Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Tư tưởng hcm về con người giá trị lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.76 KB, 24 trang )

MỤC LỤC
PHẦN I: MỞ ĐẦU..........................................................................................1
1.

Lý do chọn đề tài...............................................................................1

2. Đối tượng nghiên cứu............................................................................1
3. Phạm vi nghiên cứu...............................................................................2
4. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................2
5. Giới thiệu nội dung nghiên cứu.............................................................2
PHẦN II: NỘI DUNG.....................................................................................3
CHƯƠNG I: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ CON NGƯỜI.........................................................................................3
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và vai trò của con người.........3
1.1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người..........................................3
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của con người Việt Nam hiện
nay.........................................................................................................5
1.2.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về phương thức xây dựng con người phát

triển toàn diện............................................................................................7
1.2.1.

Xây dựng con người phát triển toàn diện phải mang tính chủ

động, tích cực........................................................................................8
1.2.2. Phát triển giáo dục để xây dựng con người mới phát triển toàn
diện........................................................................................................8
1.2.3. Phát triển các phong trào thi đua yêu nước để xây dựng con
người mới phát triển toàn diện............................................................10


1.2.4. Chống chủ nghĩa cá nhân, chống tham ơ, lãng phí, quan liêu...11
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI VIỆT
NAM THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH............................................12
i


2.1. Một số kết quả đạt được...................................................................12
2.2. Một số hạn chế, yếu kém..................................................................13
CHƯƠNG III: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH ĐỂ PHÁT
TRIỂN CON NGƯỜI VIỆT NAM TOÀN DIỆN...................................15
2.1. Đối với Đảng và Nhà nước..............................................................15
2.2. Đối với sinh viên..............................................................................17
PHẦN III: KẾT LUẬN.................................................................................19

ii


PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người được biểu hiện đa dạng và vô
cùng phong phú, thể hiện trong từng việc làm, cử chỉ và mối quan tâm của
mỗi con người. Tất cả đều tốt lên tình u vơ hạn, sự tôn trọng, thái độ bao
dung và niềm tin tuyệt đối vào con người. Trước lúc đi xa, trong bản Di chúc
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn Đảng ta: ngay khi cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước thắng lợi thì “Đầu tiên là cơng việc đối với con người”, tức là
phải có chính sách xã hội đối với con người. Đó là những việc mà Đảng, Nhà
nước ta đã và đang thực hiện trong sự nghiệp đổi mới hiện nay .Tư tưởng đó
cũng chính là nội dung cơ bản của toàn bộ tư tưởng về phát triển con người
toàn diệncủa Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người nói: “Con người vừa là mục tiêu,
đồng thờivừa là động lực của sự nghiệp giải phóng xã hội và giải phóng chính

bản thân con người”.
Tư tưởng phát triển con người toàn diện của Người đã đang và sẽ cho
chúng ta những chỉ dẫn sáng suốt để xây dựng thành công chiến lược con
người toàn diện trong điều kiện mới ở nước ta. Xuất phát từ những luận điểm
trên, Tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh thơng qua thực tiễn cách mạng,
đã trở thành một sức mạnh vật chất to lớn và là nhân tố quyết định thắng lợi
cho sự nghiệp cách mạng. Do vậy, sau một thời gian học tập và tìm hiểu,
chúng em đã lựa chọn đề tài “ Tư tưởng HCM về con người - Giá trị lý
luận và thực tiễn” làm đề tài nghiên cứu để có cái nhìn sâu và rộng hơn về
vấn đề này.
2. Đối tượng nghiên cứu
Bài tiểu luận tập chung nghiên cứu về các khái niệm cũng như lý luận
về các vấn đề liên quan đến Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người
tồn diện. Từ đó đưa ra một số khuyến nghị phù hợp cho Đảng và nhà nước,

1


đồng thời vận dụng để đưa ra một số lời khuyên để sinh viên nói chung cũng
như sinh viên Đại học Bách Khoa nói riêng.
3. Phạm vi nghiên cứu
Bài tiểu luận được nghiên cứu và hồn thành trong vịng 2 tuần thơng
qua những giáo trình, tài liệu, trang báo chính thống đáng tin cậy.
4. Phương pháp nghiên cứu
Bài tiểu luận sử dụng phương pháp nghiên cứu chính là phương pháp
nghiên cứu tài liệu, ngồi ra cịn sử dựng các phương pháp khác như: Phương
pháp diễn dịch, Tư duy lôgic…
5. Giới thiệu nội dung nghiên cứu
Bài tiểu luận tập chung nghiên cứu về các lý luận về xây dựng con
người toàn diện. Ngồi ra cịn đưa ra một số vận dụng đối với Đảng & nhà

nước cũng như bản thân sinh viên. Ngoài phần Mở Đầu, Mục Lục, Kết Luận
và Tài liệu tham khảo thì bài tiểu luận cịn gồm:
NỘI DUNG:
CHƯƠNG I: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI TOÀN DIỆN
CHƯƠNG II: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHÁT TRIỂN
CON NGƯỜI TOÀN DIỆN

