trình chuyển hướng mang tính chiến lược của ngành lâm nghiệp từ lâm nghiệp thuần tuý nhà
nước sang lâm nghiệp nhân dân - lâm nghiệp xã hội (xã hội hoá ngành lâm nghiệp) được thực
hiện từ hơn 15 năm trở lại đây, đã tạo ra nhiều nhân tố tích cực mới, đa dạng hoá các hình thức
quản lý và phương thức tiếp cận mới đối với quản lý tài nguyên rừng. Qua đó, ngoài lâm nghiệp
quốc doanh còn phát huy được vai trò của các thành phần kinh tế khác, đặc biệt là cộng đồng và
hộ gia đình tham gia quản lý bảo vệ và phát triển vốn rừng.
Tuy nhiên trong quá trình chuyển hướng này, lâm nghiệp cộng đồng (LNCĐ) mới chỉ dừng ở
bước thí điểm và chưa được pháp lý công nhận, cho đến ngày 3 tháng 12 năm 2004, Luật bảo vệ
và phát triển rừng được Quốc hội chính thức thông qua, mới công nhận cộng đồng là một chủ thể
được giao rừng với các quyền và nghĩa vụ được quy định cụ thể tại các điều 29 và 30. Đây là một
chủ trương đúng đắn, tăng cường xã hội hoá nghề rừng, tạo thêm sức mạnh cho việc quản lý và
phát triển vốn rừng, góp phần ổn định và nâng cao đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng
núi, bảo đảm an ninh chính trị và quốc phòng.
Để đạt được kết quả trên, thời gian qua, ngành và các dự án quốc tế đã tiến hành rất nhiều công
trình nghiên cứu, xây dựng nhiều mô hình thí điểm, tổ chức nhiều cuộc hội thảo, thông tin quảng
bá về lâm nghiệp cộng đồng. Tuy nhiên, nay luật đã ra đời, để lâm nghiệp cộng đồng phát triển
có hiệu quả, đóng góp nhiều cho sự nghiệp bảo vệ và phát triển rừng thì những nghiên cứu trước
đây, những thông tin của các hội thảo trước đây là chưa đủ. Nhiều vấn đề cần được đánh giá, xem
xét, thống nhất lại, từ khái niệm đến đánh giá hiện trạng, những ưu điểm, những tồn tại, cơ hội,
thách thức và điều đặc biệt từ đó đề xuất được những công việc cần tiến hành. Đây cũng chính là
mục đích của bài viết này, giúp các nhà quản lý xác định được những nội dung, phương hướng
cần tiến hành trong giai đoạn tiếp theo.
Khái niệm về cộng đồng.
Cộng đồng là một tập hợp những người sống gắn bó với nhau thành một xã hội nhỏ có những
điểm tương đồng về mặt văn hoá, kinh tế, xã hội truyền thống, phong tục tập quán, có các quan
hệ trong sản xuất và đời sống gắn bó với nhau và thường có ranh giới không gian trong một thôn,
bản. Theo quan niệm này, "cộng đồng" chính là "cộng đồng dân cư thôn bản" (hiện có khoảng
50.000 thôn bản thuộc 9.000 xã). Tuy nhiên, trong phạm vi hẹp hơn còn bao gồm cả cộng đồng
sắc tộc, cộng đồng các dòng họ, cộng đồng tôn giáo hoặc các nhóm hộ trong thôn bản.
Mặc dù có những quan niệm khác nhau về cộng đồng, nhưng phần lớn các ý kiến đều cho rằng
"cộng đồng" được dùng trong quản lý rừng chính là nói đến cộng đồng dân cư thôn bản. Tại Điều
3 Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 đã định nghĩa “Cộng đồng dân cư thôn là toàn bộ các
hộ gia đình, cá nhân sống trong cùng một thôn, làng, bản, ấp, buôn, phum, sóc hoặc đơn vị
tương đương". Cộng đồng được dùng trong báo cáo này chủ yếu là nói về cộng đồng thôn bản.
Khái niệm về cộng đồng tham gia quản lý rừng.
Cộng đồng tham gia quản lý rừng cũng có thể thay thế bằng một từ chung nhất là lâm nghiệp
cộng đồng (LNCĐ).
Theo FAO, LNCĐ là thuật ngữ bao trùm diễn tả hàng loạt các hoạt động gắn người dân với rừng,
cây, các sản phẩm của rừng và việc phân chia lợi ích các sản phẩm này.
Hiện nay, ở Việt Nam có những quan điểm khác nhau về LNCĐ và chưa có một định nghĩa chính
thức nào được công nhận. Tuy nhiên, qua các cuộc hội thảo dường như mọi người đều thống nhất
ở Việt Nam, có hai hình thức quản lý rừng cộng đồng phù hợp với định nghĩa của FAO như sau:
- Thứ nhất là quản lý rừng cộng đồng (QLRCĐ):
Đây là hình thức mà mọi thành viên của cộng đồng tham gia quản lý và ăn chia sản phẩm hoặc
hưởng lợi từ những khu rừng thuộc quyền quản lý, sử dụng, sở hữu của cộng đồng hoặc thuộc
quyền sử dụng chung của cộng đồng.
Rừng của cộng đồng là rừng của làng bản đã được quản lý theo truyền thống lâu đời (rừng thiêng,
rừng ma, rừng mó nước…quản lý theo các luật tục truyền thống với tinh thần tự nguyện cao);
rừng trồng của các hợp tác xã, rừng tự nhiên đuợc giao cho các hợp tác xã trước đây, nay hợp tác
xã giao lại cho các xã, hoặc các thôn quản lý; rừng được chính quyền địa phương giao cho cộng
đồng với tính chất thí điểm trong thời gian gần đây.
- Thứ hai là quản lý rừng dựa vào cộng đồng.
Đây là hình thức cộng đồng tham gia quản lý các khu rừng không thuộc quyền quản lý, sử dụng,
sở hữu chung của họ mà thuộc quyền quản lý, sử dụng sở hữu của các thành phần kinh tế khác
nhưng có quan hệ trực tiếp đến đời sống, đến việc làm, thu hoạch sản phẩm, thu nhập hay các lợi
ích khác của cộng đồng (thuỷ lợi nhỏ, nước sinh hoạt…). Hình thức này bao gồm hai đối tượng:
+ Rừng của hộ gia đình, cá nhân là thành viên trong cộng đồng. Cộng đồng tham gia quản lý với
tính chất hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau, chia xẻ lợi ích cùng nhau trên cơ sở tự nguyện (tạo thêm sức
mạnh để báo vệ rừng, hỗ trợ hoặc đổi công cho nhau trong các hoạt động lâm nghiệp…).
+ Rừng thuộc quyền quản lý, sử dụng, sở hữu của các tổ chức nhà nước (các ban quản lý rừng
phòng hộ, đặc dụng, các lâm trường, công ty lâm nghiệp nhà nước, các trạm trại…) và các tổ
chức tư nhân khác. Cộng đồng tham gia các hoạt động lâm nghiệp như bảo vệ, khoanh nuôI xúc
tiến tái sinh, phục hồi rừng, trồng rừng với tư cách là người làm thuê thông qua các hợp đồng
khoán và hưởng lợi theo các cam kết trong hợp đồng.
Từ sự phân tích trên đây cho thấy, LNCĐ, QLRCĐ là những khái niệm khác nhau. Thuật ngữ
QLRCĐ được sử dụng với ý nghĩa hẹp hơn để chỉ CĐ quản lý những khu rừng của một cộng
đồng dân cư, còn nói đến LNCĐ hay cộng đồng tham gia quản lý rừng chính là diễn tả hàng loạt
các hoạt động gắn người dân trong cộng đồng dân cư thôn bản với rừng, cây, các sản phẩm của
rừng và việc phân chia lợi ích từ rừng. Hay nói cách khác, LNCĐ là một hình thức quản lý, bảo
vệ, sử dụng và phát triển rừng do cộng đồng dân cư thôn bản thực hiện bao gồm cả rừng của cộng
đồng và rừng của các thành phần kinh tế khác.
Với cách hiểu như vậy, nên chấp nhận LNCĐ bao gồm cả quản lý rừng cộng đồng (cộng đồng
quản lý rừng của cộng đồng) và quản lý rừng dựa vào cộng đồng (cộng đồng quản lý rừng của
các chủ rừng khác). Khái niệm này vừa phù hợp với định nghĩa của FAO vừa phát huy được
nhiều hơn sự đóng góp của cộng đồng vào quản lý, bảo vệ, xây dựng và phát triển rừng.
Đặc trưng và tiêu chí LNCĐ.
Tiêu chí về LNCĐ được xây dựng dựa trên cơ cơ sở khái niệm về LNCĐ. Do có những quan
niệm khác nhau về LNCĐ nên có những ý kiến khác nhau về tiêu chí của LNCĐ, tuy nhiên có thể
khái quát một số tiêu chí chính sau đây:
a- Quyền sử dụng đất và quyền sử dụng rừng thuộc về cộng đồng.
Đây là một trong những tiêu chí quan trọng nhất xác lập rừng cộng đồng. Quyền sử dụng đất và
quyền sử dụng rừng thuộc về cộng đồng, điều đó có nghĩa "cộng đồng" là chủ rừng, được nhà
nước công nhận quyền sử dụng đất, quyền sử dụng rừng ổn định, lâu dài phục vụ cho lợi ích của
CĐ.
b- Rừng cộng đồng chủ yếu đáp ứng các yêu cầu của cộng đồng cả về sản phẩm, môi trường sinh thái và
xã hội
+ Nhu cầu thiết yếu như gỗ, củi và lâm đặc sản, chăn thả gia súc
+ Nhu cầu sử dụng một số khu rừng vì lợi ích chung như rừng bảo vệ nguồn nước, rừng gỗ quý,
rừng thiêng, rừng ma gắn liền với phong tục tập quán, tín ngưỡng của các đồng bào dân tộc.
+ Tuỳ theo điều kiện, rừng cộng đồng có thể sản xuất ra hàng hoá để đổi lấy các nhu yếu phẩm
khác phục vụ đời sống của các thành viên trong cộng đồng.
c- Quản lý rừng cộng đồng được thực hiện chủ yếu thông qua sử dụng các nguồn lực sẵn có của
cộng đồng, kết hợp với sự hỗ trợ của nhà nước
Đây là tiêu chí để phân biệt rừng cộng đồng với rừng của các tổ chức kinh tế khác. Cộng đồng
không có nguồn tài chính thu từ rừng để trả công lao động. Tuy nhiên, cộng đồng dân cư làng bản
có nguồn lao động dồi dào, có những kiến thức bản địa về lâm sinh, nông lâm kết hợp và quản lý
rừng. Đây là thế mạnh nếu biết phát huy sẽ tạo ra nguồn lực để bảo vệ, xây dựng và phát triển
rừng. Mặt khác, Chính phủ có nhiều chính sách hỗ trợ để tăng cường sự tham gia của người dân
vào quản lý rừng.
d. Quản lý rừng cộng đồng bằng những quy ước/hương ước được xây dựng với sự tham gia của toàn thể
cộng đồng và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp nhận
Làng bản muốn quản lý được rừng của mình phải dựa vào pháp luật của nhà nước, vào nhu cầu
của cộng đồng, trình độ dân trí để soạn thảo và ban hành quy ước/hương ước quản lý và bảo vệ
rừng. Nội dung quy ước/hương ước quy định quyền lợi và nghĩa vụ của mọi thành viên cộng
đồng trong việc bảo vệ và phát triển rừng. Đây là một trong những tiêu chí quan trọng để nhận
biết địa phương đó đã có rừng cộng đồng hay chưa.
e. Các hình thức tổ chức quản lý rừng cộng đồng tương đối linh hoạt, mềm dẻo để thu hút sự tham gia
của các thành viên trong cộng đồng
Vì sự tham gia của các thành viên trong cộng đồng mang tính chất tự nguyện, nên đòi hỏi phải có
những hình thức tổ chức và quản lý đa dạng, linh hoạt và mềm dẻo. Có thể áp dụng các hình thức
tổ chức như: thành lập tổ chuyên trách bảo vệ rừng (huy động các hộ gia đình hay huy động các
tổ chức đoàn thể trong cộng đồng tham gia bảo vệ rừng), các nhóm sở thích. Nếu hình thức tổ
chức cứng nhắc, như tổ chức theo kiểu làm công, thuê khoán thì đó không phải là kiểu tổ chức
quản lý rừng cộng đồng.
