Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Cơ sở lý luận và thực tiễn của nguyên tắc tập trung dân chủ trong đảng cộng sản việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.06 KB, 24 trang )

MỤC LỤC
PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................1
PHẦN II: NỘI DUNG.....................................................................................2
CHƯƠNG I: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NGUYÊN TẮC TẬP
TRUNG DÂN CHỦ.....................................................................................2
1.1. Khái niệm tập trung dân chủ..........................................................2
1.1.1. Khái niệm....................................................................................2
1.1.2. Ý nghĩ nguyên tắc tập chung dân chủ.........................................2
1.2. Quá trình hình thành và phát triển nguyên tắc tập trung dân
chủ thep quan diểm của C.Mác – Ph. Ăngghen và Lênin....................3
1.3. Cơ sở lý luận và thực tiễn của nguyên tắc tập trung dân chủ
trong Đảng...............................................................................................5
1.3.1. Cơ sở lý luận của nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng......5
1.3.2. Cơ sở thực tiễn của nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng. . .6
CHƯƠNG II: ĐÁNH GIÁ TRỰC TRẠNG NGUYÊN TẮC TẬP
TRUNG DÂN CHỦ TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY...................................8
2.1. Thực trạng nguyên tắc tập trung dân chủ tại Việt Nam hiện nay
...................................................................................................................8
2.1.1. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng Cộng sản Việt Nam. .8
2.1.2. Đánh giá chung............................................................................9
2.2. Một số thành tựu và hạn chế trong công tác tập trung dân chủ
hiện nay..................................................................................................11
2.2.1. Một số thành tựu trong công tác tập trung dân chủ hiện nay....11
2.2.2. Một số hạn chế trong công tác tập trung dân chủ hiện nay.......15

i


CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO TẬP
TRUNG DÂN CHỦ TRONG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM...........17
3.1. Nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về nguyên tắc tập


trung dân chủ trong Đảng;...................................................................17
3.2. Tiếp tục hoàn thiện, cụ thể hóa, quy chế hóa nguyên tắc tập
trung dân chủ trong từng lĩnh vực, từng mặt công tác xây dựng
Đảng........................................................................................................17
3.3. Mở rộng dân chủ đi đôi với củng cố, tăng cường kỷ cương, kỷ
luật trong Đảng......................................................................................18
3.4. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện nguyên
tắc tập trung dân chủ trong Đảng........................................................18
3.5. Đề cao, phát huy vai trò của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt. 18
PHẦN III: KẾT LUẬN.................................................................................19
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................20

ii


PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU
Từ ngày thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ
Chí Minh sáng lập và rèn luyện, luôn lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ
chức cơ bản của Đảng. Đó là nguyên tắc chỉ đạo toàn bộ việc xây dựng tổ
chức và hoạt động của Đảng, vừa bảo đảm cho Đảng có sự thống nhất về ý
chí và hành động, vừa phát huy được dân chủ trong Đảng, tạo nên sức mạnh
to lớn của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn khẳng định tập trung
dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của Đảng; phủ nhận
nguyên tắc này là phủ nhận Đảng từ bản chất.
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam hiện hành do Đại hội XI của Đảng
(năm 2011) thông qua nêu rõ: “Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí
và hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện
tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm
minh, đồng thời thực hiện các nguyên tắc: tự phê bình và phê bình, đồn kết
trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng, gắn bó mật thiết với nhân

dân, Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”
Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của
Đảng Cộng sản. Thực chất của nguyên tắc này chính là nhằm nâng cao tính
tích cực và năng lực sáng tạo của đảng viên, để các quyết định của Đảng luôn
là sản phẩm kết tinh bởi trí tuệ tập thể và bảo đảm tính kỷ luật tự giác của mỗi
tổ chức đảng và đảng viên khi ý chí của đa số được khẳng định và bắt buộc
phải phục tùng. Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn, Đảng Cộng sản Việt
Nam ln khẳng định và kiên trì thực hành nguyên tắc tập trung dân chủ. Tôi
đã lựa chọn đề tài “ Cơ sở lý luận và thực tiễn của nguyên tắc tập trung
dân chủ trong Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay”

1


PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NGUYÊN TẮC
TẬP TRUNG DÂN CHỦ
1.1. Khái niệm tập trung dân chủ
1.1.1. Khái niệm
Nguyên tắc tập trung dân chủ là một trong những nguyên tắc cơ bản
của các tổ chức cộng sản và được trình bày trong điều lệ chính thức của các
Đảng Cộng sản. Lenin, người đầu tiên nhắc tới khái niệm "Tập trung dân
chủ", giải thích rằng tập trung dân chủ là tự do trong thảo luận nhưng thống
nhất trong hành động. Nguyên tắc tập trung dân chủ cũng là nguyên tắc mà
Đảng Cộng sản Việt Nam ln kêu gọi thực thi mặc dù có thể có cách định
nghĩa khác.
Tập trung dân chủ là sự thống nhất biện chứng giữa hai thành tố tập
trung và dân chủ. Hai thành tố đó khơng mâu thuẫn với nhau mà luôn thống
nhất, tác động bổ sung cho nhau. Tập trung trên cơ sở dân chủ, dân chủ có sự
lãnh đạo, được sự bảo đảm của tập trung. Có giữ vững tập trung mới có thể

