ĐẠI HỌC HUẾ
KHOA LUẬT
BÀI TIỂU LUẬN
Môn học:
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN
CỦA CHỦ NGHĨA MÁC LÊNIN 1
Giảng viên hướng dẫn:
ThS Nguyễn Thị Phương
1
Sinh viên thực hiện:
Đặng Văn Chánh- Lớp: K33B
1
Huế, 10/2012
Câu 1: Phân tích quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển lực lượng sản xuất. Việt Nam vận dụng như thế nào trước
và trong thời kì đổi mới?
Trả lời:
1.
2.
a.
b.
3.
4.
Vị trí của quy luật
Khái niệm lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Khái niệm lực lượng sản xuất
Khái niệm quan hệ sản xuất
Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Vấn đề vận dụng quy luật vào quá trình đổi mới ở Việt Nam
a. Đặc điểm và bản chất của quá trình đổi mới ở nước ta
c. Thành tựu của quá trình đổi mới
d. Bài học kinh nghiệm
Câu 2: Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng. Đặc điểm của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của
nước ta hiện nay như thế nào?
Trả lời:
1.
a.
b.
2.
a.
b.
3.
Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
Khái niệm cơ sở hạ tầng
Khái niệm kiến trúc thượng tầng
Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng
Vai trò tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng
Đặc điểm của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của Việt Nam
hiện nay.
NỘI DUNG CHI TIẾT
Câu 1:Phân tích quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển lực lượng sản xuất. Việt Nam vận dụng như thế nào trước
và trong thời kì đổi mới?
2
2
1. Vị trí của quy luật
Là quy luật cơ bản nhất của tồn bộ đời sống xã hội, bởi vì nó là quy
luật của sự vận động phát triển của phương thức sản xuất xã hội, sự tác
động của quy luật này dẫn đến sự biến đổi của phương thức sản xuất. Và
đây cũng chính là đề tài mà chúng ta nghiên cứu để làm rõ sự ảnh hưởng
của nó đến đời sống sản xuất của con người..
Trong tác phẩm góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị năm 1959
Các Mác viết "trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người ta
có những quan hệ nhất định tất yếu không phụ thuộc ý muốn của họ từ
những quan hệ sản xuất. Những quan hệ này phù hợp với một trình độ phát
triển nhát định của lực lượng sản xuất vật chất của họ.
2. Khái niệm lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
a.
Khái niệm lực lượng sản xuất
Là tổng thể các nhân tố vật chất kỹ thuật cơng nghệ của một q trình
sản xuất nhất định nào đó, nó phản ánh trình độ chinh phục tự nhiên của
con người, bao gồm 2 nhóm cơ bản- Tư liệu sản xuất.
Công cụ lao động là yếu tố phản ánh rõ nhất trình độ con người chinh
phục tự nhiên như thế nào- Người lao động.
Trong lao động sản xuất hiện đại tri thức kỹ năng của người lao động
ngày càng quan trọng. Như Lênin đã viết "lực lượng sản xuất hàng đầu của
toàn thể nhân loại là cơng nhân, là người lao động" (Lênin tồn tập).
Trong hai nhóm trên nhân tố người lao động là quan trọng nhất bởi vì
các tư liệu sản xuất đều là sản phẩm của lao động, những tư liệu đó chỉ có
tác dụng, có giá trị trong sản xuất một khi được người lao động sử dụng,
cũng chính vì vậy trong xã hội cong nghiệp hiện đại thì lực lượng sản xuất
số một là người công nhân công nghiệp, nhu cầu của 1 nền sản xuất hiện
đại cùng sự phát triển của khoa học công nghệ, các tri thức khoa học ngày
càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp của xã hội, nó khơng phải là
nhân tố thứ 3 kết tinh trong tư liệu sản xuất, vá người lao động thông qua
3
3
các quá trình sáng chế kỹ thuật, sáng chế kỹ thuật phải thông qua nhân tố
b.
người lao động.
Khái niệm quan hệ sản xuất.
Quan hệ sản xuất là mối quan hệ sản xuất giữa con người với nhau
trong quá trình sản xuất quan hệ sản xuất này được phân tích trên 3 phương
diện
- Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất quan hệ quyết định các mối quan
hệ khác.
- Quan hệ tổ chức quản lý, vi mô, vĩ mô, tuỳ thuộc vào quan hệ sản
xuất, thực chất là lớp quan hệ tổ chức kết hựop giữa tư liệu sản xuất với sức
lao động trong các quá trình sản xuất cụ thể
- Phân phối sản phẩm tuỳ thuộc vào mối quan hệ sở hữu người công
nhân sở hữu sức lao động, người chủ sở hữu tư liệu sản xuất.
- Vai trò của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất
Lực lượng sản xuất giữ vai trò quyết định với quan hệ sản xuất bởi vì
lực lượng sản xuất là nhân tố thuộc nhân tố nội dung vật chất, đảm bảo cho
sự duy trì kết hợp các quá trình sản xuất. Tính quyết định đó thể hiện với
một trình độ phát triển của lực lượng sản xuất hiện có nó địi hỏi các quan
hệ sở hữu cách thức giải quyết và mộ chế độ tương ứng với nó những biến
đổi trong lực lượng sản xuất đặt ra nhu cầu phải thay đổi quan hệ sản xuất
cho phù hợp với nó.
Vì vậy, yêu cầu cơ bản của quy luật này trong việc quy định hồn
thiện hệ thống quan hệ sản xuất thì phải căn cứ vào thực trạng của nhu cầu
phát triển lực lượng sản xuất, mỗi người cần liên hệ thực tiễn quan hệ sản
xuất.
Việc chuyển từ quan hệ sản xuất lỗi thời lên cao hơn như Các mác
nhận xét "không bao giờ xuất hiện trước khi những điều kiện tồn tại vật
chất của những quan hệ đó chưa chín muồi"
3. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất
4
4
Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là
mối quan hệ thống nhất biện chứng trong đó lực lượng sản suất quyết định
quan hệ sản xuất và quan hẹ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là 2 mặt tất yếu của q trình
snar xuất, trong đó lực lượng sản xuất là nội dung vật chất cảu q trình sản
xuất, cịn quan hệ sản xuất là “hình thức xã hội” của sản xuất vật chất. Lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tồn tại trong tính quy định, thống nhất
lẫn nhau. Đây là yêu cầu tất yếu phổ biến. Mối quan hệ thống nhất Lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất theo nguyên tắc khách quan: Quan hệ
sản xuất phụ thuộc vào thực trạng phát triển của lực lượng sản xuất trong
mỗi gai đoạn lịch sử nhất định.
Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
là mối quan hệ thống nhất có bao hàm khả năng chuyển hóa thành các mặt
đối lập và phát sinh mâu thuẫn
Tính ổn định phù hợ của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất càng
cao thì lực lượng sản xuất càng có khả năng phát triển. Nhưng chính sự
phát triển của lực lương sản xuất ln ln tạo ra khả năng phá vỡ sự
thống nhất của những quan hệ sản xuất từ trước đến nay đóng vai trị là
hình thức hinh tế xã hội cho sự phát triển của nó. Những quan hệ sản xuất
này từ chỗ cần thiết phù hợp với lực lượng sản xuất đã trở thành những
hình thức kìm hãm nó, nó đã tạo ra một mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất
và quan hê sản xuất, từ đó xuất hiện nhu cầu khách quan là là pahir thiết lập
lại sự thốn nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
4. Vấn đề vận dụng quy luật vào quá trình đổi mới ở Việt Nam
a.
Sự hình thành quan hệ sản xuất trong nền kinh tế ở nước ta.
Như ta đã biết trước đây nước ta là một nước phong kiến kinh tế chủ
yếu là sản xuất nông nghiệp, tự cung tự cấp. Sau nước ta trở thành thuộc
địa của Pháp, hàng hoá tuy có phong phú hơn trước đây nhưng vẫn khơng
có các ngành sản xuất ở trình độ khoa học, hàng hoá chủ yếu phục vụ cho
5
5
các nhu cầu cơ bản của đời sống. Sau một thời gian ngắn hồ bình, đất
nước ta bước vào cuộc đấu tranh khốc liệt với đế quốc Mỹ với mục tiêu
thống nhâtý đất nước. Bước ra từ hai cuộc chiến tranh ác liệt nền kinh tế
sản xuất của ta gần như khơng có gì, nền sản xuất nhỏ trình độ khoa học
kém phát triển, sau khi giành độc lập nước ta chủ trương quá độ đi lên xã
hội chủ nghĩa nhưng không qua tư bản chủ nghĩa, nhưng do trong thời gian
đó chúng ta đã có những quan niệm khơng đúng cho rằng đưa quan hệ sản
xuất đi trước để mở đường cho sự phát triển lực lượng sản xuất, thiết lập
cơng hữu sở hữu tồn dân trong khi trình độ sản xuất và quản lý yếu kém
dẫn đến mâu thuẫn sâu sắc nảy sinh không lường trước được. Đất nước rơi
vào tình trạng trị trệ khơng phát triển cán bộ tham ô, người công nhân với
nông dân không hăng hái tham gia sản xuất, cuộc sống khó khăn, kinh tế
giảm sút đất nước rơi vào khủng hoảng trầm trọng. Nhận thức được sai lầm
đó Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra những chính sách mới, cho phép phục hồi
và phát triển chủ nghĩa tư bản, buôn bán tự do rộng rãi có lợi cho sự phát
triển sản xuất, đưa ra phương hướng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần
có định hướng xã hội chủ nghĩa, dần dần đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng
b.
và phát triển kinh tế, giảm dần sự tụt hậu so với các nền kinh tế phát triển.
Đặc điểm và bản chất của quá trình đổi mới ở nước ta
Nhìn lại lịch sử tiến trình đổi mới của Việt Nam, chúng ta có thể rút ra
một số đặc trưng chủ yếu của sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam ở những vấn
đề sau:
-
Sự nghiệp đổi mới được tiến hành theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Việt Nam tiến hành sự nghiệp đổi mới là đổi mới về phương thức và
mơ hình xây dựng chủ nghĩa xã hội cho phù hợp với thực tiễn của xã hội
Việt Nam, chứ không xa rời mục tiêu chủ nghĩa xã hội. Trong quá trình đổi
mới, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên định mục tiêu gắn việc giữ vững
độc lập dân tộc với xây dựng chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác
– Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Sự nghiệp đổi mới tồn diện ở Việt Nam
6
6
luôn hướng tới mục tiêu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam. Vì vậy, đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã
được thể hiện trên cả phương diện mục tiêu lẫn trong từng giai đoạn cụ thể,
trong cả kết quả đạt được lẫn phương thức để đạt kết quả đó. Chính sự định
hướng xã hội chủ nghĩa này đã làm cho công cuộc đổi mới ở Việt Nam thể
hiện được tính đặc thù của lý luận chung về con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam.
Ngay từ đầu, khi tiến hành sự nghiệp đổi mới, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã xác định đổi mới tư duy về mơ hình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam là vấn đề giữ vị trí quan trọng, mang tính đột phá trong việc từ
bỏ trên thực tiễn mơ hình xây dựng chủ nghĩa xã hội rập khuôn theo Liên
Xô. Việc đổi mới tư duy này trước hết được thể hiện chủ yếu trong sự nhận
thức lại của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội và con đường
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đổi mới tư duy mà Đảng Cộng sản
Việt Nam chủ trương là nhận thức đúng về bản chất của chủ nghĩa xã hội
mà trước kia hiểu chưa đúng, nhận thức lại về hình thức, bước đi cụ thể của
Việt Nam trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội để làm sao xây dựng
ở Việt Nam một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn
minh. Xã hội mà Việt Nam xây dựng phải là xã hội do nhân dân làm chủ;
có nền kinh tế phát triển cao, ổn định, bền vững; có nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc,
được phát triển tồn diện; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; các dân
tộc đồn kết giúp nhau cùng phát triển; có quan hệ hữu nghị, hợp tác với tất
cả các nước trên thế giới như trong các Nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt
Nam đã xác định. Vì vậy mà cơng cuộc đổi mới ở Việt Nam không thể xa
rời mục tiêu chủ nghĩa xã hội.
Công cuộc đổi mới ở Việt Nam được tiến hành theo mục tiêu chủ
nghĩa xã hội trên hai phương diện. Về phương diện lý luận là xác lập được
7
7
hệ thống quan điểm đúng về chủ nghĩa xã hội và con đường xây dựng chủ
nghĩa xã hội phù hợp với Việt Nam; về phương diện thực tiễn là làm cho
chủ nghĩa xã hội từng bước xuất hiện và hình thành một cách vững chắc ở
Việt Nam. Đây cũng chính là cách mà Việt Nam và Trung Quốc tiến hành
đổi mới và cải cách mở cửa khác hoàn toàn với công cuộc cải tổ của Liên
Xô và cải cách mở cửa ở các nước Đông Âu. Việt Nam tiến hành đổi mới
nhưng khơng “đổi màu”, cịn Trung Quốc cải cách nhưng vẫn kiên trì,
khơng lay chuyển đối với chế độ xã hội chủ nghĩa. Chính sự thành cơng
của cơng cuộc đổi mới ở Việt Nam và cải cách mở cửa ở Trung Quốc đã
khẳng định tính đúng đắn của mơ hình xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa
mà hai nước đã lựa chọn. Đặc trưng này thể hiện được thực chất của công
cuộc đổi mới ở Việt Nam và xun suốt tồn bộ tiến trình thực hiện đổi
mới cho đến khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng thành cơng ở Việt Nam.
