Tải bản đầy đủ (.pdf) (42 trang)

Các tổ chức đánh giá rủi ro quốc gia trên thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (692.84 KB, 42 trang )



TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
oOo

TIỂU LUẬN MÔN NGÂN HÀNG QUỐC TẾ
ĐỀ TÀI:
CÁC TỔ CHỨC ĐÁNH GIÁ RỦI RO QUỐC GIA
TRÊN THẾ GIỚI

Thực hiện : NHÓM 09
GVHD : PGS TS TRƯƠNG THỊ HỒNG
Lớp : K21-NGÂN HÀNG Đ ÊM 4
PHẠM THỊ KIỀU NGÂN
PHAN THÀNH NHÂN
TRẦN THỤY HO ÀI MY
TRẦN NHƯ PHƯƠNG



TP.HCM, THÁNG 02/2013


1


LỜI MỞ ĐẦU
Trong cuộc sống hàng ngày cũng như trong nền kinh tế rủi ro có thể xuất hiện
trong bất kỳ lĩnh vực nào. Rủi ro có thể phát sinh từ những quốc gia giàu có
nhất cho đến những quốc gia nghèo nhất trên thế giới. Rủi ro xuất hiện có thể


ngoài những dự báo của con người và gây nên những hậu quả to lớn về lâu dài.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ
như hiện nay thì rủi ro không chỉ đơn thuần được xem xét trong phạm vi một
lĩnh vực bên trong một quốc gia mà nó được mở rộng ra phạm vi một quốc gia
và lớn hơn đó là phạm vi toàn cầu. Chính vì vậy cần phải xem xét rủi ro ở tầm
quốc gia, tức là rủi ro quốc gia, khi tiến hành hoạt động đầu tư . Chính vì vậy,
rủi ro quốc gia được đánh giá như thế nào chúng tôi lựa chọn đề tài” CÁC TỔ
CHỨC ĐÁNH GIÁ RỦI RO QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI”.

















2


I. TỔNG QUAN VỀ RỦI RO QUỐC GIA

1. Khái niệm về rủi ro quốc gia
Rủi ro quốc gia là những rủi ro liên quan đến sự thay đổi về chính trị, kinh tế,
về chính sách quản lý ngoại hối – ngoại thương của một quốc gia khiến cho con nợ
không thể hoặc không sẵn sàng để thực hiện nghĩa vụ thanh toán nợ cho chủ nợ ở
nước ngoài. Chẳn hạn như: nhà xuất khẩu không nhận được tiền thanh toán, nhà đầu
tư hoặc người cho vay không thu hồi được vốn…
Rủi ro quốc gia là rủi ro mà các điều kiện và các sự kiện kinh tế, xă hội, chính
trị ở một quốc gia sẽ ảnh hưởng bất lợi đến lợi ích của một quá trình đầu tư. Rủi ro
quốc gia cũng bao gồm các khả năng quốc hữu hóa hay sung công tài sản, sự từ chối
trả nợ nước ngoài của chính phủ, việc kiểm soát ngoại hối, sự đánh giá thấp tiền tệ hay
mất giá, phá giá t iền tệ
2. Phân loại
Có nhiều quan niệm trong việc phân loại rủi ro quốc gia, trong đó có những
quan niệm cơ bản như sau
2.1. Rủi ro Quốc gia đứng trên góc độ lãnh thổ Rủi ro Quốc Gia của nước
nhập khẩu và Rủi Ro Quốc Gia của nước xuất khẩu.
Rủi ro Quốc Gia của nước nhập khẩu: Xảy ra khi người mua hoàn
toàn có khả năng và sẵn sàng thanh toán cho người bán, song do những
gbiến động hoặc biến cố bất thường trong quốc gia nhập khẩu ảnh hưởng
đến chính trị, kinh tế… khiến cho Chính Phủ nước đó cấm các công ty của
mình thanh toán ngoại tệ cho nước ngoài, hoặc nhập khẩu hàng hóa về
thuộc diện cấm không làm thủ tục thông quan nên không thể thanh toán.
Rủi ro Quốc Gia của nước xuất khẩu: Xảy ra khi có sự thay đổi về
chính sách ngoại thương, thuế quan của quốc gia đó. Nhà xuất khẩu đã
chuẩn bị giao hàng, song do biểu thuế xuất khẩu tăng, hoặc hàng hóa đó bị
cấm xuất khẩu nên gặp rủi ro không thể chuyển hàng đi. Đôi khi do quan hệ
giữa hệ hai quốc gia có biến cố không bình thường, nên khó khăn trong việc
nhận tiền hàng của người xuất khẩu
3


2.2. Đứng trên góc độ đầu tư: rủi ro quốc gia gồm rủi ro kinh tế, rủi ro
thương mại và rủi ro chính trị.
Rủi ro kinh tế: là rủi ro liên quan tới việc phát triển kinh tế vĩ mô của
một quốc gia, như sự phát triển lăi suất và tỷ giá hối đoái có thể ảnh hưởng
tới khả năng lợi nhuận của đầu tư.
Rủi ro thương mại : là rủi ro liên quan đến một đầu tư xác định, chẳng
hạn như rủi ro liên quan đến việc hoàn thành đầy đủ các hợp đồng với các
công ty tư nhân hay đối tác địa phương.
Rủi ro chính trị: thể hiện tính ổn định về mặt chính trị của một quốc
gia mà có thể ảnh hưởng đến khả năng và thiện chí trong việc đáp ứng các
nghĩa vụ tài chính của mình. Rủi ro chính trị tăng lên từ các sự kiện như
chiến tranh, xung đột nội bộ hay xung đột bên ngoài, khủng bố… dẫn đến
những thay đổi trong chính phủ
2.3. Một quan điểm thứ ba trong phân tích rủi ro quốc gia là phân loại rủi
ro quốc gia thành rủi ro chính trị, và rủi ro tài chính.
Cách phân loại này là cách phân loại phổ biến nhất và thường được các tổ chức
xếp hạng sử dụng.
Rủi ro chính trị.
Rủi ro tài chính thể hiện khả năng của một quốc gia để đáp ứng cho
việc thanh toán các khoản tín dụng chính thức, thương mại… nước ngoài.
Rủi ro kinh tế và rủi ro tài chính phản ánh năng lực chi trả của một quốc gia
đối với các khoản nợ của mình, trong khi đó rủi ro chính trị lại phản ánh
thiện chí trả nợ đó.
II. PHÂN TÍCH RỦI RO QUỐC GIA
1. RỦI RO CHÍNH TRỊ
1.1.

