Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Vấn đề con người trong tư tưởng triết học hồ chí minh và phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.41 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
PHẦN I: MỞ ĐẦU..........................................................................................1
PHẦN II: NỘI DUNG.....................................................................................2
CHƯƠNG I: VẤN ĐỀ CON NGƯỜI TRONG TƯ TƯỞNG TRIẾT
HỌC HỒ CHÍ MINH..................................................................................2
1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về con người................2
1.1.1.

Nhu cầu khách quan của lịch sử – xã hội.................................2

1.1.2. Truyền thống văn hóa Việt Nam.................................................3
1.1.3. Tinh hoa văn hóa nhân loại.........................................................3
1.1.4. Chủ nghĩa Mác – Lênin...............................................................4
1.2. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về con người..........4
1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp, giải phóng nhân dân lao động........................................................4
1.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của cách mạng........................................................................5
1.2.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người tồn diện..........5
CHƯƠNG II: PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG SỰ
NGHIỆP ĐỔI MỚI VIỆT NAM, VẬN DỤNG TRONG NGÀNH Y TẾ
.......................................................................................................................6
2.1. Phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới Việt Nam. 6
2.1.1. Vấn đề đặt ra đối với con người Việt Nam hiện nay...................6
2.1.2. Phương hướng xây dựng con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu
thời đại mới...........................................................................................7
2.2. Xây dựng con người trong lĩnh vực y tế.........................................9
2.2.1. Vai trò con người trong lĩnh vực y tế..........................................9


2.2.2. Một số hạn chế..........................................................................10


2.2.3. Một số giải pháp phát triển con người trong lĩnh vực y tế........12
PHẦN III: KẾT LUẬN.................................................................................14
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................15


PHẦN I: MỞ ĐẦU
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người được biểu hiện đa dạng và vô
cùng phong phú, thể hiện trong từng việc làm, cử chỉ và mối quan tâm của
mỗi con người. Tất cả đều toát lên tình u vơ hạn, sự tơn trọng, thái độ bao
dung và niềm tin tuyệt đối vào con người. Trước lúc đi xa, trong bản Di chúc
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn Đảng ta: ngay khi cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước thắng lợi thì “Đầu tiên là cơng việc đối với con người”, tức là
phải có chính sách xã hội đối với con người. Đó là những việc mà Đảng, Nhà
nước ta đã và đang thực hiện trong sự nghiệp đổi mới hiện nay .Tư tưởng đó
cũng chính là nội dung cơ bản của toàn bộ tư tưởng về phát triển con người
tồn diệncủa Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người nói: “Con người vừa là mục tiêu,
đồng thờivừa là động lực của sự nghiệp giải phóng xã hội và giải phóng chính
bản thân con người”.
Tư tưởng phát triển con người của Bác đã đang và sẽ cho chúng ta
những chỉ dẫn sáng suốt để xây dựng thành công chiến lược con người toàn
diện trong điều kiện mới ở nước ta. Xuất phát từ những luận điểm trên, Tư
tưởng về con người của Hồ Chí Minh thơng qua thực tiễn cách mạng, đã trở
thành một sức mạnh vật chất to lớn và là nhân tố quyết định thắng lợi cho sự
nghiệp cách mạng. Do vậy, sau một thời gian học tập và tìm hiểu, chúng em
đã lựa chọn đề tài “ Trình bày vấn đề con người trong tư tưởng triết học
Hồ Chí Minh và phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới ở
Việt Nam. Qua đó vận dụng vào việc xây dựng con người trong lĩnh vực y
tế ở nước ta hiện nay” làm đề tài nghiên cứu để có cái nhìn sâu và rộng hơn
về vấn đề này.



PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: VẤN ĐỀ CON NGƯỜI TRONG TƯ TƯỞNG TRIẾT
HỌC HỒ CHÍ MINH
1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về con người
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người là sự kết tinh của những quan
điểm về con người trong lịch sử tư tưởng nhân loại (phương Đông, phương
Tây, Mác- Lênin) được thể hiện một cách cụ thể, sinh động ở Việt Nam.
Những tư tưởng ấy, được hình thành, phát triển và quán xuyến suốt cuộc đời
hoạt động của Người. Sự ra đời của tư tưởng Hồ Chí Minh về con người là
một tất yếu lịch sử; là sản phẩm của sự kết hợp giữa những điều kiện lịch sử –
xã hội với phẩm chất, năng lực cá nhân. Những cơ sở cơ bản để hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh về con người, đó là :
1.1.1. Nhu cầu khách quan của lịch sử – xã hội.
Những năm đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản đã phát triển thành chủ
nghĩa đế quốc, cùng với mâu thuẫn vốn có trong lịng xã hội tư bản là mâu
thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản; giờ đây còn xuất hiện mâu thuẫn
mới – mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa bị áp bức, bóc lột với chủ nghĩa
đế quốc, thực dân xâm lược.
Sự thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Mười Nga vào năm 1917 đã
mở ra một kỷ nguyên mới – kỷ nguyên từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội trên phạm vi toàn thế giới.
Ở trong nước, do bị thực dân Pháp xâm lược, Việt Nam trở thành một
nước thuộc địa nửa phong kiến dưới ách đô hộ, thống trị của thực dân Pháp.
Với chính sách thực dân cũ nhằm vơ vét tài nguyên khoáng sản làm giàu cho
chính quốc, thực dân Pháp đã đẩy cuộc sống của người dân Việt Nam vào
hoàn cảnh bần hàn, cơ cực, chìm trong đau khổ, tủi nhục vì mất nước. Với
một tinh thần “Nam quốc sơn hà nam đế cư” bất khuất, không cam chịu cúi