-
Đổi mới tồn diện nhưng có trọng tâm, trọng điểm được tiến hành một
cách tuần tự, từng bước phù hợp với mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn.
Việt Nam tiến hành đổi mới một cách toàn diện trên tất cả các lĩnh
vực kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội. Nhưng, do đặc điểm khi tiến hành
đổi mới Việt Nam đang ở trình độ phát triển thấp và nhất là đang rơi vào
một cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng, nên tiến hành đổi mới
không thể làm đồng bộ tất cả các lĩnh vực, các khâu trong quá trình đổi
mới. Vì thế, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định trên cơ sở đổi mới toàn
diện đất nước phải lấy đổi mới kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then
chốt, lấy sự ổn định chính trị làm cơ sở cho đổi mới kinh tế và các lĩnh vực
khác. Trong quá trình đổi mới, Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam đã
tập trung tồn bộ sức lực, của cải và trí tuệ cho việc xây dựng một nền kinh
tế phát triển nhằm trước hết nâng cao đời sống của người dân lao động. Đổi
mới phải mang lại trước hết những lợi ích thiết thực cho người dân, đặc
biệt là nông dân vốn vẫn chiếm đa số trong dân số Việt Nam (lúc tiến hành
đổi mới chiếm khoảng 80% dân số cả nước). Chỉ khi làm được điều đó thì
8
8
Đảng Cộng sản Việt Nam mới tạo ra được một động lực mạnh mẽ cho việc
tiến hành đổi mới toàn diện đất nước. Trong đổi mới kinh tế thì việc xây
dựng mơ hình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
phải nhằm vào trọng điểm là giải phóng sức sản xuất, giải phóng mọi tiềm
năng của đất nước cho việc thực hiện công cuộc đổi mới. Xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chính là làm cho quan hệ
sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, tạo ra một
nền kinh tế có sức cạnh tranh cao. Một nền kinh tế như thế sẽ khơi dậy
được mọi tiềm năng sáng tạo của người lao động, của các doanh nghiệp
trong và ngoài quốc doanh. Nhưng, nền kinh tế mà Việt Nam xây dựng này
vẫn duy trì vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, kể cả những năm gần đây,
khi Việt Nam thực hiện cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước.
Trong cải cách kinh tế, nếu lúc đầu được tiến hành theo hướng giải
quyết những nhu cầu thiết yếu về đời sống cho người dân, cịn sự nghiệp
cơng nghiệp hóa chỉ được tiến hành trên cơ sở cho phép và phục vụ cho
mục tiêu nói trên thì sau này, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa lại được coi
trọng hơn trên cơ sở những thành tựu kinh tế đã đạt được. Đảng Cộng sản
Việt Nam xác định đến năm 2020, Việt Nam phải hoàn thành về cơ bản sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vì thế, trong những năm
gần đây, Việt Nam đã tập trung nhiều sức lực cho sự nghiệp này. Vì chỉ có
hồn thành được sự nghiệp này thì nền kinh tế Việt Nam mới phát triển
được và mới có vị trí cao trên trường quốc tế. Đặc biệt, đến Đại hội X (năm
2006), Đảng Cộng sản Việt Nam lại đưa thêm chủ trương phát triển nền
kinh tế tri thức để tranh thủ tối đa những tiến bộ khoa học, công nghệ tiên
tiến trên thế giới nhằm đưa nền kinh tế nước ta hội nhập được với nền kinh
tế thế giới.
Như vậy, nhìn vào tiến trình đổi mới của Việt Nam, có thể thấy, ở mỗi
giai đoạn, Đảng Cộng sản Việt Nam đều xác định rõ những nhiệm vụ trọng
tâm, trọng điểm và quyết tâm hồn thành nhiệm vụ đó. Mặc dù trong
9
9
đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội trước kia và trong thời kỳ đổi mới,
Đảng Cộng sản Việt Nam ln coi cơng nghiệp hố là nhiệm vụ trọng tâm,
nhưng mỗi thời kỳ, giai đoạn nó lại được tiến hành theo những phương
thức khác nhau và sự đầu tư cho phát triển cũng khác nhau. Hơn nữa, nó
cịn được bổ sung thêm những yêu cầu mới cho phù hợp với tình hình phát
triển mới cả trong nước và thời đại.
-
Đổi mới kinh tế gắn liền với đổi mới hệ thống chính trị
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam ln coi
trọng đổi mới hệ thống chính trị cho tương ứng với sự phát triển của kinh
tế, tức là tùy theo thành quả và yêu cầu đổi mới kinh tế mà từng bước có sự
đổi mới về chính trị và hệ thống chính trị. Nói một cách chính xác hơn thì
đó là q trình đổi mới về thể chế chính trị trong sự tương thích với đổi
mới thể chế kinh tế. Đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam đã được Đảng
Cộng sản Việt Nam xác định trong Nghị quyết Trung ương 6 khóa VI (năm
1989) chính là đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống
chính trị theo hướng tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, hiệu
lực quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Vì vậy, đổi mới trong lĩnh vực chính trị trước hết là làm trong sạch
Đảng, xây dựng Đảng vững mạnh hơn để Đảng làm tốt vai trị lãnh đạo của
mình chứ không phải thực hiện đa nguyên, đa đảng. Khi xã hội Việt Nam
xây dựng một nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường thì để lãnh đạo
được xã hội đó, địi hỏi Đảng Cộng sản Việt Nam càng phải đổi mới không
ngừng phương thức lãnh đạo của mình, giữ vững sự lãnh đạo duy nhất của
Đảng. Sự đổi mới này được thể hiện rõ nhất trong những thay đổi nhận
thức của Đảng về động lực của sự phát triển, về vai trò của Nhà nước và
kinh tế tư nhân,… để từ đó, có những chủ trương, đường lối chỉ đạo đúng
đắn sự phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam theo xu hướng của công cuộc
đổi mới tồn diện đất nước. Có thể thấy, từ khi tiến hành công cuộc đổi
mới đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã không ngừng đổi mới cả về
10
10
quan niệm cũng như phương thức lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam và để đảm nhiệm được vai trị lãnh đạo của mình, Đảng
đã luôn tự đổi mới cả về cơ cấu, tổ chức cũng như không ngừng nâng cao
chất lượng đảng viên trong Đảng cho phù hợp với tình hình mới. Để đổi
mới hệ thống chính trị, Việt Nam cịn từng bước tiến hành xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân và thực hiện mở
rộng dân chủ trong nhân dân để người dân phát huy được quyền làm chủ
của mình thơng qua việc nâng cao và phát huy vai trò của các tổ chức trong
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Chính nhờ có sự đổi mới hệ thống chính trị
một cách thường xuyên mà những đổi mới trong kinh tế, văn hóa, xã hội ở
Việt Nam luôn đi đúng hướng, không chệch khỏi mục tiêu chủ nghĩa xã hội
của công cuộc đổi mới.