Nh ững hàn h đ ộn g củ a chí nh ph ủ:

Đối với nhiều quốc gia đây là loại rủi ro quan trọng nhất. Một quốc gia

là một thực thể chính trị với những luật lệ và quy định áp dụng đối với đầu
tư. Thêm vào đó những điều luật bảo vệ quyền đối với tài sản cá nhân, sự
4

sẵn sàng và khả năng của một chính phủ thay đổi những luật lệ và quy định
này sẽ tạo thành một nguồn rủi ro đối với đầu tư.
Chính phủ có quyền lực đặc biệt tác động tới nền kinh tế; chính phủ có
thể đưa ra một đạo luật tác động tới một số ngành công nghiệp hoặc một số
công ty mà nhà đầu tư đang đầu tư vào, hoặc chính phủ có thể ban hành luật
mới điều chỉnh trần lãi suất ngân hàng, xoá nợ cho một số nhóm ngành cụ
thể của xã hội.
Khi quốc gia có một vị thủ tướng hay tổng thống mới, họ có những hệ tư
tưởng kinh tế và chính trị khác nhau. Trong quá trình này, vận mệnh của
nhiều ngành và nhiều công ty có thể trải qua một sự thay đổi lớn lao. Thay
đổi các chính sách chính phủ mới cũng là một nguyên nhân của rủi ro chính
trị.
Hệ thống pháp luật phát triển chưa đầy đủ rõ ràng sẽ gây t âm lý bất an
cho nhà đầu tư, những thủ tục và giấy tờ rườm rà làm bước cản cho nguồn
vốn đầu tư đổ vào trong nước.
Mức độ tham nhũng cao, lạm dụng quyền lực công, các quyền lực quan
chức chính phủ cho lợi ích cá nhân, ví dụ như đòi hỏi, yêu cầu đưa hối lộ,
đây là một trong những nhân tố chính của rủi ro chính trị ở nước đang phát
triển
1. 2. C hu yển vốn ra nư ớc ng oài h ay là Đồ n g t iền kh ông c ó k hả n ăn g c huyể n đ ổi:
Chính trị mang không ít rủi ro cho người đầu tư và nguy cơ phát sinh
khi bên cho vay hoặc các nhà đầu tư khi nhận tiền trả nợ hoặc khoản thu hồi
từ hoạt động đầu tư bị hạn chế bởi các quyết định của Nhà nước, Chính phủ
làm trở ngoại hoặc ngăn cản hoạt động kinh doanh, như: tịch thu, quốc hữu
hóa, thoái thác…
Cụ thể khi đầu tư các nhà đầu tư nước ngoài thường chú ý khi đánh giá

rủi ro của một quốc gia là tắc nghẽn chuy ển giao tiền tệ. Thông thường, các
nhà đầu tư muốn đầu tư vào một quốc gia khác, có được lợi nhuận và
chuyển nó trở lại nước nhà. Vì vậy, tắc nghẽn chuyển tiền hay là đồng tiền
không có khả năng chuyển đổi thành nội tệ của nhà đầu tư gây trở ngại đến
5

việc chuyển lợi nhuận về nước. Như vậy, các chính sách của nước chủ nhà
liên quan đến chuyển nhượng vốn và sức mạnh của đồng tiền trong nước sẽ
ảnh hưởng nhiều đến quyết định của nhà đầu tư trong việc đầu tư vào đất
nước này hay không.
1. 3. C hiế n tr an h, b ạ o l o ạn:
Để đánh giá rủi ro quốc gia, không thể bỏ qua yếu tố chiến tranh, bạo
loạn, ổn định chính trị.
Chiến tranh có thể mang lại thiệt hại cho hầu như tất cả các bên, và nó
có thể mang lại rất nhiều rủi ro trong việc kinh doanh không chỉ tại quốc gia
có chiến tranh mà ở cả các nước khác có liên quan. Sự tàn phá của chiến
tranh khủng khiếp đến nỗi hầu hết các nư ớc có chiến tranh đang xảy ra sẽ
gặp nhiều vấn đề với tình hình tài chính cũng như khả năng thu hút vốn.
Bạo loạn làm cho tình hình chính trị trong nước không ổn định, những
đất nước nhiều đảng, nhiều tư tưởng sẽ luôn diễn ra tình hình tranh quyền
lực, mâu thuẫn nội bộ làm nổi lên trào lưu đấu tranh ngầm, bạo lạo diễn ra,
ảnh hưởng đến tình hình kinh doanh cũng như lòng tin về chính sách đối
với nhà đầu tư.
2. RỦI RO K INH TẾ
Rủi ro kinh tế là những rủi ro gây ra do sự thay đổi lãi suất và tỷ giá hối đoái của
một quốc gia:
2. 1.
Rủi ro tỷ giá Hoái đối:
Khi đầu tư vốn vào một Quốc gia hoặc vay mượn bằng ngoại tệ của các
công ty trong nước đều phải chịu rủi ro về tỷ giá Hoái đối. Sự thay đổi của

tỷ giá hoái đối làm ảnh hưởng đến khả năng trả nợ ngoại tệ của công ty
trong nước cũng như vốn đầu tư, lợi nhuận chuyển về của Quốc Gia đi đầu
tư. Tỉ giá ngoại hối của các đồng tiền giao động nhiều, không nằm trong dự
đoán, Rủi ro này giờ đây gặp nhiều ( từ sau khi hệ thống Bretton Woods tan
vỡ ), ảnh hưởng nhiều đến các hợp đồng kinh tế cũng như việc quản lí bản
6