Bảng 1. Khái quát các tiêu chí nhận biết về LNCĐ
Các tiêu chí Các chỉ số nhận biết
1 Quyền sử dụng đất và
quyền sử dụng rừng thuộc
về cộng đồng
- Được nhà nước giao đất, giao rừng sử dụng rừng ổn định, lâu dài vào
mục đích lâm nghiệp
- Được nhà nước công nhận quyền sử dụng đất, quyền sử dụng rừng (hợp
pháp hoá diện tích rừng cộng đồng đã quản lý theo truyền thống từ nhiều
năm trước, rừng do HTX bàn giao lại cho cộng đồng quản lý)
2. Mục đích của rừng cộng
đồng
- Cung cấp gỗ gia dụng của cộng đồng dân cư làng bản (gỗ và lâm sản để
làm nhà mới, sửa chữa lớn nhà cửa, củi, măng, chăn thả gia súc )
- Cung cấp gỗ và lâm sản phục vụ chung cho cộng đồng thôn bản.
- Bảo vệ nguồn nước, chống xói mòn đất
Bảo vệ rừng gỗ quý, rừng thiêng, rừng ma
3. Sử dụng các nguồn lực để
quản lý rừng cộng đồng
- Chủ yếu sử dụng các nguồn lực sẵn có của cộng đồng,
- Có sự hỗ trợ của nhà nước và các tổ chức chính phủ và phi chính phủ
4. Quy ước/hương ước
quản lý rừng
- Quy ước/hương ước được xây dựng với sự tham gia của toàn thể cộng
đồng và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp nhận.
5. Hình thức tổ chức quản lý
rừng cộng đồng
- Hình thức tổ chức và quản lý rừng linh hoạt ( thành lập tổ chuyên trách
bảo vệ rừng, các hộ gia đình trong cộng đồng luân phiên tuần tra rừng, huy
động các tổ chức đoàn thể cấp cộng đồng tham gia bảo vệ rừng vv).
Tính ưu việt của LNCĐ.
Cộng đồng tham gia quản lý rừng có tính ưu việt sau:
- Cộng đồng đân tộc thiểu số sống gắn bó với rừng, rừng là nơi cung cấp đất canh tác, cung cấp
gỗ củi, lâm sản phụ, lương thực, thực phẩm, dược liệu…vì vậy nếu phát huy tốt vai trò của họ thì
sẽ tạo thêm sức mạnh đối với quản lý bảo vệ, xây dựng và phát triển rừng, phục vụ trước hết cho
lợi ích của cộng đồng, đồng thời góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế, xã hội miền núi,
thực hiện các các chương trình quan trọng của nhà nước (Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng, xoá
đói giảm nghèo…), bảo đảm phòng hộ môi trưòng, an ninh chính trị, quốc phòng…
- QLRCD phù hợp với tập quán truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số miền núi, có tính
cộng đồng cao, có nhiều kiến thức bản địa tốt, đặc biệt cộng đồng có mặt hầu khắp mọi nơi, mọi
lúc trong vùng núi, đây là một lợi thế mà các thành phần kinh tế khác không có. Lợi thế này giúp
cho việc quản lý bảo vệ rừng được thuận lợi hơn.
- Quản lý rừng có hiệu quả, ít tốn kém thông qua trách nhiệm và sự cam kết tự nguyện của người
dân trước cộng đồng.
- Bảo đảm nhu cầu tối thiểu về lâm sản của người dân mà nhà nước không phải đầu tư quản lý,
bảo vệ.
- Bảo đảm tính công bằng trong chia xẻ lợi ích, từ đó bảo đảm sự đoàn kết trong cộng đồng và
giữa các cộng đồng, góp phần ổn định xã hội.
Thực trạng cộng đồng tham gia quản lý rừng.
a- Về quy mô diện tích.
Theo kết quả kiểm kê rừng dến 31/12/2003 thì rừng đã giao cho hộ gia đình và tập thể là
2.616.931ha/tổng số 12.094.518 ha rừng toàn quốc tương ứng 21,3%, trong đó rừng tự nhiên
1.758.892ha/tổng số 10.004.709 ha (tương ứng 17,6%), rừng trồng 858.039ha/tổng số 2.089.809
ha (tưong ứng 41%).
Theo số liệu của Cục Kiểm lâm tính đến tháng 6/2001, các cộng đồng dân cư thuộc 1.203 xã, 146
huyện của 24 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đang tham gia quản lý 2.348.295 ha rừng và
đất chưa có rừng, chiếm khoảng 15,5% diện tích đất lâm nghiệp (đất có rừng và đất rừng) trong
toàn quốc.
b- Về nguồn gốc hình thành.
Có thể phân thành 3 loại sau đây:
- Rừng và đất rừng do cộng đồng tự công nhận và quản lý theo truyền thống từ nhiều đời nay
+ Đây là các loại rừng quản lý theo truyền thống của các đồng bào dân tộc thiểu số. Về mặt pháp
lý, các quyền sở hữu, quyền sử dụng các khu rừng này chưa được xác lập, nhưng trên thực tế nó
đang được điều tiết một cách không chính thức bởi các luật tục truyền thống. Trong xã hội cổ
truyền của một số đồng bào dân tộc ít người, làng bản là đơn vị độc lập cao nhất. Mỗi làng đều có
ranh giới lãnh điạ nhất định bao gồm cả đất, rừng, nguồn nước, suối…Toàn bộ các hoạt động
quản lý tài nguyên của cộng đồng được thực hiện bởi già làng, trưởng bản thông qua các luật tục
hay hương ước được thực hiện một cách tự nguyện truyền từ đời này qua đời khác.
+ Tính đến tháng 6/2001, tổng diện tích rừng và đất rừng thuộc loại này là 214.006 ha, bao gồm:
86.701 ha đất có rừng; 127.304 ha đất trống đồi núi trọc. Đó là những khu rừng thiêng, rừng ma,
rừng đình, rừng thổ công, rừng mó nước, rừng phòng hộ xóm làng (chống sạt lở, đá lăn…),
những khu rừng cung cấp lâm sản truyền thống cho cộng đồng (săn bắn, thu hái thực phẩm, cây
thuốc ), bãi chăn thả. Ngoài ra, thuộc loại này, còn bao gồm rừng trồng của Hợp tác xã, rừng tự
nhiên đã giao cho Hợp tác xã trước đây, nay giao lại cho các xã hoặc thôn bản quản lý.
Hình thức này phổ biến ở cộng đồng người dân tộc thiểu số sống ở vùng sâu, vùng xa, nơi tính
cộng đồng, hương ước làng bản còn được duy trì.
Xét về khía cạnh pháp lý: Tại Điều 9, Nghị định 17/HĐBT ngày 17/1/92 của Hội đồng Bộ trưởng
và tại điều 29 Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 đã thừa nhận cộng đồng thôn bản là chủ
rừng đối với diện tích rừng làng, rừng bản nói trên. Nhưng trên thực tế, chính quyền địa phương
chưa làm thủ tục giao quyền sử dụng lâu dài cho các cộng đồng.
- Rừng và đất rừng chính quyền địa phương giao cho cộng đồng quản lý, sử dụng ổn định lâu dài.
+ Tổng diện tích là 1.197.961 ha, bao gồm: đất có rừng 669.750 ha, đất trống đồi núi trọc
528.211 ha. Thời gian qua, mặc dù pháp luật chưa quy định cộng đồng là đối tượng giao quyền
sử dụng đất, nhưng đã có 18 tỉnh mạnh dạn làm thí điểm giao đất, giao rừng cho cộng đồng.
+ Rừng giao cho cộng đồng phần lớn là rừng nghèo, phục hồi sau nương rẫy hoặc sau khai thác
kiệt. Một số cộng đồng được giao đất trống đồi trọc để trồng rừng hoặc khoanh nuôi xúc tiến tái
sinh, hiếm có trường hợp cộng đồng được giao những diện tích rừng giàu để quản lý, bảo vệ và
sử dụng ổn định lâu dài.
+ Đối với diện tích đất và rừng giao cho cộng đồng: các thành viên của cộng đồng cùng đầu tư,
quản lý và hưởng lợi, hoàn toàn dựa trên nguyên tắc tự nguyện và cùng có lợi giữa các thành viên
của cộng đồng. Cộng đồng tự thành lập tổ, nhóm để tiến hành các hoạt động lâm nghiệp nhằm
giải quyết các lợi ích cho các thành viên trong cộng đồng. Nhiều nơi, đất lâm nghiệp giao cho
cộng đồng thuộc các khu vực dự án như Chương trình 327, Dự án 661 và các dự án quốc tế
(Thụy Điển, Đan Mạch, Công Hoà Liên bang Đức, WB).
Tuy nhiên cho đến nay, cộng đồng mới chỉ được nhận quyết định giao đất, giao rừng mà chưa
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên ngoài nguồn đầu tư và hỗ trợ từ các chương
trình, dự án thì các quyền cơ bản của chủ rừng theo quy định của pháp luật, cộng đồng vẫn không
được hưởng
- Rừng và đất rừng cộng đồng nhận khoán bảo vệ, khoanh nuôi tái sinh và trồng mới rừng của các tổ
chức nhà nước
Tổng diện tích là 936.327 ha, bao gồm đất rừng phòng hộ 494.242 ha, đất rừng đặc dụng 39.289
ha; đất rừng sản xuất 402.795 ha.
Đây là hình thức cộng đồng nhận khoán theo quy định tại Nghị định 01/CP của Chính phủ, các tổ
chức giao khoán cho cộng đồng chủ yếu là lâm trường quốc doanh, Ban quản lý rừng đặc dụng,
rừng phòng hộ, Ban quản lý các dự án 327, 661 và các dự án khác. Cộng đồng tự tổ chức thực
hiện các công việc và hưởng lợi theo hợp đồng ký kết.
c- Các hình thức cộng đồng tham gia quản lý rừng.
Có thể so sánh khái quát các hình thức cộng đồng tham gia quản lý rừng như sau:
Từ kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, quy mô thôn là phù hợp cho quản lý rừng cộng đồng vì:
- Thích hợp đối với vùng sâu, vùng xa.
- Phù hợp với truyền thống tập quán của nhiều nhóm dân tộc.
- Phù hợp với điều kiện sản xuất hiện nay của dân khi nền kinh tế chưa phát triển.
- Phù hợp đối với quản lý tất cả các loại rừng, kể cả rừng phòng hộ và đặc dụng.
- Phù hợp với trình độ quản lý của người dân cấp thôn bản.
Bảng 2. Khái quát các hình thức cộng đồng tham gia quản lý rừng
Hình thức Điểm mạnh Điểm yếu
Thôn/bản - Có nhiều tiềm năng về các mặt:
Vị trí địa lý (tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên).
Kinh tế (tài chính, sản xuất).
Xã hội (Truyền thống, tổ chức, quy ước nội bộ,
quan hệ )
Nguồn nhân lực (lao động, lãnh đạo).