2


PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH VỀ CON NGƯỜI
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và vai trị của con người
1.1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người
- Con người là vốn quý nhất, là nhân tố quyết định thắng lợi của cách
mạng
Theo Hồ Chí Minh, lịch sử là do quần chúng nhân dân sáng tạo ra, chứ
không phải do vài ba cá nhân anh hùng nào, vì vậy chúng ta phải u dân, q
dân, trọng dân, vì “có dân là có tất cả”. Người nói: “Trong bầu trời khơng gì
q bằng nhân dân. Trong thế giới, khơng gì mạnh bằng lực lượng đồn kết
của nhân dân”. Do đó, “trong xã hội khơng có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục
vụ cho lợi ích của nhân dân”.
Từ đó, ta thấy nổi lên ở Hồ Chí Minh một tấm lịng yêu thương vô hạn
đối với con người, một niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh và phẩm giá con
người, một ý chí kiên quyết đấu tranh để giải phóng con người khỏi áp bức,
bất cơng, đói nghèo, lạc hậu. Cũng có thể coi đó là những nội dung cơ bản
của chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh.
- Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người hồn tồn xa lạ với các quan điểm
xem con người như là công cụ, như là phương tiện. Mọi chính sách tăng
trưởng kinh té, phát triển văn hố của Hồ Chí Minh đều hướng tới con ngươiì.
Người nói :”Phải đem hết sức dân, tài dân, của dân để làm lợi cho dân”, “dựa
vào lực lượng của dân, tinh thần của dân để gây hạnh phúc cho dân”, “chủ
nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân và
do nhân dân tự xây dựng lấy”.

( 2)

Qua đó, có thể thấy, trong tư tưởng Hồ Chí

Minh, con người-mục tiêu và con người-động lực là thống nhất, vì dân và do
3


dân là thống nhất. Để phát huy vai trò động lực của con người, Hồ Chí Minh
đã đề cập đến một hệ thống nội dung và biện pháp (vật chất và tinh thần)
nhằm tác động vào cái động cơ thúc đẩy tính tích cực hoạt động của con
người đồng thời, cũng chỉ ra những nội dung và biện pháp làm triệt tiêu các
trở lực nhằm thúc đẩy sự phát triển theo hướng tiến bộ. Trong hệ thống các
động lực chính trị-tinh thần, Hồ Chí Minh chú trọng trước hết dến giáo dục
chủ nghĩa yêu nước, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, đạo đức cách mạng…đồng
thời khơng coi nhẹ vai trị tác động của các nhân tố tinh thần khác, như văn
hoá, khoa học, pháp luật…đặc biệt, Người chú trọng phát huy quyền làm chủ
của nhân dân, coi “thực hành dân chủ là cái chìa khá vạn năng có thẻ giải
quyết mọi khó khăn”.
Là nhà duy vật macxit, Hồ Chí Minh hiểu hành động của con người luôn
gắn liền với nhu cầu và lợi ích của họ, vì vậy, đi đơi với các biện pháp chính
trị-tinh thần, Hồ Chí Minh khơng coi nhẹ hay bỏ qua các động lực vật chất,

khéo léo kết hợp các loại động lực với nhau, tạo sức mạnh tổng hợp, thúc đẩy
tính năng động cách mạng của con người. Người tơn trọng và khuyến hkhích
lợi ích cá nhân chính đáng của người lao động, chủ trương kết hợp ba lợi ích,
sao cho “Nhà nước, hợp tác xã và xã viên cùng có lợi”. Nhưng muống khai
thơng động lực thì phải khắc phục trở lực kìm hãm sự phát triển của con
ngưịi, tron đó “căn bệnh mẹ” cực kỳ nguy hiểm là chủa nghĩa cá nhân phải
được phê phán mạnh mẽ, kiên quyết tẩy trừ.
-Tư tưởng về chiến lược “trăm năm trồng người”.
Từ quan điểm về con người đến quan điểm về chiến lược “trồng người” là
một bước phát triển hợp logic của tư tưởng tríêt học Hồ Chí Minh. Để thực
hiện chiến lược kinh tế-xã hội thì chiến lược con người phải đi trước một
bước. Từ rất ssớm, Người đã nêu ra một luận điểm nổi tiếng: “Muốn xây
dựng chủ nghĩa xã hội thì trước hết cần có những con người XHCN”.