-
Đổi mới để phát triển trong ổn định
Như đã phân tích ở trên, Việt Nam tiến hành đổi mới là một cuộc cách
mạng về mơ hình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, công cuộc đổi mới
được tiến hành tạo ra sự phát triển toàn diện đất nước, tạo ra sự tăng trưởng
mạnh về kinh tế. Nhưng, trong quá trình phát triển, Việt Nam ln đảm bảo
sự ổn định về chính trị, xã hội cũng như tránh sự tăng trưởng nóng trong
kinh tế. Duy trì sự ổn định trong phát triển là đặc trưng quan trọng của sự
nghiệp đổi mới ở Việt Nam. Nó vừa đảm bảo sự tăng trưởng về kinh tế lại
vừa đảm bảo cuộc sống ổn định của đa số người dân lao động. Vì thế, trong
quá trình đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn giải quyết tốt mối quan
hệ giữa chính sách phát triển kinh tế với chính sách xã hội, giữa phát triển
kinh tế với việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Nghĩa là, nguyên tắc
tiến bộ và công bằng luôn được thực hiện trong từng bước phát triển và cả
trong suốt tiến trình thực hiện đổi mới. Khi phát triển kinh tế theo cơ chế
thị trường thì sự phân hóa giàu nghèo tất yếu sẽ xảy ra. Nếu không giải
quyết tốt vấn đề này sẽ dẫn đến những sự bất công quá đáng trong xã hội.
Trong xã hội, nếu có khoảng cách quá lớn giữa người giàu và người nghèo,
11
11
hơn nữa người nghèo lại chiếm đa số, thì xã hội đó đâu cịn đảm bảo được
sự tiến bộ nữa. Vì vậy, có thể thấy, thành tích nổi bật của công cuộc đổi
mới ở Việt Nam là trong lúc kinh tế có sự tăng trưởng khơng ngừng thì đời
sống của đa số người dân đều được cải thiện và nâng cao. Khoảng cách
giữa người giàu và người nghèo trong xã hội tuy chưa giải quyết được theo
yêu cầu của định hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng cũng không để quá lớn.
Trên tinh thần là xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, nên đa số
người dân lao động Việt Nam đều được hưởng lợi từ những thành tựu của
công cuộc đổi mới. Ở Việt Nam, đổi mới là để đáp ứng những yêu cầu,
nguyện vọng chính đáng của người dân. Muốn có phát triển thì mọi chủ
trương, chính sách đổi mới đều phải dựa vào dân, xuất phát từ dân và phục
vụ cho dân. Chính điều đó tạo ra không chỉ động lực mạnh mẽ cho công
cuộc đổi mới, mà còn là và căn bản là làm cho lòng dân được yên và tuyệt
đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, tin vào sự đúng đắn của
con đường đổi mới đã được lựa chọn. Mục đích của đổi mới ở Việt Nam là
vì sự phát triển của con người, làm cho con người Việt Nam trở thành động
lực mạnh mẽ của công cuộc đổi mới đất nước.
Vì vậy, Việt Nam ln gắn phát triển kinh tế - xã hội với giáo dục và
đào tạo con người nhằm bảo đảm nguồn lực phát triển ổn định và bền vững
cho đất nước. Giáo dục và đào tạo con người đáp ứng được yêu cầu của đất
nước chính là tạo ra sự ổn định trong phát triển.Việt Nam đổi mới để phát
triển, phát triển để đảm bảo sự ổn định đất nước và trên cơ sở ổn định, ngày
càng đổi mới và phát triển hơn nữa. Đó chính là mối quan hệ giữa ổn định
và phát triển được Đảng Cộng sản Việt Nam giải quyết tốt trong thực tiễn
đổi mới đất nước trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên,
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn lấy ổn định về chính trị là cơ bản và tiền đề
của đổi mới và phát triển kinh tế.
-
Đổi mới đất nước gắn liền mở rộng quan hệ hợp tác với các nước trên thế
giới
12
12
Ngay từ khi bước vào công cuộc đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam
đã xác định con đường đổi mới của Việt Nam phải kết hợp được sức mạnh
trong nước với sức mạnh thời đại. Vì thế, tại Đại hội toàn quốc lần thứ VI,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra nhiệm vụ đối ngoại là: “Ra sức kết hợp
sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại”. Suốt quá trình từ khi đổi
mới đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã luôn chú trọng giải quyết tốt
nhiệm vụ này. Nếu như thời kỳ đầu của công cuộc đổi mới, Việt Nam chỉ
mới chú trọng đến việc mở cửa và quan hệ với các nước trong khu vực và
chủ yếu là Liên Xô và các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa thì nay,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã chủ trương mở rộng quan hệ với tất cả các
nước trên thế giới trên nguyên tắc giữ vững độc lập và tự cường dân tộc.
