Tải bản đầy đủ (.docx) (99 trang)

Phát triển kinh tế tư nhân ở thành phố Huế sau hội nhập WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (544.95 KB, 99 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kinh tế tư nhân (KTTN) không chỉ có tiếng nói quyết định đến sức mạnh
kinh tế của hầu hết quốc gia mà còn trở thành một lực lượng kinh tế có ý nghĩa
chính trị toàn cầu. Sự phát triển của các nước trên thế giới nói chung và các nước
đang phát triển nói riêng thường nhắc đến ba nguồn lực mà hầu hết các nước
“hóa rồng” đã thực hiện, đó là: đầu tư nước ngoài, xuất khẩu và khu vực tư nhân
trong nước. Nếu biết khai thác cả ba động lực này cân bằng và nhất là khu vực tư
nhân thì nền kinh tế của các nước sẽ phát triển đáng kể, chống đỡ được các chấn
động từ các nhân tố bên ngoài mà bản thân mỗi quốc gia không chủ động được
nhất là khi nền kinh tế hội nhập cao, tính thích ứng càng đòi hỏi cao hơn và sức
ép từ những biến động thị trường đòi hỏi ngày càng lớn hơn. Trong nhiều năm
qua, mặc dù sức ép từ những chấn động bên ngoài rất lớn, nhưng nền kinh tế Việt
Nam vẫn phát triển chính là nhờ khu vực KTTN. Bởi vậy KTTN chiếm giữ một
vị trí quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa (XHCN) hiện nay.
Đặc biệt, KTTN Việt Nam có bước tiến triển mới trong quá trình hội nhập
quốc tế khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức Thương Mại
Thế Giới WTO. Đây là sự kiện quan trọng, đánh dấu bước tiến mới trên con
đường chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Sự tham gia vào tổ chức
WTO đã đem lại cả những thuận lợi và thách thức đối với KTTN của Việt Nam.
KTTN thành phố Huế không thể nằm ngoài vòng ảnh hưởng của hội nhập. Trong
bối cảnh hội nhập trên, KTTN thành phố Huế vẫn còn nhiều yếu kém. Để khu
vực kinh tế này phát huy các thuận lợi của WTO đem lại, chúng ta cần nghiên
cứu thực trạng, đề ra giải pháp góp phần nâng cao khả năng hội nhập WTO
tương xứng với tiềm năng của thành phố này.
Thành phố Huế là thành phố trung tâm của tỉnh Thừa Thiên – Huế, với diện
tích tự nhiên 71,68 km
2
, dân số trung bình năm 2011 là 342.550 người [10].
Thành phố Huế là Cố đô xưa thừa hưởng cảnh quan thiên nhiên thơ mộng với


sông núi hữu tình, những di tích lịch sử cổ kính như Đại Nội, hệ thống lăng tẩm,
1
1
chùa chiền là lợi thế để phát triển các doanh nghiệp thương mại, dịch vụ. Đồng
thời, thành phố Huế là vùng chuyển tiếp của Bắc Trung Bộ và Duyên Hải Nam
Trung Bộ, miền núi và đồng bằng ven biển nên có thể tiếp cận nhiều vùng
nguyên liệu. Thành phố tập trung nhiều dân cư cả trung tâm và vùng huyện, thị
xã kế cận - đây là thị trường tiêu thụ sản phẩm, đồng thời thị trường cung ứng
nhân lực. Nơi đây tập trung gần 7 trường Đại học của cả khu vực miền Trung,
chuyên đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho doanh nghiệp ởthành phố.
Nhiều năm qua, KTTN ở thành phố Huế có vai trò đặc biệt quan trọng: đóng góp
hơn 55% GDP [11], giải quyết đa số việc làm,…góp phần đắc lực cho chuyển
dịch cơ cấu kinh tế. Nhiều công trình đầu tư xây dựng khách sạn, nhà hàng, siêu
thị với quy mô lớn và hiện đại được hình thành, các đường phố chính đã phát
triển thành các phố kinh doanh cao cấp với nhiều cửa hàng lớn và hiện đại phục
vụ du khách và nhân dân…
Tuy nhiên, nhìn lại thực tế có thể thấy những thành tựu KTTN đã đạt được
vẫn chưa xứng tầm với tiềm năng vốn có của thành phố và những thuận lợi mà
hội nhập mang lại. Vì vậy vấn đề cấp bách và nóng bỏng hiện nay chính là đánh
giá được mức độ hội nhập WTO, đồng thời hướng đến những giải pháp nhằm
tăng khả năng hội nhập của KTTN ở thành phố Huế.
Xung quanh vấn đề này cũng có nhiều nhà nghiên cứu như “Phát triển kinh
tế tư nhân ở thành phố Huế - thực trạng và giải pháp” của TS.Trần Xuân Châu.
Tuy nhiên chưa có ai đặt vấn đề nghiên cứu trực tiếp ở thành phố Huế trong vòng
năm năm trở lại đây (sau khi Việt Nam hội nhập WTO). Vì thế chúng tôi chọn đề
tài: “Phát triển kinh tế tư nhân ở thành phố Huế sau hội nhập WTO” để
nghiên cứu nhằm góp thêm được tiếng nói với những nhà nghiên cứu, những
người hoạch định chính sách và những doanh nhân. Đề tài này của chúng tôi
không trùng lặp với bất cứ đề tài nào.
2. Mục đích nghiên cứu

2.1. Mục đích chung
Trên cơ sở thực trạng phát triển, đi sâu đánh giá mức độ hội nhập của
KTTN ở thành phố Huế sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của
2
2
WTO, từ đó tìm ra các giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển của KTTN ở thành
phố Huế.
2.2. Mục đích cụ thể
- Hệ thống các vấn đề lý luận, thực tiễn về KTTN
- Phân tích những khó khăn và thuận lợi khi Vệt Nam hội nhập WTO của khu vực
KTTN ở thành phố Huế.
- Đánh giá thực trạng và các vấn đề đặt ra trong sự phát triển KTTN ở thành phố
Huế trong những năm gần đây (2007 - 2011)
- Tập trung đánh giá mức độ hội nhập WTO của khu vực KTTN ở thành phố Huế
từ 2007 - 2011
- Đưa ra phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy phát triển, nâng cao
hơn nữa năng lực hội nhập WTO của KTTN thành phố Huế trong những năm
tiếp theo.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Các loại hình thuộc khu vực KTTN mà chủ yếu là: công ty cổ phần không
có vốn nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh ngiệp tư nhân trên địa bàn
thành phố Huế.
Khảo sát và đánh giá tình hình hoạt động và mức độ hội nhập WTO của khu
vực KTTN ở thành phố Huế.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
3.2.1. Về không gian
Địa bàn thành phố Huế
3.2.2. Về thời gian
Nghiên cứu từ năm 2007 – 2011

Đề ra giải pháp từ năm 2012 – 2020
3.2.3. Về nội dung
Nghiên cứu các mối quan hệ kinh tế trong bối cảnh lịch sử - xã hội, xác
định các quá trình, các động thái, xu hướng và các vấn đề về chính sách kinh tế -
xã hội trong thực tiễn hội nhập WTO đặt ra. Từ đó kiến nghị các giải pháp thúc
đẩy KTTN trên địa bàn phát triển tốt hơn.
3.2.4. Về phạm vi của đối tượng
3
3
Chủ yếu nghiên cứu thực trạng các doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN
(theo Luật Doanh nghiệp 2005).
4. Phương pháp nghiên cứu
Mẫu nghiên cứu: Chọn 40 Doanh nghiệp
4.1. Phương pháp chung
Trong quá trình nghiên cứu đề tài là phương pháp chung của chủ nghĩa Mác
– Lênin: duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
4.2. Phương pháp cụ thể
Ngoài ra, đề tài sử dụng các phương pháp cụ thể, như:
- Phương pháp phân tổ thống kê
- Phương pháp điều tra thu thập số liệu
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, phỏng vấn, điều tra
5. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển KTTN trong thời kỳ hội
nhập WTO
Chương 2: Thực trạng phát triển KTTN ở thành phố Huế từ 2007- 2011
Chương 3: Những giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy sự phát triển KTTN ở
thành phố Huế
4
4