thân nó. Rủi ro này cũng được các Quốc Gia cho vay quan tâm vì ảnh
hưởng đến khả năng trả nợ của các con nợ khi đến thời hạn.
2. 2.
Rủi ro lãi suất
Lãi suất ảnh hưởng đến lợi nhuận các doanh nghiệp trong nước cũng
như khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Khi lãi suất trong nước cao sẽ thu hút được nhiều vốn đầu tư nhưng với
một mức lãi suất quá cao sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của nền kinh
tế, nợ công của chính phủ gia tăng. Qua đó có thể làm giảm khả năng trả nợ
của chính phủ cũng như uy tín Quốc Gia và tác động đến dòng tiền đổ vào.
Lãi suất tăng cao cũng ảnh hưởng đến lợi nhuận của các doanh nghiệp
trong nước, khó khăn khi tiếp cận nguồn vốn do suất sinh lợi nhỏ hơn lãi
suất.
Sự biến động của tình hình chính trị quốc tế cũng gây ảnh hưởng tới bối
cảnh kinh tế trong nước, đặc biệt là trong giai đoạn toàn cầu hóa. Điều này
đã được m inh chứng cụ thể sau sự kiện ngày 11/9 tại Hoa Kỳ và sau khi
cuộc chiến tranh Iraq nổ ra vào đầu năm 2003, khi đó nền kinh tế của rất
nhiều quốc gia trên thế giới bị ảnh hưởng, từ quốc gia kém phát triển tới
những quốc gia phát triển nhất.
3. RỦI RO TÀI CHÍNH
Có thể hiểu là những rủi ro trong hoạt động tài chính, tức là những vấn đề về lạm
phát, GDP.
3. 1.

Tỷ lệ lạm phát hàng năm.
Tỷ lệ lạm phát là sự tăng giá chung được đo lường dựa trên mức chuẩn
của khả năng mua hàng.
Một ảnh hưởng lạm phát là khi giá cả chung trên thị trường tăng lên, giá
các mặt hàng kéo nhau lên trời, làm cho Nhà nước, ngân hàng trung ương
phải có các chính sách kiềm chế, ảnh hưởng đến các mặt đời sống, trong khi
những chính sách này có độ trễ thời gian nên ko thể có tác động ngay đến
thị trường thì nó đã kip ảnh hưởng đến người dân rồi.
7

Lạm phát cũng ảnh hưởng gián tiếp đến vị trí t ài chình của quốc gia vì
nó ảnh hưởng đến lãi suất và giá trị tiền tệ của quốc gia đó. Một tỷ lệ lạm
phát cao cũng dẫn đến sự suy giảm của tăng trưởng kinh tế.
3. 2.
Tỷ lệ tăng trưởng GDP thực.
Tốc độ tăng trưởng GDP là chỉ số quan trọng nhất trong việc đo lường
sự phát triển của nền kinh tế. Chỉ số này đề cập đến phần trăm tăng giảm
của GPP của năm này so với năm trước (có điều chỉnh theo tỷ lệ lạm phát).
Nếu GDP đang tăng trưởng, số lượng công việc và thu nhập cá nhân cũng
sẽ tăng. Nếu GDP đang giảm, các doanh nghiệp sẽ tạm dừng đầu tư vào
mua hàng hóa và thuê mướn nhân công để chờ đợi nền kinh tế được cải
thiện. Chính điều này lại làm cho GDP giảm thêm nữa và người tiêu dùng
chi tiêu ít hơn. Nếu tốc độ tăng trưởng GDP thực âm, nền kinh tế đang có
nguy cơ đối mặt với một cuộc suy thoái.
III. CÁC TỔ CHỨC ĐÁNH GIÁ RỦI RO Q UỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI
Các cơ quan xếp hạng tín nhiệm rủi ro quốc gia mang tính thương mại như
Moody's, Standard and Poor's, Fitch, Euromoney, Institutional Investor, Economist
Intelligence Unit, International Country Risk Guide, và Political Risk Services đă
cung cấp những hạng mức rủi ro quốc gia mang tính định tính và định lượng bằng
việc kết hợp các thông tin đo lường về rủi ro kinh tế, rủi ro tài chính và rủi ro chính trị

để đạt được một hạng mức tín nhiệm rủi ro quốc gia tổng hợp. Sau đây là một số các
tổ chức xếp hạng rủi ro quốc gia:
 Institutional Investor thực hiện việc nghiên cứu xếp hạng rủi ro quốc gia theo
nửa năm, dựa trên ý kiến của các ngân hàng quốc tế hàng đầu. Khoảng 75 đến
100 ngân hàng xếp hạng cho hơn 135 quốc gia với phạm vi từ 0 đến 100 điểm,
100 điểm đại diện cho mức rủi ro thấp nhất. Các hạng mức đơn lẻ được tính toán
với quyền số bằng cách sử dụng một công thức của Institutional Investor, quyền
số lớn hơn đượcấn định dựa trên quy mô hoạt động trên thế giới và mức độ phức
tạp của mô hình rủi ro quốc gia của ngân hàng. Tên tuổi của các ngân hàng tham
gia được giữ bí mật hoàn toàn. Các nghiên cứu rủi ro quốc gia của Institutional
Investor được phát hành vào tháng 3 và tháng 9. Trong tài liệu rủi ro quốc gia,
8