Công cuộc đổi mới ở Việt Nam không thể đạt được những thành tựu như
ngày nay nếu khơng có sự mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, khơng có hội
nhập kinh tế quốc tế. Nhờ chính sách mở cửa mà Việt Nam đã tranh thủ
được sự giúp đỡ từ bên ngoài, đặc biệt là trong việc thu hút và sử dụng
nguồn vốn đầu tư từ các nước phát triển. Trước khi hệ thống xã hội chủ
nghĩa sụp đổ, Việt Nam luôn nhận được sự viện trợ toàn diện và to lớn của
Liên Xô và các nước khác trong hệ thống xã hội chủ nghĩa. Sau khi hệ
thống này sụp đổ, Việt Nam khơng cịn nguồn viện trợ đó nữa, nhưng nhờ
sự đổi mới trong chính sách đối ngoại, Việt Nam đã thu hút được nhiều
nguồn vốn, như nguồn ODA (hỗ trợ phát triển chính thức) của các nước
phát triển, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi (FDI). Chính sự hợp tác
này ln được duy trì và mở rộng đã giúp cho nền kinh tế Việt Nam ngày
càng phát triển mạnh mẽ, giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam có nhiều cơ
hội và trên thực tế, đã vươn ra thị trường thế giới. Q trình đổi mới ở Việt
Nam ln lấy đổi mới trong nước là cơ sở để phát triển quan hệ với bên
ngoài, phát huy sức mạnh trong nước là chính trong sự tiếp thu và sử dụng
sức mạnh của thời đại. Đây cũng có thể coi là tính tất yếu trong sự nghiệp
đổi mới của Việt Nam. Sự thành công của sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam
13
13
không chỉ là về mặt phát triển kinh tế, giữ vững độc lập chủ quyền dân tộc,
mà còn là sự thành công trong lĩnh vực quan hệ đối ngoại của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Dựa trên những thành cơng đó, đến Đại hội IX (năm 2006),
Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhấn mạnh việc “chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả
hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa,
bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc,
bảo vệ mơi trường”. Có thể thấy, đây cũng là mục đích, yêu cầu và nội
dung của việc mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam và tinh thần
này cũng được tiếp tục nhấn mạnh ở Đại hội lần thứ X của Đảng Cộng sản
Việt Nam và giữ vững đến nay.
c.
Thành tựu của quá trình đổi mới
Đổi mới ở Việt Nam là quá trình thử nghiệm, trong quá trình này cái
mới và cái cũ xen kẽ nhau, cái cũ khơng mất đi ngay mà lùi dần, có lúc, có
nơi cịn chiếm ưu thế hơn cái mới, nhưng xu hướng chung là cái mới dần
dần được khẳng định và đưa tới thành công.
Điểm nổi bật của công cuộc đổi mới ở Việt Nam là luôn luôn lấy sự
ổn định chính trị - xã hội làm tiền đề, làm điều kiện tiên quyết cho sự
nghiệp đổi mới, phát triển và chính sự phát triển đó sẽ tạo ra sự ổn định
mới vững chắc hơn.
Sau hơn 20 năm đổi mới, Việt Nam đạt được những thành tựu to lớn
và có ý nghĩa lịch sử.
Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài nhiều năm,
khắc phục được nạn lạm phát có lúc trên 700% (năm 1986) xuống mức lạm
phát 12% (năm 1995) và từ đó đến nay lạm phát chỉ còn một con số; khắc
phục được nạn thiếu lương thực trước đây và hiện nay kinh tế phát triển
liên tục, đặc biệt là sản xuất lương thực, Việt Nam trở thành một nước xuất
khẩu gạo thứ hai, thứ ba trên thế giới.
14
14
Hiện nay Việt Nam đang đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước nhằm mục tiêu đến năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại.
Cùng với tăng trưởng kinh tế, trong thời kỳ đổi mới, Việt Nam đã chú
ý đến việc thực hiện chính sách cơng bằng xã hội, xóa đói giảm nghèo.
Nhờ đó, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện một
bước đáng kể. Tính riêng trong 5 năm (1993-1998), thu nhập bình quân đầu
người của Việt Nam đã tăng 2,45 lần.
Một đặc điểm khác đáng chú ý nữa là sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam
đã xác định đổi mới kinh tế là trọng tâm, trước hết phải đổi mới tư duy về
kinh tế. Nhờ định hướng đúng đắn mà những yêu cầu cấp thiết của nhân
dân ta về sản xuất và đời sống được giải quyết, đem lại sự tin tưởng của
nhân dân đối với sự nghiệp đổi mới, tự nó trở thành động lực thúc đẩy công
cuộc đổi mới giành nhiều thắng lợi.
Song song với đổi mới kinh tế, từng bước đổi mới về chính trị, xã hội,
văn hóa với mục tiêu phát huy quyền làm chủ thực sự của nhân dân, xây
dựng và phát huy đại đồn kết tồn dân, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc,
tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Khoa học - cơng nghệ cùng với giáo
dục - đào tạo được Nhà nước hết sức chăm lo. Nhà nước coi chính sách phát
triển khoa học - công nghệ và giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu.
Nhờ vậy, trong những năm vừa qua, khoa học - công nghệ và giáo dục - đào
tạo đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Năm 2000, Việt Nam đã hoàn
thành phổ cập giáo dục tiểu học, hiện nay chương trình đào tạo sau đại học
với hai học vị thạc sĩ và tiến sĩ đang được thực hiện ở hầu hết các ngành
học thuộc khoa học tự nhiên và công nghệ cũng như khoa học xã hội và
nhân văn.
Trong lĩnh vực đối ngoại, Việt Nam thực hiện chính sách mở rộng
quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Thực hiện nhất
quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng
hóa các quan hệ quốc tế, phấn đấu vì hịa bình, độc lập và phát triển. Trên
15
15
cơ sở đường lối đó, Việt Nam đã kiên trì phấn đấu đẩy lùi và làm thất bại
chính sách bao vây cấm vận, cô lập Việt Nam của các thế lực thù địch, tạo
được môi trường quốc tế, khu vực thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo
vệ đất nước.
Tháng 7-1995, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Hiệp
hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN).
Tháng 3-1996, Việt Nam đã tham gia Diễn đàn hợp tác Á - Âu
(ASEM) gồm 10 nước châu Á và 15 nước châu Âu với tư cách thành viên
sáng lập. Tháng 10-2004, Hội nghị ASEM lần thứ năm đã họp tại Thủ đô
Hà Nội của Việt Nam.
Tháng 11-1998, Việt Nam đã gia nhập Diễn đàn hợp tác kinh tế châu
Á - Thái Bình Dương (APEC) gồm các nước và lãnh thổ thuộc châu Á,
châu Mỹ và châu Đại Dương ở ven hai bờ Thái Bình Dương.
Chính trong q trình hội nhập kinh tế, Việt Nam đã nhanh chóng mở
rộng xuất khẩu, thúc đẩy phát triển, tạo thêm việc làm cho người lao động,
tăng nguồn thu ngân sách nhà nước. Năm 1990, kim ngạch xuất khẩu của
Việt Nam đạt 2,404 tỷ USD và nhập khẩu đạt 2,752 tỷ USD, tính chung
bốn năm từ năm 2001 đến năm 2004, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt gần 77
tỷ USD, tốc độ tăng xuất khẩu bình quân bốn năm khoảng 14,6%. Kim
ngạch xuất khẩu bình quân đầu người năm 2004 đạt trên 305 USD/người.