( 1)

Do

đó, “vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng
4


người”. “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng
và rất cần thiết” (Di chúc). Quan điểm “trồng người” của Hồ Chí Minh rất
tồn diện và phong phú, ở mỗi thời kỳ cách mạng. Người nêu ra những yêu
cầu khác nhau. Bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Người nhấn
mạnh đến các yêu cầu sau đây:
+ Có đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư, khơng
tham ơ, lãng phí, quan liêu, có ý thức làm chủ và tinh thần tập thể.
+ Có ý chí học hỏi, khơng ngừng vươn lên làm chủ những thành tựu văn

hoá, khoa học – kỹ thuật, những hiểu biết mới của thời đại. có tinh thần tìm
tịi, nghiên cứu, sáng tạo, nhạy bén với cái mới, biết vận dụng nó vào thực tế
công tác để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả. Tư tưởng Hồ Chí Minh
về con ngưịi và chiến lược trồng người là một hệ thống chặt chẽ, phong phú,
vừa khoa học, vừa cách mạng, là một bộ phận hợp thành của tư tưởng triết
học Hồ Chí Minh, một đóng góp quan trọng vào việc làm phong phú triết học
về con người của chủ nghĩa Mác-Lênin.
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trị của con người Việt Nam hiện nay
Sự thành cơng của q trình phát triển kinh tế ở nước ta địi hỏi ngồi
mơi trường chính trị ổn định, phải có những nguồn lực cần thiết như : nguồn
lực con người, vốn, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật, vị trí địa
lý... Các nguồn lực này có quan hệ chặt chẽ với nhau cùng tham gia vào q
trình cơng nghiệp hóa hiện đại hóa nhưng với mức độ khác nhau trong đó
nguồn lực con người là yếu tố quyết định.
Vai trò nguồn lực con người quan trọng như thế nào đã được chứng
minh trong lịch sử kinh tế của những nước tư bản phát triển như Nhật Bản,
Mỹ.
Ngày nay, đối với những nước lạc hậu đi sau, khơng thể phát triển nhanh
chóng nếu khơng tiếp thu những tiến bộ khoa học kỹ thuật- công nghệ hiện
5


đại của các nước phát triển. Nhưng không phải cứ nhập công nghệ tiên tiến
bằng mọi giá mà không cần tính đến yếu tố con người, cịn nhớ rằng cơng
nghệ tiên tiến của nước ngoài khi được tiếp thu sẽ phát huy tác dụng tốt hay
bị lãng phí thậm chí bị phá hoại là hoàn toàn phụ thuộc vào hành vi của con
người khi sử dụng chúng. Đó là một điều rất đáng lưu ý.
Như mọi quốc gia khác trên thế giới, sự nghiệp phát triển kinh tế ở Việt
Nam cũng phải phụ thuộc vào nguồn lực con người và do nguồn lực này
quyết định. Bởi những lí do sau:

Thứ nhất, các nguồn lực khác như vốn tài nguyên thiên nhiên, vị trí
địa lý... chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng chúng, chỉ phát huy tác dụng và có ý
nghĩa tích cực khi được kết hợp với nguồn lực con người thơng qua hoạt động
có ý thức của con người. Bởi lẽ con người là nguồn lực duy nhất biết tư duy
có trí tuệ và có ý chí, biết lợi dụng các nguồn lực khác và gắn kết chúng lại
với nhau, tạo thành một sức mạnh tổng hợp cùng tác động vào quá trình
CNH-HĐH phát triển kinh tế. Các nguồn lực khác đều là khách thể chịu sự
cải tạo và khai thác của con người, vì thế cho nên hết thảy chúng đều phục vụ
cho nhu cầu, lợi ích con người nếu họ biết cách tác động và chi phối. Do đó
trong các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, người lao động là yếu tố quan
trọng nhất, là lực lượng sản xuất hàng đầu của nhân loại.
- Thứ hai, các nguồn khác là hữu hạn, có thể bị khai thác cạn kiệt, trong
khi đó nguồn lực con người là vơ tận. Nó khơng chỉ tái sinh và tự sinh sản về
mặt sinh học mà còn tự đổi mới không ngừng nếu biết chăm lo, bồi dưỡng và
khai thác hợp lí. Đó là cơ sở làm làm cho năng lực nhận thức và hoạt động
thực tiễn của con người phát triển không ngừng, nhờ vậy con người đã biết
làm chủ tự nhiên, khám phá ra nhiều nguồn tài nguyên mới, phát minh ra
nhiều công cụ sản xuất hiện đại hơn, đưa xã hội chuyển từ thấp đến cao.