đánh giá rủi ro quốc gia của Institutional Investor được xem như là đánh giá,
nhận định của các ngân hàng.
 Euromoney cung cấp những đánh giá và xếp hạng rủi ro quốc gia cho 185 quốc
gia và vùng lănh thổ cứ 6 tháng một lần. Các quốc gia được cho điểm tương ứng
dựa trên 9 thành phần, và sau đó được xếp hạng theo điểm số này. Để có điểm
rủi ro quốc gia tổng hợp thì mỗi loại trong 9 thành phần sẽ có một quyền số (rủi
ro chính trị 25%, mức thể hiện kinh tế 25%, các chỉ số nợ 10%, nợ không thanh
toán hay giăn nợ 10%, xếp hạng tín dụng 10%, khả năng tiếp cận đối với tài trợ
ngân hàng 10%, khả năng tiếp cận tài trợ ngắn hạn 5%, khả năng tiếp cận thị
trường vốn 5%, và chiết khấu trượt giá 5%). Giá trị cơ sở tốt nhất cho mỗi loại
rủi ro đạt được quyền số đầy đủ, trong khi giá trị tệ nhất là 0. Tất cả giá trị được
tính toán tương xứng với điểm s ố tốt nhất và tệ nhất. Các nghiên cứu được phát
hành vào tháng 3 và tháng 9 trong các tạp chí tháng.
 Standard & Poor’s (S&P) cung cấp các hạng mức tín dụng được cập nhật hàng
tuần của các chính phủ phát hành và vùng lănh thổ. Hạng mức tín dụng quốc gia
(rủi ro thể chế) không phải là hạng mức quốc gia v́ nó chỉ thể hiện rủi ro tín dụng
của chính phủ quốc gia, không phải là rủi ro tín dụng của các nhà phát hành khác

trong nước. Tuy nhiên, xếp hạng tín dụng quốc gia thiết lập điểm chuẩn cho các
hạng mức tín dụng cho các nhà phát hành khác trong nước. S&P cung cấp xếp
hạng ngắn hạn và dài hạn, cũng như một cái nhìn định tính cho 7 phạm vi chính
là nợ dài hạn, thương phiếu, cổ phiếu ưu đăi, chứng chỉ tiền gửi, quỹ thị trường
tiền tệ, quỹ tương hỗ trái phiếu, và trái quyền của các công ty bảo hiểm. Việc xác
định rủi ro tín dụng gắn liền với rủi ro chính trị (sự sẵn sàng trả nợ của chính
phủ) và rủi ro kinh tế (khả năng của chính phủ đối với nghĩa vụ nợ). Xếp hạng
các nhà phát hành ngoại tệ cũng được phân biệt với xếp hạng các nhà phát hành
nội tệ để xác định các trường hợp mà rủi ro thể chế làm cho chính phủ khác biệt
với các nhà phát hành khác. Các chữ cái được dùng để xếp hạng từ C (mức thấp
nhất) đến AAA (mức cao nhất).
 Moody’s cung cấp phân tích rủi ro tín dụng quốc gia cho hơn 100 nước, hầu như
là các nước này đều tham gia vào thị trường vốn thế giới. Đối với mỗi quốc gia,
Moody’s có một số loại xếp hạng khác để nắm bắt các rủi ro khác, bao gồm xếp
9

hạng quốc gia cho cả chứng khoán ngoại tệ ngắn hạn và dài hạn. Khi thiết lập rủi
ro quốc gia, các nhà phân tích của M oody’s đánh giá cả các biến số chính trị và
kinh tế để rút ra hạng mức rủi ro quốc gia, hạng mức này hành động như là một
mức trần rủi ro tín dụng đối với chứng khoán ngoại tệ của bất cứ thực thể nào
nằm trong sự kiểm soát của một chính phủ. Xếp hạng rủi ro quốc gia bao gồm rủi
ro chuyển giao ngoại tệ và rủi ro hệ thống trong quốc gia. Bằng cách sử dụng
hạng mức từ Aaa đến C của Moody’s, các trái phiếu ngoại tệ dài hạn của chính
phủ và trái phiếu nội tệ dài hạn của chính phủ được xếp hạng.
 Political Risk Service (PRS) cung cấp các báo cáo cho 100 quốc gia. Mỗi báo
cáo đánh giá rủi ro chính trị, tài chính, kinh tế đối với đầu tư kinh doanh và mậu
dịch. Báo cáo quốc gia chỉ là nguồn dữ liệu cho các phân tích và dự báo rủi ro
dựa trên hệ thống xếp hạng PRS mà đánh giá các kịch bản chính trị khác nhau.
PRS cung cấp một mô hình rủi ro chính trị với dự báo cho 3 ngành công nghiệp
là tài chính (ngân hàng và cho vay), đầu tư trực tiếp (bán lẻ, sản xuất,và khai thác

mỏ) và xuất khẩu đối với thị trường các nước. Các báo cáo được thực hiện định
kỳ hàng quý.
 Economist Intelligence Unit (EIU) xuất bản các báo cáo rủi ro quốc gia từng quý
với dữ liệu cập nhật từng tháng. Những báo cáo này tóm tắt hạng mức rủi ro cho
100 quốc gia đang phát triển và mắc nợ cao được quan sát bởi Country Risk
Service (CRS). Phương pháp xếp hạng rủi ro của CRS xem xét 2 loại rủi ro: (1)
rủi ro quốc gia, được xác định bởi nhân tố chính trị (22%), chính sách kinh tế
(28%), cơ cấu kinh tế (27%), và thanh khoản (23%); thứ hai là (2) rủi ro đầu tư
xác định. Có 3 loại rủi ro đầu tư xác định là rủi ro tiền tệ (gắn liền với việc chấp
nhận mức nhạy cảm đối với U SD), rủi ro vỡ nợ quốc gia (gắn liền với các khoản
đi vay của quốc gia), và rủi ro khu vực ngân hàng (gắn liền với các khoản cho
vay ngoại tệ đối với ngân hàng). Hạng mức rủi ro đầu tư xác định cũng được xác
định bởi 4 nhân tố như trên nhưng với quyền số khác. Đối với rủi ro tiền tệ,
chính sách kinh tế có quyền số cao nhất là 65%, các nhân tố cơ cấu kinh tế, chính
trị, thanh khoản lần lượt có quyền số là 17%, 14%, và 4%. Trong trường hợp của
rủi ro vỡ nợ quốc gia, thanh khoản có quyền số cao nhất là 31%, chính sách kinh
tế và cơ cấu kinh tế có quyền số là 27%, và nhân tố chính trị là 15%. Cuối cùng,
10