thực hiện và mở rộng dân chủ. Phát triển và mở rộng dân chủ luôn gắn liền
với giữ vững và tăng cường tập trung, trên cơ sở đó dân chủ càng phát triển
thì tập trung càng vững chắc. Theo đó, mọi cơng việc trong Đảng đều phải
được bàn bạc dân chủ. Mọi đảng viên có quyền được nêu ý kiến của mình,
nhưng khi quyết định thì thiểu số phải phục tùng đa số, cấp dưới phải phục
tùng cấp trên, toàn Đảng phải phục tùng BCH Trung ương và cao nhất là đại
hội đại biểu toàn quốc của Đảng.
1.1.2. Ý nghĩ nguyên tắc tập chung dân chủ
Theo điều lệ chính thức của các đảng cộng sản, tất cả các cơ quan lãnh
đạo và các bí thư các cấp được bầu bởi các đảng viên, trực tiếp hoặc gián tiếp
thơng qua đại hội tồn thể đảng viên hay đại hội đại biểu đảng viên. Theo quy
2


định chính thức, tổ chức được xây dựng từ dưới lên nghĩa là các đại biểu cấp
dưới sẽ quyết định trong việc bầu chọn lãnh đạo cấp trên. Ý nghĩa dân chủ
của nguyên tắc này là các cơ quan và chức vụ lãnh đạo được hình thành thơng
qua bầu cử, các nghị quyết của Đảng chỉ có thể thơng qua bởi cơ quan được
bầu. Ý nghĩa của tập trung là quyết định của tổ chức Đảng cấp trên là bắt
buộc với các tổ chức Đảng cấp dưới và cuối cùng là bắt buộc mỗi đảng viên
phải chấp hành. Mỗi vấn đề của Đảng sẽ được thảo luận cho đến khi ra nghị
quyết. Sau khi có nghị quyết, mỗi đảng viên phải chấp hành nghiêm chỉnh
nghị quyết, không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết. Đảng viên dù có
ý kiến khác khi phát biểu cơng khai vẫn phải nói theo nghị quyết chứ khơng
được theo ý mình. Trên thực tế, ý nghĩa tập trung thể hiện rất mạnh mẽ vì nó
tạo ra sự lãnh đạo thống nhất, có thể tập trung sức mạnh của tập thể vào một
mục tiêu cụ thể và che giấu những bất đồng trong nội bộ.
1.2. Quá trình hình thành và phát triển nguyên tắc tập trung dân chủ
thep quan diểm của C.Mác – Ph. Ăngghen và Lênin
Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức quan trọng bậc

nhất trong công tác xây dựng Đảng kiểu mới. Những cơ sở của nguyên tắc
này đã được Các Mác và Ph.Ăng ghen nêu ra lần đầu vào năm 1847 khi tổ
chức "Liên minh những người cách mạng". Và được tiếp tục khẳng định trong
tổ chức "Liên minh Công nhân quốc tế" (Quốc tế I) do chính Các Mác sáng
lập vào năm 1864.
Sau này, cùng với việc phát triển toàn diện nguyên tắc tập trung dân
chủ, V. I. Lênin có tính đến những kinh nghiệm của phong trào công nhân và
những điều kiện lịch sử đã thay đổi. Người cho rằng: "Thực chất của nguyên
tắc này, là sự kết hợp hữu cơ giữa chế độ tập trung với chế độ dân chủ triệt để
vốn có trong bản chất chính trị - xã hội của giai cấp cơng nhân bắt nguồn từ
những địi hỏi của nền sản xuất đại công nghiệp".

3


Tập trung nhằm tạo ra sự thống nhất về mục tiêu, lý tưởng, quan điểm,
đường lối, về tổ chức và hành động của toàn Đảng, làm cho Đảng thống nhất
cao về tư tưởng và hành động. Dân chủ là nhằm phát huy cao nhất trí tuệ, sự
sáng tạo của các tổ chức Đảng và đảng viên để không ngừng nâng cao năng
lực, sức chiến đấu của Đảng. V.I Lênin khẳng định nếu khơng có chế độ tập
trung dân chủ thì Đảng không thể là một đội ngũ tiền phong chiến đấu, thống
nhất và Đảng không tránh khỏi bị chia thành những bộ phận riêng lẽ, tản mạn,
mang tính cục bộ, bản vị. Tập trung dân chủ là nguyên tắc chỉ đạo tồn bộ
cơng tác tổ chức, sinh hoạt và mọi hoạt động của Đảng; nó thể hiện bản chất
và sự sống cịn của Đảng, là tiêu chí để phân biệt chính đảng kiểu mới của
giai cấp cơng nhân, Đảng cách mạng chân chính với các đảng phái khác.
Người nói: "Cách mạng không thể phát triển được nếu không trải qua một
thời kỳ mà mọi người cùng nhau thảo luận rộng rãi về tất cả mọi vấn đề".
Vì thế, Lênin coi việc phủ nhận chế độ tập trung dân chủ là phủ nhận
tính tổ chức và kỷ luật của Đảng, là rơi vào chủ nghĩa cơ hội trong các vấn đề