đầu làm nô lệ, cha ông ta đã tổ chức rất nhiều phong trào kháng chiến nhằm
đánh đuổi thực dân Pháp giành lại độc lập, tự do cho dân tộc, nhưng tất cả các
phong trào ấy đều thất bại. Trước tình hình ấy, địi hỏi phải tìm ra con đường
giải phóng để cứu dân, cứu nước, địi hỏi ấy đã trở thành một đòi hỏi khách
quan đối với mỗi người và đối với cả dân tộc. Trong điều kiện như vậy, tư
tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng Hồ Chí Minh về con người nói
riêng đã từng bước được hình thành.
1.1.2. Truyền thống văn hóa Việt Nam
“Truyền thống văn hóa Việt Nam, nổi bật là chủ nghĩa yêu nước, tinh
thần nhân ái cố kết dân tộc đã được hun đúc qua hàng ngàn năm đấu tranh
kiên cường, bất khuất, tự lực, tự cường, thông minh, sáng tạo, chống giặc
ngoại xâm, bảo vệ độc lập của dân tộc và bảo tồn nền văn hiến của đất nước,
chống mọi âm mưu đồng hóa của ngoại bang”. “Truyền thống đó, khơng chỉ
là một tình cảm, một phẩm chất tinh thần, mà đã phát triển thành chủ nghĩa
yêu nước, chủ nghĩa dân tộc chân chính, thành dịng chủ lưu của tư tưởng
Việt Nam” chính sức mạnh ấy của truyền thống yêu nước đã thúc đẩy Nguyễn
Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước; là cơ sở tư tưởng dẫn Người đến với chủ
nghĩa Mác-Lênin. Người tiếp thu lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin
bắt đầu từ lý luận về dân tộc và thuộc địa. Vì vậy, có thể nói truyền thống văn
hóa Việt Nam, nổi bật là chủ nghĩa yêu nước, tinh thần nhân ái cố kết dân tộc
là một trong những nguồn gốc chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh.
1.1.3. Tinh hoa văn hóa nhân loại
Ngồi truyền thống văn hóa dân tộc. Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh
cịn chịu ảnh hưởng của văn hóa phương Đơng (Nho giáo, Phật giáo, Lão
giáo). Người còn tiếp thu và kế thừa một cách có phê phán, có chọn lọc các tư
tưởng nhân văn của văn hóa Phục hưng, của thế kỷ Ánh sáng, của cách mạng
tư sản phương Tây và của cách mạng Trung Quốc. Ngồi ra, trên con đường
bơn ba đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh cịn khơng ngừng tự học tập, học



hỏi để làm giàu vốn trí tuệ của mình bằng những di sản quý báu của văn hóa
nhân loại.
1.1.4. Chủ nghĩa Mác – Lênin
Khi đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, tiếp thu cơ sở lý luận của chủ
nghĩa Mác, đây là bước ngoặt, tạo nên sự phát triển mới về chất của tư tưởng
Hồ Chí Minh. “Đây là bước ngọăt cơ bản trong quá trình đi tìm đường cứu
nước và quá trình phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh : Chủ nghĩa yêu nước đã
gắn liền với chủ nghĩa xã hội; giác ngộ dân tộc đã phát triển và kết hợp với
giác ngộ giai cấp; cách mạng giải phóng dân tộc gắn liền với cách mạng vơ
sản. Bước ngoặt đó đánh dấu sự định hình và khẳng định tư tưởng Hồ Chí
Minh thuộc hệ tư tưởng của giai cấp vơ sản- Chủ nghĩa Mác-Lênin, mang bản
chất cách mạng và khoa học triệt để”
1.2. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về con người.
Mặc dù khơng có một tác phẩm lý luận riêng nào về con người, nhưng
tất cả các bài viết và cả cuộc đời Hồ Chí Minh là vì con người, do con người;
thương u, tơn trọng, tin tưởng con người, bồi dưỡng và phát triển tài năng
con người. Đó chính là chủ nghĩa nhân văn hiện thực, cao cả của Hồ Chí
Minh.
Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về con người được thể hiện qua
“tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng nhân dân lao
động; tư tưởng về con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng;
tư tưởng về phát triển con người toàn diện”
1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng nhân dân lao động.
Đây là một nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về con người.
Nội dung này thường xuyên được Người đề cập đến trong các bài viết, bài nói
chuyện của mình; qua đó thể hiện một số luận điểm cơ bản, đó là :


-


Độc lập tự do là quyền bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc.