đối với rủi ro khu vực ngân hàng, cơ cấu kinh tế là nhân tố có quyền số cao nhất
44%, các nhân tố chính sách kinh t ế, thanh khoản và chính trị có quyền số lần
lượt là 35%, 15%, và 6%.
1. Standard & Poor’s (S&P)
1.1 Lịch sử hình thành
Standard & Poor's (S&P) được Daryl Let hbridge thành lập từ năm 1860
tại thành phố New York, M ỹ. Tuy nhiên, mãi tới năm 1941, cái tên S&P
mới chính thức được ra đời và cho đến năm 1966, S&P bị tập đoàn The
McGraw - Hill thâu tóm.
S&P hiện là một trong 3 cơ quan xếp hạng tín dụng lớn và uy tín nhất
thế giới, cùng với Fitch và Moodys. Tính đến hết năm 2009, doanh thu của

S&P vào khoảng 2,61 tỷ USD cùng đội ngũ nhân viên lên tới 10.000 người.
Tháng 2/1936, cơ quan kiểm soát các ngân hàng địa phương của Mỹ đã
yêu cầu tất cả các ngân hàng ở nước này chỉ được phép nhận trái phiếu hay
cổ phần hoặc phiếu ghi nợ của những công ty và đối tác đã được đánh giá
và xếp hạng là “xứng đáng được đầu tư”. Quy định này mở đường cho S&P
trở thành gần như độc quyền trong lĩnh vực xếp hạng.
Tháng 7/1975, Cơ quan Kiểm soát chứng khoán Mỹ (SEC) yêu cầu tất
cả các công ty muốn tham gia thị trường tài chính M ỹ đều phải được ít nhất
2 công ty xếp hạng tín nhiệm được Chính phủ công nhận đánh giá và khi đó
Chính phủ Mỹ chỉ công nhận có 3 công ty Standard and Poor’s, Fitch và
Moody's.
Giới chuyên môn cho biết, khi đưa ra các đánh giá tín dụng dài hạn và
ngắn hạn đối với các tổ chức công và tư về lĩnh vực quốc gia, S&P được
xếp đứng trên 2 hãng Fitch và Moody's. Phương pháp xếp hạng tín dụng
của S&P được chính thức công bố từ năm 1916 với mục đích cung cấp cho
các nhà đầu tư và những người tham gia thị trường trên thế giới các phân
tích, nhận định, đánh giá độc lập về rủi ro tín dụng.
Theo đó, chỉ số xếp hạng tín dụng (credit ratings) thể hiện quan điểm
của S&P về khả năng và sự sẵn sàng đáp ứng các điều kiện tài chính một
11

cách đầy đủ và đúng lúc của một doanh nghiệp hay m ột quốc gia. Những
xếp hạng (từ AAA tới D - từ tích cực đến tiêu cực) được đưa ra đều dựa
trên những phân tích của các chuyên gia có kinh nghiệm, dựa trên thông tin
thu thập từ các tổ chức phát hành và từ các nguồn khác.
Với gần 100 năm đưa ra những công bố xếp hạng tín dụng nên các
thông tin của S&P đều được coi là chỉ báo quan trọng, có độ tin cậy cao và
được nhiều chính phủ, tổ chức phát hành và giới đầu tư sử dụng.
S&P hạ xếp hạng t ín nhiệm tuyệt đối của Mỹ - thông báo chấn động thế
giới

Năm 2011, lần đầu tiên trong lịch sử, S&P hạ bậc tín nhiệm đối với Mỹ
từ AAA xuống AA+ trong khi 2 hãng Fitch và Moody's giữ nguyên mức
xếp hạng AAA. Việc Chủ tịch S&P - ông Deven Sharma phải ra đi chỉ vài
tuần sau khi hãng này hạ tín nhiệm của Mỹ khiến dư luận và giới chuyên
môn đặc biệt quan tâm.
Điều đáng nói là việc từ chức của ông Deven Sharma đã được lên kế
hoạch 6 tháng trước khi S&P hạ tín nhiệm nợ của Mỹ hôm 5/8/2011. Việc
hạ xếp hạng tín nhiệm này đã tạo nên những đợt bán tháo lớn nhất trên thị
trường cổ phiếu kể từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008.
Bộ trưởng Bộ Tài chính Mỹ Timothy Geithner từng bị một số nhân vật
hàng đầu của Đảng Cộng hòa kêu gọi từ chức sau sự kiện trên và ông từng
chỉ trích đây là "một đánh giá tệ hại". Mặc dù Bộ Tư pháp Mỹ đã mở cuộc
điều tra chính thức, nhưng cho tới nay vẫn chưa có thông báo nào thay đổi
được những thông báo trước đó của S&P.
Tiếp sau đó, cách đây hơn 4 tháng, công ty mẹ McGraw-Hill chính thức
thông báo tách thành 2 đơn vị nhỏ - một t ập trung vào thị trường toàn cầu
như cũ và một tập trung vào vấn đề giáo dục.
Theo đó, M cGraw-Hill sẽ trở thành M cGraw-Hill Markets, công ty hoạt
động trên thị trường, bao gồm cả hãng xếp hạng tín nhiệm S&P's, và
McGraw-Hill Education đảm nhiệm việc xuất bản sách giáo khoa và các
thiết bị dành cho giáo dục. Tiến trình này dự kiến hoàn tất trong năm 2012.
12