tổ chức, biến Đảng thành "Câu lạc bộ tranh cải" không có khả năng vạch ra
một cương lĩnh hành động thống nhất, khơng có sức mạnh để tổ chức thực
hiện Cương lĩnh ấy, khơng đủ uy tín để giành được sự đồng tình của quần
chúng trong cuộc đấu tranh lật đỗ chủ nghĩa tư bản, để xây dựng chủ nghĩa xã
hội".
V.I Lênin cũng chỉ rõ mối liên hệ hữu cơ giữa hai mặt tập trung và dân
chủ trong sinh hoạt và hoạt động lãnh đạo của Đảng. Mối liên hệ này, xác
định lãnh đạo tập thể cá nhân phụ trách là nguyên tắc lãnh đạo cao nhất của
Đảng; "Dầu sao và dầu trong trường hợp nào đi nữa, việc tập thể lãnh đạo
cũng cần phải đi đôi với việc cá nhân phụ trách đã được quy định một cách rõ
rệt cho từng người đối với một cơng tác nào đó được quy định một cách chính
xác". Người coi tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ là một trong những
phong cách của người lãnh đạo. Đồng thời, V.I Lê nin cũng nhấn mạnh "Thảo
4


luận thì thảo luận chung, nhưng trách nhiệm là của từng người"; "Chế độ tập
thể lãnh đạo là cần thiết trong việc thảo luận các vấn đề cơ bản thì cũng cần
có chế độ trách nhiệm cá nhân và cá nhân điều khiển để tránh hiện tượng trốn
tránh trách nhiệm". Cũng về vấn đề này, Người dạy "Lãnh đạo tập thể là điều
cần thiết để giải quyết các công việc của Nhà nước cơng nơng. Nhưng mọi sự
th q về lãnh đạo tập thể, mọi sự lệch lạc đưa đến tình trạng chậm chạp
quan liêu, thiếu tinh thần trách nhiệm, hiện tượng thiếu tinh thần trách nhiệm,
lấy cớ lãnh đạo tập thể, đó là một tai hại nguy hiểm nhất".
Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, ngay từ khi mới thành
lập trong Điều lệ vắn tắt Đảng ta đã ghi rõ: Tổ chức của Đảng phải “tổ chức
theo lối dân chủ tập trung”, “bất cứ vấn đề nào đảng viên đều phải hết sức
thảo luận và phát biểu ý kiến, khi đa số đã nghị quyết thì tất cả đảng viên phải
phục tùng mà thi hành”
1.3. Cơ sở lý luận và thực tiễn của nguyên tắc tập trung dân chủ trong

Đảng
1.3.1. Cơ sở lý luận của nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng
Là đảng cách mạng, ngay từ khi được thành lập, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã tuân thủ những nguyên tắc của Đảng kiểu mới do V.I.Lênin đề ra.
Nguyên tắc tập trung dân chủ được đặt lên hàng đầu và đã sáng tỏ trong nhận
thức trên những vấn đề căn bản. Đảng thống nhất nhận thức lấy Chủ nghĩa
Mác-Lênin làm học thuyết lý luận, khoa học và là nền tảng tư tưởng, kim chỉ
nam cho hành động của Đảng. “Đảng có vững cách mệnh mới thành cơng,
cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải
có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ
nghĩa ấy”. Cùng với tuân theo học thuyết lý luận, mọi tổ chức đảng và đảng
viên phải theo lý tưởng cách mạng, ra sức đấu tranh theo Cương lĩnh, đường
lối của Đảng, tuyệt đối trung thành với lý tưởng, mục tiêu cách mạng Đảng đã
đề ra, bảo đảm sự lãnh đạo tập trung của Đảng và đề cao trách nhiệm của tổ
5


chức đảng và đảng viên. Phải thực hiện nghiêm chỉnh kỷ luật và các quy định
của Điều lệ Đảng và đảng viên phải sinh hoạt trong một tổ chức đảng là chi
bộ.
Từ thực tiễn lãnh đạo của Đảng và yêu cầu xây dựng Đảng, Đại hội III
của Đảng (tháng 9-1960) đã xác định: “Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ
chức căn bản của Đảng. Nội dung của nó là tập trung trên cơ sở dân chủ và
dân chủ dưới sự lãnh đạo tập trung. Mục đích của nó một mặt là phát huy và
nâng cao tính tích cực cách mạng, tính sáng tạo của đơng đảo đảng viên và
các tổ chức của Đảng, mặt khác là bảo đảm sự thống nhất ý chí và hành động
và gìn giữ kỷ luật của Đảng. Đảng phải luôn luôn nắm vững lãnh đạo tập thể
là nguyên tắc lãnh đạo cao nhất của Đảng, đồng thời kết hợp với phân công
phụ trách. Đảng chống mọi hiện tượng phân tán, cục bộ, địa phương chủ
nghĩa, tự do vô kỷ luật cũng như chống mọi hiện tượng tập trung quan liêu, sự

vụ, gia trưởng, độc đốn, coi thường tập thể, coi thường cấp dưới”. Đó là bản
chất cách mạng, khoa học và tính đúng đắn của nguyên tắc tập trung dân chủ
và được thực hiện nhất quán trong quá trình lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
1.3.2. Cơ sở thực tiễn của nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng
Từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, các đảng cộng sản cầm
quyền ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa trong đó có Việt Nam và chủ nghĩa xã
hội đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Tuy vậy, mơ hình chủ nghĩa xã hội đã
bộc lộ những hạn chế, khuyết điểm chậm được sửa chữa. Điều đó dẫn tới
khủng hoảng và sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu và
Liên Xô (1989-1991). Nguyên nhân khách quan là chủ nghĩa đế quốc thực
hiện chiến lược “diễn biến hịa bình” nhằm xóa bỏ chủ nghĩa xã hội. Ngun
nhân chủ quan là các đảng cộng sản cầm quyền đã rời bỏ nền tảng tư tưởng,
lý luận và Chủ nghĩa Mác-Lênin, đã hạ vũ khí trên mặt trận tư tưởng trước sự
tiến công hiểm độc của kẻ thù. Các đảng cộng sản đã không kiên định và thực
6


hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, để cho những quan điểm sai trái về đa
nguyên chính trị, đa đảng đối lập, cơng khai hóa, dân chủ hóa lộng hành dẫn
tới sự rối loạn trong Đảng và xã hội, Đảng khơng kiểm sốt được tình hình và
mất vai trị lãnh đạo, cầm quyền.
Ở Việt Nam, lợi dụng tình hình xấu đi của các nước xã hội chủ nghĩa,
các thế lực thù địch ở trong nước và lưu vong ra sức phá hoại hòng đưa đất
nước rời bỏ con đường xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng. Với
bản lĩnh chính trị vững vàng, ngay từ năm 1989, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
đề ra những nguyên tắc chỉ đạo công cuộc đổi mới, khẳng định: Đi lên chủ
nghĩa xã hội là con đường tất yếu, đúng đắn mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn;
Chủ nghĩa Mác-Lênin là nền tảng tư tưởng chỉ đạo toàn bộ sự nghiệp cách
mạng của Đảng và nhân dân Việt Nam; tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng

và hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa... Về nguyên tắc
tập trung dân chủ, Đảng nhấn mạnh: “Mở rộng dân chủ các lĩnh vực của đời
sống xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là dân chủ xã hội chủ
nghĩa, không phải dân chủ tư sản. Dân chủ phải đi đôi với tập trung, với kỷ
luật, pháp luật, với ý thức trách nhiệm cơng dân. Dân chủ phải có lãnh đạo,
lãnh đạo để phát huy dân chủ đúng hướng; mặt khác lãnh đạo bằng phương
pháp dân chủ trên cơ sở phát huy dân chủ. Dân chủ với nhân dân nhưng phải
nghiêm trị những kẻ phá hoại thành quả cách mạng, an ninh trật tự và an toàn
xã hội”.
Trung thành, vận dụng, phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, kiên định và thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ,
Đảng đã lãnh đạo thành công sự nghiệp đổi mới với những thành tựu to lớn,
có ý nghĩa lịch sử, đưa đất nước vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội
XIII của Đảng (tháng 1-2021) trong tổng kết công tác xây dựng Đảng đã nêu
rõ kinh nghiệm hàng đầu là: “Nâng cao bản lĩnh chính trị; kiên định, vận dụng
7


và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện
nghiêm các nguyên tắc của Đảng; kịp thời tổng kết thực tiễn, phát triển lý
luận để đổi mới sáng tạo, chống bảo thủ, trì trệ, đấu tranh kiên quyết với
những biểu hiện cơ hội chính trị”

8


CHƯƠNG II: ĐÁNH GIÁ TRỰC TRẠNG NGUYÊN TẮC TẬP
TRUNG DÂN CHỦ TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Thực trạng nguyên tắc tập trung dân chủ tại Việt Nam hiện nay

2.1.1. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng Cộng sản Việt Nam
Trong 5 nguyên tắc tổ chức và hoạt động được nêu trong Điều lệ Đảng
Cộng sản Việt Nam do Đại hội đại biểu tồn quốc (ĐBTQ) lần thứ XI thơng
qua (năm 2011), thì tập trung dân chủ được coi là nguyên tắc tổ chức và hoạt
động cơ bản của Đảng, bởi vì nguyên tắc này quy định bản chất và những nội
dung cơ bản, quan trọng nhất của Đảng. Trải qua gần 90 năm lãnh đạo sự
nghiệp cách mạng của dân tộc, Đảng ta luôn kiên định tập trung dân chủ là
nguyên tắc tổ chức và hoạt động cơ bản của Đảng, song nội dung của nguyên
tắc này không ngừng được bổ sung, phát triển và ngày càng hoàn thiện. Điều
9 Điều lệ Đảng đã cụ thể hoá nguyên tắc tập trung dân chủ thành 06 nội dung
để thực hiện thống nhất trong toàn Đảng như sau:
Một là, cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện
tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách (tuy cấp ủy cấp trên có quyền chỉ định
nhưng khơng được quá 1/3 số lượng do Đại hội bầu).
Hai là, cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội ĐBTQ. Cơ quan
lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên. Giữa hai kỳ đại
hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp hành Trung ương, ở mỗi cấp là
ban chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp ủy).
Ba là, cấp ủy các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của
mình trước đại hội cùng cấp, trước cấp ủy cấp trên và cấp dưới; định kỳ thông
báo tình hình hoạt động của mình đến các tổ chức đảng trực thuộc, thực hiện
tự phê bình và phê bình.
Bốn là, tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng;
thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ
9


chức, các tổ chức trong toàn Đảng phục tùng Đại hội ĐBTQ và Ban Chấp
hành Trung ương.
Năm là, nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi

hành khi có hơn một nửa số thành viên trong cơ quan đó tán thành. Trước khi
biểu quyết, mỗi thành viên được phát biểu ý kiến của mình. Đảng viên có ý
kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp ủy cấp trên cho
đến Đại hội ĐBTQ, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết, không
được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của Đảng. Cấp ủy có thẩm quyền
nghiên cứu xem xét ý kiến đó; khơng phân biệt đối xử với đảng viên có ý kiến
thuộc về thiểu số.
Sáu là, tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn
của mình, song khơng được trái với ngun tắc, đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên.
2.1.2. Đánh giá chung
Các thế lực thù địch đang ra sức phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng,
đòi bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ với luận điệu ở Việt Nam chỉ có một
đảng lãnh đạo, khơng có dân chủ và Đảng độc đốn, chuyên quyền. Đó là sự
xuyên tạc, nhắm mắt trước sự thật, nhằm xóa bỏ sự lãnh đạo, cầm quyền của
Đảng. Để làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, Đảng phải
khơng ngừng hồn thiện và thực hiện tốt hơn, có hiệu quả hơn nguyên tắc tập
trung dân chủ, tiếp tục xử lý đúng đắn quan hệ giữa lãnh đạo tập trung và phát
huy dân chủ, bảo đảm ngun tắc đó khơng chỉ cần thiết của Đảng cầm quyền
mà còn trở thành nguyên tắc quản lý của một xã hội văn minh, hiện đại.
Thước đo năng lực lãnh đạo của Đảng là những thành tựu phát triển
kinh tế-xã hội của đất nước. Trong công cuộc đổi mới, nền kinh tế Việt Nam
tăng trưởng mạnh mẽ từ một nước nghèo kém phát triển trở thành nước đang
phát triển có thu nhập trung bình. Chính trị ổn định. Văn hóa, xã hội phát
10


triển. Đời sống nhân dân không ngừng được nâng cao, từ 58% hộ nghèo năm
1993, nay còn dưới 3%. Quốc phòng, an ninh được củng cố vững chắc. Đối
ngoại và hội nhập quốc tế không ngừng mở rộng. Nhận thức về chủ nghĩa xã

hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng sáng tỏ.
Trong phòng, chống đại dịch Covid-19, Việt Nam là một điểm sáng trên thế
giới. Cả hệ thống chính trị và tồn dân tập trung hành động vừa phát triển
kinh tế, vừa kiểm soát dịch bệnh. Lực lượng các ngành y tế, quân đội, công an
thật sự là “lá chắn thép” bảo vệ nhân dân. Điều đó tỏ rõ tính ưu việt của chế
độ xã hội chủ nghĩa.
Bản chất của Đảng Cộng sản, của chủ nghĩa xã hội là hịa bình, hữu
nghị, hợp tác bình đẳng. Hiện nay, Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và
thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Đảng Cộng sản Việt Nam
có quan hệ tốt với hơn 200 đảng cầm quyền, đảng chính trị trên thế giới, trong
đó có những đảng cầm quyền ở các nước tư bản hàng đầu. Nhà nước Việt
Nam có quan hệ ngoại giao với 187 nước trong 193 nước thành viên Liên hợp
quốc, quan hệ kinh tế, thương mại với 224 quốc gia và vùng lãnh thổ. Việt
Nam được bầu là Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc
nhiệm kỳ 2020-2021 với số phiếu gần như tuyệt đối 192/193. Đại hội XIII của
Đảng (tháng 1-2021) nhận được hơn 500 điện, thư chúc mừng của các đảng,
các tổ chức, các nhà hoạt động chính trị, văn hóa, xã hội trên thế giới. Việt
Nam đang từng bước sánh vai với các cường quốc trên thế giới như ý nguyện
của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.
Thực tiễn luôn luôn là tiêu chuẩn của chân lý. Tập trung dân chủ là
nguyên tắc mang tính khoa học và hiện thực trong xây dựng Đảng và có vai
trị rất quan trọng nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, hiệu lực,
hiệu quả quản lý của Nhà nước, bảo đảm phát huy dân chủ thực chất và giữ
vững kỷ luật, kỷ cương. Ngun tắc đó vì thế có giá trị bền vững trong lãnh

11


đạo công cuộc đổi mới, xây dựng, phát triển đất nước theo con đường xã hội
chủ nghĩa.