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN TRONG
THỜI KỲ HỘI NHẬP WTO
1.1. Lý luận về kinh tế tư nhân
1.1.1. Quan niệm, vai trò và xu hướng phát triển KTTN
1.1.1.1. Quan niệm và các cách tiếp cận về kinh tế tư nhân
Đối với các nền kinh tế dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, trong các
tác phẩm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin chúng ta không bắt gặp
được thuật ngữ KTTN mà chỉ gặp các thuật ngữ như: sở hữu tư nhân, sở hữu tư
nhân tư bản chủ nghĩa (TBCN), chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN…
Trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà
nước” [13], Ăng-ghen đã chứng minh rằng: tổ chức kinh tế của gia đình cá thể
chính là loại hình đơn vị kinh tế đầu tiên dựa trên chế độ sở hữu tư nhân trong
lịch sử. Có thể nói sở hữu tư nhân là nguyên nhân làm nảy sinh KTTN vì đơn vị
kinh tế dựa trên chế độ sở hữu tư nhân, một khi nằm trong hệ thống phân công
lao động xã hội sẽ trở thành đơn vị sản xuất và trao đổi hàng hóa.
Hiện nay ở các quốc gia có rất nhiều cách hiểu khác nhau về KTTN. Đối
với Việt Nam, KTTN dần dần được hình thành trong cả lý luận và thực tiễn xây
dựng và phát triển đất nước.
KTTN là một loại hình kinh tế phát triển dựa trên sở hữu tư nhân về toàn bộ
các yếu tố sản xuất (cả vô hình và hữu hình) được đưa vào sản xuất kinh doanh.
Nó hoàn toàn tự chủ, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động sản xuất kinh
doanh, dịch vụ, cụ thể là: tự chủ về vốn, tự chủ về quản lý, tự chủ về phân phối
sản phẩm, tự chủ lựa chọn hình thức tổ chức, quy mô, phương hướng sản xuất
kinh doanh, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh trước
pháp luật của Nhà nước. Khu vực kinh tế tư nhân là khu vực kinh tế bao gồm
những đơn vị được tổ chức dựa trên sở hữu tư nhân [15]. Ở Việt Nam cũng có
những cách hiểu khác nhau về phạm vi của KTTN:
Cách hiểu thứ nhất:

5
5
− Khu vực KTTN gồm các doanh nghiệp tư nhân (DNTN) trong nước và các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài dưới dạng liên doanh. Các DNTN trong
nước bao hàm cả các hợp tác xã nông nghiệp và các doanh nghiệp phi nông
nghiệp. Việc hiểu khu vực KTTN theo nghĩa rộng như vậy tạo cơ sở đánh giá hết
tiềm năng của KTTN đối với phát triển kinh tế Việt Nam, song lại gặp khó khăn
trong thống kê, khi muốn tách bạch phần vốn góp của Nhà nước trong các công
ty cổ phần, cũng như trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Hơn nữa
theo cách phân biệt này, việc phân tích đôi khi sẽ gặp khó khăn, bởi không phải
tất cả các bộ phận trong khu vực KTTN đều được Nhà nước đối xử như nhau.
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhìn chung luôn nhận được những
điều kiện thuận lợi hơn các DNTN trong nước, cũng như công ty trách nhiệm
hữu hạn, hộ kinh doanh cá thể [7].
− Khu vực KTTN bao gồm các loại hình DNTN trong nước, nhưng không bao hàm
hộ kinh doanh cá thể. Cách hiểu này bộc lộ nhiều hạn chế. Tuy nhiên, các số liệu
thống kê của Việt Nam thường theo cách phân loại này [7].
Cách hiểu thứ hai: Quan điểm của KTTN qua các Văn kiện Đại hội
Đảng toàn quốc:
− Theo quan điểm của Đảng ta thể hiện trong Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX:
Việc hiểu KTTN gắn liền với khái niệm thành phần kinh tế (TPKT). Trong nền
kinh tế của nước ta theo quan niệm lúc đó có 6 thành phần kinh tế: kinh tế nhà
nước; kinh tế tập thể; kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản
nhà nước có vốn đầu tư nước ngoài. Lần đầu tiên KTTN được nhận dạng đích
thực: “KTTN là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, phát
triển KTTN là vấn đề chiến lược lâu dài trong chiến lược phát triển kinh tế nhiều
thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), góp phần quan trọng nâng cao
nội lực của đất nước trong hội nhập kinh tế quốc tế” [4, tr.26 - 27].
Hộ kinh doanh cá thể là hình thức tồn tại của thành phần kinh tế cá thể, tiểu
chủ, dựa trên sở hữu tư nhân nhỏ về tư liệu sản xuất. Hình thức này chủ yếu sử dụng

lao động trong gia đình, việc sử dụng lao động làm thuê không thường xuyên. Hộ
kinh doanh cá thể là đơn vị kinh tế độc lập tự chủ trong sản xuất kinh doanh, là chủ
thể trong mọi quan hệ sản xuất và tự chịu trách nhiệm về mọi kết quả tài chính của
mình [4].
6
6
Các loại hình doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN là doanh nghiệp tư nhân
(DNTN), công ty trách nhiệm hữu hạn (CTTNHH), công ty cổ phần (CTCP), công
ty hợp danh (CTHD). Các loại doanh nghiệp này là hình thức tồn tại của thành
phần kinh tế tư bản tư nhân, dựa trên sở hữu tư nhân lớn về tư liệu sản xuất [4].
− Theo quan điểm của Đảng tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X: việc hiểu thêm
KTTN tiếp tục gắn liền với khái niệm thành phần kinh tế. Đảng ta xác định có 5
thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước (KTNN), kinh tế tập thể (KTTT) , KTTN
( cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài. KTTN gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân, được xác định có
vai trò quan trọng, là động lực của nền kinh tế [5] và cần thực hiện chiến lược
quốc gia về phát triển doanh nghiệp [5, 83-84]. Trong cơ cấu thành phần kinh tế
ở phần “nhiệm vụ, phương hướng phát triển kinh tế -xã hội 5 năm 2006-2010”
của Đại hội X có quan niệm: “không phân biệt thành phần kinh tế, phù hợp với
các cam kết quốc tế của nước ta”[5, tr.231]. Trong Văn kiện này cũng có vấn đề
cần chú ý: ngay trong các hợp tác xã kiểu mới cũng cần đa dạng hóa các hình thức
sở hữu (có sở hữu pháp nhân, thể nhân): “…ở đây,ngay trong loại hình kinh tế tập
thểvẫn còn có phần sở hữu KTTN. Mặt khác, cần khuyến khích phát triển các
doanh nghiệp lớn của tư nhân, các tập đoàn KTTN có nhiều chủ sở hữu với hình
thức công ty cổ phần…” và “khuyến khích tư nhân mua cổ phần của các doanh
nghiệp nhà nước, tham gia đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh quan
trọng của nền kinh tế” [5, tr.236 - 237].
Trên thế giới, trước khi hình thành khu vực kinh tế nhà nước, KTTN giữ vị
trí độc tôn trên thị trường và thường đồng nhất với kinh tế thị trường. Chính vì
vậy, nói đến kinh tế thị trường bao giờ cũng nói đến KTTN và trong các tài liệu,

sách báo thường chỉ đề cập tới bản chất của KTTN đó là sở hữu tư nhân. Khu
vực kinh tế nhà nước do nhà nước sở hữu nên nhà nước có thể chi phối và kiểm
soát trực tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Khu vực KTTN
là phần còn lại ngoài khu vực Nhà nước. Sự phân chia như vậy chủ yếu dựa trên
tiêu chí sở hữu tư liệu sản xuất hoặc vốn. Trong nền kinh tế hỗn hợp hiện nay, sự
đan xen sở hữu giữa khu vực kinh tế nhà nước và khu vực KTTN hiện nay làm
cho sự phân loại thêm phức tạp. Trong các công ty sở hữu hỗn hợp, khu vực
KTTN được xác định dựa vào tỷ lệ vốn khống chế thuộc về tư nhân. Tỷ lệ vốn
7
7
khống chế này tùy vào điều kiện mỗi nước và có thể dao động từ 18 - 40%,
không nhất thiết phải trên 50% [21].
Tóm lại có thể quan niệm: KTTN là khu vực kinh tế, bao gồm kinh tế cá
thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân, dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất và các nguồn lực đầu vào khác của tư nhân, tồn tại dưới hình thức
DNTN, CTCP, CTTNHH và hộ kinh doanh cá thể.
1.1.1.2. Vai trò của kinh tế tư nhân
1.1.1.2.1. Huy động ngày càng nhiều nguồn vốn trong xã hội cho đầu tư
vào sản xuất kinh doanh
Số lượng doanh nghiệp và hộ gia đình cá thể gia tăng phản ánh khả năng
huy động vốn đầu tư trong dân cư cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh của
khu vực KTTN là rất lớn. Yếu tố tích cực này đặc biệt rõ nét khi “Luật Doanh
nghiệp 2005” được thực thi. Nếu năm 2007 có 40.468 DNTN thì đến 31/12/2010
có 48.009 DNTN đăng kí hoạt động. Xét trong cơ cấu doanh nghiệp của nền kinh
tế, năm 2007 số doanh nghiệp của khu vực KTTN chiếm 90,28% và DNNN chỉ
chiếm 2,24% trong tổng số doanh nghiệp thì đến năm 2010, DN thuộc khu vực
KTTN chiếm đến 92,29% và DNNN chỉ chiếm khoảng 1,13% trong tổng số
doanh nghiệp [12]. Mức vốn đăng kí trung bình trên một doanh nghiệp đang có xu
hướng tăng lên. Tốc độ tăng vốn diễn ra mạnh làm tỷ trọng vốn đầu tư của DNTN
trong nước liên tục tăng nhưng vẫn còn chậm. Thông qua hoạt động của khu vực