Đổi mới ở Việt Nam đã kết hợp được nội lực và ngoại lực. Tháng 121987, Việt Nam đã ban hành Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài. Từ thời gian
ấy đến nay, đất nước ta đã thu được hàng chục tỷ USD vốn đầu tư nước
ngồi với hàng nghìn dự án, trong số đó đã thực hiện khoảng 21 tỷ USD.
Có thể nói rằng, nguồn đầu tư trực tiếp nước ngồi giữ một vị trí quan
trọng trong nền kinh tế Việt Nam thời kỳ đổi mới. Ngồi ra, Việt Nam cịn
tranh thủ được nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA) ngày càng cao.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo ra cơ hội để Việt Nam tiếp cận
với những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đang phát
triển mạnh mẽ trên thế giới. Đồng thời, thông qua các dự án hợp tác với nước
16
16
ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam đã tiếp nhận được nhiều kinh nghiệm quản
lý tiên tiến.
Những thành tựu đổi mới trên bắt nguồn từ đổi mới tư duy. Việc đổi
mới tư duy mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12-1986) của Đảng
Cộng sản Việt Nam đề ra rất khái quát, nhưng hết sức cơ bản và có ý nghĩa
quan trọng cho việc tiếp tục đổi mới về sau. Khi công cuộc đổi mới được
triển khai và đi vào chiều sâu thì đổi mới tư duy càng được đẩy mạnh. Bất
cứ một sự ngưng trệ nào trong tư duy cũng đều làm ngưng trệ sự đổi mới
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Thực tiễn đổi mới về kinh tế,
chính trị, xã hội vừa là kết quả đổi mới tư duy, lại vừa đặt ra những yêu cầu
mới cho việc tiếp tục đổi mới tư duy ở trình độ cao hơn.
Ở Việt Nam, đổi mới không phải là từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội, mà
làm cho chủ nghĩa xã hội đi tới thắng lợi. Đổi mới không phải là phủ định quá
khứ mà khẳng định những gì hiểu đúng, làm đúng, loại bỏ những gì hiểu sai,
làm sai, bổ sung những nhận thức mới, đáp ứng yêu cầu của tình hình nhiệm
vụ mới.
Thực hiện được những điều trên đây thực sự là cuộc đấu tranh phức
tạp giữa cái đúng và cái sai, giữa tiến bộ và lạc hậu, lỗi thời, giữa cái mới
thúc đẩy sự phát triển và cái cũ cản trở sự phát triển. Tiêu chuẩn để phân
biệt những mặt trái ngược đó chính là thực tiễn - kết quả về kinh tế, xã hội
giành được trong thời kỳ đổi mới.
Thành tựu đổi mới ở Việt Nam đã được thể hiện rõ nét trên một số vấn
đề sau đây:
Thứ nhất, chuyển từ mơ hình kinh tế kế hoạch hố tập trung chỉ có
hai thành phần kinh tế (nhà nước và tập thể) sang mơ hình mới - kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần (nhà nước, tập thể, cá thể tiểu chủ, tư bản tư nhân, tư
bản nhà nước, có vốn đầu tư nước ngồi), trong đó kinh tế nhà nước giữ vai
trò chủ đạo trong sự thống nhất biện chứng với tính đa dạng các hình thức
sở hữu, đa dạng các hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao
động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu nhằm thúc đẩy phát triển sản xuất. Đây
17
17
là đổi mới căn bản mà ý nghĩa sâu xa của nó là tơn trọng quy luật khách
quan về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất. Điều đó đã mở đường giải phóng mọi tiềm năng xã hội,
giải phóng sức sản xuất. Nhân tố quan trọng bậc nhất của lực lượng sản
xuất là con người: Người lao động làm chủ, được thúc đẩy bởi quy luật lợi
ích, trong đó lợi ích cá nhân của người lao động là động lực trực tiếp và là
cơ sở để thực hiện phát triển lợi ích của tập thể và của tồn xã hội.
Thứ hai, từ mơ hình quản lý kinh tế theo cơ chế kế hoạch hố tập
trung chuyển sang mơ hình quản lý kinh tế theo cơ chế thị trường. Điểm
nổi bật trong đổi mới cơ chế quản lý kinh tế là xóa bỏ chế độ tập trung
quan liêu bao cấp, hình thành tương đối đồng bộ cơ chế thị trường, có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi mới có tính
chất đột phá là từ chỗ về cơ bản không sử dụng quan hệ hàng hóa - tiền
tệ, chuyển sang coi thị trường vừa là căn cứ, vừa là đối tượng của kế
hoạch. Còn kế hoạch mang tính định hướng, điều tiết ở tầm vĩ mơ, thị
trường có vai trị trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh
vực hoạt động và phương án tổ chức sản xuất kinh doanh.
Cơ chế thị trường thừa nhận cạnh tranh, thúc đẩy sản xuất phát triển,
nhưng đồng thời dẫn tới sự chênh lệch, sự phân hóa giàu nghèo. Đây là mặt
trái của cơ chế thị trường.
Vấn đề đặt ra là Nhà nước phải có chính sách đúng đắn để cho cơ chế
thị trường đẩy sự phân hóa giàu nghèo vượt qua giới hạn cho phép. Việt
Nam đã giải quyết vấn đề này bằng chính sách xóa đói, giảm nghèo được
thực hiện tương đối hiệu quả.
Tại cuộc Hội thảo quốc tế với tiêu đề Xóa đói, giảm nghèo: Kinh
nghiệm Việt Nam và một số nước châu Á do Bộ Ngoại giao Việt Nam tổ
chức tại Hà Nội vào giữa tháng 6-2004, đại diện của nhiều tổ chức và nhà
tài trợ quốc tế đã đánh giá cao những thành tựu của Việt Nam trong cơng
cuộc xóa đói, giảm nghèo. Việt Nam là nước có tốc độ giảm nghèo nhanh
nhất khu vực Đông Nam Á.
18
18
Thứ ba, đổi mới hệ thống chính trị từ chế độ tập trung quan liêu, với
phương thức quản lý kinh tế hành chính mệnh lệnh sang dân chủ hóa các
lĩnh vực của đời sống xã hội, thực hiện dân chủ gắn liền với tôn trọng luật
pháp, kỷ cương xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Đổi mới
trong lĩnh vực này đã góp phần quan trọng vào việc tháo gỡ những lực cản
đối với tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa xã hội, nảy sinh ra những
nhân tố mới, động lực mới, thúc đẩy công cuộc đổi mới ở Việt Nam giành
được nhiều thành quả.
