Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

tiểu luận cao học môn cơ sở lý luận công tác tư tưởng một số quan điểm của ăngghen về lý luận và sự vận dụng ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.57 KB, 34 trang )

Mở đầu
Ph.Ăng-ghen là người bạn, người đồng chí, người cộng sản gần gũi nhất
của C.Mác, đã cùng Mác sáng lập nên chủ nghĩa Mác, học thuyết khoa học và
cách mạng, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân và những người cộng sản, vũ
khí tư tưởng của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh xóa bỏ chế độ tư
bản, xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa. Đồng thời,
Ph.Ăng-ghen đã cùng Các Mác nhiệt tình truyền bá tư tưởng cách mạng, xây
dựng các tổ chức cách mạng của giai cấp công nhân, trở thành lãnh tụ của
phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân các nước châu Âu ở nửa cuối thế
kỷ XIX. Vào đầu những năm 40 của thế kỷ XIX, mặc dù phong trào đấu tranh
của giai cấp vô sản chống lại sự thống trị, bóc lột của giai cấp tư sản đã phát
triển mạnh mẽ, nhưng vẫn còn mang tính tự phát, chưa có mục tiêu rõ rệt; giai
cấp công nhân còn chưa nhận thức được lợi ích giai cấp và sứ mệnh lịch sử
cao cả của mình. Những học thuyết khác nhau của chủ nghĩa xã hội không
tưởng, chủ nghĩa cải lương, tư tưởng vô chính phủ đều thất bại và đem lại
những tổn thất to lớn cho phong trào công nhân. Nhu cầu cấp thiết của phong
trào đấu tranh của giai cấp công nhân lúc này là cần có một học thuyết cách
mạng chỉ đường, giúp cho phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân từ tự
phát trở thành tự giác, hoàn thành sứ mệnh lịch sử vĩ đại của mình.
Các Mác và Ph.Ăng-ghen đã đáp ứng xuất sắc yêu cầu đó của thời đại.
Trong thời gian 40 năm, Ph.Ăng-ghen đã cùng với Các Mác dày công nghiên
cứu, kế thừa những tinh hoa tư tưởng của nhân loại, mà trước hết và trực tiếp
là triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị học Anh và chủ nghĩa xã hội Pháp;
đồng thời tắm mình vào trong thực tiễn phong phú, sinh động của phong trào
đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân, xây dựng nên chủ nghĩa Mác,
một học thuyết, một hệ thống lý luận khoa học và cách mạng, bao gồm triết
học Mác-xít, kinh tế chính trị học Mác-xít và chủ nghĩa xã hội khoa học; sáng
tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; phát hiện ra
những quy luật khách quan của sự phát triển xã hội và sứ mệnh lịch sử của
1



giai cấp công nhân…. Đây là những cơ sở lý luận khoa học, là vũ khí tư
tưởng cho cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân.
Nghiên cứu những quan điểm lý luận của Ăn-ghen và vận dụng những
quan điểm đó vào thực tiễn nước nhà là việc làm cần thiết, nhất là trong công
cuộc đổi mới đất nước hiện nay. Do đó, tôi chọn đề tài: “Một số quan điểm
của Ăngghen về lý luận và sự vận dụng ở nước ta hiện nay”

2


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.
Khái niệm lý luận
1.1.1. Quan điểm của Mác - Ăngghen
Lý luận là sản phẩm cao của nhận thức của sự phản ánh hiện thực khách
quan. Trong hệ thống các khái niệm, phạm trù, các nguyên lý và các quy luật
tạo nên lý luận, quy luật là hạt nhân của lý luận, là sản phẩm của qúa trình
nhận thức nên bản chất của lý luận là hình ảnh chủ quan của thế giới khách
quan, là sự phản ánh một cách gần đúng đối tượng nhận thức. Theo Mác Ăngghen, lý luận gắn với lợi ích, bảo vệ lợi ích giai cấp: “Mỗi giai cấp mới
thay thế cho giai cấp thống trị trước mình, muốn thực hiện được mục đích của
mình, đều nhất thiết phải biểu hiện lợi ích của bản thân mình thành lợi ích
chung của mọi thành viên trong xã hội, hay nói một cách trừu tượng: phải gắn
cho những tư tưởng của bản thân mình một hình thức phổ biến, phải biểu hiện
những tư tưởng đó thành những tư tưởng duy nhất hợp lý, duy nhất có giá trị
phổ biến” [13,68] . Mác - Ăngghen cũng cho rằng, lý luận mang tính khách
quan, tính khoa học, tính chiến đấu: “Những quan điểm lý luận của những
người cộng sản tuyệt nhiên không dựa trên những ý niệm, những nguyên lý
do một nhà cải cách thế giới nào phát minh hay phát hiện ra. Những nguyên

lý ấy chỉ là biểu hiện khái quát của những quan hệ thực tại của một cuộc đấu
tranh giai cấp hiện có, của một sự vận động lịch sử đang diễn ra trước mắt
chúng ta” [4,68]. Mác - Ăngghen cũng khẳng định, lý luận của giai cấp thống
trị luôn thống trị xã hội: “Lịch sử tư tưởng chứng minh cái gì nếu không phải
là chứng minh rằng sản xuất tinh thần cũng biến đổi theo sản xuất vật chất?
Những tư tưởng thống trị của một thời đại bao giờ cũng chỉ là những tư tưởng
của giai cấp thống trị” [14,625].
Những cống hiến lớn lao của Mác và Ph. Ăng-ghen vào lý luận chủ
nghĩa xã hội khoa học cho đến nay vẫn giữ nguyên giá trị và tính thời sự đối
với công cuộc đổi mới của đất nước ta, đặc biệt có ý nghĩa quan trọng đối với
việc nâng cao nhận thức và làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
3


nhân, tăng cường vai trò lãnh đạo đất nước của Đảng Cộng sản Việt Nam
trong bối cảnh hội nhập toàn cầu hiện nay. Khi đánh giá công lao to lớn của
hai ông đối với phong trào đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản thế giới,
V.I. Lê-nin viết: “Sau bạn ông là Các Mác, Ăng-ghen là nhà bác học và người
thầy lỗi lạc nhất của giai cấp vô sản hiện đại trong toàn thế giới văn minh. Từ
ngày mà vận mệnh đã gắn liền Các Mác và Phri-đrích Ăng-ghen thì sự nghiệp
suốt đời của hai người bạn ấy trở thành sự nghiệp chung của họ” [11,3].
1.1.2. Quan điểm của Lênin
Cả cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Lênin đã có những đóng
góp vô cùng to lớn cho sự nghiệp giải phóng nhân dân lao động toàn thế giới,
đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, đấu tranh cho hòa bình, độc lập, tự do của
các dân tộc. Di sản đó là vô cùng to lớn cả trên phương diện thực tiễn hoạt
động cách mạng và lý luận tư tưởng. Trong điều kiện chủ nghĩa tư bản chuyển
từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, Lênin đã bảo
vệ và phát triển chủ nghĩa Mác và xây dựng CNXH hiện thực, sáng lập nhà
nước Xô Viết - nhà nước XHCN đầu tiên trên thế giới. Lênin đã vận dụng

sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác vào thực tiễn nước Nga, lãnh
đạo thành công cuộc Cách mạng Tháng Mười vĩ đại và xây dựng CNXH hiện
thực. Dưới ngọn cờ của Lênin, Liên bang Cộng hòa XHCN Xô Viết và hệ
thống XHCN thế giới được hình thành, chủ nghĩa phát xít bị tiêu diệt, các dân
tộc bị áp bức vùng lên giành độc lập dân tộc, làm tan rã hệ thống thuộc địa
của chủ nghĩa đế quốc. Lênin đã kế tục, bảo vệ và phát triển một cách xuất
sắc, toàn diện chủ nghĩa Mác. Vừa đấu tranh chống những quan điểm, tư
tưởng, trào lưu lý luận sai trái, bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác, Lênin
vừa bổ sung, phát triển nhiều luận điểm cụ thể của chủ nghĩa Mác cho phù
hợp với điều kiện thực tiễn. Lênin đã làm rõ tính tất yếu của con đường đi lên
CNXH của các dân tộc, rằng sớm hay muộn các dân tộc sẽ đi lên CNXH bằng
cách riêng của mình. Đồng thời, chỉ ra mối quan hệ mật thiết giữa cách mạng