- Chưa có ranh giới rõ ràng.
- Chưa có đủ tư cách pháp nhân
- Vai trò trưởng thôn mang tính hành
chính và chưa có trách nhiệm pháp lý.
- Trình độ quản lý thấp.
- Chưa có cơ chế tài chính, nguồn thu
Có khả năng quản lý tất cả các loại rừng. hạn chế
- Phụ thuộc vào các cấp chính quyền
cao hơn
Nhóm hộ/nhóm
sở thích
- Quy mô nhỏ, dễ dàng tổ chức, quản lý thống
nhất.
- Phù hợp với trình độ hiện nay của dân.
- Phù hợp với yêu cầu đầu tư của dân
- Có tiềm năng trở thành cấp thôn bản hoặc
HTX kiểu mới
- Chi phí phù hợp với quy mô nhỏ.
- Khó bảo vệ rừng ở các vùng sâu, vùng
xa.
Dòng tộc Thuận lợi tương tự như nhóm hộ - Khó được chấp nhận về mặt pháp lý.
- Có thể tạo nên mâu thuẫn cục bộ trong
cộng đồng thôn bản
d- Hiệu quả đạt được.
Cho đến nay chưa có đánh giá hiệu quả quản lý rừng cộng đồng ở quy mô toàn quốc, tuy nhiên,
căn cứ vào 3 kết quả Hội thảo quốc gia về quản lý rừng cộng đồng ở Việt Nam được tổ chức tại
Hà Nội ( tháng 6/2000, tháng 11/2001 và tháng 11/2004) có thể đưa ra một số nhận định sau:
- Nhiều nơi rừng cộng đồng được bảo vệ và phát triển tốt hơn, những nơi rừng do cộng đồng
quản lý hầu như không bị chặt phá, do không có xâm hại nên rừng ngày càng tăng trưởng.
- Góp phần nâng cao thu nhập của người dân, xoá đói giảm nghèo, đáp ứng nhu cầu lâm sản cho
các công trình chung của cộng đồng và hộ gia đình.
Đối với diện tích rừng do cộng đồng nhận khoán bảo vệ, hàng năm được Nhà nước hoặc chủ
rừng trả tiền công khoán, đã góp phần giải quyết một phần khó khăn về đời sống cho một bộ
phận dân cư.
Đối với diện tích rừng và đất rừng chính quyền địa phương giao, cộng đồng có thể tận dụng khi
rừng chưa khép tán hoặc đất trống chưa trồng rừng để canh tác kết hợp cây nông nghiệp, chăn thả
dưới tán rừng, được các dự án đầu tư hỗ trợ vốn để sản xuất, được hưởng lợi sản phẩm từ rừng.
Đối với diện tích rừng cộng đồng quản lý theo truyền thống cho đến nay hầu như cộng đồng có
toàn quyền quyết định việc sử dụng tài nguyên rừng, trong đó đáp ứng nhu cầu lâm sản cho các
công trình chung của cộng đồng, giải quyết nhu cầu gỗ làm nhà cho các hộ gia đình.
- Tiết kiệm chi phí cho Nhà nước: hiện nay có nhiều cộng đồng đang quản lý rừng hầu như không
có sự hỗ trợ của Nhà nước về kinh phí, nhưng rừng vẫn được bảo vệ tốt.
- Rừng cộng đồng đã góp phần bảo vệ nguồn nước, giải quyết một phần nhu cầu gỗ gia dụng cho
cộng đồng và thành viên của cộng đồng; khai thác lâm sản ngoài gỗ , góp phần phát triển ngành
nghề thủ công truyền thống và tăng thu nhập cho cộng đồng.
- Góp phần khôi phục truyền thống văn hoá, phong tục tập quán tốt đẹp của cộng đồng thông qua
việc quản lý rừng cộng đồng, có sự giúp đỡ và hướng dẫn của các tổ chức nhà nước, đã góp phần
thúc đẩy việc xây dựng và thực hiện quy chế quản lý, bảo vệ rừng; thực hiện quy chế dân chủ ở
cơ sở; khôi phục truyền thống văn hoá tốt đẹp, hương ước của cộng đồng.
đ- Tồn tại và nguyên nhân.
-Tồn tại:
Mặc dầu đạt được các kết quả trên, song trong thực tế còn một số tồn tại sau:
+ Có nơi người dân không tha thiết với nhận đất, nhận rừng
+ Người dân nhận đất nhận rừng nhưng không hiểu rõ quyền lợi, nghĩa vụ của mình là gì. Việc
quản lý, bảo vệ, sử dụng rừng sau khi giao không có tiến bộ gì hơn trước khi giao ( chủ yếu ở Tây
Nguyên).
+ Cộng đồng không đủ quyền và lực để chống lại lâm tặc vì thiếu sự trợ giúp của chính quyền,
của kiểm lâm và công an.
+ Thiếu vốn nên nhiều nơi nhận đất, nhận rừng nhưng không thể đầu tư vào sử dụng đất và phát
triển rừng.
+ Thiếu kiến thức về kỹ thuật lâm nghiệp để quản lý, xây dựng, phát triển và sử dụng rừng có
hiệu quả.
+ Nguồn thu từ rừng chưa chiếm tỷ trọng lớn trong thu nhập của cộng đồng, chưa thực sự đóng
góp vào cải thiện đời sống của người dân.
- Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tồn tại trên là:
+ Thời gian qua, khi Luật bảo và phát triển rừng chưa ra đời, LNCĐ mới chỉ được làm thí điểm
hoặc tự phát ở một số địa phương với sự trợ giúp của các dự án hoặc chính quyền địa phương. Do
chưa có đầy đủ cơ sở pháp lý nên CĐ chưa được hưởng các quyền như các thành phần kinh tế
khác (như các quyền được giao đất giao rừng, vay vốn tín dụng ưu đãi, chính sách hưởng lợi…)
để thực hiện việc quản lý xây dựng và phát triển rừng.
+ Cộng đồng sống ở vùng sâu, vùng xa, trình độ dân trí thấp, cơ sở hạ tầng yếu kém, thiếu vốn lại
thiếu sự trợ giúp của cơ quan, đoàn thể, chính quyền địa phương, đặc biệt là công tác khuyến lâm.
Nhiều nơi tiến hành giao đất giao rừng quá ồ ạt, trong khi những điều kiện để tạo hậu thuẫn cho
cộng đồng quản lý rừng chưa được chuẩn bị đầy đủ.
+ Rừng giao cho cộng đồng thường là rừng nghèo, rừng non nên thu nhập của người dân từ rừng
ở nhiều nơi rất thấp, thậm trí không có thu nhập.
+ Cộng đồng ở một số nơi chưa được tổ chức và có cơ chế hoạt động chặt chẽ.
Những Cơ hội :
a. Trong hơn 10 năm qua nhà nước đã chuyển hướng mạnh từ lâm nghiệp nhà nước sang lâm
nghiệp xã hội, LNCĐ là một đối tượng quan trọng trong quá trình chuyển hướng này và đựơc nhà
nước quan tâm tạo điều kiện phát triển. Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách có liên quan hoặc
có thể vận dụng cho phát triển LNCĐ.
b. Một chuyển biến lớn mang tính quyết định cho việc phát triển LNCĐ là Luật đất đai năm 2003
đã công nhận cộng đồng là đối tượng được giao đất và Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004
đã công nhận cộng đồng là một thành phần được giao rừng.
c. LNCĐ là tồn tại khách quan, nó vừa phù hợp với truyền thống lâu đời vừa là đòi hỏi thực tế
của đồng bào dân tộc thiểu số vùng núi, nơi mà đời sống văn hoá, kinh tế-xã hội của người dân
luôn gắn bó với rừng.
d. Mặc dầu Luật bảo vệ và phát triển rừng mới ra đời nhưng LNCĐ đã được phục hồi ở hầu hết
các tỉnh miền núi trên phạm vi toàn quốc. Vì vậy quản lý rừng có sự tham gia của cộng đồng dân
cư thôn, bản là mô hình quản lý rừng khả thi về mặt kinh tế- xã hội và tiết kiệm về chi phí cho
nhà nước.
đ. Tỷ lệ số xã có rừng cộng đồng trong tổng số xã tương đối lớn, ở các tỉnh miền núi phía bắc hầu
hết trên 50%, có tỉnh trên 75% như Cao Bằng, Hoà Bình, Lai Châu (cũ), Hà Giang.
e. Diện tích rừng thôn, bản hiện chiếm tỷ trọng tương đối lớn và có xu thế tăng trong những năm
tới, do tác động của Lụât bảo vệ và phát triển rừng năm 2004, các địa phương sẽ tiếp tục giao
rừng cho cộng đồng quản lý sử dụng lâu dài vào mục đích lâm nghiệp.
f. ở hầu hết các địa phương đều có các mô hình tốt được xây dựng bởi các dự án trong và ngoài
nước, nhiều bài học kinh nghiệm về quản lý rừng CĐ đã được đúc rút là những cơ sở để nhân
rộng trong tương lai.
g. Cộng đồng có nguồn lao động dồi dào, lại sống trải rộng trên hầu khắp diện tích rừng, có khả
năng tiếp thu các kỹ thuật lâm nghiệp, có đức tính thật thà chất phác nên thường thực hiện tốt các
kỹ thuật mà họ tiếp thu được.
h. Những kết quả nghiên cứu, điều tra đánh giá, những phương pháp luận, những giải pháp kỹ
thuật được xây dựng, các cuộc hội thảo quốc gia, hội thảo vùng được tổ chức bởi các các tổ chức,
các dự án trong nước và quốc tế là vô cùng phong phú và quý giá, có ý nghĩa khoa học, thực tiễn
lớn. áp dụng những thành quả sẵn có này sẽ tạo thuận lợi cho việc phát triển LNCĐ trong tương
lai.
Những thách thức.
a. Về mặt luật pháp lý, tại điểm đ, khoản 2, điều 30, mục 3 có quy định: cộng đồng không
được…, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn kinh doanh bằng giá trị quyền sử dụng rừng được giao.
Cộng đồng không có quyền thế chấp để vay vốn đầu tư bảo vệ và phát triển rừng như hộ gia đình,
trong khi nguồn nội lực của cộng đồng rất hạn chế nên phải trông chờ vào sự hỗ trợ của nhà nước
và các dự án quốc tế. Song nguồn vốn của nhà nước cũng hạn chế, còn các dự án quốc tế thì
không phải nơi nào, lúc nào cũng có.
b. Do Luật bảo vệ và phát triển rừng mới ra đời nên các văn bản dưới luật như nghị định, thông
tư hướng dẫn, các quy chế, các chính sách, các quy trình, quy phạm còn thiếu hoặc chưa được
hoàn chỉnh, gây khó khăn cho việc thi hành luật cũng như phát triển LNCĐ.
c. LNCĐ phát triển ở vùng sâu, vùng xa, tỷ lệ đói nghèo cao, trình độ dân trí thấp, cơ sở hạ tầng
yếu kém, thiếu vốn, thiếu hiểu biết về kỹ thuật…Đây là trở ngại lớn đối với phát triển LNCĐ.
d. Nguồn thu từ rừng vốn dĩ đã thấp, trong khi rừng giao cho cộng đồng hầu hết là rừng nghèo
nên nguồn thu lại càng thấp hơn. Điều này dẫn đến một số hậu quả sau:
- Làm giảm sự quan tâm, sự hấp dẫn của người dân đối với rừng.
- Nguồn thu trước mắt từ rừng thấp, đóng góp vào cải thiện đời sống, xoá đói giảm nghèo hạn chế
- Không có khả năng lấy rừng nuôi rừng, tái đầu tư xây dựng và phát triển rừng.