Hệ thống chính trị ở Việt Nam gồm ba phần cấu thành: Đảng, Nhà
nước, Mặt trận và các đồn thể nhân dân. Nói đổi mới hệ thống chính trị
thực chất là đổi mới tổ chức, cán bộ và phương thức hoạt động của các tổ
chức chính trị đó. Cụ thể là:
- Đảng Cộng sản Việt Nam “lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là
một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự
giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp
luật.Để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải vững mạnh về chính
trị, tư tưởng và tổ chức, phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra
sức nâng cao trình độ trí tuệ, năng lực lãnh đạo. Giữ vững truyền thống
đoàn kết thống nhất trong Đảng... Thường xuyên tự phê bình và phê bình,
đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội và mọi hành động
chia rẽ, bè phái”.
- Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Nhà nước thể hiện và
thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, định ra pháp luật, tổ chức quản lý
mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, kế hoạch và các chính sách cụ thể.
Lắng nghe ý kiến của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, nhờ vậy đã
có cơ chế và biện pháp kiểm sốt, ngăn ngừa và chống tệ nạn quan liêu,
tham nhũng, lộng quyền, vô trách nhiệm, xâm phạm quyền và lợi ích của
nhân dân.
19
19
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là liên minh chính trị, liên hiệp tự
nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội
và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc,
các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể nhân dân có vai trị rất quan trọng
trong sự nghiệp đồn kết tồn dân tộc nhằm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam. “Các đồn thể nhân dân, tùy theo tính chất, tơn chỉ và mục đích
đã xác định, vừa vận động đoàn viên, hội viên giúp nhau chăm lo, bảo vệ
các lợi ích thiết thực; vừa giáo dục nâng cao trình độ mọi mặt cho đoàn
viên, hội viên, vừa tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội”2.
Thành tựu đạt được trong việc thực hiện đổi mới hệ thống chính trị là
đáng kể. Đổi mới đã tạo ra bầu không khí dân chủ và cởi mở trong xã hội,
đã thiết lập được các cơ chế và chính sách để thực hiện quyền dân chủ của
nhân dân. Tất cả những điều vừa trình bày trên đây đã góp phần quan trọng
vào việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tiếp tục thúc đẩy sự nghiệp đổi
mới toàn diện đất nước.
Thành tựu này được các nước trong khu vực cũng như các đối tác có
quan hệ với Việt Nam thừa nhận và xem đây là một thuận lợi trong xu thế
d.
hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Bài học kinh nghiệm.
Từ thực tiễn đổi mới, Đảng và Nhà nước ta càng tích lũy thêm nhiều
kinh nghiệm lãnh đạo và quản lý. Có thể rút ra một số bài học sau đây:
-
Trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh
Ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã khẳng định mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội và trong tám thập kỷ qua, Đảng ta luôn kiên trì mục tiêu
đó. Trong hơn 20 năm đổi mới, tình hình thế giới biến động rất phức tạp.
Cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ XX, chế độ xã hội chủ
nghĩa ở các nước Đông Âu và Liên Xô sụp đổ. Chủ nghĩa xã hội hiện thực
20
20
bị lâm vào thoái trào, phong trào cách mạng thế giới gặp những khó khăn
to lớn chưa từng thấy. Tình hình đó đã tác động đến cách mạng nước ta.
Đứng trước tình thế hiểm nghèo đó, với bản lĩnh chính trị vững vàng, Đảng
ta vẫn kiên định con đường xã hội chủ nghĩa đã chọn - con đường hợp quy
luật phát triển của cách mạng Việt Nam để xây dựng một nước Việt Nam
giàu mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh, phù hợp với con đường phát
triển của nhân loại.
Trong những năm đổi mới, Đảng ta đã có sự nhận thức sâu sắc hơn,
đúng đắn hơn đối với chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, được Đại hội VII của
Đảng thông qua năm 1991 Đảng ta đã đưa tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với
chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho cách mạng
nước ta.
Trên cơ sở đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, Đảng ta đặt vấn
đề xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng
Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân, do
dân, vì dân.
Thực tiễn cách mạng nước ta từ khi có Đảng, nhất là trong thời kỳ đổi
mới đã khẳng định giá trị, sức sống của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là
kiên định tính biện chứng, là điều kiện cơ bản bảo đảm cho thắng lợi của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh mới vô cùng phức tạp
của tình hình thế giới.
-
Đổi mới tồn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm
phù hợp
Công cuộc cải tổ, cải cách ở một số nước xã hội chủ nghĩa cho thấy,
nếu xác định đúng mục tiêu, song không xác định đúng phương hướng,
bước đi thì vẫn có thể khơng thành cơng. Đối với nước ta, đổi mới là một
21
21
sự nghiệp có tính chất cách mạng, tồn diện, tác động đến mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội.
Đổi mới toàn diện phải tiến hành đồng bộ trên tất cả các mặt, tuy
nhiên phải xác định trọng tâm, trọng điểm và phải có các bước đi, hình
thức, cách làm phù hợp, phải nắm lấy khâu then chốt trong mỗi thời kỳ,
phải nắm vững các mối quan hệ biện chứng chủ yếu trong đời sống xã hội,
đó là quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa kinh tế và
chính trị, giữa kinh tế và quốc phịng - an ninh, trong đó xử lý đúng đắn
mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, giữa đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Trong quá trình đổi mới, nước ta kế thừa những kinh nghiệm dựng
nước và giữ nước của lịch sử dân tộc, những thành tựu của cách mạng, giữ
gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, đồng thời kế thừa, tiếp thu có
chọn lọc những tinh hoa của văn hóa nhân loại, trong đó có mặt tích cực
của kinh tế thị trường, những giá trị tư tưởng về nhà nước pháp quyền.
Để đẩy mạnh tồn diện cơng cuộc đổi mới, nước ta đã bảo đảm tốt
nhiệm vụ phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm
vụ then chốt với phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội. Gắn kết
chặt chẽ kinh tế với văn hóa và bảo đảm môi trường sinh thái. Tăng trưởng
kinh tế đi đôi với thực hiện công bằng xã hội trong từng bước phát triển, gắn
kết phát triển kinh tế với nhiệm vụ quốc phịng - an ninh và đối ngoại.