4


giải phóng dân tộc với cách mạng XHCN trong thời đại mới. Đó là kim chỉ
nam cho các dân tộc trong quá trình lựa chọn con đường phát triển của mình.
Đối với cách mạng Việt Nam, tư tưởng Lênin đã mở ra những chân trời
mới, soi đường, chỉ lối cho nhân dân ta trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc
và xây dựng CNXH. Vận dụng đúng đắn và sáng tạo những nguyên lý cơ bản
của chủ nghĩa Mác-Lênin và những bài học quý báu của Cách mạng Tháng
Mười Nga, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm thấy con đường giải phóng dân tộc và
xây dựng một chính Đảng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động để lãnh
đạo toàn dân tộc Việt Nam đi hết từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đặc biệt,
quan điểm của Người về lý luận đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
Trước hết, về bản chất, vị trí, vai trò của lý luận, Lênin cho rằng:
“Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng.
Trong lúc mà sự say mê với những hình thức nhỏ hẹp nhất của hành động
thực tiễn đang đi đôi với việc tuyên truyền đang thịnh hành cho chủ nghĩa cơ

hội, thì nhắc đi nhắc lại tư tưởng ấy bao nhiêu cũng không phải là thừa”, “chỉ
đảng nào có được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm
tròn vai trò tiến sĩ tiền phong” [15,32], hay “không thể có một đảng xã hội
chủ nghĩa vững mạnh nếu không có lý luận cách mạng để đoàn kết tất cả
những người xã hội chủ nghĩa lại, để họ rút ra từ trng lý luận đó tất cả những
tín hiệu của họ và đem áp dụng lý luận đó vào những phương pháp đấu tranh
và phương sách hành động của họ…” [14,232]. Như vậy, Lênin luôn cho lý
luận rất quan trọng đối với cách mạng, với Đảng Cộng sản, với tuyên truyền
và vận động. Do đó, theo Người, phát triển lý luận là một yêu cầu khách
quan, tất yếu. Đồng thời, Lênin cũng chỉ ra, lý luận là nhiệm vụ hàng đầu
trong công tác tư tưởng, nhiệm vụ của các nhà lý luận là phải phát triển công
tác lý luận: “Cao trào tự phát của quần chúng càng tăng lên và phong trào
càng mở rộng thì sự cần thiết có một ý thức cao trong công tác lý luận, chính
trị và tổ chức của đảng dân chủ - xã hội càng phải tăng lên vô cùng nhanh
chóng hơn” [15,67].
5


Tóm lại, theo Lênin, lý luận do các nhà tư tưởng đại diện cho lợi ích giai
cấp tạo ra: “Lịch sử tất cả các nước chứng thực rằng, chỉ do lực lượng của độc
bản thân mình thôi thì giai cấp công nhân chỉ có thể đi đến ý thức công liên
chủ nghĩa, tức là đi đến chỗ tin rằng phải đoàn kết lại thành hội liên hiệp, phải
đấu tranh chống bọn chủ, phải đòi hỏi chính phủ ban hành những luật này hay
luật khác cần thiết cho công nhân…Còn học thuyết xã hội chủ nghĩa thì phát
sinh từ các lý luận triết học, lịch sử, kinh tế, do những người có học thức
trong các giai cấp hữu sản, những trí thức xây dựng nên” [15,38-39], “Không
có lý luận cách mệnh, thì không có cách mệnh vận động…Chỉ có theo lý luận
cách mệnh tiền phong, đảng cách mệnh mới làm nổi trách nhiệm cách mệnh
tiền phong” [15,30].
1.1.3. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Hồ Chí Minh là nhà lý luận thiên tài, người thầy của cách mạng Việt
Nam. Người đã nêu một tấm gương sáng trong việc tiếp thu và vận dụng chủ
nghĩa Mác - Lênin trên tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo. Dù được viết
dưới bút hiệu nào hay thời điểm nào thì Hồ Chí Minh cũng vẫn thể hiện một
lập trường, quan điểm với các lập luận, văn phong, cách viết, cách nói tương
tự nhau, với phong cách nói chuyện và lối hành văn trong sáng, giản dị và dễ
hiểu nhất có thể.
Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử: bộ sách gồm nhiều tập, là một công
trình lịch sử được trình bày dưới hình thức biên niên. Toàn bộ những sự kiện
có ý nghĩa trong cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã được sưu tầm, chọn lọc, xác minh, bao gồm nhiều lĩnh vực: trước tác, các
văn kiện của Đảng và Nhà nước, các hoạt động và những sự kiện có ý nghĩa
trong đời sống riêng của Người.
Bản án chế độ thực dân Pháp
“Bản án chế độ thực dân Pháp” (Le Procès de la Colonisation Française)
là tác phẩm của Hồ Chủ tịch viết bằng tiếng Pháp trong khoảng những năm
1921-1925, đăng tải lần đầu tiên năm 1925 tại Paris (thủ đô nước Pháp) trên
6


báo Imprékor của Quốc tế Cộng sản. Tác phẩm gồm 12 chương và phần phụ
lục, với cách hành văn ngắn gọn, súc tích, cùng những sự kiện đầy sức thuyết
phục, tác phẩm tố cáo thực dân Pháp dung mọi thủ đoạn bắt “dân bản xứ”
phải đóng thuế máu” cho chính quốc, đày đọa phụ nữ, trẻ em thuộc địa; các
thống sứ, quan lại thực dân độc ác như một bầy thú dữ…Tác phẩm đã gây
được tiếng vang lớn ngay từ khi ra đời, thức tỉnh lương tri của những con
người yêu tự do, bình đẳng, bác ái, hướn các dân tộc bị áp bức đi theo con
đường cách mạng tháng Muời Nga và chủ nghĩa Mác – Lênin, thắp lên ngọn
lửa đấu tranh cho độc lập, tự do và xã hội chủ nghĩa của dân tộc Việt Nam.
Đường cách mệnh (1925 – 1927)