2.2. Một số thành tựu và hạn chế trong công tác tập trung dân chủ hiện
nay
2.2.1. Một số thành tựu trong công tác tập trung dân chủ hiện nay
Trải qua hơn 90 năm xây dựng và phát triển, đặc biệt là 35 năm đổi
mới, Đảng ta ln kiên trì giữ vững và có nhiều thành tựu trong việc cụ thể
hóa, thể chế hóa và thực hành nguyên tắc tập trung dân chủ trên tất cả lĩnh
vực, hoạt động. Cụ thể là:
Trong xây dựng Cương lĩnh, hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng
Từ khi thành lập Đảng, đặc biệt là trong những năm đổi mới, những
quyết định lớn, đường lối, chủ trương của Đảng, từ dự thảo Cương lĩnh đến
dự thảo các văn kiện Đại hội Đảng đều được tổ chức thảo luận dân chủ rộng
rãi, lấy ý kiến của các tổ chức đảng và đảng viên từ cơ sở trở lên, lấy ý kiến
góp ý của Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức đoàn thể và các tầng lớp
nhân dân, được Trung ương thảo luận kỹ lưỡng, cân nhắc nhiều mặt, phân
tích thấu đáo, nhất là những vấn đề có ý kiến trái chiều trước khi quyết định.
Những vấn đề mới, khó, phức tạp được tổ chức hội thảo, tọa đàm để thảo
luận, trao đổi kỹ, lấy ý kiến chuyên gia trước khi trình Bộ Chính trị, Ban Chấp
hành Trung ương quyết định. Từ sau Đại hội VIII của Đảng, đã thành lập Hội
đồng Lý luận Trung ương  - có chức năng tư vấn lý luận chính trị, mở rộng
dân chủ trong hoạch định chủ trương, đường lối của Đảng. Do vậy, nhiều vấn
đề lý luận và thực tiễn khó, hóc búa, nhờ vận dụng đúng đắn và phát huy
nguyên tắc tập trung dân chủ, đã được các cơ quan lãnh đạo cao nhất của
Đảng nghiên cứu và quyết định, như: xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa; xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; mơ
hình kinh tế tổng qt trong thời kỳ q độ lên chủ nghĩa xã hội; vấn đề đảng
viên làm kinh tế tư nhân; chức năng phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và
12


các đoàn thể nhân dân; xác định kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng

của nền kinh tế; đẩy mạnh hội nhập quốc tế,... Những vấn đề mới, khó thì
thực hiện thí điểm để tổng kết, rút kinh nghiệm, như thực hiện đầu tư đối tác
công - tư; xây dựng chính quyền đơ thị; giao quyền tự chủ cho thành phố trực
thuộc Trung ương;... Thực tiễn cho thấy, Đảng ta càng phát huy dân chủ rộng
rãi thì càng bảo đảm tính tập trung cao trong lãnh đạo, chỉ đạo, trong quyết
định của các cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng, như Đại hội đại biểu Đảng
toàn quốc, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp ủy các
cấp. Dân chủ càng được mở rộng thì chế độ tập trung trong Đảng càng được
đề cao; dân chủ phải đi đến tập trung, là cơ sở của tập trung, góp phần tạo nên
sự thống nhất về quan điểm, chủ trương trong lãnh đạo, chỉ đạo.
Đất nước ta đang đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế; điều kiện
xã hội đã thay đổi trên nhiều phương diện kinh tế, văn hóa, con người so với
thời kỳ chiến tranh, thực hiện cách mạng giải phóng dân tộc, cũng như thời kỳ
bao cấp, những năm đầu đổi mới. Vì vậy, việc thực hành nguyên tắc tập trung
dân chủ hiện nay có những yêu cầu và bước phát triển mới so với các thời kỳ
trước. Hiện nay, dân chủ là nhu cầu thiết yếu của cán bộ, đảng viên và nhân
dân, đồng thời là nhu cầu tự thân để phát triển, hoàn thiện của một đảng cách
mạng chân chính lãnh đạo Nhà nước và xã hội nhằm bảo đảm thắng lợi công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trong điều kiện mới; đòi hỏi phát
huy dân chủ mạnh mẽ trong Đảng và sự sáng tạo, trí tuệ của mọi đảng viên để
các quyết định của tập thể đúng đắn, có sự thống nhất cao. Việc thực hành
nguyên tắc tập trung dân chủ khơng chỉ là một địi hỏi tất yếu trong tổ chức và
hoạt động của Đảng hiện nay, mà còn là một nguyên tắc cốt yếu trong quản lý
nhà nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân
và vì dân.
Trong đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
13



Sinh hoạt của các cấp ủy và tổ chức đảng được tiến hành dân chủ, cởi
mở, các cấp ủy viên mạnh dạn trình bày ý kiến riêng của mình; tăng cường
các hình thức giao ban, hội nghị, tọa đàm, tiếp xúc trực tiếp giữa cán bộ chủ
chốt với đảng viên và nhân dân... Từ sau Đại hội IX của Đảng, chế độ thực
hành dân chủ trong Đảng ngày càng được mở rộng, đã thực hiện việc phê
bình, chất vấn tại các Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban
Bí thư, hoặc trong thời gian giữa hai kỳ họp (Quy định số 23-QĐ/TW, ngày
15-1-2002, của Bộ Chính trị khóa IX, “Về thực hiện việc phê bình, chất vấn
của Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương”; Hướng dẫn số 02-HD/TW, ngày 86-2012, của Bộ Chính trị khóa XI, “Về thực hiện việc chất vấn trong Đảng tại
các kỳ họp Ban Chấp hành Trung ương”;...). Việc chất vấn và trả lời chất vấn
được mở rộng tới hội nghị cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy và áp dụng đối với
toàn thể đảng viên, cấp ủy viên, cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy các cấp, nhằm
phát huy dân chủ, tăng cường sự đoàn kết, thống nhất, nâng cao trách nhiệm
và năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng và đảng viên, góp
phần ngăn chặn, phịng ngừa vi phạm trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ
được giao và giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống của đảng viên (Quy chế
chất vấn trong Đảng, ban hành kèm theo Quyết định số 158-QĐ/TW, ngày
12-5-2008, của Bộ Chính trị khóa X). Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4
khóa XI nhấn mạnh: “Phát huy dân chủ thật sự trong Đảng, thực hiện nghiêm
túc Quy chế chất vấn trong Đảng, nhất là chất vấn tại các kỳ họp Ban Chấp
hành Trung ương và cấp ủy các cấp”(9). Bộ Chính trị, Ban Bí thư thực hiện
nghiêm túc chế độ báo cáo cơng việc đã làm trước Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương hoặc theo yêu cầu của Ban Chấp hành Trung ương; ban thường
vụ báo cáo cấp ủy cấp mình kết quả giải quyết công việc giữa hai kỳ hội nghị
cấp ủy. Định hình chế độ giao ban định kỳ hằng tháng của lãnh đạo chủ chốt
Đảng và Nhà nước, của thường trực cấp ủy, là cơ sở cho thảo luận thống nhất
và phát huy dân chủ trong Đảng, từ Bộ Chính trị đến thường vụ cấp ủy, sự
14