-

Giải phóng dân tộc trước hết phải do chính các dân tộc thực hiện.

-

Giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải phóng giai cấp, giải phóng

nhân dân lao động.
Như vậy, “tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp, giải phóng nhân dân lao động là tư tưởng kết hợp giữa dân tộc với giai
cấp, dân tộc với quốc tế, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội”
1.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của cách mạng.
Như trên đã trình bày, Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến con người, tất
cả vì con người, do con người thương yêu, tôn trọng, tin tưởng con người, bồi
dưỡng và phát triển tài năng của con người. Phạm Văn Đồng viết : “HCM hết
sức coi trọng chiến lược con người. Đối với Hồ Chí Minh, con người là mục
tiêu đồng thời là nhân tố quyết định thành công của cách mạng” HCM cho
rằng, “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết, cần có những con người
xã hội chủ nghĩa” Người quan niệm, cuộc sống của nhân dân là mục tiêu của
mọi hoạt động cách mạng; ngay cả”… nước độc lập mà dân khơng hưởng
hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Như vậy, trong tư
tưởng của Người; Sự nghiệp cách mạng, thành quả cách mạng là của dân, do
dân và vì dân.
1.2.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện
Phát triển con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh, trước hết là quan

niệm giáo dục, đào tạo con người. Về vấn đề này, Người viết : “vì lợi ích
mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người””Trồng
người” theo Người, trước hết là giáo dục, rèn luyện đạo đức, bồi dưỡng tài
năng cho con người, làm cho con người vừa “hồng” vừa” chuyên” theo
phương châm “lý luận phải gắn liền với thực tiễn”. Tiêu chuẩn cơ bản, hàng


đầu của con người toàn diện là con người phải có đức và có tài, trong đó đức
là gốc. Với đức, yêu cầu cơ bản là : “trung với nước, hiếu với dân; thương yêu
con người; cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng, vơ tư; có tinh thần quốc tế vơ
sản”. Nguyên tắc cơ bản để phát triển con người toàn diện là tu dưỡng, rèn
luyện trong hoạt động thực tiễn, thực hiện đồng bộ quá trình giáo dục và tự
giáo dục.
1.2.4. Tổng kết
Trong vấn đề con người, điều mà Hồ Chí Minh quan tâm nhất đó là con
người Việt Nam, những quan hệ xã hội trong xã hội Việt Nam, Người đã nêu
rõ ý kiến riêng, quan điểm của mình khi tiếp thu những truyền thống tốt đẹp
của dân tộc, những ý kiến, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về con
người. Quan điểm của Người về con người và bản chất của con người đều
xuất phát từ thực tiễn, Người đưa ra những quan điểm chủ yếu về con người
rất độc đáo mà rất thiết thực. Người định nghĩa về con người: "Chữ người,
nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả
nước. Rộng nữa là cả loài người". Như vậy, con người không phải là những
cá thể biệt lập. Chỉ có trong quan hệ xã hội, trong hoạt động thực tiễn xã hội
con người mới có lao động, ngơn ngữ, tư duy, chế tạo công cụ lao động, mới
thật sự trở thành con người đúng nghĩa.
Thứ nữa, theo Hồ Chí Minh, con người muốn tồn tại thì phải có ăn,
mặc, ở, đi lại... Nhưng đời sống con người không chỉ dừng lại ở vật chất, mà
còn những nhu cầu tinh thần, văn hóa là những đặc trưng của con người. Tất
cả nhu cầu về vật chất và tinh thần đó được đáp ứng hay khơng, lại hồn tồn

phụ thuộc vào chế độ xã hội, vào hình thái kinh tế - xã hội mà con người đang
sống. Người nói: "đồng bào ai cũng có ăn, có mặc,..." vì đây là những điều
thiết yếu để tồn tại. Người vẫn nhớ và thường nhắc lại "Dân dĩ thực vi thiên"
(Dân lấy ăn làm trời, nếu khơng có ăn là khơng có trời). Lại có câu "Có thực
mới vực được đạo" (Khơng có ăn thì chẳng làm được việc gì cả). Từ đó ta