KTTN, nguồn vốn trong dân đang dần được sử dụng hiệu quả, thúc đẩy quy mô
đầu tư của nền kinh tế. Năm 2008 tổng vốn đầu tư vào khu vực KTTN là 217.034
tỷ đồng, chiếm 35,2% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, đóng góp 40,37% GDP toàn
quốc. Đến năm 2011 tổng vốn đầu tư vào khu vực KTTN là 309.390 tỷ đồng,
chiếm 35,2% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, đóng góp 42,78% GDP toàn quốc [12].
Như vậy, mặc dù tỷ trọng vốn đầu tư vào khu vực KTTN không thay đổi trong
tổng vốn đầu tư xã hội trong giai đoạn 2008 - 2011 nhưng vẫn đóng góp nhiều hơn
vào GDP toàn quốc, chứng tỏ KTTN ngày càng sử dụng vốn có hiệu quả hơn.
1.1.1.2.2. Tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động
Ở Việt Nam hằng năm có thêm khoảng 1,2 - 1,4 triệu người đến độ tuổi lao
động, ngoài ra số lượng lao động nông nghiệp có nhu cầu chuyển sang làm việc
8
8
trong các ngành phi nông nghiệp cũng đáng kể. Trên phương diện này, đóng góp
của khu vực KTTN không thể phủ định được. Sự phát triển của KTTN đã tạo khả
năng thu hút một lượng lớn lao động trong xã hội. Khu vực này đã đang và sẽ là
nguồn cung cấp to lớn về việc làm mới cho xã hội, chính việc tạo thêm việc công
ăn việc làm mới cho các ngành phi nông nghiệp tạo thêm cơ hội cho nông nghiệp
phát triển, mở rộng thị trường thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao
năng suất lao động và sức cạnh tranh trong nền kinh tế, góp phần nâng cao đời
sống của mọi tầng lớp nhân dân. Trong giai đoạn 2007 - 2011, khu vực KTTN
giải quyết 800 nghìn lao động/năm, chiếm 50% số lao động tăng thêm của cả
nước [3, tr.7]. Bên cạnh tạo ra một khối lượng việc làm lớn, một đóng góp có ý
nghĩa không nhỏ của các cơ sở KTTN là đào tạo bồi dưỡng và nâng cao tay nghề
cho người lao động đến làm tại các doanh nghiệp. Hình thức đào tạo linh hoạt, đa
dạng và mang lại hiệu quả cao.
1.1.1.2.3. Kinh tế tư nhân đóng góp ngày càng lớn trong GDP
Năm 2008 khu vực KTTN chỉ chiếm 40,37% GDP thì đến năm 2011 khu
vực này chiếm tới 42,78 % GDP [12]. Điều này chứng tỏ sự lớn mạnh của khu
vực tư nhân trong hầu hết các lĩnh vực và ngày càng đóng góp vị trí quan trọng

trong GDP cả nước. Ngoài ra mức đóng góp của các lĩnh vực sản xuất kinh
doanh ở khu vực KTTN cũng khác nhau, sản xuất công nghiệp ở mức đóng góp
thấp nhất, thương mại dịch vụ tương đối cao. Tuy nhiên, mức tăng của sản xuất
tăng mạnh trong khi đó chững lại ở lĩnh vực thương mại, dịch vụ. Chứng tỏ trong
giai đoạn tới khu vực KTTN sẽ đầu tư nhiều hơn vào công nghiệp.
1.1.1.2.4. Tạo nguồn bổ sung vào ngân sách nhà nước.
Các doanh nghiệp thuộc thành phần KTTN trong nước đóng góp khoảng
1/6 nguồn thu ngân sách nhà nước. Năm 2007 các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh trong nước đóng góp 9,87% thu ngân sách nhà nước thì năm 2010 con số
này là 12,53%, tăng 2,66% [12]. Điều này đã tạo khả năng đóng góp của khu vực
kinh tế này vào ngân sách nhà nước.
Ngoài đóng góp vào ngân sách nhà nước, một phần không nhỏ các doanh
nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp còn tích cực tham gia và có đóng góp đáng kể vào
9
9
xây dựng các công trình văn hóa, trường học, đường giao thông nông thôn, nhà
tình nghĩa và những đóng góp phúc lợi xã hội khác.
Sức mạnh của KTTN làm tăng hiệu quả công tác thu thuế. Mặc dù đóng
góp trực tiếp vào nguồn thu ngân sách nhà nước của doanh nghiệp nhà nước, hộ
kinh doanh cá thể trong thời gian qua đã tăng lên đáng kể song nhìn chung vẫn
chưa xứng với tốc độ phát triển của khu vực kinh tế này.
1.1.1.2.5. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng kim ngạch xuất nhập
khẩu
Một trong những nội dung quan trọng trong quá trình CNH - HĐH đất nước
là cơ cấu nền kinh tế theo hướng tiến bộ về khoa học công nghệ trong cơ cấu
ngành và thành phần kinh tế nhằm giải phóng sức sản xuất, nâng cao nội lực từng
bước hòa nhập kinh tế quốc tế. Để xây dựng và phát triển một nền kinh tế ổn
định, vững chắc, tốc độ phát triển nhanh đòi hỏi cần giải quyết mối quan hệ giữa
các thành phần kinh tế trong quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động có sự đóng
góp của KTTN, góp phần nâng cao tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong cơ cấu

tổng thể của nền kinh tế quốc dân. Tỷ trọng tham gia của khu vực KTTN vào các
lĩnh vực kinh doanh thay đổi đáng kể, phần lớn các doanh nghiệp tham gia vào
các ngành thương mại, dịch vụ, công nghiệp đến nông lâm thủy sản. KTTN đã
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng nâng dần tỷ trọng các ngành
công nghiệp dịch vụ.
Bên cạnh thực hiện sản xuất đồng bộ sản phẩm hàng hóa xuất khẩu KTTN
còn tham gia nhiều công đoạn trong quá trình sản xuất hàng xuất khẩu. Chất
lượng nhiều mặt hàng đã tăng góp phần đẩy lùi sự xâm nhập của hàng nhập
ngoại. Một số sản phẩm xuất khẩu chủ yếu của nước ta: thủy sản, thủ công mỹ
nghệ…đều do KTTN sản xuất. Ngoài ra KTTN còn chiếm tỷ trọng đáng kể trong
xuất khẩu may mặc và đồ da. Đây là hai ngành công nghiệp khá quan trọng của
nước ta có kim ngạch xuất khẩu lớn. Điều đó thể hiện sự đóng góp to lớn của
KTTN vào xuất khẩu.
1.1.1.2.6. Tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh
Trong quá trình đổi mới nền kinh tế, quan hệ hàng hóa tiền tệ thực sự hình
thành và phát triển các doanh nghiệp tự do cạnh tranh trên thị trường kể cả đầu
10
10
vào lẫn đầu ra. Với sự lớn mạnh của khu vực KTTN và các TPKT khác hàng hóa
được tự do lưu thông, cung cầu, giá cả hàng hóa tiêu dùng được xác lập theo
nguyên tắc thị trường. Những chính sách có tính chất “ngăn sông, cấm chợ” đối
với KTTN được xóa bỏ. Chính sự ra đời của khu vực KTTN đã tạo điều kiện cho
việc hình thành và phát triển các loại thị trường trong nền kinh tế đáng kể: thị
trường lao động, thị trường đất đai… Trong xu thế phát triển hiện nay, Việt Nam
mở rộng quan hệ với tất cả các quốc gia theo nguyên tắc đa phương hóa, đa dạng
hóa. Trong bối cảnh đó sự tồn tại và lớn mạnh của khu vực KTTN đã làm cho
môi trường cạnh tranh trở nên năng động hơn tính cạnh tranh cao hơn không chỉ
có các DNTN mà ngay cả các doanh nghiệp nhà nước cũng phải chịu sức ép
nâng cao hiệu quả kinh doanh. Các DNTN đã làm tăng tính mềm dẻo, linh hoạt
vốn rất hạn chế ở các DNNN và các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế

khác buộc phải nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Nền kinh tế hoạt động
năng động có hiệu quả hơn.
1.1.1.3. Xu hướng phát triển kinh tế tư nhân
1.1.1.3.1. Sự cân đối lại giữa hai khu vực: kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân
Đầu những năm 90 (thế kỷ XX), trước tình trạng kinh doanh kém hiệu quả
của các DNNN, bên cạnh đó kinh tế cá thể, tiểu chủ phát triển năng động, Đảng
và Nhà nước chủ trương cổ phần hóa DNNN, đồng thời khuyến khích các
TPKT khác phát triển: “bảo đảm quyền tự do kinh doanh và bình đẳng giữa các
thành phần kinh tế”, “hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển mạnh KTTN
theo quy hoạch và quy định của pháp luật, thúc đẩy hình thành các tập đoàn
KTTN, khuyến khích tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước” [6].
Như vậy, một xu hướng mới cân đối lại giữa DNNN và các lực lượng kinh tế
khác, trong đó có KTTN. Quá trình cân đối này đã diễn ra hơn 20 năm, ngày
càng biểu hiện rõ rệt trong nền kinh tế quốc dân khi tỉ trọng đóng góp của
KTTN ngày càng tăng.
Về sở hữu: KTTN phát triển theo hướng đa dạng hóa sở hữu, đan xen các
hình thức sở hữu.Khuyến khích và mở rộng hình thức hợp tác, liên kết, liên
doanh giữa doanh nghiệp tư nhân với DNNN, hợp tác xã và các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài, tạo mối quan hệ hợp tác, cạnh tranh cùng có lợi. “Khuyến
11
11
khích phát triển các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh với sở hữu hỗn hợp
mà chủ yếu là các doanh nghiệp cổ phần để loại hình này trở thành phổ biến
trong nền kinh tế thúc đẩy xã hội hóa sản xuất kinh doanh và sở hữu.”[6]
Về tổ chức quản lý: Quản lý trở thành một nghề, người làm công sẽ được
thu hút vào các cấp độ quản lý, tham gia thông qua các quyết định của doanh
nghiệp về sản xuất kinh doanh về tổ chức lao động Doanh nghiệp Việt Nam
thường xuyên học tập, tiếp thu kinh nghiệm quản lý của thế giới.
Về phân phối: Các chủ DN bắt đầu quan tâm đến quy luật cung cầu về
nguồn nhân lực. Về phía người lao động, họ cũng xác định giá trị sức lao động

của bản thân. Vì vậy, các doanh nghiệp có “chiến thuật” giữ chân người lao
động: ngoài tiền công tối thiểu, người lao dộng còn tham gia vào phân chia lợi
nhuận dưới những hình thức khác nhau.
1.1.1.3.2. Hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư
nhân, trở thành một trong những động lực của nền kinh tế
Kinh tế tư nhân trước hết phải có mặt trong tất cả các lĩnh vực, các nghành
các vùng, tuy nhiên trong thời kỳ công nghiệp hóa KTTN ngày càng chiếm tỷ
trọng cao trong cơ cấu GDP.
Lực lượng làm kinh tế tư nhân sẽ rất đông đảo, bao gồm các tầng lớp nhân
dân (có thể gọi khu vực này là dân doanh). Đặc biệt, sẽ có nhiều Đảng viên làm
KTTN lớn (mà chúng ta vẫn gọi tư bản tư nhân). KTTN cùng với KTNN, KTTT
là lực lượng chủ yếu của nền kinh tế quốc dân.
KTTN sẽ có vị trí, vai trò ngày càng lớn trong CCKT quốc dân trên tất cả
các mặt:số lượng, tỉ trọng trong GDP, kim ngạch xuất khẩu, tốc độ chuyển dịch
CCKT mạnh, khả năng cạnh tranh cao; tạo ra hệ thống thị trường, thúc đẩy phân
công và hợp tác quốc tế, tạo ra nhiều việc làm, góp phần đắc lực xóa đói giảm
nghèo, nâng cao thu nhập và đời sống nhân dân. Tạo môi trường cạnh tranh bình
đẳng, minh bạch. Phát triển đồng bộ, hoàn chỉnh và ngày càng hiện đại các loại
thị trường.
1.1.1.3.3. Phát triển các Doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN)
Trong điều kiện hiện đại, mỗi loại doanh nghiệp đều có ưu thế đặc thù và
thực hiện chức năng trong sự tác động qua lai lẫn nhau, tạo ra sự phong phú và
đa dạng trong quá trình hội nhập. Hiện nay, ở nước ta có đến 90% trong tổng số
12
12
doanh nghiệp là DNVVN [1], bởi lẽ nó hoạt động năng động và linh hoạt, và do
đó mà có hiệu quả hơn. Cũng chính từ giới hạn của các công ty lớn đã chừa ra
một không gian cho các DNVVN tồn tại và phát triển.
Quá trình hình thành và phát triển DNVVN theo hai hướng sau:
Một là, các hộ kinh tế cá thể (tư nhân nhỏ) có thể tích tụ các yếu tố sản xuất

để mở rộng dần quy mô sản xuất kinh doanh, nhưng đến một mức nào đó, khi
vượt giới hạn của hộ cá thể họ sẽ kiên kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế
hợp tác.
Hai là, một bộ phận có khả năng về vốn, kinh nghiệm, kỹ năng kinh doanh,
biết làm ăn, có bản lĩnh, thì họ sẽ tích lũy về vốn, tư liệu sản xuất, lao động, hình
thành các đơn vị kinh tế lớn (tư nhân lớn)
Với những biến động của nền kinh tế thị trường, nền kinh tế sẽ diễn ra hiện
tượng tôn vinh và đào thải các doanh nghiệp. Một số bộ phận sẽ nhập vào bộ
phận lao động làm thuê trong và ngoài nước, một đội ngũ doanh nhân sẽ ngày
thêm đông đảo, chịu sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của nhà nước XHCN. Xu
hướng trong những năm tới số hộ tham gia loại hình hợp tác, CTCP, CTTNHH
sẽ tăng lên. Quy mô sản xuất kinh doanh, dịch vụ sẽ tăng lên. Theo đó trang thiết
bị kỹ thuật sẽ tiến bộ hơn.
1.1.1.3.4. Kinh tê tư nhân với hội nhập kinh tế quốc tế
Từ đầu những năm 1990, xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế đã phát triển
mạnh mẽ trên khắp thế giới dưới những hình thức và mức độ khác nhau.
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình các quốc gia thực hiện chính sách kinh
tế mở, mở rộng quan hệ giao lưu hợp tác quốc tế, gia nhập trở thành thành viên
của các tổ chức quốc tế, các định chế kinh tế - tài chính quốc tế và tham gia giải
quyết các vấn đề toàn cầu. Đó cũng là quá trình loại bỏ dần các rào cản trong
thương mại quốc tế, thanh toán quốc tế để tạo điệu kiện thuận lợi cho việc luân
chuyển các nhân tố sản xuất giữa các nước.
Là một bộ phận của nền kinh tế thế giới, nước ta nhận thức được những
tác động kinh tế có tính xu hướng của toàn cầu hóa và đã tham gia nhiều hơn
vào quá trình hội nhập. Trong đó, có KTTN đã thể hiện sự tích cực trong hội
nhập quốc tế. Đó là sự giao lưu hợp tác của các DN về vốn, công nghệ, nguyên
vật liệu, thị trường nguyên liệu và tiêu thụ hàng hóa… Từ lâu, cùng với việc
thực hiện chính sách đổi mới, nước ta đã từng bước tích cực tham gia vào tiến
13
13