Sau nhiều năm bôn ba nước ngoài, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã tìm
được con đường cứu nước đúng đắn qua bài học về Cách mạng Tháng Mười
trên đất nước Lênin. “Đường Cách mệnh” là tập hợp những bài giảng của
đồng chí Nguyễn Ái Quốc tại lớp Huấn luyện chính trị ở Quảng Châu (Trung
Quốc) trong những năm 1925 - 1927, do Bộ Tuyên truyền của Hội Liên hiệp
các dân tộc bị áp bức Á Đông ấn hành và bí mật được chuyển về trong nước
theo nhiều ngả đường khác nhau.
Trong bối cảnh ở Việt Nam lúc đó, với chính sách đàn áp dã man của
thực dân Pháp, nhân dân bị bưng bít thông tin và bị đầu độc bởi văn hoá thực
dân, cho nên những nội dung quan trọng của “Đường Cách mệnh” đã trở
thành cẩm nang về lý luận cách mạng cho lớp cán bộ đầu tiên của Đảng, góp
phần trang bị cho họ những tư tưởng mới của thời đại, đưa cách mạng Việt
Nam hoà nhập cùng dòng chảy chung của cách mạng thế giới, chấm dứt thời
kỳ khủng hoảng về đường lối của cách mạng nước ta. Đó là ý nghĩa to lớn và
hết sức sâu sắc của tác phẩm đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Sửa đổi lối làm việc (1947)
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến giáo dục chủ nghĩa MácLênin cho cán bộ, đảng viên và nhân dân ta. Song Người cũng luôn nhấn
mạnh rằng học Mác- Lênin là phải học tinh thần Mác- Lênin, học phương
7


pháp Mác-Lênin để xử trí mọi việc. Người nói với cán bộ huấn luyện: “Các
chú dạy cho cán bộ đảng viên và nhân dân về chủ nghĩa Mác- Lênin, chắc có
nhiều người thuộc, nhưng các chú có làm cho mọi người hiểu chủ nghĩa MácLênin là thế nào không? Theo Bác hiểu chủ nghĩa Mác- Lênin tức là cách
mạng phân công cho việc gì, làm chủ tịch nước hay nấu ăn, đều phải làm tròn
nhiệm vụ. Không nên đào tạo ra những con người thuộc sách làu làu, cụ Mác
nói thế này, cụ Lênin nói thế kia, nhưng nhiệm vụ của mình được giao quét
nhà lại để cho nhà đầy rác”. Trong nhiều tài liệu của Chủ tịch Hồ Chí Minh
về giáo dục thực hành lý luận Mác- Lênin, thì tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”
là một điển hình tiêu biểu. Tiếp theo cuốn “Đường cách mệnh”, ở tác phẩm

“Sửa đổi lối làm việc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục nêu rõ phải giáo dục
chủ nghĩa Mác- Lênin, giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ và nhân dân ta.
Đời sống mới (1947)
Sau Cách mạng Tháng Tám 1945 thắng lợi, Đảng, Nhà nước và Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã phát động phong trào " Xây dựng đời sống mới".
Ngày 3/4/1946, Ủy ban vận động đời sống mới Trung ương được thành lập.
Một năm sau (20/3/1947), Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tác phẩm "Đời sống
mới" với bút danh là Tân Sinh để chỉ đạo và động viên phong trào. Ngày
nay, tác phẩm Đời sống mới của Người vẫn còn nguyên giá trị đối với sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói chung và xây dựng nông
thôn mới nói riêng.
Dân vận (1949)
Giữa lúc công cuộc kháng chiến, kiến quốc của dân tộc ta ở vào thời
điểm vô cùng cam go, quyết liệt, tác phẩm “Dân vận” ra đời. Đó thực sự là
một “cẩm nang”, kịp thời chỉ dẫn một cách đầy đủ và sâu sắc cả về mục đích,
đối tượng; cả về nhiệm vụ, phương pháp, tính hiệu quả... của công tác dân vận
đối với cán bộ, đảng viên; tổ chức đảng, chính quyền và các tổ chức đoàn thể
lúc bấy giờ.

8


Di chúc (1965 – 1969)
Trong toàn bộ di sản mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho chúng ta, Di
chúc của Người là một văn kiện có giá trị và ý nghĩa đặc biệt. Bản Di chúc
của Chủ tịch Hồ Chí Minh tuy chỉ là một văn bản ngắn gọn nhưng chứa đựng
trong nó là những chiêm nghiệm, trăn trở, tâm huyết của Bác suốt cuộc đời vì
nước, vì dân của mình. Di chúc của Người cũng chính là những căn dặn của
vị lãnh tụ kính yêu, người cha già của dân tộc Việt Nam trước lúc ra đi mà
mỗi chúng ta phải có trách nhiệm suy nghĩ và thực hiện để vững bước hơn

trên những chặng đường cách mạng phía trước. Có người đã nói, Di chúc của
Chủ tịch Hồ Chí minh là kết tinh những tinh hoa đạo đức và nhân cách cao
đẹp Hồ Chí Minh, chứa đựng những nội dung cơ bản, những quan điểm cốt
yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh và vạch ra phương hướng phát triển cho cách
mạng Việt Nam cả hôm nay và mai sau.
Học tập, nghiên cứu tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc
cũng như các tác phẩm khác của Người một cách đầy đủ hơn nữa, tìm ra
những giá trị sâu sắc để mỗi cán bộ, Đảng viên tích cực “làm theo” và vận
dụng vào thực tiễn là cách thiết thực nhất để chúng ta thành kính tưởng nhớ
và biết ơn Người.
Từ những quan điểm của Mác - Ăngghen, Lênin, Hồ Chí Minh, ta có thể
hiểu một cách tóm tắt, lý luận là hệ thống tri thức tương đối hoàn chỉnh của
con người về một lĩnh vực nào đó, phản ánh quan hệ của con người với thế
giới khách quan, biểu hiện dưới dạng những khái niệm, phạm trù, nguyên lý,
quy luật…có tác dụng chỉ đạo hoạt động của con người trên lĩnh vực đó.
1.2.
Ph.Ăng-ghen - Cuộc đời và sự nghiệp
Ph.Ăng-ghen sinh ngày 28-11-1820 tại Bác-men, tỉnh Ranh của Vương
quốc Phổ (thuộc nước Đức ngày nay). Tuy xuất thân từ một gia đình tầng lớp
trên, thuộc giai cấp tư sản, nhưng ông đã dành tất cả con tim, khối óc, tình
cảm và trí tuệ cho giai cấp vô sản, hiến dâng toàn bộ cuộc đời mình cho sự
nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân, nhằm mục tiêu, lý tưởng cao đẹp là

9


giải phóng giai cấp công nhân, giải phóng nhân dân lao động khỏi mọi ách áp
bức, bóc lột.
Vào đầu những năm 40 của thế kỷ XIX, mặc dù phong trào đấu tranh
của giai cấp vô sản chống lại sự thống trị, bóc lột của giai cấp tư sản đã phát

triển mạnh mẽ, nhưng vẫn còn mang tính tự phát, chưa có mục tiêu rõ rệt; giai
cấp công nhân còn chưa nhận thức được lợi ích giai cấp và sứ mệnh lịch sử
cao cả của mình. Những học thuyết khác nhau của chủ nghĩa xã hội không
tưởng, chủ nghĩa cải lương, tư tưởng vô chính phủ đều thất bại và đem lại
những tổn thất to lớn cho phong trào công nhân. Nhu cầu cấp thiết của phong
trào đấu tranh của giai cấp công nhân lúc này là cần có một học thuyết cách
mạng chỉ đường, giúp cho phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân từ tự
phát trở thành tự giác, hoàn thành sứ mệnh lịch sử vĩ đại của mình.
Mác và Ăng-ghen đã đáp ứng xuất sắc yêu cầu đó của thời đại. Trong
thời gian 40 năm, Ăng-ghen đã cùng với Mác dày công nghiên cứu, kế thừa
những tinh hoa tư tưởng của nhân loại, mà trước hết và trực tiếp là triết học cổ
điển Đức, kinh tế chính trị học cổ điển Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng
Pháp; đồng thời tắm mình vào trong thực tiễn phong phú, sinh động của
phong trào đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân, xây dựng nên chủ
nghĩa Mác, một học thuyết, một hệ thống lý luận khoa học và cách mạng, bao
gồm triết học mác-xít, kinh tế chính trị học mác-xít và chủ nghĩa xã hội khoa
học; sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử;
phát hiện ra những quy luật khách quan của sự phát triển xã hội và sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân; xây dựng nên lý luận giá trị thặng dư với các
quy luật chi phối sự vận động, phát triển và diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư
bản. Đây là những cơ sở lý luận khoa học, là vũ khí tư tưởng cho cuộc đấu
tranh cách mạng của giai cấp công nhân.
Rất nhiều tác phẩm cơ bản của chủ nghĩa Mác là do hai ông cùng viết.
Nhiều công trình nghiên cứu của Ăng-ghen là sự phát triển những tư tưởng
hình thành trong quá trình trao đổi thường xuyên với Mác.Về phía mình,
nhiều tác phẩm của Mác được viết với những ý tưởng và kiến thức của Ăng10


ghen.C.Mác đánh giá rất cao những kiến thức bách khoa của Ăng-ghen, trí
nhớ kỳ lạ, tầm nhìn xa trông rộng, những ham thích tinh thần nhiều mặt của