thấy việc quan tâm đến cái ăn, cái mặc, cái ở của nhân dân luôn đặt lên hàng
đầu trong mối quan tâm của Hồ Chí Minh.
Đối với Ðảng Cộng sản Việt Nam, lực lượng duy nhất lãnh đạo cách
mạng Việt Nam, lãnh đạo nhân dân, lãnh đạo đất nước..., Hồ Chí Minh nhấn
mạnh trách nhiệm đối với đời sống của nhân dân. Ðó là những việc cần phải
làm ngay: "1.Làm cho dân có ăn. 2. Làm cho dân có mặc. 3. Làm cho dân có
chỗ ở. 4. Làm cho dân có học hành. Cái mục đích chúng ta đi đến là bốn điều
đó. Ði đến để dân nước ta xứng đáng với tự do độc lập và giúp sức được cho
tự do độc lập". Người căn dặn: "chính sách của Ðảng và Chính phủ là phải hết
sức chăm nom, đến đời sống của nhân dân". Nếu dân đói, dân rét, dân dốt là
Ðảng có lỗi.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, trong các giai cấp bóc lột ở Việt
Nam chỉ có một số ít cam tâm làm tay sai cho thực dân đế quốc, chỉ có một số
ít là phản lại dân tộc và đất nước, còn đại bộ phận vẫn thấy cái nhục mất nước
của con người Việt Nam. Truyền thống lịch sử và văn hóa dân tộc đã hun đúc
nên tinh thần văn hóa tiềm ẩn bên trong mọi người dân Việt Nam, bất kể giai
cấp nào. Cho nên nếu làm thức tỉnh tinh thần dân tộc ở họ, thì họ vẫn đứng về
phía dân tộc đối mặt với bọn đế quốc thực dân. Từ đó, Người đã sớm đưa ra
chủ trương phân hóa giai cấp địa chủ thành thị, trung, tiểu địa chủ; phân hóa
giai cấp tư sản thành tư sản dân tộc, tư sản mại bản, không phân biệt giai cấp,
dân tộc, tôn giáo, không phân biệt giàu nghèo...
Trong tiến trình lịch sử Việt Nam, đây là một trong những thắng lợi của
tư tưởng Hồ Chí Minh. Thắng lợi ấy đã chứng minh Hồ Chí Minh đã giải

quyết đúng đắn mối quan hệ dân tộc - giai cấp một cách sáng tạo, không chỉ
trong đường lối cách mạng, mà còn về mặt con người, và con người Việt Nam
với những điều kiện lịch sử cụ thể của nó.


Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê-nin về vai trị của con
người, Hồ Chí Minh đã sớm khẳng định sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải
phóng xã hội và giải phóng con người là sự nghiệp của giai cấp vô sản, của
nhân dân lao động và của cả dân tộc, với tinh thần "phải đem sức ta mà giải
phóng cho ta". Hồ Chí Minh nhìn thấy sức mạnh của giai cấp vô sản, của
nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam khơng chỉ với những gì đã được bộc
lộ, mà còn ở những điều tiềm ẩn bên trong những lực lượng to lớn ấy. Người
tin tưởng sâu sắc rằng khi giai cấp vô sản, nhân dân lao động các dân tộc
thuộc địa trên thế giới thức tỉnh, tổ chức và đấu tranh theo đường lối đúng đắn
thì sức mạnh sẽ trở thành vơ địch và nhất định sẽ giành được thắng lợi trong
cuộc cách mạng độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh đã đi đến tổng kết, một dân tộc dù nhỏ bé sẽ không bị
một dân tộc lớn gấp hàng chục lần thơn tính và đồng hóa nếu dân tộc ấy phát
huy được sức mạnh con người với những phẩm chất tinh thần, tư tưởng và
văn hóa. Ðối với dân tộc Việt Nam, con người làm ra lịch sử, nhân dân là chủ
thể của lịch sử, là chân lý cụ thể, sinh động đã được Hồ Chí Minh củng cố và
nâng cao thành triết lý nhân sinh. Triết lý nhân sinh này đã được phát huy và
đã được chứng minh hùng hồn trong lịch sử hiện đại của dân tộc. Phải đương
đầu với hai đế quốc to, trong khi lực lượng ta yếu về nhiều mặt, nhưng Hồ
Chí Minh vững tin ở nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Ðảng, sẽ biến ít thành
nhiều, nhỏ thành lớn, yếu thành mạnh, tạo được cả thế và lực để giành thắng
lợi.
Lịng tin của Hồ Chí Minh vào nhân dân là do thấm nhuần sâu sắc
truyền thống lịch sử dân tộc về phẩm chất của con người Việt Nam: "Dân ta
có một lịng nồng nàn u nước. Ðó là một truyền thống quý báu của ta. Từ

xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sơi nổi, nó kết
thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm,
khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước".