1.2 Phương pháp xếp hạng tín nhiệm của standard and poor:
Xếp hạng tín dụng (credit rat ings) của S&P được công bố bắt đầu từ
năm 1916 nhằm cung cấp cho các nhà đầu tư và những người tham gia thị
trường trên toàn thế giới những phân tích độc lập về rủi ro tín dụng. Chỉ số
xếp hạng t ín dụng (credit ratings) thể hiện quan điểm của tổ chức này về
khả năng và sự sẵn sàng đáp ứng các điều kiện tài chính một cách đầy đủ và
đúng lúc của một doanh nghiệp hay một quốc gia. Thường chỉ số được quy

thành các xếp hạng bằng chữ, cao nhất là AAA và thấp nhất là D và đư ợc
đánh giá trong nhiều lĩnh vực, ví dụ như xếp hạng tín dụng đối với đồng nội
tệ và đồng ngoại tệ, trong ngắn hạn hay dài hạn.
Tại S&P, xếp hạng tín dụng là chỉ số thể hiện quan điểm về rủi ro tín
dụng. Xếp hạng này dựa trên những phân tích của các chuyên gia có kinh
nghiệm, dựa trên thông tin thu thập từ các tổ chức phát hành và từ các
nguồn khác. N goài phương pháp chuyên gia, S&P cũng như các tổ chức
xếp hạng khác còn kết hợp sử dụng mô hình toán học trong việc xây dựng
và phân tích chỉ số xếp hạng của mình.
Phương pháp xếp hạng đặc trưng của S&P là xếp hạng dựa trên phân
tích. Một quy trình xếp hạng chuẩn được S&P áp dụng cho xếp hạng tín
dụng của doanh nghiệp gồm các bước:
(1) Nhận đề nghị xếp hạng từ các tổ chức phát hành/khách hàng
(2) Đánh giá ban đầu.
(3) Họp với ban quản trị của tổ chức phát hành/khách hàng
(4) Phân tích
(5) Đánh giá và bỏ phiếu của hội đồng đánh giá (của S&P)
(6) Thông báo tới tổ chức phát hành/khách hàng
(7) Công bố kết quả xếp hạng ra công chúng
Về cơ bản, việc đánh giá và xếp hạng tín dụng đối với quốc gia cũng
tương tự như vậy. Tuy nhiên, có một số đặc điểm chính của xếp hạng tín
dụng mà người sử dụng cần lưu ý. Đó là:
13


- Xếp hạng tín dụng là ý kiến được thu thập về rủi ro tín dụng tương đối;
- Đây không phải là hướng dẫn đầu tư, mua, trữ, hay bán mà chỉ là một
nhân tố mà các nhà đầu tư nên cân nhắc khi quyết định đầu tư;
- Xếp hạng tín dụng cũng không phải là chỉ tiêu về tính thanh khoản trên thị
trường của một dạng chứng khoán nợ hay giá của nó ở thị trường thứ cấp.

Tóm lại, xếp hạng tín dụng của S&P về cơ bản là những đánh giá mang
tính chuyên gia của một nhóm các nhà phân tích trong hội đồng xếp hạng
của tổ chức này. Với lịch sử gần 100 năm từ khi tiến hành công bố (từ năm
1916), xếp hạng tín dụng của S&P vẫn được xem là một chỉ báo quan trọng,
có độ tin cậy cao và được nhiều chính phủ, các tổ chức phát hành và các
nhà đầu tư sử dụng. Với quyết định hạ mức tín nhiệm của Mỹ từ AAA
xuống còn AA+ của S&P gần đây trong khi xếp hạng do Moody’s và Fitch
đưa ra vẫn là AAA, một số chuyên gia cho rằng đó là hành động dũng cảm
của tổ chức này nhằm đưa ra những cảnh báo cần thiết đối với chính phủ và
nền kinh tế M ỹ. Trong khi đó, một số khác cho rằng, cần xem xét cả các
yếu tố khác khi sử dụng chỉ số xếp hạng của S&P như việc tính sai 2.000 tỷ
USD nợ công của Mỹ và lý do chính trị trong bối cảnh cuộc chạy đua vào
Nhà trắng năm 2012 đang được khởi động.
1.3 Tình hình xếp hạng tín nhiệm của Standard and Poor:
a. Hạ xếp hạng tín dụng của 9 nước Eurozone:
Đức thuộc khu vực đồng euro giữ được xếp hạng tín nhiệm AAA với
triển vọng ổn định. Trong khi đó, ba nền kinh tế hàng đầu khu vực Châu Âu
là Pháp, Tây Ban Nha và Italia đều nằm trong số bị hạ bậc.
Theo hãng xếp hạng tín dụng quốc tế S&P thì Pháp và Áo bị hạ 1 bậc
xếp hạng từ AAA xuống AA+, đồng thời đối mặt với nguy cơ tiếp tục suy
giảm xếp hạng tín nhiệm. Cùng với Pháp và Áo còn có Malta, Slovakia và
Slovenia. Bên cạnh đó, S&P hạ tới 2 bậc xếp hạng tín dụng của Italia, Tây
Ban Nha, Bồ Đào Nha và Cyprus. Điều này đẩy xếp hạng của Italia xuống
14

ngang với Kazakhstan, ở mức BBB+ và xếp hạng Bồ Đào Nha xuống dưới
ngưỡng đầu tư.
Theo S&P thì quan điểm của hãng là các sáng kiến của Châu Âu thực
hiện trong những tuần gần đây có thể không đủ để giải quyết tình trạng
căng thẳng liên tục có hệ thống trong khu vực đồng euro. Vì thế mà khu vực

đồng euro tiếp tục đối mặt với những áp lực gồm các điều kiện tín dụng thắt
chặt, tăng phí bảo hiểm rủi ro cho ngày càng nhiều nợ công, cùng với việc
giảm nợ của chính phủ và chi tiêu hộ gia đình và triển vọng tăng trưởng
kinh tế yếu. Hãng xếp hạng S&P cũng chỉ ra những trở ngại chính trị về giải
pháp cho khủng hoảng khi các nhà lập pháp Châu Âu vẫn bất đồng trong
cách tiếp cận phù hợp để giải quyết những thách thức.
Cũng giống như Mỹ trước đây, Eurozone đã có phản ứng trước việc bị
S&P hạ mức tín nhiệm. Uỷ viên các vấn đề kinh tế Châu Âu đã chỉ trích
quyết định của S&P là không nhất quán. Đại diện cơ quan này nói trong
một tuyên bố: "Tôi lấy làm tiếc về quyết định không nhất quán này của &P
liên quan việc xếp hạng tín nhiệm một số quốc gia thành viên khu vực đồng
euro vào thời điểm mà Eurozone đang hành động quyết đoán trên mọi mặt
trận trong việc đối phó với cuộc khủng hoảng của tổ chức này”. Bên cạnh
đó, Thủ tướng Luxembourg Jean-Claude Juncker - người đứng đầu
Eurozone nói rằng khối này quyết tâm bảo vệ mức xếp hạng tín nhiệm của
gói cứu trợ của Eurozone. Ủng hộ quan điểm trên, Bộ Tài chính Đức nêu
rõ: "Bằng việc giữ vững các quy định tài chính cụ thể trong một thỏa thuận
mang tính ràng buộc, chúng ta sẽ bình ổn tài chính công của các thành viên
Eurozone, giúp khôi phục và duy trì lòng tin của thị trường một cách bền
vững”.
Đức cũng khẳng định quan điểm lạc quan sau công bố của S&P. Thủ
tướng Đức Angela Merkel cho biết: Quyết định này cho thấy Châu Âu còn
một chặng đường dài phía trước để có thể lấy lại niềm tin của nhà đầu tư.
Bà Merkel tuyên bố: “Quỹ ổn định tài chính Châu Âu (EFSF) vẫn đảm bảo
nguồn lực tài chính, kể cả khi xếp hạng tín dụng dưới mức AAA”; đồng
15