Những vấn cần tiến hành để phát triển LNCĐ.
Như trên đã trình bầy, giao rừng cho cộng đồng đã được nhà nước công nhận, đây là một thuận
lợi lớn cho việc phát triển LNCĐ, song để có thể thực hiện tốt chủ trương này cần giải quyết các
vấn đề sau:
a. Xây dựng và ban hành các văn bản dưới luật, các chính sách.
- Nghị định và các thông tư hướng dẫn có liên quan đến LNCĐ, cụ thể hoá các vấn đề về giao
đất, giao rừng, về quyền và nghĩa vụ, tổ chức cộng đồng, vai trò trách nhiệm của các bên liên
quan
- Các chính sách khuyến khích, hỗ trợ cộng đồng, vay vốn (tuy cộng đồng không được dùng rừng
để thế chấp nhưng có thể vay vốn bằng các hình thức khác), chính sách hưởng lợi.
- Quy chế khai thác rừng cộng đồng
b. Xây dựng thể chế quản lý rừng cộng đồng.
Hội thảo quốc gia về thể chế quản lý rừng cộng đồng dân cư thôn bản được tổ chức tại Hà Nội
tháng 11/2004, về cơ bản, đã thống nhất cần có bản hướng dẫn tạm thời quy định vai trò, chức
năng, nhiệm vụ của các bên liên quan đến quản lý rừng cộng đồng dân cư thôn; cơ chế phối hợp
giữa cộng đồng với các cơ quan, đơn vị liên quan và các công cụ cần thiết để quản lý rừng cộng
đồng. Nội dung bản hướng dẫn này đề cập những vấn đề chủ yếu sau đây:
- Cơ cấu tổ chức lâm nghiệp trong cộng đồng.
Tổ chức như thế nào để có thể thực hiện được các chính sách của nhà nước (tiếp nhận sự hỗ trợ
của nhà nước về vốn, vay vốn bằng các hình thức khác không thông qua thế chấp rừng, đất rừng,
để có thể quản lý, bảo vệ, sử dụng có hiệu quả rừng, đất rừng. Ví dụ thành lập ban quản lý lâm
nghiệp cộng đồng (có trưởng ban, có kế toán, thủ quỹ và các thành viên), thành lập các nhóm
công tác (bảo vệ, thực hiện các hoạt động lâm nghiệp).
- Quy chế hoạt động, phân công trách nhiệm của các cán bộ lãnh đạo trong cộng đồng, của các
nhóm công tác.
- Quy định về quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong cộng đồng, về chia xẻ lợi ích,
- Vai trò, chức năng, nhiệm vụ của các bên liên quan (các cơ quan hành chính, cơ quan lâm
nghiệp địa phương, các tổ chức kinh doanh; các cơ quan, đoàn thể khác) đến quản lý rừng cộng
đồng dân cư thôn (tổ chức bên ngoài cộng đồng). Do năng lực của cộng đồng rất yếu nên sự trợ
giúp của các tổ này trong quá trình thực hiện QLRCĐ là hết sức cần thiết.
Các hỗ trợ cụ thể là hình thành tổ chức, xây dựng các văn bản; phát triển kỹ thuật nông, lâm
nghiệp để kinh doanh rừng và đất rừng, như tư vấn cho cộng đồng về nuôi dưỡng, tỉa thưa, làm
giàu, trồng rừng, khai thác rừng, chế biến nông, lâm sản; cung cấp thông tin thị trường sản phẩm
rừng; thực hiện các dịch vụ đào tạo, cung ứng vật tư, tiêu thụ sản phẩm…
c. Xây dựng và ban hành các văn bản quy trình, quy phạm, hướng dẫn kỹ thuật về điều tra, phân
loại tài nguyên rừng, về giao đất giao rừng, về lập kế hoạch quản lý rừng cộng đồng, kỹ thuật
khai thác, kỹ thuật lâm sinh…
d. Đẩy mạnh giao đất, giao rừng cho cộng đồng thôn bản.
Trong thời gian qua, khi Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 chưa ban hành, việc giao đất
giao rừng chưa được tiến hành đồng đều trên phạm vi toàn quốc, có tỉnh chưa tiến hành, có tỉnh
làm thí điểm trên diện hẹp, có một vài tỉnh lại làm quá mạnh. Về pháp lý, hầu hết rừng và đất
rừng giao cho cộng đồng thông qua một quyết định của chính quyền địa phương. Vì vậy trong
thời gian tới cần đẩy nhanh việc giao đất giao rừng cho cộng đồng. Để thực hiện chủ trương này,
trong quá trình tiến hành cần thực hiện và lưu ý cá vấn đề sau:
Xây dựng hướng dẫn về giao đất giao rừng, trong đó bao gồm các nội dung:
+ Những điều kiện để cộng đồng dân cư thôn bản được giao đất giao rừng (Điều kiện khách
quan, điêù kiện chủ quan)
+ Đối tượng rừng và đất rừng ưu tiên được giao cho cộng đồng dân cư thôn, bản:
+ Cơ cấu diện tích rừng và đất rừng cộng đồng thôn, bản.
+ Phương pháp và các bước tiến hành.
+ Tổ chức thực hiện.
- Ưu tiên giao cho cộng đồng dân cư thôn, bản các loại rừng và đất rừng sau:
+ Các khu rừng thiêng gắn liền với tín ngưỡng của đồng bào dân tộc thiểu số, như rừng thờ thổ
thần, rừng thiêng, rừng ma.
+ Các khu rừng mó nước (cốc bó), rừng đầu ngọn suối cung cấp nước sinh, họat sản xuất cho
cộng đồng thôn bản, những khu rừng phòng hộ các khu dân cư, sản xuất;
+ Các khu rừng cung cấp lâm sản gia dụng đã được xác lập theo tập quán, những khu rừng già,
những chòm cây cổ thụ còn sót lại trong thôn, bản không thể giao đều cho các hộ thành viên một
cách công bằng
+ Các khu rừng ở xa khu dân cư, địa hình hiểm trở, hộ gia đình không có đủ điều kiện để bảo vệ
hoặc có nguy cơ cao khai thác lâm sản trái phép, phá rừng làm rãy (những khu rừng giáp ranh
giữa các thôn, xã, huyện). Thông thường các khu rừng và đất rừng này được thống kê là loại đất
chưa sử dụng, chưa giao cho chủ sử dụng, do UBND xã quản lý theo phân cấp về quản lý rừng
của Chính phủ.
- Tránh chạy theo số lượng, giao đúng đối tượng cho các cộng đồng có đủ điều kiện để quản lý,
bảo vệ và sử dụng rừng có hiệu quả. Khả năng hỗ trợ để cộng đồng ổn định quản lý rừng của các
cơ quan hữu quan ở địa phương đến đâu thì giao đến đó.
- Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sử dụng rừng chính thức cho cộng đồng.
- Do hầu hết các địa phương đã tiến hành giao đất giao rừng cho hộ gia đình vì vậy khi tiến hành
giao đất giao rừng cho cộng đồng cần bảo đảm hài hoà lơị ích giữa hộ gia đình và cộng đồng,
tránh gây mâu thuẫn, mất đoàn kết.
đ. Hỗ trợ cộng đồng sau giao đất giao rừng. Giao đất giao rừng mới chỉ là khởi đầu cho phát triển
LNCĐ. Theo kinh nghiệm ở nhiều nơi nếu không có hỗ trợ sau giao đất giao rừng thì cộng đồng
hầu như không có khả năng thực hiện các nhiệm vụ quản lý rừng. Cụ thể:
Hỗ trợ về vốn.
Hỗ trợ để hình thành tổ chức lâm nghiệp trong cộng đồng, xây dựng quy chế hoạt động, xây dựng
hương ước, chia xẻ lợi ích…(thực hiện bởi tổ chức lâm nghiệp trên địa bàn).
Hỗ trợ về kỹ thuật , về chế biến tiêu thụ sản phẩm (khuyến lâm)…
Tạo hậu thuẫn cho việc bảo vệ rừng (thực hiện bởi chính quyền địa phương, công an, kiểm lâm).
e. Xây dựng hướng dẫn về thiết lập và hoạt động QLRCĐ theo các bước sau:
Bước 1. Quy hoạch sử dụng đất và giao đất giao rừng có sự tham gia của người dân.
Bước 2. Hình thành tổ chức lâm nghiệp trong cộng đồng, xây dựng quy chế hoạt động, hương
ước, chia xẻ lợi ích.
Bước 3. Lập kế hoạch QLRCĐ có sự tham gia của người dân (điều tra, đánh giá, phân loại rừng
và đất rừng; điều tra, đánh gíá nhu cầu sử dụng gỗ củi, lâm sản; cân đối cung và cầu gỗ, củi lâm
sản; dự kiến về tình trạng rừng trong tương lai; lập kế hoạch quản lý rừng 5 năm và hàng năm (kế
hoạch lâm sinh, kế hoạch khai thác, kế hoạch tài chính).
Bước 4. Thiết lập hệ thống báo cáo và kiểm soát dựa vào cộng đồng.
Bước 5. Tổ chức đào tạo và hỗ trợ thực hiện các nội dung của những bước trên.
Bước 6. Tổ chức thực hiện kế hoạch quản lý rừng CĐ (kế hoạch bảo vệ rừng, kế hoạch lâm sinh,
kế hoạch khai thác).
Bước 7. Giám sát và đánh giá.
Đề xuất, kiến nghị về quản lý rừng cộng đồng.
- Nhà nước nên coi LNCĐ là một chiến lược để phát triển kinh tế miền núi vì nó phù hợp với
thực tế khách quan, phù hợp với nguyện vọng của người dân. LNCĐ sẽ có những đóng góp đáng
kể, không những vào cải thiện đời sống vật chất mà còn cải thiện cả đời sống văn hoá, tinh thần
của người dân, từ đó góp phần ổn định xã hội, an ninh chính trị.
- LNCĐ tồn tại và phát triển ở vùng sâu, vùng xa, nơi cơ sở hạ tầng yếu kém, trình độ dân trí
thấp, nghèo đói vì vậy muốn phát triển LNCĐ, trước hết đòi hỏi sự nỗ lực của bản thân ngành
lâm nghiệp, sau nữa là sự hỗ trợ tích cực của nhà nước, của các ngành, các cấp từ Trung ương
đến địa phương, của các tổ chức có liên quan, đặc biệt sự hỗ trợ của các nước và các tổ chức quốc
tế. Muốn thực hiện ý đồ này, nhà cước cần xây dựng một chương trình hay dự án quốc gia về
LNCĐ. Tin rằng dự án này sẽ được các nước, các tổ chức quốc tế ủng hộ.
- Trước mắt, nhà nước cũng như ngành cần chỉ đạo xây dựng và sớm ban hành các văn bản dưới
luật, các quy chế, các quy trình quy phạm…để việc triển khai thực hiện phát triển LNCĐ được
thống nhất trong cả nước.
- Nhà nước cần có một kế hoạch chỉ đạo các địa phương triển khai hợp lý, không nóng vội, không
chạy theo thành tích, nhất là khi tiến hành giao đất giao rừng, không nên làm ồ ạt, chạy theo số
lượng (vấn đề không phải là giao được bao nhiêu diện tích rừng, diện tích đất mà là bao nhiêu
diện tích đã thực sự được cộng đồng quản lý có hiệu quả). Phải căn cứ vào nhu cầu, khả năng của
cộng đồng để có kế hoạch phù hợp. Tránh tình trạng làm cho các khu rừng và đất rừng lớn, tập
trung bị chia xẻ manh mún. Việc giao ồ ạt, không hợp lý, nhất là những vùng nhậy cảm về gỗ, có
thể gây nên những hậu quả không mong muốn, tình trạng phá rừng có thể mạnh hơn.