CHƯƠNG II: PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG SỰ
NGHIỆP ĐỔI MỚI VIỆT NAM, VẬN DỤNG TRONG NGÀNH Y
TẾ
2.1. Phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới Việt Nam
2.1.1. Vấn đề đặt ra đối với con người Việt Nam hiện nay
Cùng với thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà đất nước ta đã đạt
được trong hơn 30 năm qua, chúng ta cũng đang và sẽ phải đương đầu, phải
giải quyết những khó khăn, thách thức mới do tác động của mặt trái kinh tế
thị trường và quá trình hội nhập, nhất là những tác động về mặt xã hội, tư
tưởng, tâm lý.
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ, nhất là công nghệ thông tin và xu
hướng tồn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, sâu sắc, tạo ra nhiều cơ hội và cả những
thách thức gay gắt đối với quá trình phát triển đất nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc”. Bên cạnh việc tiếp thu
những thành tựu khoa học và tinh hoa văn hóa nhân loại thì khơng ít những
yếu tố tiêu cực đã du nhập và đang làm xói mịn phẩm chất cao đẹp của con
người Việt Nam mà đảng đã dày công vun đắp. Trong một bộ phận thế hệ
thanh niên ngày nay, đang xuất hiện những hiện tượng thối hóa về tinh thần,
lối sống và thể lực rất đáng lo ngại.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là xu hướng phát triển của các nước trên
thế giới. Đó cũng là con đường phát triển tất yếu của nước ta để đi lên mục
tiêu “ Xã hội công bằng văn minh, dân giàu nước mạnh” cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa khơng chỉ là cơng cuộc xây dựng kinh tế mà chính là q trình
biến đổi cách mạng sâu sắc với lĩnh vực đời sống xã hội (kinh tế, chính trị,
khoa học của con người…) làm cho xã hội phát triển lên một trạng thái mới

về chất. Sự thành cơng của q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa phụ thuộc
nhiều vào nguồn lực con người đủ về số lượng mạnh về chất lượng.


Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản
Việt Nam xác định mục tiêu chung của cách mạng Việt Nam là “độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân
chủ, văn minh”, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
là : “phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.
Từ những yêu cầu, mục tiêu chung và nhiệm vụ đặt ra cho cách mạng Việt
Nam trên đây, đòi hỏi người Việt Nam phải phát huy được những ưu điểm và
hạn chế trong truyền thống để đáp ứng yêu cầu, mục tiêu, nhiệm vụ của cách
mạng Việt Nam trong giai đoạn mới hiện nay.
2.1.2. Phương hướng xây dựng con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu thời đại
mới
Một vài giải pháp để góp phần phát huy các yếu tố tích cực, hạn chế
các mặt tiêu cực, để kích thích, mọi tiềm năng ở từng con người phát triển, tạo
ra những con người say sưa, năng đơng, tích cực, lao đông, học tập, công
tác, ..., đạt năng suất cao, hiệu quả kinh tế tốt, làm ra nhiều sản phẩm hàng
hóa, đưa mức thu nhập, mức sống của con người ngày càng cao cùng với lối
sống văn minh, có đạo đức, nhân phẩm ngày càng tốt đẹp.
Thứ nhất: Nâng cao mặt bằng dân trí, phát triển, bồi dưỡng và trọng
dụng nhân tài: phát triển giáo dục mầm non, thanh toán nạn mù chữ cho
người lao động. Thơng qua các chính sách các quy định của Nhà nước để điều
chỉnh cơ cấu đào tạo một cách hợp lý nhằm đạt tới sự can đối giữa đào tạo va
sử dụng các trình độ, các ngành nghề khác nhau, đặc biệt đảm bảo được nhân
lực cho các ngành mũi nhọn… Bảo đảm tri thức cần thiết để mọi người gia
nhập cuộc sống xã hội và kinh tế theo kịp tiến trình đổi mới và phát triển của
đất nước. Xây dựng và phát triển lực lượng khoa học và kỹ thuật một cách

cân đối, đồng bộ, có chất lượng và cơ cấu phù hợp với chiến lược phát triển
chung, với các hướng khoa học, kỹ thuật và kinh tế ưu tiên trong từng giai