trình toàn cầu hóa, thiết lập quan hệ ngoại giao với Ngân hàng Thế giới (WB),
tham gia Diễn đàn Châu Á Thái Bình Dương (APEC), Tổ chức Thương mại
Thế giới (WTO)…
Hoạt động kinh tế đối ngoại, trong đó nòng cốt là ngoại thương có tiến bộ
rõ rệt. Thị trường được mở rộng tới tất cả các nền kinh tế, thành viên của WTO.
Nếu năm 2007, kim ngạch xuất khẩu mới đạt được 48,56 tỷ USD, thì đến năm
2011 con số đó là 96,3 tỷ USD, tăng gấp 2 lần [3, tr.17]. Hiện nay Việt Nam có
nhiều mặt hàng chủ lực như gạo, café, cao su… Có thể nói, quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế đã góp phần gia tăng đáng kể năng lực tổng hợp của nền kinh tế
nước ta. Khu vực KTTN Việt Nam với sự năng động, sáng tạo và tính cạnh tranh
cao đã biết tận dụng cơ hội của sự hội nhập, đóng góp vào sự phát triển của đất
nước. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng, khả năng tham gia còn quá nhỏ bé so với
tiềm năng của thành phần này. Do vậy, ta phải có chính sách hội nhập toàn diện,
cần sự trợ giúp, định hướng của Nhà nước để KTTN vững mạnh.
1.1.2. Các hình thức phát triển KTTN
Trong phạm trù KTTN (bao gồm: kinh tế cá thể, phần tư nhân trong các
hợp tác xã cổ phần, DNTN, CTCP, CTTNHH thuộc tư nhân) chúng tôi chủ yếu
xem xét 3 loại hình chủ yếu: DNTN, CTCP, CTTNHH.
* Doanh nghiệp tư nhân
Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu
trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
Chủ sở hữu duy nhất của doanh nghiệp tư nhân là một cá nhân. Doanh nghiệp tư
nhân không có tư cách pháp nhân [8].
Do là chủ sở hữu duy nhất của DN nên DNTN hoàn toàn chủ động trong
việc quyết định các vấn đề liên quan đến hoạt động kinh doanh của DN. Chế độ
trách nhiệm vô hạn của chủ DNTN tạo sự tin tưởng cho đối tác, khách hàng và
giúp cho doanh nghiệp ít chịu sự ràng buộc chặt chẽ bởi pháp luật như các loại
hình DN khác. Tuy nhiên, do không có tư cách pháp nhân và tính chịu trách
nhiệm vô hạn về tài sản nên mức độ rủi ro của chủ DNTN cao và họ phải chịu
trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của doanh nghiệp và của chủ doanh nghiệp chứ

không giới hạn số vốn mà chủ DN đã đầu tư vào DN.
*Công ty cổ phần: Là doanh nghiệp, trong đó:
14
14
+ Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Cổ
đông có thể là các tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không
hạn chế về số lượng tối đa. Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các
nghĩa vụ tài sản khác của DN trong phạm vi số vốn đã góp vào DN. Cổ đông có
quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ trường hợp
quy định tại khoản 3, Điều 81 và khoản 5, Điều 84 của Luật DN.
+ CTCP có tư cách pháp nhân, có tài sản riêng độc lập với các chủ thể khác
và tài sản của các thành viên công ty. CTCP chịu trách nhiệm về các khoản nợ và
nghĩa vụ tài sản của công ty bằng chính tài sản riêng của mình.
+ CTCP có quyền phát hành chứng khoán các loại để huy động vốn.
* Công ty trách nhiệm hữu hạn
Đối với CTTNHH có từ hai thành viên trở lên:
+ Là doanh nghiệp, trong đó: thành viên có thể là tổ chức, cá nhân; số
lượng thành viên không vượt quá năm mươi. Thành viên chịu trách nhiệm về các
khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của DN trong phạm vi số vốn đã cam kêt
vào DN. Phần góp vốn của thành viên chỉ được chuyển nhượng theo quy định tại
các điều 43, 44 và 45 của Luật DN.
+ CTTNHH có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh.
+ CTTNHH không được quyền phát hành cổ phần.
Đối với CTTNHH một thành viên
+ Là DN do một tổ chức hoặc một cá nhân làm chủ sở hữu (sau đây gọi là
chủ sở hữu công ty); chủ sở hữu công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và
nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty.
+ CTTNHH một thành viên cũng giống như CTTNHH hai thành viên trở
lên là có tư cách pháp nhân từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh

doanh; không được phát hành cổ phiếu.
+ Vốn góp được xác định theo tỷ lệ phần trăm. Vốn góp đầy đủ và đúng
hạn. Các quyền lợi và nghĩa vụ vật chất của thành viên sẽ được xác định theo tỷ
lệ phần vốn góp (lợi nhuận, phân chia tài sản khi giải thể,…)
1.1.3. Các nhân tố tác động tới phát triển kinh tế tư nhân
1.1.3.1. Môi trường thể chế
15
15
Yếu tố thể chế đóng vai trò là “hành lang” cho quá trình tăng trưởng kinh tế
của một quốc gia. Thể chế chính trị bao gồm: bộ máy tổ chức thực hiện, pháp
luật, chế độ chính sách, chiến lược… Một thể chế không phù hợp sẽ tạo ra rào
cản, ảnh hưởng đến sử dụng hiệu quả nguồn lực.
Cải cách thể chế đạt hiệu quả, môi trường kinh doanh sẽ tốt lên và ngược
lại. Thể chế là vấn đề trung tâm, giải quyết tốt được vấn đề này, sẽ giải quyết
được hai nút thắt còn lại của tăng trưởng là hạ tầng và nhân lực.
Vai trò quản lý kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường là nhân tố
tác động trực tiếp đến sự phát triển của kinh tế tư nhân thông qua những việc làm
cơ bản. Cho đến nay, môi trường thể chế đối với kinh tế tư nhà nước ta đã được
thay đổi về căn bản, đã tạo được động lực trực tiếp, thực sự thúc đẩy tăng trưởng
và phát triển. Tuy nhiên,công tác quản lý nhà nước về kinh tế đối với khu vực
này vẫn còn nặng nề về thủ tục hành chính và còn chồng chéo.Nỗ lực giảm đầu
mối cơ quan quản lý đã thành công bước đầu, nhưng việc xác định lại chức năng,
nhiệm vụ của các cơ quan này chưa đạt kết quả tương xứng. Việc giảm trách
nhiệm của các cơ quan Nhà nước chưa được bao nhiêu, phần trao quyền chưa
được thể hiện rõ, hệ quả là bộ máy Nhà nước vẫn còn cồng kềnh, hiệu suất hoạt
động thấp. Còn chồng chéo trong chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan quản lý
Nhà nước, trong khi cơ chế phối hợp còn kém hiệu quả dẫn đến tốn kém thời
gian, nhân lực và giảm hiệu quả trong nhiều lĩnh vực quản lý. Điều này tác động
xấu đến môi trường kinh doanh.
Trong điều kiện nền kinh tế nước ta hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế,

tham gia WTO, vấn đề nổi cộm là nhanh chóng hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường phù hợp thông lệ quốc, điều chỉnh chính sách kinh tế đối ngoại theo xu
hướng tự do hóa thương mại, gắn liền cải cách tài chính
Hiện nay, chính sách tín dụng đầu tư của hệ thống ngân hàng còn nhiều bất
cập, DN khó tiếp cận được nguồn vốn, một số chính sách thiếu minh bạch, lại hay
thay đổi khiến việc tìm kiếm cơ hội kinh doanh gặp khó khăn và từ đó dễ nảy sinh
các hành vi tiêu cực, lạm dụng chức quyền, nhũng nhiễu của cán bộ quản lý nhà
nước đối với khu vực này. Đa số doanh nghiệp vừa và nhỏ nhưng chế độ kiểm toán,
kế toán còn nhiều phức tạp, không phù hợp và thiếu linh hoạt. Do đó, tiếp tục cải
thiện môi trường thể chế là bước đột phá quan trọng đối với việc thúc đẩy KTTN.
16
16
Tóm lại, môi trường thể chế cần thay đổi để phù hợp với bối cảnh hòa nhập, với các
tiêu chí của WTO, khuyến khích sự đầu tư từ nước ngoài đối với khu vực KTTN.
1.1.3.2. Mặt bằng kinh doanh
Các DNTN hiện nay chủ yếu là DNVVN, cho nên mặt bằng sản xuất kinh
doanh là một vấn đề đầu tiên trong quá trình phát triển. Mặt khác, trên thực tế, đa
số quỹ đất đều đã được giao cho các tổ chức, cá nhân ổn định cho nên chủ yếu,
chủ DN phải đi thuê đất làm mặt bằng sản xuất kinh doanh. Quỹ đất đã hạn hẹp,
vốn đầu tư nhỏ…các DNTN rất cần những quy hoạch tổng thể, dài hạn, một môi
trường minh bạch và một thị trường ổn định về giá cả, thuận lợi về vị trí nhằm ổn
định sản xuất kinh doanh và tham gia thị trường một cách bền vững.
1.1.3.3. Vốn đầu tư
Nói đến sản xuất kinh doanh của DN thì vốn có vai trò rất quan trọng, là
nhân tố đầu tiên, cơ bản, là điều kiện tiền đề cho sự ra đời và là cơ sở để mở rộng
sản xuất kinh doanh. Những nước đang phát triển, đi sau như nước ta thì vốn là
một vấn đề mang tính quyết định quy mô, loại hình…để sản xuất kinh doanh.
Hầu hết các DN Việt Nam hiện nay đang “khát vốn”, nợ xấu. Quy mô vốn của
các DN còn nhỏ, cơ cấu vốn mất cân đối, và chưa linh hoạt (tài sản chủ yếu là thế
chấp bất động sản, các giấy tờ thế chấp, tính thanh khoản thấp, cho nên vốn của