- Những kết quả về LNCĐ thời gian qua là rất đáng quý, song đây chỉ là bước đầu. Còn rất nhiều
vấn đề có liên quan cần phải nghiên cứu, còn rất nhiều kết quả nghiên cưu trước đây cần được
kiểm chứng trong thực tế vì vậy công tác nghiên cứu, xây dựng mô hình cần được coi trọng và
tiếp tục thực hiện.
- Công tác khuyến lâm đối với cộng đồng là hết sức quan trọng, cần có một chương trình khuyến
lâm cho cộng đồng về quản lý rừng tự nhiên (điều tra rừng cộng đồng, thiết kế khai thác, kỹ thuật
nuôi dưỡng rừng, khoanh nuôi phục hồi rừng ), về trồng rừng.
- Có nhiều chính sách ban hành trước đây phù hợp với cộng đồng, vì vậy trong khi chưa xây
dựng được chính sách hoàn chỉnh cho LNCĐ, trước mắt nhà nước cho phép vận dụng những
điiểm phù hợp của các chính sách đã có cho cộng đồng. Ngành cần nghiên cứu tập hợp những
chính sách phù hợp để trình chính phủ cho phép vận dụng.
Nguồn: />
Quan niệm mới về lâm nghiệp và quản lý rừng bền vững ở Việt Nam
Hoàng Thái Sơn - Trường trung học Lâm nghiệp I Trung ương
Thành viên mạng lưới SURDM
(Sưu tầm)
Kể từ Hội nghị thượng đỉnh Rio 1972, khái niệm "phát triển bền vững” đã trở thành một thuậtt
ngữ bị lạm dụng quá nhiều nhưng ít được hiểu một cách đúng đắn. Thật vậy, hiện tại ít có một
khái niệm nào lại có nhiều định nghĩa và được tranh luận rộng rãi như vậy. Khái niệm “quản lý
rừng bền vững” đã được tạo ra và trở thành một sự bắt buộc khi nói đến một nền "lâm nghiệp
tốt". Trong thực tế, rất ít quốc gia đạt được thành công trong việc thực hiện quản lý rừng bền
vững; thậm chí nhà lâm nghiệp được gán nhãn hiệu là những người tàn phá màu xanh, huỷ hoại
môi trường; điều đó buộc họ phải trở về với gốc rễ để nhận thức lại rằng: nhà lâm nghiệp trước
hết phải là những người bảo vệ môi trường. Đạo lý và các chuẩn mực của thực tiễn một nền lâm
nghiệp tốt đã bị thay chỗ trước các vấn đề cấp bách như sa mạc hoá, sự nóng lên của trái đất, suy
giảm đa dạng sinh học và thu hút được sự chú ý của các nhà khoa học, của công chúng và của
các nhà chính khách. Nói cách khác, nhà lâm nghiệp đã nhận thức được rằng suy giảm rừng là hệ
quả của một thực tiễn sai lầm và thất bại. Trách nhiệm nghề nghiệp của các nhà lâm nghiệp là
phải tìm ra các biện pháp hành động để sữa chữa những sai lầm đó và phát triển các chuẩn mực
mới cho thực tiễn lâm nghiệp. Quan niệm lâm nghiệp của chúng ta trước đây (và còn cả ngày
nay) đã lỗi thời thể hiện ở sự bất lực của nó trong việc xử lý vấn đề tiếp tục phát triển ngành lâm
nghiệp và khủng hoảng môi trường sinh thái. Vì vậy, thay đổi quan niệm về lâm nghiệp là chìa
khoá để xử lý cuộc khủng hoảng nhằm đạt được một ngành lâm nghiệp và quản lý tài nguyên môi
trường bền vững. Việc thay đổi quan niệm về lâm nghiệp có thể được thúc đẩy thông qua việc đổi
mới các thể chế phù hợp, mà sự đổi mới này được tạo điều kiện thông qua sự nhất trí cao của các
cơ quan lãnh đạo, các tổ chức tài trợ và sự ủng hộ cao của công chúng.
Các luận cứ trên đây không chỉ phản ánh sự cần thiết phải coi tài nguyên rừng là một bộ phận của
tài nguyên thiên nhiên mà còn hàm chứa sự cần thiết của việc quản lý tổng hợp mà tất cả các đối
tác phải quan tâm trong các hoạt động quản lý ngay từ khi thiết lập các dự án
1. Quan niệm mới về lâm nghiệp
Lâm nghiệp là gì và đối tượng của nó như thế nào? nhiều người có thể cho rằng đây là một câu
hỏi sơ đẳng và không cần thiết phải nêu ra. Đây là một vấn đề lớn mà đáng lẽ phải ưu tiên nghiên
cứu đầu tiên. Bởi vì đó là cơ sở triết học kinh tế ngành, là nền móng để thiết kế hệ thống thể chế
quản lý và các chính sách liên quan.
Nói một cách tổng quát: lâm nghiệp bao gồm tất cả những mục tiêu và biện pháp mà xã hội loài
người (và nên kinh tế tương ứng với mỗi nhà nước của xã hội đó) đặt ra và tác động vào đối
tượng rừng. Nó bao gồm hai lĩnh vực thống nhất với nhau: xây dựng rừng và sử dụng rừng. Lâm
nghiệp là một khoa học tổng hợp của sự nhất thể về sinh thái kinh tế kỹ thuật dựa trên nền tảng
đạo lý và các chuẩn mực của xã hội. Bằng cách xem xét rừng như là một hệ sinh thái, một nhân
tố cảnh quan, một nhân tố kinh tế và cũng là một nhân tố tâm linh, lâm nghiệp còn là hoạt động
ứng dụng của con người nhằm đáp ứng các nhu cầu của xã hội và của nền kinh tế. Thông qua các
mục tiêu và biện pháp thích hợp của việc bảo vệ, tái tạo rừng để hướng sự phát triển của rừng
theo những mong muốn của con người và do đó đạt được sự tối ưu về lợi ích đối với con người
và đối với thiên nhiên. Có nghĩa là hướng tới một hệ thống rừng bền vững và đa chức năng.
Tầm quan trọng của việc xây dựng phát triển rừng ngày nay không chỉ là để duy trì việc kinh
doanh rừng, mà còn nhiều hơn, quan trọng hơn là việc nhất thể hoá các chức năng của rừng với
các khía cạnh kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái trong tổng thể phát triển.
Chúng ta phải thừa nhận hệ thống quản lý rừng của chúng ta hiện nay đang bị khủng hoảng hoặc
bị lỗi thời. ít nhất có thể nhấn mạnh ba khía cạnh của sự khủng hoảng trong quan niệm về ngành
lâm nghiệp hiện nay: thứ nhất, rừng ngày càng bị suy giảm kéo theo các hậu quả nghiêm trọng về
môi trường sinh thái, lũ lụt, hạn hán, sa mạc hoá gia tăng; đa dạng sinh học suy giảm; xói mòn
đất đai; thay đổi khí hậu theo chiều hướng không có lợi cho sự tồn tại của con người. Thứ hai, cơ
chế chính sách của nhà nước thiếu đồng bộ, không nhất quán, thậm chí không minh bạch tạo ra
sự lộn xộn trong quản lý đất đai giữa các cộng đồng dân bản địa, các nông, lâm trường và đất đai
cá nhân. Thứ ba, những thử nghiệm mới trong quản lý tài nguyên rừng như quản lý rừng dựa vào
cộng đồng, nhất thể hoá thực tiễn bảo tồn đa dạng sinh học trong quản lý rừng phòng hộ và rừng
sản xuất và thực hiện quản lý có sự tham gia trong các lưu vực đầu nguồn đã mang lại nhiều hứa
hẹn và thuyết phục được nhiều đối tác.
Tất cả những khía cạnh đó là dấu hiệu cho thấy quan niệm lâm nghiệp hiện nay của chúng ta cần
phải được thay đổi.
Chúng ta tìm những vấn đề của ngành lâm nghiệp ở đâu?
(1) Trong kinh tế doanh nghiệp:
Hệ thống tổ chức lâm nghiệp của chúng ta đang nằm trong tiến trình đổi mới. Theo tinh thần của
quyết định 187/1999/QĐ-TTg ngày 16/9/1999 của Thủ tướng Chính phủ thì các lâm trường quốc
doanh sẽ được sắp xếp lại thành hai hình thức tổ chức với cơ chế hoạt động khác nhau: (i) Các
lâm trường quản lý rừng sản xuất và rừng phòng hộ ít xung yếu hoạt động theo cơ chế kinh
doanh; và (ii) Các ban quản lý rừng phòng hộ/rừng đặc dụng hoạt động theo cơ chế đơn vị sự
nghiệp có thu. Nguyên tắc tổ chức được qui định phải bảo đảm quyền tự chủ trong sản xuất kinh
doanh; doanh nghiệp phải là chủ rừng thực sự; lợi ích của người lao động, của doanh nghiệp, của
địa phương và của nhà nước phải được giải quyết hài hoà. Nhưng làm thế nào để đạt được điều
đó trong thực tế? Những bất cập gì cần được vượt qua?
Bất kỳ một khu rừng nào cũng có khả năng cung cấp lợi ích kinh tế và lợi ích sinh thái. Về
nguyên tắc thì lợi ích kinh tế và lợi ích sinh thái không mâu thuẫn nhau, nếu giữa kinh tế quốc
dân và kinh tế doanh nghiệp không tạo ra các hệ thống độc lập và trách nhiệm cũng như hậu quả
không bị nhập nhằng giữa các cấp, các ngành. Những tư duy mới, những định hướng mới trong
chính sách và kinh doanh lâm nghiệp là tiền đề cần thiết để đổi mới hệ thống quản lý rừng theo
hướng bền vững. Kinh doanh lâm nghiệp chịu sự ràng buộc của sản phầm có thể bán trên thị
trường. Đối với một doanh nghiệp lâm nghiệp, hầu như sản phẩm hàng hoá có thề bán được là
các lâm sản (chủ yếu là gỗ). Các sản phẩm phi vật chất (các dịch vụ từ rừng) mặc dầu mang lại
rất nhiều lợi ích cho cộng đồng và xã hội, cho đến nay và cả trong một thời gian nữa vẫn chưa
được thị trường hoá. Đặc điểm cơ bản riêng của ngành lâm nghiệp so với các ngành sản xuất
khác là ở chỗ: rừng vừa là đối tượng, vừa là tư liệu sản xuất. Tài nguyên rừng khác nhau sẽ dẫn
đến những lợi thế khác nhau đối với các doanh nghiệp.
Sự ràng buộc trong lợi ích kinh tế của quản lý rừng sẽ dẫn đến:
- Các doanh nghiệp được quản lý rừng có tài nguyên (rừng giàu) sẽ có nhiều lợi thế rừng kinh
doanh. Vì lợi nhuận của họ phụ thuộc vào thị trường lâm sản vốn rất biến động. Hậu quả có thể
dẫn đến là: (i) Khai thác quá mức cho phép các loài cây có giá trị thương mại cao. (ii) Vi phạm
nguyên tắc bền vững theo nghĩa đa chức năng, đa dạng về loài (phát triển theo chiều hướng từ hệ
sinh thái rừng tự nhiên thành các hệ sinh thái rừng nhân tạo cao sản, đơn giản về tổ thành loài).
- Các doanh nghiệp quản lý rừng nghèo và đất chưa có rừng buộc phải đầu tư rất lớn cho công tác
trồng rừng, cải tạo, làm giàu rừng Đó là những đầu tư cần thời gian rất dài mới thu hồi được
vốn. Điều này buộc họ phải chọn những loài cây sinh trưởng nhanh, có giá trị kinh tế cao và do
đó lại vi phạm nguyên tắc bền vững xét về mặt đa dạng sinh học và các dịch vụ khác của rừng.