đoạn là một nhiệm vụ có tầm quan trọng lớn. Một mặt, phải tiếp tục đào tạo
tốt đội ngũ cán bộ chuyên môn và nghiên cứu khoa học, cán bộ đầu ngành và
liên ngành ( cả khoa học xã hội, khoa học tự nhiện và khoa học kỹ thuật); đặc
biệt chú trọng đào tạo các kỹ sư thực hành, kỹ sư thiết kế, kỹ sư cơng nghệ có
trình độ cũng như các cán bộ quản lý kinh tế, quản lý xã hội, quản lý khoa học
và kỹ thuật có tài năng. Mặt khác phải đẩy mạnh hơn nữa việc đào tạo đội ngũ
công nhân kỹ thuật, công nhân lành nghề, đội ngũ nơng dân lao động tiên tiến
và có kỹ thuật; có chính sách để sử dụng tốt hơn, chăm lo đầy đủ hơn đến đời
sống vật chất và tinh thần của đội ngũ này.
Thứ hai: nhanh chóng triển khai chương trình quốc gia giải quyết việc
làm, tạo mọi điều kiện cho người lao động tự tạo, tự tìm việc làm. Tổ chức
thực hiện và kiểm tra việc thi hành Luật Lao động, tiếp tục cải tiến chế độ tiền
lương, làm cho tiền lương thực sự gắn liền với năng suất, chất lượng, hiệu
quả, trở thành thu nhập chính và là động lực đối với người lao đông. Để từ đó
gúp họ nâng cao mức sống, có điều kiện thỏa mãn được những nhu cầu cơ
bản (ăn, mặc, ở, … và các dịch vụ cần thiết). Đó chính là cơ sở vật chất để
phát triển sức mạnh thể chất, tinh thần, năng lực lao động và công tác của
người lao động. C.Mác đã khẳng định rằng:”người ta phải có khả năng sống
đã rồi mới có thể “làm ra lịch sử””
Thứ ba: Phát triển và nâng cao chất lượng các hoạt động văn hóa, văn
nghệ, thơng tin đại chúng và các phương tiện vui chơi giải trí đáp ứng nhu cầu
đời sống văn hóa - tinh thần của người lao động. Tăng cường các biện pháp
và phối hợp lực lượng của tồn xã hội, xây dựng mội trường văn hóa lành
mạnh, đấu tranh bền bỉ và mạnh mẽ nhằm ngăn chặn, loại trừ các văn hóa
phẩm độc hại và các tệ nạn xã hội. Làm sao nuôi dưỡng được ở mọi người,
nhất là thế hệ trẻ, ý chí cách mạng, tình cảm và hành động cách mạng. Đây

chính là nội dung cốt yếu trong nhân cách văn hóa của con người Việt Nam,


các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam đi vào cơng cuộc cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
Thứ tư: Thực hiện tốt chiến lược sức khỏe cho mọi người, từng bước
nâng cao thể trạng và tầm vóc, trước hết là nâng cao thể lực bà mẹ, trẻ em.
Phát triển các dịch vụ khám, chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe ban đầu của hệ
thống y tế nhà nước, y tế dân lập. Tăng chi ngân sách và huy động nguồn vốn
khác để đầu tư xây dựng và nâng cấp các cơ sở y tế. Tạo bước tiến mới của
phong trào thể dục, thể thao… Đó là sự thể hiện một cách xử lý đúng đắn mối
quan hệ giữa tinh thần và thể xác; là điều kiện quan trọng để con người phát
triển bình thường, góp phần bảo đảm năng suất lao động; là cơ sở để cung cấp
sức lao động dồi dào cho xã hội.
Thứ năm: Tăng tính thích nghi, năng động, có lợi cho sản xuất cơng
nghiệp trên cơ sở có đào tạo nghề và nâng cao tay nghề. Hạn chế tâm lý quá
lo cho cuộc sống trước mắt, có ý chí vươn lên làm ăn lớn. Tăng cường ý thức
pháp luật kỷ cương. Chịu khó học hỏi người khác để vận dụng sáng tạo vào
hịan cảnh của mình, nhưng cần đề phòng tâm lý tự ti, lai căng, sùng ngoại.
Có nếp sống và làm việc văn minh, hợp lí, làm việc có hiệu quả, ích nước, lợi
nhà… tất cả điều đó làm cho tinh thần sảng khối, khống đạt, trí não mở
mang, thể lực và tâm lực cùng phát triển, sức mạnh tiềm tàng được phát huy
tối ưu, tập trung vào năng lực sãn xuất và công tác, nâng cao năng suất, tạo
thêm cơ hội tham gia đóng góp, gia nhập vào cộng đồng, xã hội.
2.2. Xây dựng con người trong lĩnh vực y tế
2.2.1. Vai trò con người trong lĩnh vực y tế
Trong phát triển ngành y tế, bên cạnh việc xây dựng khung khổ pháp lý
thống nhất; xây dựng mạng lưới y tế đồng bộ trong tồn quốc; đầu tư nguồn
lực tài chính một cách thỏa đáng để ngành y tế có thể làm tốt việc chăm sóc
sức khỏe cộng đồng, Nhà nước cịn phải xây dựng, đào tạo đủ và phân bổ hợp