-
Đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò
chủ động, sáng tạo của nhân dân, phù hợp thực tiễn, luôn luôn nhạy bén
với cái mới
Sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng, lãnh đạo và tổ chức thực
hiện về bản chất mang tính nhân dân sâu sắc thể hiện ở chỗ nó bắt nguồn từ
nhân dân, vì lợi ích của nhân dân và do nhân dân thực hiện. Chính những
sáng kiến của nhân dân, của cơ sở nảy sinh từ cuộc sống thực tiễn là cơ sở,
nguồn gốc để hình thành chủ trương đổi mới của Đảng. Đường lối đổi mới
22
22
phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, thể hiện ý Đảng lịng dân nên được
tồn dân ủng hộ và thực hiện một cách sáng tạo đã giải phóng được mọi tiềm
năng của lực lượng sản xuất - nhân tố quyết định sự phát triển xã hội, khơi
dậy được tài sức của nhân dân để xây dựng và bảo vệ đất nước.
Hiện nay, công cuộc đổi mới đang đặt ra nhiều vấn đề cả về lý luận và
thực tiễn mà Đảng ta phải nghiên cứu giải quyết. Vì vậy, phải tiếp tục
nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn. Những bài học rút ra trong sự nghiệp
đổi mới vừa qua sẽ góp phần thúc đẩy sự nghiệp đổi mới đi tới thành cơng,
nhất là phải đối phó với cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu và nhiều vấn đề
cấp bách khác như biến đổi khí hậu, dịch bệnh, v.v..
Do tác động mặt trái của kinh tế thị trường, nạn quan liêu, tham nhũng,
lãng phí đang tiếp tục diễn ra ở một số cán bộ và một số cơ quan quan trọng
làm cho quan hệ giữa Đảng và nhân dân có mặt bị giảm sút. Vì vậy, phải củng
cố và tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng và nhân dân. Lợi
ích chính đáng của nhân dân phải là cơ sở để hoạch định chính sách của Đảng
và Nhà nước. Có như vậy những sáng kiến, kinh nghiệm của quần chúng,
tiếng nói, nguyện vọng của nhân dân mới có thể được biến thành những quyết
sách chính trị trong quá trình đổi mới.
-
Phát huy cao độ nội lực, đồng thời khai thác ngoại lực, kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới
Trong quá trình đổi mới, Đảng ta ln coi trọng việc phát huy sức
mạnh tổng hợp để phát triển đất nước nhanh và bền vững, trong đó phát
huy nội lực là nhân tố quyết định, khai thác nhân tố ngoại lực là quan trọng,
kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại.
Trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát triển
như vũ bão, kinh tế tri thức ngày càng phát triển, chúng ta phải chủ động sử
dụng những thành tựu khoa học và công nghệ (công nghệ thông tin, công
nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới...) cùng với những thành tựu của
23
23
kinh tế tri thức để phát triển kinh tế - xã hội, tạo tiền đề để phát triển và ứng
dụng khoa học - công nghệ hiện đại của thế giới.
Trong điều kiện tồn cầu hóa kinh tế đã trở thành một xu thế khách
quan, tác động đến tất cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới, Đảng ta đã đề ra
chủ trương chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Vì thế, chúng ta đã xác lập
được quan hệ ổn định với các nước lớn, đã thiết lập ngoại giao với 167 nước,
có quan hệ thương mại với 221 nước và vùng lãnh thổ, chúng ta đã gia nhập
AFTA, ASEM, APEC và năm 2006 đã gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO). Nhờ vậy, chúng ta đã thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư nước ngoài
FDI và ODA. Chúng ta cũng đã thiết lập được quan hệ tín dụng với các tổ
chức tài chính - tiền tệ quốc tế, tranh thủ được số lượng vốn vay ưu đãi của
Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển
châu Á (ADB), đồng thời tranh thủ kinh nghiệm quản lý của nước ngoài, mở
rộng thị trường để phát triển đất nước.
Sự khai thác ngoại lực làm tăng lên sức mạnh của nội lực. Việc phát huy
nội lực tạo cơ sở cho việc sử dụng ngoại lực có hiệu quả hơn. Trong việc khai
thác ngoại lực, sử dụng sức mạnh của thời đại, chúng ta phải đứng vững trên
các nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ, khơng can
thiệp vào cơng việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi, giữ vững độc lập
dân tộc và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ và phát triển nền văn hóa dân
tộc.
-
Phải nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, khơng
ngừng đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân
Thực tiễn công cuộc đổi mới đã khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của
Đảng là nhân tố quyết định thành cơng của đổi mới. Nhờ có đường lối đổi
mới đúng đắn, ngày càng hồn thiện, vai trị lãnh đạo và năng lực cầm
quyền của Đảng được tăng cường, do đó, cơng cuộc đổi mới do Đảng ta đề
24
24
xướng được đông đảo nhân dân hưởng ứng biến thành hành động sơi nổi,
rộng khắp của quần chúng.
Trong quy trình đổi mới, Đảng ta rất coi trọng công tác xây dựng Đảng,
coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, coi việc nâng cao năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của Đảng trong điều kiện mới là nhiệm vụ sống cịn trong
tồn bộ sự nghiệp cách mạng.
Trong q trình đổi mới, Đảng ta rất coi trọng việc xây dựng và hồn
thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa vì dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động
lực của cơng cuộc đổi mới. Dân chủ hóa đời sống xã hội sẽ làm cho mọi
tiềm năng của con người được phát huy, tính tích cực, chủ động của nhân
dân được tăng lên, sự tham gia của nhân dân vào quá trình sáng tạo ra xã
hội mới sẽ ngày càng có hiệu quả hơn.
Để phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa phải tăng cường vai trò của Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc tập hợp các tầng lớp nhân
dân, phát huy sức mạnh khối đại đồn kết tồn dân tộc trên cơ sở lợi ích
chung của đất nước, lấy việc giữ vững độc lập, thống nhất Tổ quốc, vì sự
nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm
tương đồng. Phải tạo điều kiện và cơ chế cho Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể nhân dân thực hiện tốt chức năng giám sát và phản biện xã hội đối với
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Trên đây là những bài học lớn được rút ra từ công cuộc đổi mới.
Những bài học này có ý nghĩa chỉ đạo tiếp tục cho công cuộc đổi mới đi
vào chiều sâu. Vì vậy, nắm vững và quán triệt chúng để đẩy mạnh tồn
diện cơng cuộc đổi mới vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là yêu cầu
quan trọng hiện nay và sắp tới.
Câu 2: Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng. Đặc điểm của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của
nước ta hiện nay như thế nào?
Trả lời:
25
25