- Các ban quản lý rừng phòng hộ và rừng đặc dụng phụ thuộc vào kinh phí sự nghiệp từ nhà nước
cấp, nguồn kinh phí này rất hạn chế và sẽ không thể duy trì được lâu dài nếu như bản thân những
giá trị của những khu rừng phòng hộ và đặc dụng không được hạch toán và thị trường hoá.
Trong trường hợp rừng được giao cho người dân thì các hậu quả của sự ràng buộc trong lợi ích
kinh tế lại càng phức tạp hơn. Người dân không thể vay vốn để đầu tư cho các công việc mà
trong đời họ có thể chưa được thu hồi. Nguy cơ của việc khai thác quá tải tài nguyên là rất lớn.
Giải pháp duy nhất để vượt qua các vấn đề này là đẩy mạnh sản xuất lâm sản hàng hoá và thị
trường hoá các giá trị phi vật chất của rừng; các giá trị xã hội, môi trường cảnh quan, phòng hộ
của rừng đối với cộng đồng và xã hội cần được tính toán ít nhất là theo một thang giá trị tương
đối.
(2) Trong kinh tế quốc dân và chính sách lâm nghiệp:
Có các nhóm quyền lợi khác nhau đang cạnh tranh xung quanh việc sử dụng tài nguyên rừng và
trách nhiệm quản lý rừng. Trong khi đó khung pháp lý và hệ thống chính sách thể chế (chẳng hạn
như sự phân quyền giữa nhà nước và các cộng đồng dân địa phương), các hình thức tổ chức (ví
dụ các lâm trường, các ban quản lý, hợp tác xã, hội ), các phương pháp phân loại và đánh giá
các chức năng của rừng, các hình thức sử dụng và nguyên tắc phân phối quyền lợi tỏ ra hoàn toàn
không thích hợp với tình hình thực tế. Một chính sách lâm nghiệp thích hợp cần phải giải quyết
hài hoà mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế quốc dân (hướng theo các mục tiêu xã hội) và lợi ích của
doanh nghiệp (hướng theo mục tiêu kinh doanh của chủ rừng). Việc xác định giá trị một cách
tương đối các chức năng của rừng và các quyền lợi sử dụng liên quan chặt chẽ với nhau. Hiệu
quả của các giải pháp quản lý rừng ngắn hạn, trung hạn và dài hạn phải được đánh giá dựa trên
mối quan hệ này. Nếu khung chính sách không làm rõ ràng mối quan hệ này, người chủ rừng bắt
buộc phải có những quyết định riêng vì lợi ích của họ. Những khả năng quyết định và hành động;
và vì vậy, mức quan trọng của công tác quản lý tài nguyên rừng phụ thuộc vào mức độ mà chính
sách lâm nghiệp xác định giá trị các chức năng của rừng trong việc đáp ứng các nhu cầu khác
nhau của xã hội. Ví dụ, nếu chính sách lâm nghiệp chỉ hạn chế tầm quan trọng kinh tế quốc dân
của lâm nghiệp ở chức năng kinh tế sản xuất (gỗ) và không xác định giá trị các chức năng phi vật
chất của rừng thì các quyết định và không gian hành động của công tác xây dựng rừng sẽ thu hẹp
đáng kể. Tuy nhiên, chính sách lâm nghiệp của chúng ta cần phải hướng tới nguyên tắc đa chúc
năng ( nhiều lợi ích khác nhau) và bền vững (bắt chước thiên nhiên).
(3) Về đối tượng rừng:
Những hạn chế trong tổ chức và quản lý/kinh doanh rừng của chúng ta hiện nay có thể bắt đầu từ
những nhận thức và quan niệm sai lầm hoặc thiếu chính xác về đối tượng. Quan niệm về nội
dung của lâm nghiệp đã, đang và sẽ thay đổi theo từng giai đoạn của phát triền xã hội tuỳ vào
trình độ nhận thức, nhu cầu và xu thế phát triển của từng thời kỳ. Thông thường, lâm nghiệp
được hiểu là một ngành kinh tế kỹ thuật lấy tài nguyên rừng làm đối tượng để khai thác gỗ và các
lâm sản đáp ứng các nhu cầu xã hội. ở nghĩa hẹp hơn, người ta hiểu lâm nghiệp chỉ bao gồm
những hoạt động lâm sinh như trồng, tu bổ, chăm sóc, bảo vệ rừng. Việc khai thác, sử dụng rừng
và chế biến lâm sản được xếp vào ngành công nghiệp khai thác tài nguyên (cũng giống như khai
thác than, quặng vậy). Trong hệ thống tổ chức lâm nghiệp đã có sự phân tách giữa các lâm
trường trồng rừng và xí nghiệp khai thác riêng lẻ. Các lâm trường trồng rừng chỉ có nhiệm vụ
trồng rừng chăm sóc, nuôi dưỡng và bảo vệ rừng. Sản phẩm cuối cùng của họ là cây đứng. Các xí
nghiệp khai thác mua cây đứng để khai thác. Kết quả là các lâm trường trồng rừng chỉ quan tâm
đến việc trồng rừng theo chỉ tiêu kế hoạch sao cho được nghiệm thu, còn chất lượng, sản lượng
rừng thì họ không quan tâm. Trong khi đó các xí nghiệp khai thác lại chỉ quan tâm đến vấn đề
làm sao cho đạt được các chỉ tiêu khai thác với giá thành thấp nhất. Việc đổ vỡ rừng và ảnh
hưởng sau khai thác không phải là vấn đề của họ. Sự tách biệt giữa hai khâu: xây dựng rừng và
khai thác rừng cho hai chủ thể kinh tế khác nhau là siêu hình và được xuất phát từ nhận thức sai
lầm về đối tượng rừng dẫn đến những thất bại làm suy thoái tài nguyên rừng.
Rừng gắn liền với đất, là một hệ sinh thái. Các chức năng của rừng và các ảnh hưởng tương hỗ
của nó với các bộ phận khác (ví dụ: sông hồ, đại dương, đồng cỏ, núi đá ) có vai trò quyết định.
Mỗi một tác động vào rừng đều có những ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến hệ thống tổng thể
trái đất và ngược lại, các ảnh hưởng này lại tác động ngược trở lại với sự phát triển của rừng.
Do đó một nền lâm nghiệp bền vững phải, nói đúng hơn là bắt buộc phải chú ý đến các tương
quan tổng thể, toàn cầu. Ngoài ra các tác động của các lĩnh vực khác (và ảnh hưởng của nó) đến
rừng cũng phải được nghiên cứu (tác hại thiên tai, ô nhiễm không khí, công nghiệp hoá, nông
nghiệp, chăn nuôi, du lịch ). Nhận thức khoa học phải làm tiền đề cho chính sách lâm nghiệp.
Nói cách khác, xây dựng phát triển rừng cũng chính là vận dụng hợp nhất kinh tế quốc dân và
kinh tế doanh nghiệp bằng các biện pháp kỹ thuật thích hợp dựa trên cơ sở sinh thái và hệ thống
tổng thề.
Vì vậy một nhà lâm nghiệp luôn đặt những ý niệm chiến lược hướng tới tương lai, cũng như ý
thức về hệ thống tổng thể trong mối quan hệ tương tác giữa kinh tế quốc dân và kinh tế doanh
nghiệp trong tư duy và hành động của mình.
Tóm lại, nói đến quan niệm về lâm nghiệp, chúng ta phải nói đến quan niệm về bốn yếu lố sau
đây (APAFRI, 2000): (i) Quan niệm về rừng; (ii) Quan niệm về nhà lâm nghiệp; (iii) Quan niệm
về quản lý tài nguyên rừng ; và (iv) Quan niệm về lâm nghiệp như là một môn khoa học. Bảng 1
tóm tắt các giả thiết trong quan niệm cũ và mới của 4 phạm trù nói trên.
Mọi sự vật đều ở trạng thái động. Bản thân ngành lâm nghiệp cũng vận động theo thời gian, vì
vậy các phương thức thực tiễn quản lý, đào tạo và chuyên môn của ngành lâm nghiệp cũng thay
đổi theo thời gian. Các nhân tố đóng góp vào sự thay đổi này bao gồm động thái tự nhiên (biến
động sinh học) và tiến hoá trên các nỗ lực về mặt văn hoá- xã hội, kinh tế, và công nghệ. Quan
niệm lâm nghiệp do đó, phải thay đổi để đáp ứng thực tiễn của các giá trị xã hội và nhu cầu con
người (Kajawara, 1998).
Bảng 1: So sánh 4 phạm trù của quan niệm lâm nghiệp cũ và mới
Phạm trù khái niệm
Giả thiết
Quan niệm cũ Quan niệm mới
1. Rừng - Là những "kho đặc biệt" hay
những hệ thống cung cấp/sản xuất
một hoặc nhiều sản phẩm chọn lọc
có giá trị thương mại cao. Giá trị
của rừng được xác định đơn thuần
về mặt thương mại của gỗ và các
- Là những hệ sinh thái phức hợp có
thể cung cấp cho con người một loạt
các sản phẩm kinh tế và môi trường
cũng như các dịch vụ được xã hội
lượng giá. Giá trị của rừng mang tính
nội tại và khó có thể đưa ra một đơn
lâm sản khác có thể khai thác từ
rừng
giá cho nhiều chức năng và dịch vụ mà
rừng có thể cung cấp.
2. Nhà lâm nghiệp - Là các chuyên gia kỹ thuật được
đào tạo chuyên ngành để kinh
doanh /quản lý rừng.
- Quan tâm bậc 1 của họ là chất
lượng của cây và rừng.
- Là một chức sắc lâm nghiệp
thuần tuý.
- Tầm nhìn chung về sản lượng
bền vững ở khía cạnh của một số
hạn chế lâm sản có giá trị thương
mại cao.
- Không phải là một chức sắc lâm
nghiệp thuần tuý mà còn giữ vai trò
lãnh đạo trong quản lý tài nguyên rừng
bền vững.
- Tầm nhìn chung về sản lượng bền
vững theo nghĩa đa dạng hoá các chức
năng và các dịch vụ của rừng. Bền
vững được xem xét ở năng lực sản xuất
tổng hợp của hệ sinh thái rừng nhằm
bảo đảm bền vững trong đa dạng sinh
học, bền vững trong khí hậu thuỷ văn;
và bền vững trong kinh tế địa phương.
3. Quản lý tài nguyên
rừng
- Vấn đề Nhìn chung được coi là các vấn đề
kỹ thuật, vì vậy đòi hỏi phải tìm
kiếm các giải pháp kỹ thuật
Được coi là vấn đề kỹ thuật và xã hội;
yếu tố xã hội quan trọng không kém
yếu tố kỹ thuật nếu không phải quan
trọng hơn.
- Mục đích Tối đa năng suất và hiệu quả của
các lâm sản có giá trị thương mại
cao
Nâng cao hiệu lực, tính bình đẳng và
tính bền vững
- Mục tiêu Trước hết là nhằm sản xuất các
sản phẩm có giá trị cao, có nhu
cầu thị trường và giá cả cao.
Được xác định về mặt bền vững hệ
thống ; trước hết là nhằm sản xuất các
dịch vụ của rừng được xã hội đánh giá
và bảo toàn tính chỉnh thể của hệ sinh
thái.