lãnh đạo, điều hành nhất quán của Quốc hội, Chính phủ và chính quyền địa
phương,...
Trong nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng, đã ban hành Quy chế làm việc
mẫu của tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương (Quyết định số 168 QĐTW, ngày 28-12-2018, của Ban Bí thư khóa XII, “Về việc ban hành quy chế
làm mẫu của tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương”), xác định rõ chế độ
công tác, thẩm quyền, trách nhiệm của thường trực, thường vụ cấp ủy, nhất là
của bí thư cấp ủy đối với cấp ủy, khắc phục tình trạng lạm dụng quyền lực
của người đứng đầu cấp ủy hoặc núp bóng thường vụ cấp ủy quyết định vượt
thẩm quyền.
Trong công tác cán bộ, nhất là lựa chọn đảng viên để giới thiệu ứng cử,
bầu vào các chức danh lãnh đạo
Nguyên tắc tập trung dân chủ được thể chế hóa, cụ thể hóa trong Quy
chế bầu cử trong Đảng, thực hiện từ chi bộ đến Ban Chấp hành Trung ương
(Quyết định số 244-QĐ/TW, ngày 9-6-2014, của Ban Chấp hành Trung ương
khóa XI, “Về việc ban hành Quy chế bầu cử trong Đảng”); Quy định về phân
cấp quản lý cán bộ và bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử (Quy định số 105QĐ/TW, ngày 19-12-2017, của Bộ Chính trị khóa XII), xác định quy trình 5
bước lựa chọn nhân sự với những người tái cử và lần đầu tham gia cấp ủy,
hướng theo cơ cấu, tiêu chuẩn của thường vụ cấp ủy, vừa phát huy vai trò
lãnh đạo của tập thể cấp ủy, vừa phát huy dân chủ rộng rãi trong cán bộ chủ
chốt, đảng viên, vừa đề cao trách nhiệm cá nhân, trước hết là người đứng đầu
trong công tác quản lý cán bộ. Đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2020  - 2025
đã được tổ chức thành công, đúng kế hoạch, tạo khơng khí phấn khởi, tin
tưởng trong tồn Đảng, tồn dân, có ngun nhân quan trọng là đã thực hiện
quy trình 5 bước lựa chọn nhân sự, phát huy đầy đủ, kịp thời sự tập trung lãnh
đạo, chỉ đạo của cấp trên với đề cao trách nhiệm cấp ủy từng cấp.

15


Trong giải quyết mối quan hệ giữa bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung

của cấp trên và phát huy quyền chủ động của cấp dưới:
Để thực hiện hiệu quả nguyên tắc tập trung dân chủ, chúng ta đã đẩy
mạnh việc tinh gọn bộ máy hệ thống chính trị, giảm cấp trung gian, thực chất
là giảm bớt tình trạng phân tán quyền lực vào các tầng nấc trung gian, bảo
đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung và làm rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm
quyền của các cấp. Tính đến ngày 31-12-2019, bộ máy hệ thống chính trị đã
giảm được 4 đầu mối trực thuộc Trung ương, 97 đầu mối trực thuộc cấp tỉnh;
6 tổng cục và tương đương; 19 cục, vụ, 90 đơn vị sự nghiệp công lập ở Trung
ương; 3.768 phòng, đội và tương đương; 4.963 đơn vị sự nghiệp công lập,
3.646 đầu mối trong các đơn vị sự nghiệp công lập ở địa phương...; giảm
10.386 cấp trưởng, cấp phó ở các cơ quan, đơn vị, tổ chức hành chính cấp
tỉnh, cấp huyện; 3.306 cấp trưởng, 4.080 cấp phó ở các đơn vị sự nghiệp cơng
lập địa phương. Công tác kiểm tra, giám sát được tăng cường nhằm siết chặt
kỷ luật, kỷ cương, phát huy dân chủ đúng hướng. Phân cấp, phân quyền ngày
càng rõ hơn, tạo điều kiện cho cấp dưới phát huy vai trò chủ động. Tình trạng
cục bộ, mất đồn kết trong cán bộ, đảng viên được chấn chỉnh, xử lý kịp thời.
2.2.2. Một số hạn chế trong công tác tập trung dân chủ hiện nay
Mặc dù vậy, bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ còn nhiều hạn chế, khuyết điểm. Vẫn còn biểu
hiện dao động, hoài nghi về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Cịn tình trạng tùy tiện, thiếu ý thức tổ
chức kỷ luật, không chấp hành nghiêm chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước. Dân chủ trong Đảng và trong xã hội còn bị vi
phạm. Kỷ cương, kỷ luật ở nhiều cấp, nhiều lĩnh vực không nghiêm. Một số
cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ lãnh đạo thiếu tôn trọng và phát huy quyền
của đảng viên, ít lắng nghe ý kiến cấp dưới; cán bộ lãnh đạo ở một số nơi cịn
có biểu hiện gia trưởng, độc đoán, chuyên quyền, mất dân chủ hoặc dân chủ
hình thức. Cịn thiếu những quy chế xác định trách nhiệm cụ thể, dẫn đến vừa
16