6


- Thứ ba, trí tuệ con người có sức mạnh vơ cùng to lớn một khi nó được
vật thể hóa, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Sự phát triển như vũ bão
của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật và công nghiệp hiện đại đang dẫn nền
kinh tế của các nước công nghiệp phát triển và vận động đến nền kinh tế của
trí tuệ. Gìơ đây sức mạnh của trí tuệ đã đạt đến mức mà nhờ nó con người có
thể sáng tạo ra những người máy “ bắt chước’’ hay “phỏng theo’’ những đặc
tính trí tuệ của chính con người. Rõ ràng là bằng những kỹ thuật cơng nghệ
hiện đại do chính bàn tay khối óc con người làm ra mà ngày nay nhân loại

được chứng kiến nhiều biến đổi thần kỳ trước cả quá trình phát triển của
mình.
- Thứ tư, kinh nghiệm nhiều nước và thực tiễn của chính nước ta cho
thấy sự thành cơng của phát triển kinh tế phụ thuộc chủ yếu vào việc hoạch
định đường lối chính sách cũng như cách tổ chức thực hiện của con người. Cơ
cấu lao động cần cho quá trình phát triển kinh tế phải bao gồm : các chính
khách, các nhà hoạch định chính sách, các học giả, các nhà kinh doanh, nhà
kỹ thuật và công nghệ, các cơng nhân lành nghề...Nếu khơng có các nhà chính
khách, các học giả thì khó có thể có được những chiến lược những chính sách
phát triển đúng đắn. Nếu khơng có các nhà kinh doanh thì cũng sẽ khơng có
những người sử dụng một cách có hiệu quả các nguồn vốn nhân lực công
nghệ. Sự thiếu vắng, kém cỏi của một trong các bộ phận cấu thành nhân lực
trên sẽ có hại cho q trình phát triển kinh tế đất nước.
Qua tồn bộ phân tích trên đây, ta có thể đi đến kết luận rằng nguồn lực
con người có vai trị quyết định cho sự thành cơng của q trình phát triển
kinh tế đất nước. Do vậy, muốn phát trriển kinh tế thành cơng thì phải đổi mới
cơ bản các chính sách đầu tư cho các ngành khoa học, văn hóa, y tế, giáo dục
ở Việt Nam nhằm phát triển nguồn lực con người. Đây là nhiệm vụ lớn nhất
và cũng được coi là khó khăn nhất trong cơng cuộc đổi mới hiện nay.

7


1.2.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về phương thức xây dựng con người
phát triển toàn diện

Để xây dựng con người mới phát triển tồn diện thì cần phải sử dụng
đồng bộ nhiều biện pháp, phù hợp với từng giai đoạn lịch sử nhất định. Tựu

trung lại, trong sự nghiệp cao cả ấy có thể khái quát thành những biện pháp cụ
thể chủ yếu sau đây:
1.2.1. Xây dựng con người phát triển tồn diện phải mang tính chủ động, tích
cực
Hồ Chí Minh cho rằng, cán bộ, đảng viên có vai trị rất lớn trong sự
nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa. Muốn cải tạo mình, khơng tự nâng cao
mình thì khơng thể được. Đảng phải quan tâm bồi dưỡng con người mới xã
hội chủ nghĩa trong công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động,
vì chủ nghĩa xã hội chỉ có thể xây dựng được với sự giác ngộ đầy đủ và lao
động sáng tạo của hàng chục triệu người.
Muốn có những con người như vậy xuất hiện trong cơng nhân, nơng
dân, trí thức và các tầng lớp xã hội khác, theo Hồ Chí Minh, cần phải chủ
động xây dựng nó. Người viết: “Ta xây dựng con người cũng phải có ý định
rõ ràng như nhà kiến trúc. Định xây dựng ngôi nhà như thế nào rồi mới dùng
gạch, vữa, vôi, cát, tre, gỗ… mà xây nên”. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, trong
hàng ngàn năm dưới ách áp bức bóc lột của chế độ phong kiến và hơn 80 năm
bị chế độ thực dân cai trị, trình độ dân trí kém phát triển, tính tích cực xã hội
của nhân dân còn thấp kém. Do vậy, nhiệm vụ quan trọng được đặt ra cho cả
dân tộc là cần tích cực chủ động cải tạo lại những con người hầu như sống
trong các tập tục cổ xưa, nâng họ lên thành những chủ nhân chân chính của xã
hội mới. Bằng hệ thống biện pháp bồi dưỡng những con người mới, đáp ứng
sự nghiệp lớn lao của cách mạng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan
tâm sâu sắc đến sự nghiệp giáo dục, nâng cao dân trí, để góp phần thúc đẩy sự
phát triển của nước nhà.
8