chủ sở hữu không lớn trong tổng vốn kinh doanh của DN) và luôn tiềm ẩn các rủi
ro cho nên hoạt động cầm chừng chụp dựt. Theo “Báo cáo về tình hình doanh
nghiệp 4 tháng đầu năm 2012 và một số biện pháp tháo gỡ khó khăn” của
Tổng cục thống kê thì gần 30% DN dừng hoạt động. Do đó, Nhà nước cần có
chính sách hỗ trợ tín dụng đầu tư trực tiếp khu vực này. Trong thời kỳ hội nhập
WTO, nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài rất lớn, nó được xem là động lực quan
trong giúp KTTN khởi sắc, có thêm năng lượng cho DN vươn xa. Vì vậy, Nhà
nước cần tạo điều kiện để KTTN tiếp cận nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài.
1.1.3.4. Khoa học công nghệ
Ngày nay khoa học và công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp,
được coi là yếu tố đầu vào quan trọng đặc biệt, một chức năng của quá trình sản
xuất kinh doanh. Nó được coi là động lực của mọi động lực, quyết định đến chất
lượng và hiệu quả, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. KH - CN mở
17
17
rộng khả năng sản xuất: tăng năng suất lao động, giảm lao động sống, giảm chi
phí. KH - CN còn thúc đẩy việc hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng tiến bộ. Nó đẩy trình độ sản xuất của DN tiến lên một bước mới.Vì vậy,
đổi mới trang thiết bị công nghệ đối với KTTN được coi là hiệu lệnh cho tăng
trưởng và phát triển.
Tuy nhiên, các thành tựu KH - CN tiên tiến, hiện đại hầu hết nằm trong các
nước phát triển mà ở đó sở hữu tư nhân và KTTN giữ vai trò thống trị. Đối với
các nước đang phát triển, chuyển giao công nghệ là một trong những biện pháp
cơ bản để hiện đại hóa nền kinh tế và thúc đẩy KH - CN trong nước phát triển. Vì
vậy, phải kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại, các doanh
nghiệp cần có các tính toán kỹ lưỡng, hợp lý cho phù hợp với điều kiện của mình.
Cần phải đầu tư theo chiều sâu, tăng cường nguồn vốn cho khâu đột phá này. Cần
chú ý tới áp dụng công nghệ sử dụng nhiều lao động. Nhà nước cần hỗ trợ vốn vay
để đầu tư đổi mới kỹ thuật, công nghệ, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực công nghệ
cao để giúp KTTN thực hiện việc tiếp nhận và chuyển giao công nghệ hiện đại

trong môi trường hội nhập quốc tế. Công nghệ Việt Nam vẫn ở trong trình độ thấp
so với thế giới. Kinh nghiệm thế giới cho thấy, các nước như Việt Nam phải biết
phát huy lợi thế của các nước đi sau để thực hiện quá trình rút ngắn.
1.1.3.5. Nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực là lực lượng nòng cốt của doanh nghiệp. Trong quá trình
phát triển của xã hội và sự hội nhập của nền kinh tế hiện nay yêu cầu phải luôn
đổi mới đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là vấn đề cấp bách hơn bao
giờ hết. Theo kết quả điều tra dân số đến tháng 12/2010, Việt Nam có nguồn
nhân lực đang phát triển dồi dào gần 87 triệu người. Tuy nhiên, lao động trong
các cơ sở KTTN chủ yếu là lao động phổthông. Trình độ ngoại ngữ, khả năng sử
dụng máy tính, công nghệ thông tin của các doanh nhân điều hành doanh nghiệp
còn kém… Cơ cấu đào tạo hiện còn bất hợp lý được thể hiện qua các tỷ lệ: Đại
học và trên Đại học, trung học chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật. Việt Nam
đang rất thiếu lao động có trình độ tay nghề, công nhân kỹ thuật bậc cao và chất
lượng nguồn nhân lực Việt Nam cũng thấp hơn so với nhiều nước khác. Cơ cấu
phân bổ lao động theo ngành nghề cũng mất cân đối. Các ngành kỹ thuật - công
18
18
nghệ, nông - lâm - ngư nghiệp ít và chiếm tỉ trọng thấp, trong khi đó các ngành
xã hội luật, kinh tế, ngoại ngữ lại quá cao. Những lĩnh vực hiện đang thiếu lao
động như: công nghệ thông tin, điện tử, viễn thông, cơ khí chế tạo, [22]
Bởi vậy, để đáp ứng yêu cầu nâng cao sức cạnh tranh của DN, giải quyết
hiện tượng vừa thừa (lao động phổ thông) vừa thiếu (lao động tay nghề cao), nhà
nước cần có chính sách hỗ trợ công tác đào tạo doanh nhân và điều chỉnh kịp thời
cơ cấu đào tạo nghề trong các trường, đa dạng hóa các hình thức và kỹ thuật đào
tạo, liên thông và liên kết đào tạo giữa nhà trường và doanh nghiệp. Đặc biệt,
trong bối cảnh hòa nhập WTO, chúng ta cần tận dụng các kinh nghiệm đào tạo,
quản lý nguồn nhân lực của các nước phát triển. Ngày nay, doanh nhân, công
nhân không chỉ biết sản xuất,kinh doanh, mà còn phải đáp ứng các tiêu chí của
thời kỳ hội nhập WTO.

1.1.3.6. Vấn đề thị trường
Thị trường ngày nay ngày càng vượt ra khỏi biên giới quốc gia, chuyển
dịch và lưu động trong phạm vi toàn cầu khi chúng ta hội nhập quốc tế, tham gia
WTO. Như vậy, để thúc đẩy KTTN phát triển, chúng ta không chỉ làm chủ thị
trường trong nước mà còn tiếp cận sâu thị trường khu vực và thế giới.WTO là
một thị trường rất lớn mà những tiêu chí, “luật chơi” của nó rất phức tạp đối với
những nước mới tham gia như chúng ta. Khu vực KTTN hiện nay gặp nhiều khó
khăn trong vấn đề mở rộng thị trường, bởi sự hạn chế về vốn đầu tư, KH-
CN,trình độ, năng lực doanh nhân và thông tin tư vấn. Một số DN xuất khẩu của
Việt Nam chưa nắm rõ luật quốc tế, luật thương mại nên hay bị lâm vào những
vụ kiện tụng tốn kém và mất thời gian. Vì vậy, Nhà nước cần có hướng dẫn, định
hướng doanh nhân tham gia và tiếp cận thị trường, khuyến khích xuất khẩu và
đầu tư nước ngoài song song với công tác tìm hiểu luật thương mại quốc tế tránh
tình trạng sai luật vì không biết, không hiểu luật. Đồng thời kết hợp với bảo vệ
thị trường nội địa ở mức cần thiết, tăng khả năng cạnh tranh hàng nội địa.
1.1.3.7. Vấn đề hội nhập quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra nhiều cơ hội và thách thức đối với sự phát
triển KTTN. Một mặt, thúc đẩy KTTN phát triển với điều kiện mới có nhiều thuận
lợi: sử dụng có hiệu quả hơn những nguồn lực hiện có, thị trường mở rộng, trao
đổi hàng hóa gia tăng, tăng năng suất lao động, nâng cao năng lực cạnh tranh…;
19
19
vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý hiện đại được tiếp nhận dễ dàng hơn. Mặt
khác, KTTN vốn hạn chế về nguồn lực (vốn ít, qui mô nhỏ, chất lượng lao động
thấp, công nghệ lạc hậu), mất cân đối giữa các lĩnh vực, giữa các vùng, tiếp cận thị
trường yếu, hiệu quả kinh doanh thấp sẽ chịu sức ép cạnh tranh gay gắt của tự do
hóa thương mại, sẽ có một bộ phận doanh nghiệp tư nhân phá sản. Điều đó, bắt
buộc khu vực KTTN phải tự nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến quy trình công
nghệ, nâng cao năng lực quản lý, thay đổi cách nghĩ, cách làm để thể hiện vị trí
của mình trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các DN cũng như liên kết