Ăng-ghen.
Không chỉ là nhà tư tưởng vĩ đại, cũng như Mác, Ăng-ghen đã đem nghị
lực sôi sục, trí tuệ sáng suốt và trái tim nồng cháy của mình tham gia phong
trào cách mạng, dũng cảm đấu tranh cho sự nghiệp của giai cấp công nhân.
Tài năng của Ăng-ghen với tư cách một nhà chiến lược và sách lược cách
mạng thể hiện xuất sắc trong các thời kỳ cách mạng 1848 - 1849 ở châu Âu,
thời kỳ hoạt động của Quốc tế I và Công xã Pa-ri. Cùng với Mác, Ăng-ghen
đã đấu tranh không khoan nhượng chống lại những khuynh hướng cải lương
và biệt phái (của Pru-đông, Lat-xan, Ba-cu-nin...) để thống nhất hàng ngũ
quốc tế. Cùng với Mác, Ăng-ghen là người đỡ đầu của Đảng Dân chủ - xã hội
Đức, có ảnh hưởng to lớn đến hoạt động của Đảng. Những nhà xã hội chủ
nghĩa Pháp, Áo, Hung-ga-ri, Anh, Ba Lan, Tây Ban Nha, ý, Nga, Ru-ma-ni,
Bun-ga-ri, Hà Lan và nhiều nước khác đều nhận được sự giúp đỡ vô giá của
Ăng-ghen.
Ăng-ghen được kính trọng trọng không chỉ bởi trí tuệ của một nhà bác
học, lòng dũng cảm, nhiệt huyết của một chiến sĩ cách mạng vĩ đại, mà còn
bởi phẩm chất cao cả thể hiện trong tình bạn, tình đồng chí khăng khít, thủy
chung, cảm động, hiếm có với Mác. Tự nhận mình là “cây vĩ cầm số 2” bên
cạnh Mác, còn Mác mới chính là “cây vĩ cầm số 1”, nên mặc dù rất say mê
nghiên cứu sáng tạo và say mê hoạt động trong phong trào công nhân, ghét
cay ghét đắng nghề thư lại, nhưng Ăng-ghen đã chấp nhận làm nhân viên văn
phòng của một hãng buôn ở Man-chét-xtơ để có thể giúp đỡ vật chất cho
Mác, tạo điều kiện cho bạn làm việc, sáng tạo. Sau khi Mác qua đời, Ăngghen đã gác bỏ nhiều dự định riêng của mình, tập trung thời gian, công sức để
thực hiện một công việc vô cùng nặng nề, khó khăn mà chỉ ông mới có thể
làm được là chỉnh lý, biên tập và cho xuất bản quyển II, quyển III Bộ “Tư
bản” mà Mác để lại còn dưới dạng các bản thảo. Đây là tác phẩm lớn nhất, vĩ

11



đại nhất của Mác và chủ nghĩa Mác. Bằng việc làm này, “Ăng-ghen đã dựng
cho người bạn thiên tài của ông một đài kỷ niệm trang nghiêm, trên đó Ăngghen cũng không ngờ là đã khắc luôn cả tên mình bằng những chữ không bao
giờ phai mờ được” như Lê-nin đã nhận xét. Đồng thời, ông dành nhiều thời
gian, công sức để tuyên truyền cho các tư tưởng của Mác, đấu tranh bảo vệ tư
tưởng của Mác trước sự tấn công, xuyên tạc của các lực lượng thù địch.
Nhưng ông cũng phê phán, kiên quyết lên án khuynh hướng và những mưu
toan biến học thuyết do Mác và ông sáng lập trở thành một mớ những công
thức giáo điều, cứng đơ, bất biến. Ông đấu tranh không khoan nhượng với
những ai coi thường sự tiến bộ của khoa học, những điều kiện mới và những
nhu cầu mới của xã hội. Trong trường hợp xuất hiện những sự kiện thực tế
mới, khi tình hình thay đổi và cuộc sống đặt ra những vấn đề mới, Ăng-ghen
sẵn sàng xem xét lại ngay cả những quan điểm lý luận của chính bản thân
mình. Đây thật sự là quan điểm và phong cách của một nhà khoa học, một nhà
cách mạng chân chính.
Cùng với giai cấp công nhân và những người cộng sản trên toàn thế giới,
giai cấp công nhân và những người cộng sản Việt Nam tự hào và bày tỏ lòng
biết ơn vô hạn đối với Ăng-ghen, nhà tư tưởng, lãnh tụ vĩ đại của mình.
1.3.Sự cần thiết phải nghiên cứu quan điểm của Ăng-ghen về lý luận
Ph. Ăng-ghen, bằng trí tuệ thiên tài và trái tim nhiệt huyết, những đóng
góp to lớn và những dấu ấn sâu đậm của ông đã góp phần tạo nên một học
thuyết khoa học và cách mạng - Chủ nghĩa Mác-Lênin, một học thuyết có
những ảnh hưởng sâu rộng trong lịch sử nhân loại cho đến ngày nay. Nghiên
cứu toàn bộ tư tưởng của Ăng-ghen về lý luận và áp dụng vào thực tiễn Việt
Nam luôn là việc làm cần thiết.
Vào đầu những năm 40 của thế kỷ XIX, mặc dù phong trào đấu tranh
của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản đã phát triển mạnh mẽ, nhưng
vẫn chưa thoát khỏi tình trạng tự phát, chưa được tổ chức, chưa có mục tiêu
rõ rệt, giai cấp công nhân chưa nhận thức được những lợi ích giai cấp cơ bản
của mình. Nhu cầu cấp thiết của phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân


12


lúc đó là cần có một học thuyết lý luận cách mạng soi đường cho giai cấp
công nhân, giúp cho giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử vĩ đại
toàn thế giới của mình. Ăng-ghen đã cùng với Mác dày công nghiên cứu, kế
thừa những tinh hoa tư tưởng của nền văn hóa nhân loại, xây dựng thành một
học thuyết, một hệ thống lý luận khoa học - chủ nghĩa xã hội khoa học, đồng
thời thông qua hoạt động trực tiếp trong phong trào đấu tranh cách mạng của
giai cấp công nhân, đưa lý luận đó thâm nhập vào quần chúng cách mạng,
biến lý luận thành lực lượng vật chất thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Ngay từ những tác phẩm lý luận đầu tiên về triết học cũng như về kinh tế
chính trị học, Ăng-ghen đã chứng tỏ tầm cao trí tuệ khi phê phán tính phản
động trong quan điểm triết học duy tâm của Se-linh; chỉ ra những mâu thuẫn
trong hệ thống triết học duy tâm của Hê-ghen; phân tích sâu sắc những mâu
thuẫn nội tại của chủ nghĩa tư bản, chỉ ra tính tất yếu của sự ra đời chủ nghĩa
xã hội với tính cách là kết quả của sự giải quyết những mâu thuẫn đó. Quan
sát đời sống của giai cấp công nhân nước Anh, trong một loạt bài đăng trên tờ
Rheinishe Zeitung (Nhật báo tỉnh Ranh) tháng 12-1842, Ăng-ghen đã phân
tích các quan hệ xã hội, quan hệ giai cấp trong xã hội lúc đó và chỉ ra mâu
thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản là mâu thuẫn cơ bản của chủ
nghĩa tư bản. Trên cơ sở phân tích này, Ăng-ghen lần đầu tiên đã đưa ra tư
tưởng về tính tất yếu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa; tính quốc tế của
cuộc cách mạng này.
Trong những tác phẩm viết chung với Mác cũng như trong những tác
phẩm của riêng mình, những luận điểm quan trọng nhất của triết học mác-xít
đã được Ăng-ghen trình bày một cách có hệ thống, đầy sức thuyết phục.
Đồng thời, ông cũng đã chỉ ra ý nghĩa lớn lao của triết học đối với hoạt động
thực tiễn của con người. "Gia đình thần thánh" là tác phẩm lý luận viết chung
đầu tiên của hai ông và là tác phẩm có vị trí quan trọng trong toàn bộ quá

trình hình thành các quan điểm triết học và chính trị xã hội của học thuyết
Mác. Trong tác phẩm này, Mác và Ăng-ghen đã đề ra những tư tưởng cơ bản
13


của chủ nghĩa duy vật lịch sử, như vai trò quyết định của sản xuất vật chất đối
với tiến trình phát triển của xã hội loài người, vai trò sáng tạo ra lịch sử của
quần chúng nhân dân lao động. Cũng trong tác phẩm này, hai ông một lần nữa
khẳng định vai trò, sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp vô sản và chỉ ra
rằng, chính địa vị của giai cấp vô sản trong xã hội tư sản hiện đại đã quy định
vai trò, sứ mệnh đó.
Tiếp tục phát triển những tư tưởng đã trình bày trong "Gia đình thần
thánh", ở tác phẩm "Hệ tư tưởng Đức", tác phẩm viết chung thứ hai của Ăngghen và Mác, thế giới quan và phương pháp luận mới - quan điểm duy vật
biện chứng về lịch sử đã được trình bày một cách đầy đủ, toàn diện và có hệ
thống dưới hình thức phê phán những quan điểm triết học của phái Hê-ghen
trẻ. Trên cơ sở quan niệm duy vật về lịch sử, hai ông đã đặt ra những vấn đề
về cách mạng vô sản, về những nét cơ bản của xã hội cộng sản tương lai.Mặc
dù tác phẩm "Hệ tư tưởng Đức" không được xuất bản khi hai ông còn sống,
nhưng những kết luận khoa học được trình bày trong tác phẩm đó đã là cơ sở
lý luận cho hoạt động thực tiễn cách mạng của bản thân hai ông.
Trong ngày khai mạc Đại hội lần thứ II của Liên đoàn những người cộng
sản (ngày 29-11-1847), Ăng-ghen đã đọc diễn văn tại cuộc mít tinh quốc tế
của những người dân chủ kỷ niệm cuộc khởi nghĩa Ba-lan năm 1830. Trong
bài diễn văn này, ông đã chỉ ra cơ sở thực tiễn và luận chứng về mặt lý luận
cho khẩu hiệu của chủ nghĩa quốc tế vô sản, trở thành phương châm hành
động của Liên đoàn: "Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại!", đồng thời lần đầu
tiên nêu ra tư tưởng mác-xít kiệt xuất về vấn đề dân tộc, về mối quan hệ giữa
áp bức giai cấp với áp bức dân tộc: "Không một dân tộc nào có thể trở thành
tự do trong khi còn tiếp tục áp bức những dân tộc khác". Với sự chỉ đạo sát
sao và sáng suốt của Mác và Ăng-ghen, Đại hội đã kết thúc thắng lợi với việc

thông qua bản Điều lệ, trong đó thể hiện toàn bộ những kế hoạch cải tổ Liên
đoàn do hai ông đề xướng. Đại hội đã trao cho hai ông nhiệm vụ soạn thảo
"Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" với tính cách là cương lĩnh của Liên
14


đoàn.Ăng-ghen đã cùng với Mác hoàn thành nhiệm vụ này một cách xuất
sắc.Với cương lĩnh này, Liên đoàn những người cộng sản đã công khai tuyên
bố những nguyên lý lý luận của mình và hoạt động công khai trên vũ đài
chính trị với tính cách là Đảng Cộng sản, tổ chức tiên phong của giai cấp công
nhân. Đánh giá ý nghĩa "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" đối với phong trào
cách mạng của giai cấp công nhân, Lê nin viết: "Cuốn sách nhỏ ấy có giá trị
bằng hàng bộ sách; tinh thần của nó, đến bây giờ, vẫn cổ vũ và thúc đẩy toàn
thể giai cấp vô sản có tổ chức và đang chiến đấu của thế giới văn minh". Dưới
ánh sáng tư tưởng "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" và sự chỉ đạo sát sao của
Mác và Ăng-ghen, từ sự phát triển mạnh mẽ của phong trào công nhân Đức,
Đảng Công nhân dân chủ - xã hội Đức, đảng vô sản đầu tiên được tổ chức
trên quy mô cả nước và, về cơ bản, đứng trên lập trường của chủ nghĩa cộng
sản khoa học, đã được thành lập vào tháng 8-1869. Sự kiện này đánh dấu một
bước phát triển hết sức quan trọng của phong trào công nhân Đức nói riêng và
phong trào công nhân quốc tế nói chung.
Bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác với tính cách là cơ sở nền tảng tư
tưởng, lý luận của phong trào công nhân luôn được Ăng-ghen đặt lên hàng
đầu. "Chống Đuy-rinh" là một trong những tác phẩm lý luận của Ăng-ghen
viết để đập tan những quan điểm lý luận phi mác-xít đang truyền bá trong
Đảng Công nhân dân chủ - xã hội Đức vào cuối những năm 80 của thế kỷ
XIX. Trong "Chống Đuy-rinh", Ăng-ghen đã trình bày đầy đủ, toàn vẹn, có
hệ thống những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác. Nhờ đó, giai cấp công
nhân đã có thể tiếp thu, thấm nhuần chủ nghĩa Mác với tính cách là một thế
giới quan hoàn chỉnh, bao quát cả triết học, kinh tế - chính trị học, chủ nghĩa

xã hội khoa học, chiến lược và sách lược đấu tranh giai cấp của giai cấp vô
sản. Có thể nói, tác phẩm "Chống Đuy-rinh" là một cuốn bách khoa toàn thư
về các tri thức mác-xít đối với phong trào công nhân quốc tế.
Sau khi Mác qua đời, Ăng-ghen đã tập trung sức lực và trí tuệ tiếp tục sự
nghiệp tổ chức, giác ngộ giai cấp công nhân, tiếp tục sự nghiệp bảo vệ, phát
15