1.2.2. Phát triển giáo dục để xây dựng con người mới phát triển toàn diện
Tri thức là sức mạnh của mỗi con người và của cả dân tộc, vì vậy muốn
tạo nên sức mạnh ấy thì phải thơng qua giáo dục. Xuất phát từ tinh thần hiếu

học của dân tộc và từ yêu cầu mới của cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định vấn đề phát triển giáo dục, nâng cao dân trí vừa là vấn đề thời sự,
vừa là vấn đề lâu dài của tiến trình xây dựng và phát triển con người Việt
Nam mới. Vì lẽ ấy, phát triển giáo dục, nâng cao dân trí là một bộ phận quan
trọng hợp thành chiến lược xây dựng con người Việt Nam mới trong tư tưởng
Hồ Chí Minh.
Coi giáo dục có vai trị to lớn trong việc hình thành lí tưởng, củng cố
lịng u nước, phát triển nhân cách, đồng thời, coi con người là sức sống của
dân tộc, trí tuệ là sức mạnh nội sinh của con người, ngày 03-9-1945, ngay sau
Lễ tuyên bố độc lập một ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định nhiệm vụ
giáo dục và giáo dục lại nhân dân là một công việc cấp bách nhất sau khi
giành được chính quyền từ tay bọn thực dân và phát xít xâm lược. Người viết:
“Chúng ta có một nhiệm vụ cấp bách là giáo dục lại nhân dân chúng ta.
Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở thành một dân tộc dũng cảm, yêu
nước, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập”.
Nhấn mạnh tầm quan trọng đặc biệt của giáo dục trong việc xây dựng
con người mới xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh khẳng định: “Giáo dục là sự
nghiệp của quần chúng. Cần phải phát huy đầy đủ dân chủ xã hội chủ nghĩa,
xây dựng quan hệ thật tốt, đoàn kết thật chặt chẽ giữa thầy và thầy, giữa thầy
và trò, giữa học trò với nhau, giữa cán bộ các cấp, giữa nhà trường và nhân
dân để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ đó.
Giáo dục nhằm đào tạo những người kế tục sự nghiệp cách mạng to lớn
của Đảng và nhân dân ta, do đó các ngành, các cấp đảng và chính quyền phải
thật sự quan tâm hơn nữa đến sự nghiệp này, phải chăm sóc nhà trường về
mọi mặt, đẩy sự nghiệp giáo dục của ta lên những bước phát triển mới”.
9


Chủ tịch Hồ Chí Minh coi việc đào tạo, bồi dưỡng những con người
thuộc thế hệ trẻ, thanh niên, thiếu niên, nhi đồng là vấn đề có ý nghĩa chiến

lược to lớn và lâu dài. Người viết: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì nhất
định phải có học thức. Cần phải học văn hóa, chính trị, kỹ thuật. Cần phải học
lí luận Mác – Lê-nin kết hợp với đấu tranh và công tác hàng ngày. Cần phải
học kinh nghiệm tốt của các đồn thanh niên bạn. Học đi đơi với hành. Lê-nin
nói: ‘Khơng học thì khơng thể trở thành người cộng sản’” [9, tr.305-306].
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi thiếu niên, nhi đồng là người chủ tương lai
của đất nước, vì vậy, chăm sóc và giáo dục tốt các cháu là nhiệm vụ của tồn
Đảng, tồn dân. Cơng tác đó phải thực hiện kiên trì, bền bỉ.
Người ln nhắc nhở mọi người là phải học, học nữa, học mãi. Nhưng
học để làm gì? Người khẳng định: “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ.
Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại” [5,
tr.684].
1.2.3. Phát triển các phong trào thi đua yêu nước để xây dựng con người mới
phát triển toàn diện
Chủ tịch Hồ Chí Minh mong muốn làm cho cả dân tộc Việt Nam là một rừng
hoa, phải xây dựng mỗi tập thể là một vườn hoa đẹp, mỗi con người là một
bông hoa đẹp để cho rừng hoa dân tộc ngày càng đẹp. Muốn làm được điều
đó, theo Người, phải thông qua phong trào thi đua yêu nước, lao động sản
xuất, chiến đấu công tác để tạo nên ngày càng nhiều chiến sĩ thi đua, những
anh hùng, dũng sĩ. Họ là những con người mới, những người luôn luôn cố
gắng thực hành cần, kiệm, liêm, chính: là những người tơi của nhân dân, con
hiếu của Tổ quốc.
Trong vấn đề xây dựng con người mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh khơng
chỉ thấy mặt tốt, mà còn thấy cả mặt hạn chế của con người. Cho nên theo

10


Người, vừa cần phải nêu cái tốt để phát huy, vừa phải chỉ ra cái hạn chế để
ngăn ngừa và sửa chữa.