nhanh qua hiệp hội nhằm tăng cường sức mạnh cạnh tranh nền kinh tế.
1.2. WTO và ảnh hưởng đến phát triển KTTN
1.2.1. Nhận thức về WTO
Tổ chức Thương mại Thế giới (tiếng Anh: World Trade Organization, viết
tắt WTO) là một tổ chức quốc tế đặt trụ sở ởGenève, Thụy Sĩ, có chức năng giám
sát các hiệp định thương mại giữa các nước thành viên với nhau theo các quy tắc
thương mại. Hoạt động của WTO nhằm mục đích loại bỏ hay giảm thiểu các rào
cản thương mại để tiến tới tự do thương mại. Tính đến ngày 16 tháng
12 năm 2011, WTO có 155 thành viên. Mọi thành viên của WTO được yêu cầu
phải cấp cho những thành viên khác những ưu đãi nhất định trong thương mại [24]
1.2.1.1. Mục tiêu hoạt động và chức năng của WTO
WTO với tư cách là một tổ chức thương mại của tất cả các nước trên thế
giới, thực hiện những mục tiêu đã được nêu trong Lời nói đầu của Hiệp định
GATT 1947 là nâng cao mức sống của nhân dân các nước thành viên, đảm bảo
việc làm và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và thương mại, sử dụng có hiệu quả
nhất các nguồn lực của thế giới. Cụ thể WTO có 3 mục tiêu sau:
Thúc đẩy tăng trưởng thương mại hàng hoá và dịch vụ trên thế giới phục
vụ cho sự phát triển, ổn định, bền vững và bảo vệ môi trường.
Thúc đẩy sự phát triển các thể chế thị trường, giải quyết các bất đồng và
tranh chấp thương mại giữa các nước thành viên trong khuôn khổ của hệ thống
thương mại đa phương, phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của Công pháp quốc
tế, bảo đảm cho các nước đang phát triển và đặc biệt là các nước kém phát triển
nhất được thụ hưởng những lợi ích thực sự từ sự tăng trưởng của thương mại
20
20
quốc tế, phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế của các nước này và khuyến
khích các nước này ngày càng hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới;
Nâng cao mức sống, tạo công ăn, việc làm cho người dân các nước thành
viên, bảo đảm các quyền và tiêu chuẩn lao động tối thiểu được tôn trọng.
WTO thực hiện 5 chức năng sau:

Thống nhất quản lý việc thực hiện các hiệp định và thỏa thuận thương mại
đa phương và nhiều bên; giám sát, tạo thuận lợi, kể cả trợ giúp kỹ thuật cho các
nước thành viên thực hiện các nghĩa vụ thương mại quốc tế của họ.
Là khuôn khổ thể chế để tiến hành các vòng đàm phán thương mại đa
phương trong khuôn khổ WTO, theo quyết định của Hội nghị Bộ trưởng WTO.
Là cơ chế giải quyết tranh chấp giữa các nước thành viên liên quan đến việc
thực hiện và giải thích Hiệp định WTO và các hiệp định thương mại đa phương
và nhiều bên.
Là cơ chế kiểm điểm chính sách thương mại của các nước thành viên, bảo
đảm thực hiện mục tiêu thúc đẩy tự do hoá thương mại và tuân thủ các quy định
của WTO, Hiệp định thành lập WTO đã quy định một cơ chế kiểm điểm chính
sách thương mại áp dụng chung đối với tất cả các thành viên.
Thực hiện việc hợp tác với các tổ chức kinh tế quốc tế khác như Quỹ Tiền
tệ Quốc tế và Ngân hàng Thế giới trong việc hoạch định những chính sách và dự
báo về những xu hướng phát triển tương lai của kinh tế toàn cầu.
1.2.1.2. Cơ cấu tổ chức của WTO
WTO có một cơ cấu gồm 4 cấp:
Cấp cao nhất: Hội nghị Bộ trưởng
Cơ quan quyền lực cao nhất của WTO là Hội nghị Bộ trưởng diễn ra ít nhất
hai năm một lần. Hội nghị có sự tham gia của tất cả các thành viên WTO.
Cấp thứ hai: Đại Hội đồng
Công việc hàng ngày của WTO được đảm nhiệm bởi 3 cơ quan: Đại Hội
đồng, Hội đồng Giải quyết Tranh chấp và Hội đồng Rà soát Chính sách Thương
mại. Tuy tên gọi khác nhau, nhưng thực tế thành phần của 3 cơ quan đều giống
21
21
nhau, đều bao gồm đại diện (thường là cấp đại sứ hoặc tương đương) của tất cả
các nước thành viên.
Cấp thứ ba: Các Hội đồng Thương mại
Các Hội đồng Thương mại hoạt động dưới quyền của Đại Hội đồng. Có ba

Hội đồng Thương mại là: Hội đồng Thương mại Hàng hóa (GATT), Hội đồng
Thương mại Dịch vụ (GATS) và Hội đồng Các khía cạnh của Quyền Sở hữu Trí
tuệ (TRIPS) liên quan đến Thương mại. Một hội đồng đảm trách một lĩnh vực
riêng.
Cấp thứ tư 4: Các Ủy ban và Cơ quan
Dưới các hội đồng trên là các ủy ban và cơ quan phụ trách các lĩnh vực
chuyên môn riêng biệt.
1.2.1.3. Việt Nam là thành viên thứ 150 của WTO
Việt Nam đã mất 11 năm để chuẩn bị gia nhập WTO
Ngày 11/12/2006: đại diện Việt Namđã trao thư của Bộ trưởng Ngoại giao
Phạm Gia Khiêm đến Ban Thư ký WTO, thông báo việc Quốc hội nước ta đã phê
chuẩn Nghị định thư gia nhập WTO của Việt Nam.
Ngày 11/1/2007: WTO tiến hành nghi lễ trao thẻ thành viên WTO chính
thức cho Việt Nam.
1.2.2. Thời cơ khi hội nhập WTO
Sau khi gia nhậpWTO khu vực KTTN trong nước nói chung, DNTN nói riêng,
đang phát triển mạnh, đóng góp ngày càng lớn vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước và đang ngày càng khẳng định vai trò động lực của mình.
− Với việc thi hành Luật Doanh nghiệp và hàng loạt các biện pháp cải cách khác,
môi trường kinh doanh ở nước ta trong mấy năm gần đây đã có những cải thiện
quan trọng theo hướng mở rộng quyền tự do kinh doanh của người dân trên
nguyên tắc doanh nghiệp và người dân được tự do kinh doanh tất cả những lĩnh
vực mà luật pháp không cấm, khuyến khích người dân làm ăn, kinh doanh làm
giàu cho mình và cho đất nước, khuyến khích mọi doanh nghiệp tham gia các
ngành xuất khẩu, chú trọng hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa Chính trong
môi trường đó, khu vực KTTN trong nước và đặc biệt là DNTN đã nhanh chóng
22
22
phát triển cả về số lượng và chất lượng, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh
tế và phát triển xã hội của đất nước trên các mặt: tạo công ăn việc làm, tăng vốn