triển chủ nghĩa Mác. Một trong những cống hiến to lớn, bất diệt của Ăngghen trong sự nghiệp bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác đó là Ăng-ghen đã
đảm đương một khối lượng công việc vô cùng nặng nề, khó khăn để chỉnh lý,
biên tập và cho xuất bản quyển II, quyển III bộ "Tư bản" - tác phẩm kinh tế chính trị học vĩ đại nhất của thế kỷ chúng ta. Bằng công trình này "Ăng-ghen
đã dựng cho người bạn thiên tài của ông một đài kỷ niệm trang nghiêm trên
đó Ăng-ghen cũng không ngờ là đã khắc luôn cả tên mình bằng những chữ
không bao giờ phai mờ được".
Cũng trong thời kỳ này, Ăng-ghen đã viết và cho xuất bản tác phẩm
"Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước" - một trong
những tác phẩm chủ yếu của chủ nghĩa xã hội hiện đại và tác phẩm "Lutvích Phoi-ơ-bắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức" cùng một loạt
tác phẩm khác, có giá trị về mặt lý luận, khẳng định tính đúng đắn, khoa
học và cách mạng của những nguyên lý trong học thuyết chủ nghĩa Mác.
Sau đó, ông đã tích cực tìm mọi cách để phổ biến rộng rãi tác phẩm "Tư
bản" cũng như những tác phẩm mác-xít khác trong giai cấp công nhân,
nâng cao trình độ giác ngộ của giai cấp công nhân, nâng cao tính tự giác
của phong trào công nhân.
Chính vì thế, có thể nói rằng, công lao của Ăng-ghen đối với giai cấp
công nhân chính là ở chỗ đã cùng với Mác, bằng hoạt động lý luận và thực
tiễn đã "dạy cho công nhân tự nhận thức được mình và có ý thức về mình, và
đã đem khoa học thay thế cho mộng tưởng". Đánh giá công lao của Ăngghen đối với phong trào đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân thế giới,
Lê-nin viết: "Sau bạn ông là Các Mác, Ăng-ghen là nhà bác học và người thầy
lỗi lạc nhất của giai cấp vô sản hiện đại trong toàn thế giới văn minh. Từ ngày
mà vận mệnh đã gắn liền Các Mác với Phri-đrích Ăng-ghen thì sự nghiệp suốt

đời của hai người bạn ấy trở thành sự nghiệp chung của họ. Cho nên muốn
hiểu Phri-đrích Ăng-ghen đã làm gì cho giai cấp vô sản thì phải nhận rõ ý

16


nghĩa của học thuyết và hoạt động của Mác đối với sự phát triển của phong
trào công nhân hiện đại".

17


Chương 2
MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CỦA PH.ĂNG-GHEN VỀ LÝ LUẬN
2.1.Hệ tư tưởng là sản phẩm của nhà tư tưởng phản ánh lợi ích của
giai cấp mà họ là đại diện
Trước hết cần phải khẳng định rằng tư tưởng, với tư cách là sản phẩm
tinh thần của con người, luôn tồn tại. Nó xuất hiện một cách tự nhiên do nhu
cầu nhận thức của con người, phục vụ cho sự phát triển. Có thể nói, tư tưởng
là một trong những sản phẩm quan trọng nhất của đời sống mà con người
hoàn toàn có quyền tự hào, thứ sản phẩm còn cao hơn và tinh xảo hơn mọi
thứ sản phẩm công nghiệp hay công nghệ tinh xảo nhất.
Trong cuộc sống có nhiều tư tưởng khác nhau. Các tư tưởng tương tác
với nhau, tập hợp lại với nhau một cách tự nhiên thành một chuỗi các nhận
thức, được thừa nhận và bị loại bỏ cũng theo quy luật tự nhiên. Là công cụ
của nhận thức, tư tưởng thể hiện thông qua các hành vi, cả những hành vi của
tư duy lẫn những hành vi bản năng. Tư tưởng được liên tục lựa chọn bởi các
cá nhân cụ thể và có vai trò định hướng hành động. Do đó, nhận thức về tư
tưởng phải linh hoạt chứ không thể coi nó là những giá trị bất biến.
Nếu tư tưởng là công cụ của nhận thức thì hệ tư tưởng là hệ thống các

công cụ ấy. Hệ tư tưởng không phải là sản phẩm riêng của cộng đồng, thậm
chí nó cũng không phải là sản phẩm riêng của thời đại, nó là sự tổng hòa
những kinh nghiệm sống của nhiều cộng đồng người và của nhiều thời đại.
Hệ tư tưởng cũng là sản phẩm của nhà tư tưởng phản ánh lợi ích của giai cấp
mà họ là đại diện, như Ăng-ghen đã nhận định: “Hệ tư tưởng là một quá trình
do con người mệnh danh là nhà tư tưởng đã hoàn thành một cách có ý thức,
nhưng thật ra là hoàn thành với một ý thức sai lầm. Những động lực thực sự
thúc đẩy người đó thì người đó vẫn chưa biết, nếu không thì hệ tư tưởng sẽ
không còn là quá trình tư tưởng nữa” [6,776]. Như vậy, Ăng-ghen cho rằng
trong xã hội có giai cấp, hệ tư tưởng mang tính giai cấp, phản ánh những lợi
ích giai cấp. Cuộc đấu tranh giữa các lợi ích giai cấp tất yếu biểu hiện thành
18


đấu tranh tư tưởng và hình thành hệ tư tưởng: giai cấp thống trị trình bày lợi
ích của mình như là lợi ích của xã hội, luôn áp đặt hệ tư tưởng của mình cho
toàn xã hội; giai cấp cách mạng có hệ tư tưởng đối lập với hệ tư tưởng của
giai cấp phản cách mạng. Điều kiện xã hội cần thiết để cho hệ tư tưởng phản
ánh hiện thực một cách khách quan là lợi ích giai cấp phù hợp với nhu cầu
của tiến bộ xã hội. Các giai cấp tiến bộ trong lịch sử đều góp phần hình thành
nên hệ tư tưởng tiên tiến có tính khoa học. Hiện nay, hệ tư tưởng của giai cấp
vô sản thể hiện lợi ích sống còn của giai cấp công nhân và những người lao
động, đồng thời cũng là lợi ích của toàn xã hội và của nhân loại tiến bộ. Do
đó, đúng như Ăng-ghen đã nói, ta có thể khẳng định, hệ tư tưởng là sản phẩm
của nhà tư tưởng phản ánh lợi ích của giai cấp mà họ đại diện.
2.2.Lý luận chỉ đường dẫn lối cho phong trào cách mạng vô sản
Cách mạng vô sản là một cuộc cách mạng xã hội hoặc/và chính trị mà
theo đó giai cấp công nhân tiến hành lật đổ tư bản. Cách mạng vô sản thường
được những người theo chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản ủng hộ. Chủ
nghĩa Mác cho rằng là bước đầu tiên tiến đến loại bỏ ách áp bức bóc lột của

chủ nghĩa tư bản. Lênin cho rằng để chiến thắng hoàn toàn chủ nghĩa tư bản,
đảm bảo cho các dân tộc giành lại được độc lập, thì phải thực hiện sự liên
minh, thống nhất của giai cấp vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức
trên toàn thế giới. Ông khẳng định rằng, “Không có sự cố gắng tự nguyện tiến
tới sự liên minh và sự thống nhất của giai cấp vô sản, rồi sau nữa, của toàn thể
quần chúng cần lao thuộc tất cả các nước và các dân tộc trên toàn thế giới, thì
không thể chiến thắng hoàn toàn chủ nghĩa tư bản được”. Nguyễn Ái Quốc
cho rằng: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào
khác con đường cách mạng vô sản”. Còn Ăng-ghen trong Ăngghen gửi
Fridrich Ađph Sarge ở Hôken lại nhận định: “Ở đó cũng như ở đây và bây
giờ, cả ở những vùng mỏ than của nước Đức, chỉ tuyên truyền không thôi thì
phong trào không thể nào phát triển được. Các sự kiện sẽ bắt người ta phải tin
và rồi phong trào cũng sẽ tiến nhanh, tất nhiên là nhanh nhất ở nơi nào có một

19


bộ phận giai cấp vô sản có tổ chức và có trình độ lý luận như ở nước Đức”
[6,708]. Rõ ràng, theo Ăng-ghen, lý luận chỉ đường dẫn lối cho phong trào
cách mạng vô sản.
2.3.Lý luận góp phần vào cuộc đấu tranh giai cấp
Trong tác phẩm Sáng kiến vĩ đại, Lênin định nghĩa : “Người ta gọi giai
cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong
một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ
của họ (thường thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và
thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao
động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của
cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người
mà tập đoàn này có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác do chỗ các tập
đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định”.