Trong việc dùng người, Hồ Chí Minh thường nhắc nhở cán bộ lãnh đạo
là cần phải hiểu biết con người, biết được sở trường và sở đoản của mỗi người
để bố trí họ vào những cơng việc phù hợp, phát huy được sở trường của họ
làm lợi cho công việc, mà bản thân họ cũng phấn khởi, tự tin và tích cực hơn.
1.2.4. Chống chủ nghĩa cá nhân, chống tham ơ, lãng phí, quan liêu
Suốt cuộc đời của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh thương yêu, quý trọng
con người, thương yêu, quý trọng nhân dân, đem hết sức mình phục vụ lợi ích
của nhân dân. Việc gì có lợi cho nhân dân dù nhỏ cũng làm, trái lại, những gì
có hại cho nhân dân dù nhỏ cũng tránh, khơng làm. Người ln thực hành
cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vô tư và động viên, cổ vũ mọi người thực
hiện những đức tính tốt đẹp đó, nhất là cán bộ, đảng viên cần phải gương mẫu
để quần chúng noi theo. Người đề cao chủ nghĩa tập thể, chống chủ nghĩa cá
nhân, coi chủ nghĩa cá nhân là nguồn gốc đẻ ra trăm thứ bệnh, là trở ngại cho
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Theo Người, tham ơ, lãng phí, quan liêu là những căn bệnh có nguồn
gốc từ chủ nghĩa cá nhân. Nó là kẻ thù của nhân dân, là thứ giặc ở trong lòng,
là kẻ thù nguy hiểm, vì nó khơng mang gươm, mang súng, mà nó nằm ngay
trong các tổ chức của ta. Do đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Chống
tham ơ, lãng phí và bệnh quan liêu cũng quan trọng và cần kíp như việc đánh
giặc trên mặt trận. Đây là mặt trận tư tưởng và chính trị. Cũng như ở các mặt
trận khác, muốn thắng ở mặt trận này, ắt phải chuẩn bị kế hoạch tổ chức, ắt
phải có lãnh đạo và trung kiên”. Người chỉ rõ “chống tham ơ, lãng phí, quan
liêu là cách mạng. Cách mạng là tiêu diệt những cái gì xấu, xây dựng những
cái gì tốt”. Đồng thời, Người cũng khẳng định: “Chống tham ơ, lãng phí, quan
liêu là dân chủ. Dân chủ là dựa vào lực lượng quần chúng, đi đúng đường lối

11


quần chúng. Cho nên phong trào chống tham ô, lãng phí, quan liêu ắt phải dựa

vào lực lượng quần chúng thì mới thành cơng”.

12


CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI VIỆT
NAM THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
2.1. Một số kết quả đạt được
Từ khi Nghị quyết 33 ra đời, Đảng ta đã ban hành một số văn bản góp
phần cụ thể hóa chủ trương xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện
đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững. Hệ thống chính trị và các tầng lớp xã
hội đã chủ động hơn trong việc giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống,
xây dựng thế giới quan, nhân sinh quan khoa học, cách mạng, nhân văn, lấy
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng.
Các cơ quan Trung ương và địa phương đã khẩn trương triển khai
tuyên truyền, ban hành các văn bản chỉ đạo, quản lý theo chức năng, nhiệm vụ
được giao, tạo cơ sở pháp lý và điều kiện để các tổ chức trong xã hội tập trung
trí tuệ, cơng sức xây dựng con người. Nhận thức về quan điểm, nhiệm vụ xây
dựng con người phát triển toàn diện trong Đảng và các tầng lớp nhân dân
ngày một rõ ràng, cụ thể hơn. Vai trò của con người ngày càng thể hiện và tác
động lớn trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội. Bước đầu tạo được sự gắn
kết phát triển văn hóa với xây dựng con người, lấy việc chăm lo xây dựng con
người có nhân cách, lối sống tốt đẹp làm trọng tâm.
Tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, tính tích cực xã hội của nhân
dân được phát huy. Dân chủ xã hội được mở rộng cùng với quá trình hội nhập
quốc tế sâu rộng và tiếp cận với các phương tiện truyền thông mới đã làm cho
con người Việt Nam luôn đổi mới tư duy, năng động, sáng tạo hơn, có nhiều
cơ hội tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Các giá trị đạo đức truyền thống
được giữ gìn, phát huy và thay đổi theo hướng phù hợp với nền kinh tế thị
trường, hội nhập quốc tế. Hình thành nếp sống văn minh, tác phong cơng

nghiệp, tính chun nghiệp, thiết thực, hiệu quả, đề cao, tơn trọng con người;
quan tâm nâng cao trí tuệ, cải thiện chất lượng sức khỏe, tầm vóc con người
Việt Nam. Theo Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 2019, tuổi thọ trung bình
13