- Chiến lược Cơ bản là đơn giản hoá (đơn giản
hoá tổ thành loài, chuyển từ hệ
sinh thái rừng tự nhiên hỗn loài,
khác tuổi thành các hệ sinh thái
rừng trồng đồng loài, đồng tuổi )
Cơ bản là đa dạng hoá hệ thống nhằm
đạt được sự bình đẳng, đa dạng sinh
học và sự bền vững
để đạt hiệu quả sản xuất
- Các chương trình Được thiết kế chuyên đề và nói
chung là để thúc đẩy một hoặc vài
mục tiêu kinh tế được định hướng
Thiết kế tổng hợp để thúc đẩy các hệ
thống đa mục tiêu.
- Hệ thống quản lý
hành chính
Được đặc trưng bởi sự tập trung
hoá quyền lực và trách nhiệm
trong tay nhà nước; quyết định từ
trên xuống, và thông tin một chiều
Được đặc trưng bởi sự phân quyền và
trách nhiệm, cũng như dân chủ hoá các
chức năng cho các cấp địa phương,
quyết định từ dưới lên và thông tin đa
chiều.
- Thể chế Quan liêu, cứng nhắc Mở, linh hoạt, độc lập và là bộ phận
của mạng lưới hợp tác tốt.
- Nguồn lực Chủ yếu là nguồn từ bên ngoài. Có thể quản lý bền vững thông qua huy
động nguồn lực địa phương
4. Môn khoa học - Đơn thuần hoặc chủ yếu là sinh
học ứng dụng
- Thực tiễn lâm nghiệp dựa trên
nền tảng của các lý thuyết và
phương pháp sinh học ứng dụng.
Là khoa học ứng dụng của cả hai khoa
học sinh học và khoa học xã hội, thực
tiễn lâm nghiệp được xây dựng trên
nền tảng các lý thuyết và phương pháp
của khoa học sinh học và khoa học xã
hội.
Từ khai thác tài nguyên rừng đến quản lý hệ sinh thái
Quản lý tài nguyên thiên nhiên dựa trên lý thuyết về hệ sinh thái như là một cách tiếp cận nhằm
giải quyết sự phân tán của các hệ thống quản lý tài nguyên thiên nhiên để đạt được mục tiêu phát
triển bền vững đã được tăng cường một cách ý nghĩa trong quản lý tài nguyên thiên nhiên ở các
nước trong khu vực Châu á Thái Bình Dương.
Chương trình nghị sự 21. (Agenda 21) đã phản ánh sự đồng thuận và cam kết của các cấp cao
nhất về việc làm thế nào để làm cho phát triển bền vững ở các khía cạnh xã hội, kinh tế và môi
trường. Nó bao gồm bảo vệ sinh quyển, tiếp cận tổng hợp để qui hoạch và quản lý tài nguyên đất,
chống suy thoái tài nguyên rừng, quản lý các hệ sinh thái nhạy cảm: chống sa mạc hoá và khô
hạn và phát triển bền vững khu vực miền núi, thúc đẩy phát triển nông nghiệp và nông thôn bền
vững, bảo tồn đa dạng sinh học, quản lý công nghệ sinh học, bảo vệ và quản lý tài nguyên biển,
bảo vệ và quản lý nguồn nước ngọt và hỗ trợ khoa học kỹ thuật cho phát triển bền vững
(Shlaepfer, 1997). Khái niệm quản lý hệ sinh thái đã được nhiều nhà sinh thái học định nghĩa.
Baker et al (1995) đã kể đến một số định nghĩa của Gordon (1993), Wood (1994), Grambine
(1994), Christenson et al. (1996) trong báo cáo EPA. Dựa trên các định nghĩa của các tác giả
này có thể hiểu quản lý hệ sinh thái trong tình hình hiện nay như sau: "Quản lý hệ sinh thái là một
tiếp cận hướng đích nhằm phục hồi và bền vững hoá cấu trúc, chức năng và giá trị của hệ sinh
thái bằng các ứng dụng các khoa học tiên tiến nhất đồng thời với các kiến thức bản địa. Nó đòi
hỏi sự hợp tác giữa chính quyền Trung ương, các bộ tộc và chính quyền địa phương, các nhóm
cộng đồng, các chủ đất tư nhân, và các đối tác khác nhằm phát triển một tầm nhìn cho điều kiện
các hệ sinh thái mong đợi trong tương lai. Tầm nhìn này nhất thể hoá các nhân tố slnh thái, kinh
tế và xã hội ảnh hưởng đến các đơn vị quản lý được xác định bằng ranh giới sinh thái chứ không
phải ranh giới hành chính. Mục đích là khôi phục và bảo toàn chất lượng các hệ sinh thái đồng
thời với việc cung cấp cho kinh tế và văn hoá xã hội của các cộng đồng và toàn xã hội."Hiện tại
quản lý hệ sinh thái đã được ứng dụng trong quản lý tài nguyên thiên nhiên ở các nước phát triển
và đang phát triển và không chỉ cho các hệ sinh thái cạn mà còn cho các hệ sinh thái biển, bờ biển
và kể cả các lưu vực đầu nguồn.
Theo nhận thức ngày nay thì bản chất và nội dung của ngành lâm nghiệp là ở chỗ: tạo ra sự tối ưu
cho sức sản xuất tổng hợp của hệ sinh thái rừng phù hợp với các nhu cầu của xã hội loài người.
Sức sản xuất tổng hợp của các hệ sinh thái rừng (Gr) bao gồm 5 hợp phần sau đây:
(1) Chức năng sản xuất (hay chức năng kinh tế) Gkt: thể hiện ở khả năng sản xuất ra các lâm sản
(gỗ và lâm sản ngoài gỗ) có giá trị thương mại và giá trị sử dụng vật chất.
(2) Chức năng phòng hộ Gph: thể hiện ở khả năng bảo vệ không gian sống, không gian sản xuất
trước các nguy cơ của thiên tai lũ lụt, hạn hán, sạt lở, tiếng ồn
(3) Chức năng môi sinh Gms: thể hiện ở khả năng tái tạo và điều hoà các nhân tố cơ bản của sự
sống như nước, không khí, khí hậu, đất đai
(4) Chức năng giải trí Ggl: thể hiện ở khả năng khôi phục sức khoẻ, giảm stress, thư giãn tinh
thần cho con người.
(5) Chức năng bảo tồn đa dạng sinh học: Gđash: thể hiện ở khả năng bảo vệ và duy trì đa dạng
sinh học bảo đảm cho sự bền vững của quá trình tiến hoá.
Các chức năng riêng biệt này của hệ sinh thái rừng không thể thay thế lẫn nhau. Về thứ tự tầm
quan trọng của mỗi chức năng thì phụ thuộc vào điều kiện kinh tế-xã hội của từng vùng, từng
quốc gia, từng giai đoạn phát triển. ở nước ta trong giai đoạn trước mắt thì chức năng kinh tế có
tầm quan trọng thứ nhất. Tuy nhiên tầm quan trong của các chức năng sẽ thay đổi theo sự phát
triển của đất nước. Có thể sắp xếp vị trí tầm quan trọng của 5 chức năng trên đây từ việc suy
ngược lại về hậu quả của việc mất chúng đối với sự phát triển của loài người.
- Mối đe doạ lớn nhất cho sự tiến hoá bền vững của xã hội loài người là mối đe doạ về suy giảm
đa dạng loài dẫn đến rối loạn cơ chế điều chỉnh chức năng hệ thống của chúng => Cần chức năng
bảo tồn đa dạng sinh học.
- Mối đe doạ lớn nhất cho sự tồn tại của loài người là mối đe doạ mất và suy giảm các yếu tố cơ
bản của sự sống: nước, không khí, khí hậu, đất đai => Cần chức năng môi sinh.
- Mối đe doạ lớn nhất đối với sự tự do của con người là mối đe doạ mất không gian sống => Cần
chức năng bảo vệ/phòng hộ.
- Mối đe dọa lớn nhất với tinh thần con người và do đó là sự phát triển là mối đe đoạ về sức khoẻ
và trí tưởng tượng => Cần chức năng giải trí, nghỉ ngơi.
- Mối đe dọa lớn nhất đối với mức sống của con người là mối đe doạ về suy giảm tiềm năng và
năng suất sản xuất dẫn đến đói nghèo => Cần chức năng kinh tế
2. Kết luận và khuyến nghị
- Hệ thống quản lý/ kinh doanh rừng hiện nay tỏ ra không phù hợp với các nguyên lý bền vững.
Coi lâm nghiệp chỉ là sản xuất gỗ (và các lâm sản khác) là phiến diện. Do đó, trong quản lý/kinh
doanh rừng, các nguyên tắc bền vững phải được mở rộng cho các chức năng khác của rừng.
- Rừng không chỉ là nơi sản xuất lâm sản, nó còn là một nhân tố phát triển ở dạng giá trị sử dụng
tiềm năng tổng hợp và đa chức năng. Vị trí tầm quan trọng của các chức năng riêng biệt của rừng
trong khung quản lý rừng có thể xếp như sau: chức năng bảo vệ loài và các hệ sinh thái là cơ bản
nhất so với các chức năng khác; bảo vệ khí hậu không khí, nguồn nước (chức năng môi sinh),
quan trọng hơn nhiều so với chức năng bảo vệ không gian sống, chức năng nghỉ ngơi, giải trí lớn
hơn chức năng sản xuất gỗ : Gđash >> Gms >> Gph >> Ggt >> Gkt.
Các nhân tố cơ bản của sự sống (không khí, nước, đất ) có thể bị suy thoái. Vì vậy rừng không
thể là đối tượng tự do chỉ cho mục đích kinh doanh thuần tuý. Rừng phải có hai thành phần sở
hữu: một là sở hữu riêng (chủ kinh doanh) lấy lâm sản làm lợi ích chính. Hai là sở hữu chung
(công cộng) thụ hưởng các chức năng phi vật chất của rừng. Chủ sở hữu của rừng đồng thời là
các nhà quản lý (thay mặt cho toàn dân=người kinh doanh các lợi ích phi vật chất của rừng) và
chủ rừng (người được giao quyền sử dụng rừng người kinh doanh các lợi ích kinh tế của rừng).
Cần phải có những nghiên cứu dể xây dựng các phương pháp lượng hoá được các giá trị phi vật
chất của rừng.
- Chức năng bảo vệ đa dạng loài và các hệ sinh thái rừng cho đến nay chưa được ghi nhận trực
tiếp trong luật phát triển rừng. Nó phải được trở thành không chỉ là một bộ phận mà là bộ phận cơ
bản của luật phát triển bảo vệ rừng, trong tương lai, khái niệm rừng và các mục đích của nó phải
được định nghĩa mới: rừng là một hệ sinh thái với các điều kiện lập địa trong thế cân bằng động,
trên cơ sở của một quẩn hệ thực vật: (i) có độ tán che ít nhất 30% (ii) trong mỗi thành phần của
hệ mỗi loài có quyền riêng chiếm lĩnh một không gian để tồn tại và sinh sản bảo vệ đa dạng hệ
sinh thái, (iii) rừng phải được giữ ở một tỷ lệ tối thiểu cần thiết cho qui mô toàn cầu quốc gia và
từng vùng (40-60%), (iv) việc sử dụng trực tiếp rừng cho mục đích sản xuất, du lịch, nghỉ ngơi
chỉ được phép thực hiện trong khuôn khổ của cơ chế tự điều chỉnh của hệ sinh thái sử dụng bền
vững.