lý nguồn nhân lực cho cho ngành y tế để đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe
ngày càng cao của quần chúng nhân dân.
Nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân lực y tế ln có vai trị quan trọng,
quyết định đến việc thành công hay thất bại trong công tác chăm sóc sức khỏe
cộng đồng. Bởi một trong những yếu tố quyết định đến vai trò của Nhà nước
đối với quản lý phát triển y tế là đội ngũ nhân lực. Nguồn nhân lực y tế có đủ
năng lực, chun mơn, nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức… có vai trị quan trọng
dẫn đến thành cơng hay thất bại trong việc nhà nước thực hiện vai trị chủ đạo
của mình đối với cơng tác chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Các chính sách của
nhà nước trong lĩnh vực y tế có đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn hay
khơng, việc thực hiện các chính sách ấy có hiệu quả hay khơng, có phát huy
được tác dụng hay khơng… phụ thuộc vào năng lực, phẩm chất, đạo đức của
nguồn nhân lực y tế.
Mặt khác, nhu cầu về thầy thuốc và cán bộ thuộc nhiều chun mơn
khác nhau cũng đang địi hỏi phải đào tạo bác sĩ, dược sĩ, y tá, hộ lý với số
lượng ngày càng nhiều, chất lượng ngày càng cao, cơ cấu hợp lý, nắm bắt các
kiến thức y học hiện đại, giỏi thực hành, có y đức tốt… Trong xây dựng đội
ngũ cán bộ y tế nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn cho công tác chăm sóc sức
khỏe cộng đồng, địi hỏi Nhà nước phải có chính sách thích hợp, thể hiện ở tất
cả các khâu từ tuyển chọn, đào tạo, đãi ngộ và tôn vinh…
2.2.2. Một số hạn chế
Phân bổ nguồn nhân lực mất cân đối, bất hợp lý theo vùng, miền,
lĩnh vực
Nhiều khu vực còn thiếu nhân lực y tế như Vùng đồng bằng sơng Cửu
Long và Tây Ngun có tỷ lệ bác sĩ trên vạn dân thấp nhất so với cả nước.
Đặc biệt, một số lĩnh vực: pháp y, giải phẫu, lao, phong, tâm thần… của
ngành y tế thiếu nhân lực hơn hẳn các lĩnh vực khác. Lý do của sự thiếu hụt



này là do thu nhập thấp, không đủ thu hút cán bộ y tế. Tình trạng thiếu nhân
lực y tế nói chung và nhân lực có trình độ là bác sĩ ở tuyến y tế cơ sở, cũng
như nhân lực y tế dự phòng vẫn còn là vấn đề đáng lo ngại, trong khi tỷ lệ số
trạm y tế có bác sĩ ở Hà Nội là 93,8% thì Lào Cai là 35,4%; Quảng Nam là
31,6%, cá biệt ở Quảng trị chỉ 8,5% số trạm y tế xã có bác sĩ làm việc. Tình
trạng biến động nguồn nhân lực y tế tại tuyến huyện, xã là vấn đề Nhà nước
cần phải quan tâm hơn nữa. Số cán bộ nghỉ việc, chuyển đi ở các cơ sở tuyến
huyện bằng 50% tổng số nhân lực mới tuyển dụng, ở tuyến xã, số nhân lực
nghỉ việc, chuyển đi bằng 30% số mới tuyển. Nhiều bệnh viện huyện, trung
tâm y tế huyện nhiều năm không tuyển được bác sĩ nào trong khi số lượng cán
bộ chuyển đi nơi khác vẫn tiếp diễn.
Chất lượng nguồn nhân lực tuyến y tế cơ sở còn thấp
Chất lượng nguồn nhân lực y tế ở tuyến cơ sở, vùng sâu, vùng xa, miền
núi chưa đáp ứng nhu cầu chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân. Năng lực
của cán bộ y tế, kể cả bác sĩ của tuyến xã yếu, thậm chí khơng đủ khả năng
cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu. Nhiều trạm y tế khang trang,
không thiếu trang thiết bị nhưng cán bộ y tế nơi đây lại không biết sử dụng.
Đây là vấn đề mà Nhà nước cần ưu tiên giải quyết trong những năm tới. Tỷ lệ
trạm y tế xã có bác sĩ làm việc tăng hàng năm, nhưng bác sĩ ở tuyến xã đa
phần là học tại chức, hoặc chuyên tu nên năng lực chuyên môn thấp. Tỷ lệ cán
bộ y tế xã có kiến thức và kỹ năng đạt yêu cầu trong sơ cấp cứu, chẩn đoán và
điệu trị một số bệnh, cũng như kiến thức về xử lý bệnh dịch rất hạn chế. Một
điều tra cho thấy chỉ có 17,3% số bác sĩ và y sĩ có kiến thức và kỹ năng đúng
trong xử lý sơ cấp cứu, 17% số bác sĩ và y sĩ được hỏi biết được các dấu hiệu
nguy hiểm trong thời kỳ phụ nữ mang thai, 50,5% cán bộ y tế được hỏi biết
cách chẩn đoán tăng huyết áp, 15,6% biết cách xử lý một vụ dịch. Kết quả từ
một số khảo sát khác cũng cho thấy kiến thức về chăm sóc sức khỏe sơ sinh