con người Việt Nam năm 2019 là 73,6 tuổi. Từ 1990 đến 2018, tổng thu nhập
bình quân đầu người đã tăng lên 354,5%. Năm 2019, tổng thu nhập bình quân
đầu người gần 2.800 USD. Việt Nam nằm trong nhóm các nước có tốc độ
tăng trưởng chỉ số phát triển con người (HDI) cao nhất trên thế giới, với tăng
trưởng trung bình HDI ở mức 1,36% trong suốt giai đoạn 1990 - 2018. Đây là
thành tựu rất đáng để Việt Nam tự hào về xây dựng con người.
HDI của Việt Nam năm 2019 là 0,63, xếp thứ 118/189 quốc gia và
vùng lãnh thổ về chỉ số này và chỉ cần thêm 0,007 điểm để vào được nhóm
các nước có HDI ở mức cao.
Phong trào “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại”
được triển khai thực hiện rộng khắp trên các địa bàn từ thành thị đến nông
thôn. Năm 2018, số người tập luyện thể dục thể thao thường xun trên tồn
quốc đạt 32,35%; số gia đình tập luyện thể thao thường xuyên đạt 23,41%
tổng số hộ. Thể lực, tầm vóc con người Việt Nam được cải thiện, ý thức bảo
vệ môi trường sống được nâng lên.
Công tác phịng, chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí, suy thối tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong nội bộ cán bộ, đảng viên, nhân dân có
chuyển biến, góp phần xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh,
tạo mơi trường văn hóa, xã hội lành mạnh, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm
chất đạo đức, trình độ chun môn của cán bộ, đảng viên, nhân dân; tạo niềm
tin của nhân dân đối với chế độ.
2.2. Một số hạn chế, yếu kém
Có thể thẳng thắn nhìn nhận, cơng tác tổ chức thực hiện nhiệm vụ phát
triển con người theo tinh thần Nghị quyết 33 chưa đều khắp các lĩnh vực,

vùng miền. Nhận thức chung của xã hội về vai trị, vị trí của con người theo
tinh thần Nghị quyết số 33 còn chung chung. Trong tổ chức thực hiện Nghị

14


quyết, quan điểm xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người
có nhân cách, lối sống tốt đẹp chưa được triển khai mạnh mẽ.
Tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một
bộ phận cán bộ, đảng viên, chưa thực sự được đẩy lùi. Một số mặt đạo đức xã
hội có biểu hiện xuống cấp nghiêm trọng. Ở một số nơi, vẫn cịn tình trạng kẻ
xấu lợi dụng sự ngộ nhận về lòng yêu nước của một bộ phận người dân phục
vụ mục đích chống phá chế độ.
Hệ giá trị chuẩn mực văn hóa và con người Việt Nam làm cơ sở triển
khai trong thực tiễn chưa được ban hành. Một bộ phận cán bộ, nhân dân có
tâm lý sính ngoại, tiêu dùng sản phẩm văn hóa cũng như tiếp nhận lối sống
thiếu chọn lọc, ảnh hưởng đến giữ gìn truyền thống văn hóa dân tộc và xây
dựng con người trước thách thức tồn cầu hóa. Chất lượng nguồn nhân lực
của Việt Nam còn ở mức thấp so với khu vực Đơng Nam Á.
Sự phối hợp giữa gia đình - nhà trường - xã hội trong giáo dục con
người chưa thường xuyên. Công tác giáo dục nghệ thuật, nâng cao năng lực
thẩm mỹ trong các tầng lớp nhân dân chưa được coi trọng. Nhiều hoạt động
văn hóa và dịch vụ văn hóa cơng cộng bị “thương mại hóa”, hạ thấp tính giáo
dục, chiều theo thị hiếu tầm thường của một bộ phận người dân, gây hậu quả
xấu trong xây dựng con người. Cơng tác xã hội hóa xây dựng con người chưa
động viên tối đa. Một số phong trào biểu dương, tơn vinh gương người tốt
việc tốt, điển hình tiên tiến, danh hiệu thi đua chưa đi vào thực chất, chạy theo
số lượng và hình thức.
Cuộc đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, tiêu cực xã hội chưa
thường xuyên, liên tục. Một số nơi còn coi nhẹ việc đấu tranh, phịng chống

các biểu hiện suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trên lĩnh vực văn hóa, ảnh hưởng đến nhiệm vụ xây