- Các giá trị phi vật chất của rừng cho đến nay vẫn chưa được xác định giá trị, do đó giá trị tổng
thể của rừng được đánh giá thấp hơn giá trị thật của nó. Các chủ rừng đã không được trả cho các
dịch vụ phi vật chất của rừng mà nhiều người thụ hưởng. Cần phải nghiên cứu các phương pháp
xác định các giá trị môi trường, phòng hộ của rừng thông qua các chi phí trực tiếp để quản lý
các khu rừng đó; những chính sách điều chỉnh thích hợp để những người sử dụng các giá trị của
rừng trả cho chủ rừng. Ví dụ các công ty kinh doanh thuỷ lợi, thuỷ điện phải trả cho các ban
quản lý rừng phòng hộ đầu nguồn để họ bảo toàn tác dụng điều tiết, giữ nước cho các công trình
đó.
Cần có chính sách tạo ra thị trường cho những người hưởng dụng các giá trị của rừng một cách
có ý thức; để các tiềm năng giá trị đa chức năng của rừng được chuyển thành giá trị có tính
thương mại. Các công ty thuỷ điện, thuỷ lợi, du lịch là những khách hàng sử dụng các giá trị
phi vật chất của rừng.
- Các qui hoạch phát triển lãnh thổ. Cần xác định lại một cách chính xác các chức năng của rừng
cho từng địa phương để làm cơ sở cho việc xác định giá trị và điều chỉnh các giá trị phi vật chất
của rừng.
- Thực tiễn xây dựng rừng cho đến nay không đáp ứng được các chỉ tiêu đa chức năng, cũng như
các chỉ tiêu bền vững cho các chức năng đó, có nghĩa là: Sản xuất gỗ chỉ có thể trong phạm vi: (i)
Bảo toàn nguồn gen và khả năng tự điều chỉnh của hệ sinh thái, (ii) tạo được khối lượng và chất
lượng nước và không khí sạch, (iii) thực hiện được các nhu cầu bảo vệ cần thiết, (iv) có cấu trúc
hấp dẫn về phong cảnh cho du lịch.
Tài liệu tham khảo chính
- APAFRI: (http;//www.apafri.org/mod/home/cpe/nr.html) Paradigm Shift in Forestry and NRM
course content copyright 2000 by College of Forestry and Natural Resources. UP Los Banos.
- Baker, J.P., D.H. Landers, L.P. Lee and other authors, 1995: Ecosystem management research
in the Pacific Northwcst. Five year research strategy. Washington D.C., US. LPA. EPA/600/R-
95/069.
Nguồn: />Ứng dụng côn trùng học với đời sống con người
Hoàng Thái Sơn - Trường trung học Lâm nghiệp I Trung ương
Thành viên mạng lưới SURDM
(Sưu tầm)
I. Đặt vấn đề:
Côn trùng (Insecta) gắn kết với đời sống con người ở tất cả mọi nơi, mọi lúc và mọi lĩnh vực hoạt
động như kinh tế, chính trị, khoa học kỹ thuật, văn hoá v.v
Trong quá trình phát triển, côn trùng đã có mặt trên hành tinh của chúng ta hàng chục triệu năm
trước khi con người xuất hiện. Suốt quá trình tồn tại và phát triển, con người không thể loại bỏ
côn trùng ra khỏi đời sống của mình.
Lịch sử phát triển của côn trùng học đã trải qua những mốc lớn:
- Giai đoạn khoa học mô tả.
- Giai đoạn khoa học chính xác về các cơ chế hoạt động sống.
- Giai đoạn khoa học công nghệ.
Việc phát triển côn trùng học ứng dụng là bước tiến bộ của khoa học kỹ thuật và những lợi ích
thiết thực của nó đã được chứng minh ở nhiều nước trên thế giới. ở nước ta côn trùng học ứng
dụng đã được quan tâm nghiên cứu về ý nghĩa và vai trò của côn trùng với đời sống con người và
với tự nhiên, những nguyên tắc cơ bản điều khiển côn trùng có hại và phát triển côn trùng có lợi,
có ích.
II. Giá trị của côn trùng đối với con người:
Côn trùng đã đóng góp những lợi ích đáng kể với đời sống con người, chúng đã tạo ra những sản
phẩm thương mại, chỉ tính riêng ở Mỹ hàng năm đạt 125 triệu đô la tương đương gần 2.000 tỷ
đồng Việt Nam.
1. Côn trùng sản xuất và tập hợp các sản phẩm có lợi làm hàng hoá buôn bán:
- Chất tiết côn trùng tạo ra tơ tằm, sáp ong, cánh kiến.
- Côn trùng có ích: phấn son lấy từ xác con rệp Cochineal, sâu non côn trùng làm thức ăn và mồi
câu.
- Côn trùng tập hợp, tinh chế và tồn giữ các sản phẩm từ hoa: mật ong.
2. Côn trùng góp phần tạo ra các sản phẩm: rau, hoa, quả, hạt bằng việc thụ phấn cho cây.
Nhiều thực vật được thụ phấn nhờ côn trùng và chính nhờ có côn trùng ong bướm thụ phấn mà
năng suất quả, hạt đã tăng lên nhiều lần.
3. Cơ thể côn trùng được sử dụng làm thực phẩm đối với con người và động vật nuôi:
- Chúng là thức ăn cho nhiều loài cá, nhiều loài chim, gà rừng, gà tây, một số động vật hoang dã
ăn côn trùng mà điển hình là động vật ăn sâu như tê tê, kỳ đà và đặc biệt chúng còn là thực phẩm
có nhiều axit amin, nhiều chất dinh dưỡng và các hoạt chất sinh học như mối, kiến, châu chấu,
dế, sâu non cánh cứng, nhộng tằm, cà cuống, bọ xít v.v
4. Côn trùng là thiên địch, ký sinh để tiêu diệt các loài sâu hại:
Riêng đối với cây ăn quả có múi đến nay đã phát hiện được 92 loài thiên địch ký sinh mà điển
hình là côn trùng thuộc các họ Mantidae, Carabidae, Coccinellidae, Reduvỹdae, Ichneumonidae,
Braconidae, Chalcididae, Vespidae.
5. Côn trùng huỷ diệt các loại cỏ có hại cho mùa màng
- Côn trùng ăn cỏ và một số loài côn trùng tích luỹ nguồn bệnh cho mùa màng.
6. Côn trùng cải thiện các điều kiện vật lý và tăng độ phì của đất
- Côn trùng đào bới làm cho đất thông thoáng; số lượng côn trùng chết làm tăng lượng chất hữu
cơ. Côn trùng cũng giống như giun đất làm thay đổi cấu tạo vật lý của đất bón phân và cải tạo
đất. Đó là các loài ong, kiến, mối, sâu non Bộ cánh cứng, bộ cánh vảy, Bộ cánh giống v.v
7. Côn trùng góp phần phân huỷ xác động thực vật:
Chúng ăn những chất thải, cặn bã của động thực vật và biến thành nguồn dinh dưỡng cho thực vật
phát triển như các loài mối, sâu non bộ 2 cánh, sâu non Bộ cánh cứng.
8. Côn trùng là đối tượng để tiến hành nghiên cứu khoa học về sinh lý, sinh thái, sinh hoá, di
truyền, phỏng sinh học v.v
- Nghiên cứu đặc tính di truyền trên ruồi dấm (Drosophila melanogasder).
- Nghiên cứu về phân bố địa lý, sự đa dạng sinh học và côn trùng là vật chỉ thị cho môi trường.
- Nghiên cứu về đa phôi, tế bào và sinh sản đơn tính.
- Nghiên cứu về xã hội học trên ong, kiến, mối
- Nghiên cứu phỏng sinh học (Bionic) sẽ giúp cho con người khả năng sáng tạo trong kỹ thuật và
công nghệ mới.
9. Giá trị mỹ học của côn trùng:
Côn trùng có thể sánh với vẻ đẹp của các loài hoa, chúng rất đa dạng và phong phú và có vẻ đẹp
kỳ thú và là đề tài cho nhiều hoạ sĩ, thi sĩ, trang trí nội thất, thiết kế thời trang, đồ lưu niệm v.v
10. Giá trị thương mại của côn trùng
Trên thế giới như Nhật Bản, Anh, Mỹ, Trung Quốc đã có những cửa hiệu buôn bán côn trùng và
những sản phẩm được làm từ côn trùng ví dụ giá 1 con bọ kìm (Lucanidae Coleoptera) giá 88.000
USD. ở Việt Nam có thời kỳ một con Bướm phượng 5 đuôi (Teinopalpus imperialis Hope) người
Nhật đã mua với giá 1.000 USD.
11. Côn trùng là nguồn thuốc chữa bệnh
- Giòi ruồi có tác dụng chống nhiễm trùng vết thương.
- Nọc ong, mật ong, sữa ong chúa, kiến, mối để chữa bệnh thấp khớp, cai nghiện ma tuý, bệnh
viêm phế quản, viêm ruột, viêm bàng quang, các loại bệnh phù thũng v.v Theo kinh nghiệm
dân gian côn trùng được sử dụng như loại thực phẩm bổ âm tráng dương có tác dụng tăng lực.
III. Côn trùng là kẻ thù của con người:
Cuộc đấu tranh giữa côn trùng và con người được bắt đầu từ rất lâu. Côn trùng đã gây ra những
thiệt hại to lớn cho con người: dịch châu chấu đã tàn phá không chỉ mùa màng và tất cả mọi thứ
khi chúng tràn qua.
Mối cũng tàn phá rất nhiều thành quả do con người làm ra. Côn trùng hại kho cũng cướp đi của
con người một lượng lương thực thực phẩm đáng kể.
Căn cứ vào đối tượng côn trùng gây hại chúng ta chia côn trùng thành 3 nhóm:
- Nhóm côn trùng gây hại cây trồng nông nghiệp, công nghiệp, lâm nghiệp.
- Nhóm côn trùng gây hại cho sức khoẻ con người và động vật.
- Nhóm côn trùng gây hại kho tàng, bảo tàng.
1. Côn trùng gây hại cây trồng:
+. Côn trùng gây hại cây rừng:
- Các loại rừng tự nhiên lá rộng, lá kim, rừng tre nứa, rừng núi đá vôi, rừng thưa cây họ Dầu,
rừng ngập mặn.
- Các loại rừng trồng Bồ đề, Phi lao, Bạch đàn, Mỡ, Quế, Hồi, Thông, Keo, Tếch v.v
+ Côn trùng gây hại cây nông nghiệp:
- Côn trùng hại cây lương thực như lúa, ngô, khoai.
- Côn trùng hại rau.
- Côn trùng hại đậu, đỗ.
- Côn trùng hại cây công nghiệp: Bông, mía, lạc, cà phê, chè.
+ Côn trùng hại cây ăn quả: cam, chanh, quýt, bưởi, nhãn, vải.
2. Côn trùng gây hại cho người và động vật:
+ Côn trùng ký sinh: như chấy, rận, bọ chét, rệp, ve, mọt ruồi ký sinh, giòi v.v
+ Côn trùng truyền bệnh cho người và động vật đáng kể là bệnh sốt vàng, bệnh sốt rét, bệnh sốt
phát ban đỏ đã giết chết hàng triệu người trong chiến tranh. Bệnh dịch hạch được truyền bệnh từ
bọ chét.
+ Côn trùng có lông độc, chất độc v.v
3. Nhóm côn trùng phá hoại kho tàng, bảo tàng: Các loại kiến mối, mọt thường phá hoại vật
chất chúng sử dụng gấp nhiều lần so với nhu cầu thực tế cần cho chúng dinh dưỡng. Theo thống
báo của FAO sự thiệt hại về trọng lượng là 34% ở các kho chứa ngũ cốc, ngoài ra chúng còn làm
giảm phẩm chất hàng hoá, làm mất giống má cho vụ sau v.v
IV. Những loài côn trùng có trong sách đỏ và những loài quý hiếm ở Việt Nam cần được tiến
hành nghiên cứu bảo tồn
1. Eupatorus gracilicornis Agrow