đầu tư phát triển, mở rộng xuất khẩu, thúc đẩy tăng trưởng các ngành kinh tế
công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, thúc đẩy phát triển các thị trường, đổi mới
kinh tế và hành chính
− Mở rộng thị trường cho doanh nghiệp Việt Nam. Mở rộng thị trường tiêu thụ và
thi trường các yếu tố đầu vào của sản xuất là vấn đề quan trọng đối với doanh
nghiệp. Ngoài ra còn được hưởng những ưu đãi thương mại cho một số nước
đang phát triển.
− Các quan hệ thương mại và đầu tư rộng mở cũng tạo cho DNViệt Nam cơ hội có các
đối tác làm ăn, cơ hội học hỏi kinh nghiệm quản lý, tiếp thu công nghệ của họ, đào tạo
nguồn nhân lực cho mình và trưởng thành dần qua hợp tác và cạnh tranh.
− Khi nước ta tham gia WTO, các cơ hội này lại càng mở rộng, những rào cản sẽ
được dỡ bỏ, các DN sẽ có vị trí bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trên thị
trường các nước. Họ sẽ có quyền không chỉ xuất nhập khẩu, tiếp nhận đầu tư, mà
còn mở rộng nhiều phương thức hợp tác khác và đầu tư ra các thị trường nước
ngoài, khai thác tối đa những lợi thế cạnh tranh của mình và tận dụng sự phân
công lao động quốc tế, tham gia mạng lưới kinh doanh và chuỗi giá trị toàn cầu
theo cách có lợi nhất cho mình.
− Tham gia WTO cũng thúc đẩy nước ta cải thiện mạnh mẽ môi trường pháp lý,
chính sách cho kinh doanh, tạo thuận lợi cho cạnh tranh và phát triển của mọi
doanh nghiệp.
1.2.3. Thách thức khi hội nhập WTO
Mặc dù khu vực KTTN có nhiều thuận lợi nhưng trong bước đường phát
triển vừa qua cũng như trong thời gian tới, khu vực kinh tế này còn phải đương
đầu với rất nhiều khó khăn, trở ngại.
1.2.3.1. Bản thân khu vực KTTN và các DNTN của nước ta nhìn chung còn
nhỏ, yếu, mới hình thành, rất thiếu các nguồn lực cần thiết cũng như thiếu sự
liên kết để nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển
− Trong DNTN của chúng ta có tới 95% thuộc quy mô nhỏ và vừa, trong đó
khoảng 50% thuộc quy mô nhỏ hoặc cực nhỏ.
+ Cái yếu của DNTN ở nước ta thể hiện rõ nhất ở năng suất lao động, hiệu quả

kinh doanh và năng lực cạnh tranh nhìn chung còn thấp so với các doanh nghiệp
23
23
đầu tư nước ngoài (FDI) và doanh nghiệp các nước xung quanh, kể cả Doanh
nghiệp nhà nước trong cùng lĩnh vực về quy mô, về khả năng tiếp cận các nguồn
lực và kinh nghiệm thương trường.
+ Hơn 80% DNTN ở nước ta mới ra đời sau khi Luật Doanh nghiệp 1999 được thi
hành nên họ còn rất thiếu kinh nghiệm thương trường, chưa đủ thời gian để
trưởng thành, trong khi đã phải đối phó với áp lực cạnh tranh ngày càng mạnh.
+ Đối mặt với cạnh tranh gay gắt của hàng nhập khẩu, xuất khẩu đặc biệt là các
hàng hóa tương tự với Trung Quốc, Thái Lan…Trong khi khả năng cạnh tranh
hàng hóa Việt Nam thấp trên các tiêu chí giá cả, mẫu mã, chất lượng, hàm lượng
công nghệ, giá trị gia tăng… Phần lớn các mặt hàng xuất khẩu chủ lực Việt Nam
là thô, sơ chế, giá trị gia tăng nhỏ bé.Do nhỏ, yếu, DNTN nước ta vừa rất khó
đương đầu với cạnh tranh ngày càng khốc liệt trên thị trường trong nước và quốc
tế, vừa dễ bị tổn thương trước những biến động thị trường.
− Hầu hết các DNTN ở nước ta đều thiếu những nguồn lực cơ bản cần thiết cho
họ: nguồn vốn, đất đai, công nghệ, kỹ năng quản lý, nhân lực có chất lượng, thị
trường, thông tin và cả mối quan hệ với các đối tác quan trọng. Bản thân họ
không thể có đủ nguồn lực, lại gặp khó khăn rất lớn trong việc tiếp cận với các
nguồn lực có sẵn ở bên ngoài doanh nghiệp, kể cả những nguồn đã được Nhà
nước cam kết hỗ trợ, ưu đãi hoặc giành quyền bình đẳng khi tiếp cận. Tình
trạng thiếu nguồn lực của DNTN bị kéo dài đã hạn chế rất lớn sự phát triển của
họ. Do vậy, DNTN vừa khó cạnh tranh, vừa khó là đối tác bình đẳng với
DNNN, FDI và doanh nghiệp các nước khác.
− DNTN cũng chưa thiết lập được sự liên kết giữa các doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế với nhau trong từng ngành, giữa các ngành liên quan, hoặc
trong từng vùng để tạo thế mạnh của tính hệ thống và hiệu quả của sự phối hợp.
Từng DNTN mới chỉ dựa vào sức mình là chính, chưa khai thác, sử dụng được
sức mạnh của sự liên kết vốn rất cần thiết, nhất là đối với các doanh nghiệp (DN)

nhỏ và vừa.
1.2.3.2. Môi trường kinh doanh trong nước còn nhiều khó khăn và thiếu bình đẳng
Trong môi trường kinh doanh ở nước ta hiện nay, trở ngại lớn nhất của khu
vực KTTN trong nước và DNTN là ở 5 mặt sau:
24
24
− Việc gia nhập thị trường đòi hỏi chi phí cao về tiền của và thời gian. Do vậy, vẫn
còn có khó khăn cho nhiều người, nhiều vùng khi muốn lập thêm DN mới. Hiện
nay, ngoài khâu đăng ký kinh doanh là nhanh chóng và ít tốn kém nhất, các DN
mới ra đời còn phải qua 3 khâu (khắc dấu, đăng ký mã số thuế, mua hóa đơn)
trước khi có thể bắt đầu hoạt động, với tổng thời gian 50 - 60 ngày và chi phí
khoảng 3 - 5 triệu đồng, tương đương với 49% thu nhập bình quân đầu người
trong 1 năm ở nước ta. Ngoài ra, quyền kinh doanh của DNTN trong một số lĩnh
vực cũng còn bị hạn chế, hoặc do các quy định về điều kiện kinh doanh hoặc do
quy hoạch ngành, vùng ở một số nơi, hoặc do các rào cản thực tế khác.
− Còn những rào cản lớn về pháp lý và hành chính trong quá trình hoạt động của
DN. Hệ thống luật pháp và chính sách của nước ta còn những nhược điểm: thiếu
minh bạch, thiếu nhất quán, thiếu ổn định, khó tiên liệu; tổ chức thực thi lại kém.
Hệ thống hành chính của ta kém hiệu quả, với tình trạng can thiệp hành chính
vào hoạt động của DN phổ biến và kéo dài. Sự yếu kém, nhũng nhiễu của không
ít công chức đã làm vô hiệu hóa những chính sách tốt và cam kết cải cách của
Nhà nước. Nhiều vướng mắc của DN trong lĩnh vực thanh tra, kiểm tra, thuế, phí,
hải quan, đất đai kéo dài đã lâu nhưng rất chậm được giải quyết.Đó là những
vấn đề chung của mọi loại hình DN ở nước ta, nhưng đối với DNTN, những vấn
đề này còn nặng nề hơn do sự phân biệt đối xử vẫn tồn tại trên thực tế.
− Tiếp cận các nguồn lực rất khó khăn và tốn kém. Thực tế này gây nên sự bất bình
đẳng lớn cho DNTN, làm cho họ mất đi nhiều cơ hội thị trường, tăng rủi ro và
giảm đáng kể khả năng đầu tư của họ.
− Chi phí kinh doanh ở nước ta khá cao so với các nước trong khu vực, khiến cho
DNTN của ta khó có thể giảm giá thành để nâng cao năng lực cạnh tranh. Đồng

thời chi phí cao cũng hạn chế khả năng sinh lời, làm giảm động lực và nguồn lực
trong kinh doanh, cản trở nhiều người đi vào hoạt động thương trường hoặc tích
lũy thêm vốn cho đầu tư mới.
+ Các dịch vụ hạ tầng như đất đai, nhà xưởng, điện, thông tin liên lạc, giao thông
vận tải đều có mức giá cao, chất lượng dịch vụ lại thấp, khiến cho chi phí thực
tế đối với DN càng lớn.
+ Chi phí vốn cao về lãi suất, phí tiếp cận, lại khó vay trung hạn, dài hạn nên thêm
đắt đỏ cho các DN cần vốn để đầu tư.
25
25

×