Trong xã hội có giai cấp tất yếu nảy sinh đấu tranh giai cấp. V.I.Lênin định
nghĩa đấu tranh giai cấp là “cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền,
bị áp bức và lao động, chống bọn có đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn
bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay những người
vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản”.
Thực chất của đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn
về mặt lợi ích giữa quần chúng bị áp bức, vô sản đi làm thuê chống lại giai
cấp thống trị, chống lại bọn đặc quyền, đặc lợi, những kẻ đi áp bức bóc lột.
Đấu tranh giai cấp có nguyên nhân khách quan từ sự phát triển mang
tính xã hội hoá ngày càng sâu rộng của lực lượng sản xuất với quan hệ chiếm
hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Biểu hiện của mâu thuẫn này về phương diện
xã hội: Mâu thuẫn giữa một bên là giai cấp cách mạng, tiến bộ, đại diện cho
phương thức sản xuất mới, với một bên là giai cấp thống trị bóc lột đại biểu
cho những lợi ích gắn với quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu. Đỉnh cao của
cuộc đấu tranh giai cấp tất yếu sẽ dẫn đến cách mạng xã hội, thay thế phương
thức sản xuất cũ bằng một phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn.Phương
thức sản xuất mới ra đời mở ra địa bàn mới cho sự phát triển của sản xuất xã

20


hội.Sản xuất phát triển sẽ là động lực thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ đời
sống xã hội.Dựa vào tiến trình phát triển của lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen
đã chứng minh rằng đỉnh cao của đấu tranh giai cấp là cách mạng xã hội.Cách
mạng xã hội như là đòn bẩy thay đổi các hình thái kinh tế xã hội vì vậy “đấu
tranh giai cấp là động lực trực tiếp của lịch sử các xã hội có giai cấp”.
Đấu tranh giai cấp góp phần xoá bỏ các thế lực phản động, lạc hậu đồng thời
cải tạo cả bản thân giai cấp cách mạng.Giai cấp nào đại biểu cho phương thức
sản xuất mới, giai cấp đó sẽ lãnh đạo cách mạng. Thành tựu mà loài người dạt
được trong tiến trình phát triển của lực lượng sản xuất, cách mạng khoa học

và công nghệ, cải cách về dân chủ và tiến bộ xã hội không tách rời cuộc đấu
tranh giai cấp giữa các giai cấp tiến bộ chống các thế lực thù địch, phản động.
Đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản là cuộc đấu tranh sau cùng
trong lịch sử xã hội có giai cấp.Nó là cuộc đấu tranh khác về chất so với so
với các cuộc đấu tranh trước đó trong lịch sử. Bởi vì, mục tiêu của nó là thay
đổi về căn bản sở hữu tư nhân bằng sở hữu xã hội. Trước khi giành được
chính quyền, nội dung của đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp
tư sản là đấu tranh kinh tế, đấu tranh tư tưởng, đấu tranh chính trị.Sau khi
giành chính quyền, thiết lập nền chuyên chính của giai cấp vô sản, mục tiêu
và hình thức đấu tranh giai cấp cũng thay đổi.V.I.Lênin viết “Trong điều kiện
chuyên chính vô sản, những hình thức đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản
không thể giống như trước được”.
Xét về lịch sử, không phải tới hôm nay, cuộc đấu tranh tư tưởng lý luận
giữa CNTB và CNXH mới diễn ra, mà từ hàng trăm năm trước, ngay từ khi tư
tưởng lý luận của CNXH ra đời, nó đã lập tức phải đương đầu với sự phê
phán, phủ nhận, bôi nhọ, xuyên tạc dưới nhiều hình thức khác nhau. Bất chấp
mọi trở ngại, tính chất cách mạng và khách quan khoa học trong tư tưởng lý
luận cùng với lý tưởng cao cả mà CNXH hướng tới đã thu hút, lan tỏa khắp
năm châu, trở thành động lực tinh thần của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động trong cuộc đấu tranh cho một xã hội công bằng, dân chủ, cho một
21


cuộc sống ngày càng tốt đẹp. Điều này trở thành mối đe dọa đối với sự tồn
vong của tư tưởng và xã hội tư sản. Người ta chống lại CNXH với vô vàn thủ
đoạn, từ chủ động gây chiến tranh nóng tới xuyên tạc, vu cáo, thậm chí là
"gán" trách nhiệm cho những người cộng sản về một số sự kiện xảy ra trên
thế giới, ở một số quốc gia... Cũng xét về lịch sử, cuộc đấu tranh tư tưởng lý
luận giữa CNTB và CNXH đã có nhiều biến động ở những thời kỳ khác nhau.
Nếu trước Cách mạng Tháng Mười các vấn đề trừu tượng trong hệ thống triết

học của C Mác, Ph.Ăng ghen và của chủ nghĩa duy vật lịch sử là trọng điểm
của cuộc đấu tranh, thì sau Cách mạng Tháng Mười, các nội dung này lại gắn
với những vấn đề của thực tiễn cách mạng, với CNXH hiện thực, với các vấn
đề lý luận liên quan tới sứ mệnh, vai trò của giai cấp công nhân, của các đảng
cộng sản... Trong cuộc đấu tranh đó, một mặt, các lý luận gia tư sản tiếp tục
xuyên tạc nhằm tấn công vào tư tưởng lý luận của CNXH, triệt để lợi dụng
các hạn chế và sai lầm ở Liên bang Xô-viết, sau này là hệ thống các nước
XHCN, lấy dễ làm bằng chứng chứng minh "tính không tưởng của CNXH",
xuyên tạc bản chất nhân văn trong tư tưởng lý luận của CNXH, bóp méo hoặc
hạ thấp các thành tựu đạt được ở Liên-Xô và các nước XHCN...
Vì những điều trên, có thể khẳng định lý luận góp phần đắc lực vào cuộc
đấu tranh giai cấp.