có hiện tượng dựa dẫm vào tập thể, khơng rõ trách nhiệm cá nhân, vừa khơng
khuyến khích được những cán bộ, đảng viên nhiệt tình, tâm huyết, dám nghĩ,
dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Văn kiện Đại
hội XII của Đảng đã chỉ rõ: Ở một số tổ chức đảng, vẫn có tình trạng một số
cấp ủy viên chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của nguyên tắc tập trung
dân chủ, chưa thật sự tôn trọng và thực hiện nghiêm túc quy chế làm việc.
Cịn tình trạng dân chủ hình thức, thống nhất một chiều, thiếu sự tranh luận,
thảo luận thấu đáo hoặc hiểu khơng đúng ngun tắc này, dẫn đến mất đồn
kết nội bộ ở một số nơi. Nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách trên
thực tế ở nhiều nơi cịn hình thức do khơng xác định rõ cơ chế trách nhiệm,
mối quan hệ giữa tập thể và cá nhân, khi có sai sót, khuyết điểm khơng ai chịu
trách nhiệm. Do vậy, vừa có hiện tượng dựa dẫm vào tập thể, không rõ trách
nhiệm cá nhân, vừa không khuyến khích người đứng đầu nhiệt tình, tâm
huyết, dám nghĩ, dám làm; tạo kẽ hở cho cách làm việc tắc trách, vơ trách
nhiệm, trì trệ, lợi dụng cơ chế tập thể để thực hiện ý đồ cá nhân, hoặc lạm
dụng quyền lực một cách tinh vi để mưu cầu lợi ích cá nhân.
Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII đến tháng 8-2020, trong tổng số gần 40
cuộc kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm của Ủy ban Kiểm tra Trung ương, “vi
phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng chiếm
tới 60,5%, dẫn đến cấp ủy bng lỏng vai trị lãnh đạo; năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu giảm sút; nhiều tổ chức đảng rơi vào dân chủ hình thức, đồn kết
xi chiều; người đứng đầu lạm quyền, vượt thẩm quyền, gia trưởng, chuyên
quyền, độc đoán, thiếu dân chủ trong chỉ đạo, điều hành, vi phạm nghiêm
trọng các quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước, gây hậu quả nghiêm
trọng, nhiều nơi rất nghiêm trọng”. Vi phạm quy chế làm việc, nguyên tắc tập
trung dân chủ “liên quan đến cán bộ lãnh đạo ở nhiều cương vị, từ Ủy viên Bộ
Chính trị, Ủy viên Trung ương Đảng, người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, sĩ
quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang đến đảng viên được giao thực hiện
17



chức trách, nhiệm vụ, công vụ; cán bộ đương chức hoặc đã nghỉ hưu nhưng vi
phạm khi cịn đang cơng tác; vi phạm xảy ra ở nhiều loại hình tổ chức đảng,...
dẫn đến vi phạm các quy định của Đảng, pháp luật Nhà nước trong nhiều lĩnh
vực
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO TẬP
TRUNG DÂN CHỦ TRONG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Trong thời gian tới, để thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, cần
tập trung vào một số giải pháp chủ yếu sau:
3.1. Nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về nguyên tắc tập trung
dân chủ trong Đảng;
Cần làm rõ nội dung, yêu cầu của nguyên tắc tập trung dân chủ trong
tình hình mới; đấu tranh chống những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận nguyên
tắc này. Mỗi tổ chức đảng và đảng viên phải nhận thức đúng đắn và thống
nhất về nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng. Theo đó, dân chủ phải đi
đôi với tập trung; phát huy dân chủ phải đồng thời gắn liền với chống dân chủ
cực đoan, dân chủ không tuân theo kỷ cương, phép nước. Nguyên tắc tập
trung dân chủ phải được thực hiện theo đúng Điều lệ Đảng và trong mối quan
hệ đồng bộ với các nguyên tắc khác, như tự phê bình và phê bình, đồn kết,
thống nhất trong Đảng...
3.2. Tiếp tục hoàn thiện, cụ thể hóa, quy chế hóa nguyên tắc tập trung
dân chủ trong từng lĩnh vực, từng mặt công tác xây dựng Đảng.
Cần cụ thể hóa các nội dung cơ bản của nguyên tắc này đã được nêu
trong Điều lệ Đảng bằng những văn bản hướng dẫn cụ thể để các tổ chức
đảng và đảng viên thực hiện. Cấp ủy, tổ chức đảng rà soát, sửa đổi, bổ sung
quy chế làm việc cho phù hợp, bảo đảm đồng bộ, thống nhất và liên thông với
quy chế làm việc của cấp ủy cấp trên và quy định của Trung ương có liên
quan; xây dựng quy chế tổ chức và quản lý sinh hoạt tư tưởng; quy trình
18




×