15


dựng con người. Những giải pháp mang tính đột phá khắc phục những mặt
hạn chế của con người Việt Nam chưa được đề xuất.
CHƯƠNG III: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH ĐỂ
PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI VIỆT NAM TỒN DIỆN
2.1. Đối với Đảng và Nhà nước
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người nói chung, về xây dựng con người
mới phát triển tồn diện nói riêng là cơ sở khoa học cho đường lối, quan điểm
của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình xây dựng và phát triển con
người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
Trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng, để đẩy mạnh sự nghiệp
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cần phải thực sự coi con người vừa là
mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội; cần phải chú trọng
phát triển con người Việt Nam một cách toàn diện, cần phải nâng cao dân trí,
phát triển nguồn nhân lực, đào tạo và bồi dưỡng nhân tài, phát triển nhân cách
con người Việt Nam vừa “hồng thắm” vừa “chuyên sâu”. Không phải ngẫu
nhiên, Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã
khẳng định: “Xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới
với những đức tính sau:
-

Có tinh thần u nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc

và chủ nghĩa xã hội, có chí vươn lên đưa đất nước thốt khỏi nghèo nàn lạc
hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hịa bình, độc

lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
-

Có ý thức tập thể, đồn kết, phấn đấu vì lợi ích chung.

-

Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân

nghĩa, tôn trọng kỉ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo
vệ và cải thiện môi trường sinh thái.

16


-

Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kĩ thuật, sáng tạo,

năng suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.
-

Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chun mơn, trình

độ thẩm mĩ và thể lực” .
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa
xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta khẳng định: “Con người là
trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng
và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân
tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân. Kết hợp và phát huy đầy đủ vai

trị của xã hội, gia đình, nhà trường, từng tập thể lao động, các đoàn thể và
cộng đồng dân cư trong việc chăm lo xây dựng con người Việt Nam giàu lịng
u nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm cơng dân; có tri thức, sức khỏe, lao
động giỏi; sống có văn hóa, nghĩa tình; có tinh thần quốc tế chân chính”.
Đặc biệt, Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa
XI đã khẳng định, cần phải xây dựng và phát triển nền văn hóa và con người
Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Trong đó, Đảng ta
chủ trương “chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với
các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đồn kết, cần
cù, sáng tạo” và khẳng định: “Chăm lo xây dựng con người Việt Nam phát
triển toàn diện, trọng tâm là bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân
tộc, đạo đức, lối sống và nhân cách. Tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức,
ý thức tôn trọng pháp luật, mọi người Việt Nam đều hiểu biết sâu sắc, tự hào,
tôn vinh lịch sử, văn hóa dân tộc”.
Con người mới phát triển tồn diện đảm bảo mục tiêu phát triển bền
bền vững là “con người có thế giới quan khoa học, hướng tới chân - thiện mĩ” , có “lối sống “Mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người”; hình
thành lối sống có ý thức tự trọng, tự chủ, sống và làm việc theo Hiến pháp và

17


pháp luật, bảo vệ mơi trường; kết hợp hài hịa tính tích cực cá nhân và tính
tích cực xã hội; đề cao trách nhiệm cá nhân đối với bản thân, gia đình và xã
hội”.
Muốn thực hiện được điều đó, Đảng ta nêu lên những nhiệm vụ chủ yếu, đó
là: “Gắn xây dựng, rèn luyện đạo đức với thực hiện quyền con người, quyền
và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Nâng cao trí lực, bồi dưỡng tri thức cho con
người Việt Nam đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, của kinh tế tri thức và xã hội học tập…
Tăng cường giáo dục nghệ thuật, nâng cao năng lực cảm thụ thẩm mỹ

cho nhân dân, đặc biệt là thanh niên, thiếu niên. Phát huy vai trò của văn học nghệ thuật trong việc bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm của con người. Bảo đảm
quyền hưởng thụ và sáng tạo văn hóa của mỗi người dân và của cộng đồng.
Nâng cao thể lực, tầm vóc con người Việt Nam, gắn giáo dục thể chất
với giáo dục tri thức, đạo đức, kĩ năng sống, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
Đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu; chống
các quan điểm, hành vi sai trái, tiêu cực ảnh hưởng xấu đến xây dựng nền văn
hóa, làm tha hóa con người. Có giải pháp khắc phục những mặt hạn chế của
con người Việt Nam” .
Do vậy, cần phải phát triển văn hóa, giáo dục – đào tạo, khoa học –
công nghệ; hướng các lĩnh vực ấy vào việc phát triển con người Việt Nam đáp
ứng yêu cầu phát triển bền vững, đồng thời cần phải đổi mới cơ chế, chính
sách sử dụng nguồn nhân lực một cách hợp lí nhất, nhằm đạt hiệu quả cao
nhất trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
2.2. Đối với sinh viên
Trường ĐHBK Hà Nội tạo dựng môi trường học tập năng động, thân
thiện – nơi lý tưởng giúp sinh viên trở thành những cá nhân nổi bật, linh hoạt,
18



×