thời cho biết bà chưa bao giờ đưa ra quan điểm là EFSF bắt buộc phải có
xếp hạng tín dụng cao nhất vì “AA+ không phải là một đánh giá xấu”.
Có thể nói công bố của S&P một lần nữa đẩy Châu Âu vào những khó

khăn và thách thức mới, đi kèm với nó là khả năng phản ứng dây chuyền
toàn cầu. Đồng euro giảm xuống thấp nhất 16 tháng so với USD, giao dịch
ở 1,2665USD/euro. Lợi suất trái phiếu Đức kỳ hạn 10 năm giảm 7 điểm cơ
bản xuống 1,759% và chạm mức thấp kỷ lục. So với yen, đồng euro giảm
0,8% xuống 97,57 yen/euro và chạm 97,2 yen/euro - thấp nhất kể từ tháng
12.2000.
Chứng khoán Mỹ cũng giảm điểm sau tin hàng loạt nước Châu Âu bị hạ
bậc tín dụng. Cụ thể, CK nước này chấm dứt 4 phiên tăng điểm liên tiếp.
Kết thúc phiên giao dịch 13.1, các chỉ số cơ bản của TTCK Mỹ giảm
khoảng 0,5%. Khối lượng giao dịch trên cả 3 sàn New York, Amex, Nasdaq
đạt 6,39 tỉ CP, thấp hơn khối lượng trung bình 6,68 tỉ CP/ngày.
b. Nâng hạn mức tín nhiệm của Hy Lạp lên 6 bậc:
S&P nâng xếp hạng tín nhiệm của Hy Lạp từ mức "vỡ nợ từng phần" lên
B- và đưa ra triển vọng ổn định với quốc gia này. Quyết định trên được đưa
ra sau khi châu Âu đảm bảo sẽ giải ngân 34,3 tỷ euro từ gói cứu trợ của
IMF và Liên minh châu Âu (EU) để mua lại nợ của Athens. Hy Lạp được
S&P nâng xếp hạng tín nhiệm nhưng quốc gia này vẫn ở mức "không nên
đầu tư".
"Việc nâng bậc xếp hạng phản ánh cái nhìn của chúng tôi về một quyết
định mạnh mẽ trong việc giải cứu Hy Lạp của các nước thành viên trong
eurozone", S&P cho biết. "Triển vọng ổn định có được là nhờ cam kết của
chính phủ để điều chỉnh và tái cấu trúc hệ tài chính, giải quyết những khó
khăn về kinh tế, chính trị".
Gần đây, Hy Lạp bế tắc trong thỏa hiệp với eurozone về việc sẽ giảm
mức nợ công của mình xuống còn 124% GDP vào năm 2020 và 110% vào
năm 2022. Eurozone đồng ý cắt giảm lã i suất đối với các khoản cứu trợ
16

dành cho Hy Lạp, hoãn 10 năm đối với một số khoản lãi đến hạn và tăng kỳ
hạn thanh toán nợ.


Hy Lạp từng gặp khó khăn trong thỏa thuận xin hỗ trợ với các nư
ớc
trong eurozone. Ảnh Telegraph
Xếp hạng tín nhiệm của Hy Lạp liên tục biến động suốt 3 năm qua, bị hạ
tín nhiệm xuống mức "rác" rồi lên BB vào tháng 4/2010, sau đó xuống CC
và càng tồi tệ hơn kể từ 7/2011. Athens lần đầu tiên "vỡ nợ từng phần" vào
tháng 2/2012 sau khi khu vực tư nhân mất khả năng trả nợ. Mức xếp hạng
tăng lên CCC hồi tháng 5/2012 rồi lại quay trở lại "vỡ nợ từng phần" cách
đây 2 tuần. Đây là lần xếp hạng vượt mong đợi của Hy Lạp với mức B- theo
đánh giá của S&P.
S&P cho biết, hãng sẽ tăng bậc xếp hạng tín nhiệm lên mức cao hơn nếu
Chính phủ Hy Lạp hoàn thành đúng các cam kết trong gói cứu trợ, khôi
phục lại khả năng dự đoán tác động tới nền kinh tế trong việc xây dựng
chính sách và ổn định trả nợ.
Một khoản tiền 16 tỷ euro từ gói cứu trợ sẽ được sử dụng để tái cơ cấu
vốn cho các ngân hàng của Hy Lạp. S&P cho biết: "Một hệ thống ngân
hàng với nguồn vốn tốt hơn và dấu hiệu phục hồi khả năng cạnh tranh của
khu vực tư nhân, đặc biệt là du lịch, có thể cải thiện triển vọng của Hy Lạp
17