22


2.4.Đấu tranh lý luận để đạp lại quan điểm sai trái thù địch và qua đó
hình thành quan điểm lý luận
Trong tác phẩm “Chống Duhring”, Ăng-ghen đã viết: “Hệ thống của ông
Duhring được phê phán trong quyển sách này bao trùm một lĩnh vực lý luận
rất rộng; tôi buộc phải theo ông khắp nơi và đem những quan niệm của tôi ra
đối lập lại những quan niệm của ông ta. Vì vậy, sự phê phán tiêu cực đã trở
thành sự phê phán tích cực; cuộc bút chiến trở thành một sự trình bày ít nhiều
có hệ thống về phương pháp biện chứng và thế giới quan cộng sản chủ nghĩa
của Mác và tôi đã đại biểu - và trình bày như thế trên một loạt khá nhiều lĩnh
vực. Cái thế giới quan đó của chúng tôi xuất hiện lần đầu tiên trong cuốn “Sự
khốn cùng của triết học” của Mác và trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”
đã trải qua một thời kỳ ấp ủ trong hơn 20 năm và cho đến khi bộ “Tư bản” ra
đời thì nó ngày càng tranh thủ được các giới rộng rãi một cách nhanh chóng
và ngày nay, vượt xa ra ngoài biên giới của Châu Âu, nó đang ngày được sự

chú ý và tìm được những môn đệ trong tất cả những nước, trong đó, một mặt,
có những người vô sản, và mặt khác, có những nhà lý luận khoa học vô tư”.
Nhận thức sâu sắc vai trò của lý luận cách mạng đối với phong trào cách
mạng, Mác luôn hướng trọng tâm hoạt động của mình vào nghiên cứu khoa
học, kịp thời giải đáp những câu hỏi lớn mà nhân loại đang đặt ra nhưng chưa
có lời giải đáp. Là một thiên tài sáng tạo, Mác cống hiến cho nhân loại hai
phát kiến khoa học mang tầm thời đại là Chủ nghĩa duy vật lịch sử và Học
thuyết giá trị thặng dư. Từ giả thuyết khoa học, học thuyết Mác đã được
chứng minh về mặt khoa học, trở thành hệ thống lý luận khoa học sâu sắc,
toàn diện, cân đối với ba bộ phận cấu thành: Triết học mác-xít; Kinh tế học
chính trị mác-xít và Chủ nghĩa cộng sản khoa học. Trong đó, luôn có sự thống
nhất giữa tính cách mạng và tính khoa học; thế giới quan và phương pháp
luận; lý luận và thực tiễn; nhận thức thế giới và cải tạo thế giới. Sáng tạo là
đặc tính bản chất, quy định học thuyết Mác là một hệ thống mở luôn được bổ
sung, phát triển để theo kịp cuộc sống” [5,18-19]. Sở dĩ có nhận định như thế,
23


bởi Ăng-ghen cho rằng, đấu tranh lý luận để đạp lại quan điểm sai trái thù
địch và qua đó hình thành quan điểm lý luận.
Người bạn của Ăng-ghen là Mác đã từng căn dặn: “Học thuyết của
chúng tôi không phải là giáo điều mà là kim chỉ nam cho hành động”. Điều đó
đòi hỏi những người cộng sản phải ra sức học tập, nắm vững và vận dụng
sáng tạo những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác đồng thời luôn theo sát
nắm vững thời cuộc, phát hiện những mâu thuẫn mới nảy sinh cần giải quyết.
Sự hình thành, phát triển Chủ nghĩa Mác không tách rời cuộc đấu tranh tư
tưởng lý luận chống tư tưởng tư sản, phản động, cơ hội, xét lại dưới mọi màu
sắc, cả manh tâm của những kẻ đầu hàng, xa rời lợi ích giai cấp công nhân,
nhân dân lao động, dù là nhỏ nhất. Là người kế tục xuất sắc tư tưởng MácĂng-ghen, V.I.Lê-nin đã giải đáp những câu hỏi lớn thời đại mới đặt ra, bảo
vệ và phát triển toàn diện Chủ nghĩa Mác.

2.5. Lý luận của giai cấp vô sản thể hiện lập trường giai cấp và chỉ ra
những điều kiện để giải phóng giai cấp ấy
Chủ nghĩa cộng sản đã trải qua một chặng đường lịch sử dài sau 160 năm
kể từ khi Mác và Ăngghen viết “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” (tháng 121847 – 1-1848) và công bố ở Luân Đôn vào tháng 2-1848. Đây cũng là một
chặng đường phức tạp, đầy mâu thuẫn biện chứng, có nhiều thành tựu và cả
những thiếu sót, sai lầm. Nhưng xét ở những khâu chủ yếu và quyết định, đây là
chặng đường đi lên trên thế tiến công của chủ nghĩa cộng sản.“Chủ nghĩa cộng
sản không phải là một học thuyết mà là một cuộc vận động. Nó xuất phát không
phải từ những nguyên tắc, mà từ những sự thật. Những người cộng sản không
lấy thứ triết học này nọ, mà lấy toàn bộ quá trình lịch sử trước đây và đặc biệt là
những kết quả thực tế trước mắt tại các nước văn minh làm tiền đề của họ. Chủ
nghĩa cộng sản nảy sinh ra từ nền đại công nghiệp và những hậu quả của đại
công nghiệp: từ sự xuất hiện thị trường thế giới và cuộc cạnh tranh không thể
kìm hãm được do sự xuất hiện của thị trường thế giới gây ra; từ những cuộc
khủng hoảng thương nghiệp ngày càng có tính chất phá hoại và tính phổ biến và

24


giờ đây đã hoàn toàn trở thành những cuộc khủng hoảng của thị trường thế giới;
từ sự hình thành ra giai cấp vô sản và sự tích tụ của tư bản; và từ cuộc đấu tranh
giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản do đó mà nảy sinh ra. Chủ nghĩa
cộng sản, ở mức độ nó là lý luận, là sự biểu hiện lý luận của lập trường của giai
cấp vô sản trong cuộc đấu tranh đó và sự khái quát lý luận về những điều kiện
giải phóng của giai cấp vô sản” [3,399].
Một khối lượng công việc lý luận khổng lồ của Mác và Ăngghen cho
phép thực hiện bước nhảy vọt cách mạng từ chủ nghĩa cộng sản không tưởng
lên chủ nghĩa cộng sản khoa học, đặt các cơ sở khoa học và các nguyên lý
phương pháp luận cho nhận thức về chủ nghĩa cộng sản và biện chứng vận
động lên chủ nghĩa cộng sản. Đó chính là những cơ sở khoa học và những

nguyên lý, chứ không phải là những giáo điều.
Ăng-ghen là một nhà duy vật biện chứng và do vậy bao giờ ông cũng
nhấn mạnh rằng, lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa cộng sản thường xuyên
phát triển, không giậm chân tại chỗ. Những luận điểm mới thay thế cho
những luận điểm lỗi thời. Và cũng chính vì vậy mà không phải tất cả những gì
Mác nói và viết ra đều là chân lý tối hậu. Ông đã đúng ở những điểm cơ bản
và mang tính nguyên tắc, đồng thời có những luận điểm của ông đã lỗi thời,
được thực tiễn cuộc sống vượt qua, các nghiên cứu lý luận của hậu bối cần
đổi mới, chỉnh sửa và làm cho phong phú thêm.Khoa học về chủ nghĩa cộng
sản là học thuyết khoa học thường xuyên phát triển và không ngừng được làm
phong phú thêm bằng tri thức khoa học và thực tiễn, nó không chấp nhận
những bộ phận cụ thể bị giáo điều hóa và những luận điểm, nguyên lý cơ bản
bị xét lại. Đây là một học thuyết sống động, kết hợp trong mình cái chung và
cái riêng, cái chủ yếu và cái thứ yếu, cái bất biến và cái thường biến. Nó phát
triển được là nhờ sự phát triển của khoa học – công nghệ, thực tiễn cách mạng
của các nước, các đảng cộng sản và các phong trào tiến bộ, các cá nhân kiệt
xuất, các nhà khoa học, các tập thể sáng tạo, những cuộc tranh luận, những

25


×