của cán bộ trạm y tế chỉ đạt 60% so với chuẩn quốc gia; 54,3% bác sĩ có kiến
thức đúng về chẩn đoán và điều trị các mức độ mất nước tiêu chảy.
2.2.3. Một số giải pháp phát triển con người trong lĩnh vực y tế
Nguồn nhân lực y tế là một trong những ưu tiên trong chính sách y tế
mà Nhà nước Việt Nam phải đầu tư và có trách nhiệm chính. Phát triển nguồn
nhân lực y tế phải tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
Một là, xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp quy về đảm bảo
chất lượng đào tạo nguồn nhân lực y tế (kiểm định chất lượng đào tạo, cải tiến
chương trình, tài liệu giảng dạy, nâng cao năng lực giảng viên về giảng dạy và
nghiên cứu…). Do đặc thù của ngành y với nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe, liên
quan đến tính mạng con người, địi hỏi Nhà nước phải giữ vững yêu cầu, chất
lượng cao trong công tác tuyển sinh, đào tạo nguồn nhân lực y tế. Xây dựng
năng lực về đào tạo lại/ đào tạo liên tục về lĩnh vực chuyên môn, chuyển giao
công nghệ, cơ chế quản lý các chương trình đào tạo lại để tránh chồng chéo
hoặc thiếu hụt, chú ý đào tạo lại đối với một số chuyên ngành: quản lý bệnh
viện, y pháp, dự phịng…
Hai là, rà sốt và chuẩn hóa các chương trình đào tạo bác sĩ đa khoa, y
tế công cộng, điều dưỡng… Xây dựng tiêu chuẩn và quy trình đánh giá nhân
lực dựa trên cơ sở năng lực, kết quả, hiệu suất, năng suất lao động thực tế. Ưu
tiên xây dựng kế hoạch và thực hiện đào tạo liên tục cập nhật kiến thức cho
cán bộ y tế tuyến huyện và tuyến xã. Đánh giá hiệu quả của các chính sách, có
biện pháp thu hút, duy trì, tăng cường năng lực nguồn nhân lực y tế tại vùng
sâu, vùng xa để điều chỉnh cho phù hợp. Tăng cường các hình thức đào tạo,
cập nhật, chuyển giao kỹ thuật cho đội ngũ cán bộ y tế cơ sở. Hồn thiện
chính sách đầu tư để tăng cường nguồn nhân lực cho y tế dự phịng và chăm
sóc sức khỏe ban đầu. Nhà nước cần quy hoạch mạng lưới các trường đào tạo
nhân lực y tế trên cơ sở xác định nhu cầu thực tiễn.


Thứ ba, coi trọng việc nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho

nguồn nhân lực y tế. Trước nhu cầu thực tiễn thiếu nhân lực y tế chất lượng
cao tại tuyến y tế cơ sở, đòi hỏi Nhà nước phải ưu tiên đào tạo đội ngũ cán bộ
y tế cho tuyến này, bằng cách: đầu tư ngân sách nhiều hơn cho đào tạo mới,
bồi dưỡng, nâng cao trình độ cho các vùng còn thiếu nhân viên y tế. Tuyển
chọn những cán bộ giỏi, những cán bộ trẻ tuổi có phẩm chất và năng lực để
đào tạo, bồi dưỡng cho hệ thống chuyên sâu đáp ứng yêu cầu của địa phương.
Tiếp đó, Nhà nước cần mở rộng hơn nữa trong việc hợp tác quốc tế trong đào
tạo, bồi dưỡng nâng cao chuyên môn, lựa chọn những cán bộ, sinh viên có đủ
năng lực, phẩm chất đi học tập, nghiên cứu, học tập những kỹ thuật cao,
phương pháp chăm sóc, bảo vệ sức khỏe tiên tiến của khu vực và thế giới.


PHẦN III: KẾT LUẬN
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kết hợp nhuần nhuyễn, sáng tạo chủ nghĩa
nhân đạo cộng sản chủ nghĩa với chủ nghĩa nhân đạo truyền thống của dân tộc
Việt Nam, với đạo lí làm người của người Việt Nam trong vấn đề xây dựng,
phát triển con người. Tư tưởng ấy của Người là cẩm nang và có ý nghĩa to lớn
trong quá trình xây dựng con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền
vững đất nước. Con người Việt Nam là trung tâm trong chiến lược phát triển
tồn diện, là động lực của cơng cuộc xây dựng xã hội mới với mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Trong sự nghiệp đổi mới
hiện nay, tư tưởng đó của Người tiếp tục được Đảng ta quán triệt, vận dụng,
phát triển và đặc biệt có ý nghĩa thiết thực trong việc tiếp tục đẩy mạnh “Học
tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh”
đặc biệt là trong ngành Y tế.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Tuyên giáo Trung ương - Trường Đại học Y Hà Nội (2015), Báo
cáo tổng kết 30 năm đổi mới hệ thống y tế Việt Nam - Thành tựu và thách

thức. Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, tr. 127, tr. 245, tr. 124.
2. Bộ Y tế (2016), Báo cáo tổng quan chung ngành y tế năm 2015, Nhà
xuất bản Y học, Hà Nội, tr.45.
3. Tổng cục Thống kê, Niên giám Thống kê 2015, Nxb Thống kê, Hà
Nội, tr 39.
4. Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 9, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
1996.
5. Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 10, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
1996. 10. Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 12, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
1996.



×