trong năm 2013". Tuy nhiên, S&P cũng cảnh báo khả năng hạ bậc tín nhiệm
nếu Hy Lạp tiếp tục cắt giảm giá mua lại nợ của khu vực tư nhân.
2. Fitch
2.1. Quá trình thành lập:
Fitch Ratings được thành lập vào 24/12/1913 bởi John Knowles Fitch
với tên gọi ban đầu là Fitch Publishing Company. Tọa lạc tại khu trung tâm
tài chính New York, Fitch bắt đầu với vai trò là một công ty phân tích tài
chính. Vào năm 1924, Fitch Publishing Comp any lần đầu giới thiệu hệ
thống xếp hạng quen thuộc từ “AAA” đến “D” xếp hạng tín dụng nhằm

thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng về phân tích độc lập trên thị trường chứng
khoán. Đến năm 1975, Fitch Ratings trở thành một trong ba tổ chức được
“Các Tổ chức Đánh giá Tín dụng được công nhận toàn quốc (NRSRO:
Nationally Recognized Statistical Rating Organization) tại Hoa Kỳ.
Tháng 12/1997, Công ty sát nhập với trụ sở của IBCA Limited tại
London; đây được xem như là một bước ngoặt đặc biệt của công ty mà như
lời của CEO lúc bấy giờ của Fitch là Stephen Joynt đã phát biểu: “Đây là
một cuộc thay đổi mang tính toàn cầu, tạo ra những dịch vụ đánh giá hoàn
thiện đủ khả năng cạnh tranh với M oody’s và S&P trên tất cả các sản phẩm
cũng như phân khúc thị trường”. (“an alternative global, full-service rating
agency capable of successfully competing with M oody’s and S&P across all
products and market segments” - > em nào giỏi anh văn thì dịch hộ chị câu
này cho nó hay hơn tí nhe). Tiếp sau đó 3 năm, vào năm 2000, Fitch cũng
đã lần lượt mua lại hai tổ chức đánh giá tín nhiệm là Duff&Phelps vào
tháng 04 và Thomson Financial vào tháng 12 tại Chicago, Mỹ. Bằng cách
sát nhập với các tổ chức đánh giá tín nhiệm t huộc nhóm giữa trong lĩnh vực
này, Fitch đã duy trì ổn định một mức tăng trưởng đạt vào khoảng 300%
trong suốt năm năm.
Ngày nay, Fitch Ratings có chi nhánh tại hơn 50 quốc gia, trải dài từ
Châu M ỹ Latinh, đến Châu Âu và cả khu vực Châu À với hơn 2,000 chuyên
gia phân tích. Theo thống kê thì thị phần của 3 tổ chức đánh giá rủi ro là
18

S&P, M oody’s và Fitch chiếm khoảng 90% thị trường toàn cầu; tuy nhiên
trên thực tế phần trăm của Fitch chỉ chiếm khoảng từ 10% ~15%. Do đó có
thể nhận thấy trong bộ ba quyền lực trong thì trường đánh giá tín nhiệm thì
Fitch Ratings vẫn có phần “lếp vế” hơn hai đại gia kia.

19



2.2 Phương pháp đánh giá rủi ro của Fitch Ratings:
Một số đánh giá của Fitch Ratings tại thị trường Việt Nam:
Tổ chức đánh giá tín nhiệm Fitch Ratings vừa công bố báo cáo mới nhất
về đánh giá tín nhiệm nợ quốc gia của Việt Nam. Theo đó, đánh giá tín
nhiệm của Việt Nam được tổ chức này giữ ở mức ‘B+’, triển vọng duy trì ở
mức ‘ổn định’.
20

Báo cáo của Fitch cho biết, đánh giá tín nhiệm nhà phát hành nợ ngoại
tệ dài hạn (IDR) của Việt Nam cũng ở mức ‘B+’. Mức trần đánh giá tín
nhiệm quốc gia (Country Ceiling) đối với Việt Nam cũng giữ ở mức ‘B+’.
Đánh giá tín nhiệm nhà phát hành nợ ngắn hạn bằng ngoại tệ của Việt Nam
được Fitch xếp ở mức ‘B’. Tất cả các đánh giá này đều không thay đổi so
với lần đánh giá trước. Theo các chuyên gia của Fitch, mức đánh giá tín
nhiệm mà tổ chức này dành cho Việt Nam được hỗ trợ bởi quá trình tăng
trưởng kinh tế mạnh mà Việt Nam đã có, cũng như môi trường đầu tư nước
ngoài hấp dẫn đã giúp Việt Nam ít chịu tổn thương hơn trước những cú sốc
từ bên ngoài và gia tăng tốc độ tăng trưởng tiềm năng. Đánh giá tín nhiệm
của Việt Nam cũng được hỗ trợ bởi mức nợ nước ngoài và tiền lãi thuận lợi
trong tương quan so sánh với các quốc gia có cùng mức đánh giá tín nhiệm.
Việt Na m cũng được đánh giá tích cực ở tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư trong
nước cao. Fitch ước tính rằng, tỷ lệ tiết kiệm và tỷ lệ đầu tư trong nước của
Việt Na m đạt mức bình quân tương ứng 28% và 36% trong vòng 5 năm
qua.
Tuy nhiên, Fitch cho biết, định hạng tín nhiệm của Việt Nam chịu tác
động bất lợi bởi lạm phát giá tiêu dùng cao hơn và có mức độ biến động lớn
hơn so với các nước khác có cùng ngưỡng đánh giá tín nhiệm. Những yếu
tố này khiến nền kinh tế và tỷ giá hối đoái của Việt Nam dễ chịu tổn thương
trước những cú sốc về kinh tế và tài chính.

Nhưng vấn đề cần suy xét tiếp theo lại có thể được khởi nguồn từ chính
một hệ quả của nó. Vào năm trước, cũng chính Fitch đã nêu ra mức xếp
hạng “ổn định” cho nền kinh tế Việt Nam. Chỉ có điều, các chuyên gia của
Fitch đã không mấy sát thực khi họ không tận mắt chứng kiến liên tiếp hai
cái tết chìm sâu trong suy thoái của nền kinh tế và nỗi hoang mang thu nhập
của đại bộ phận dân chúng tại đất nước này.Lạm phát thấp nhưng với việc
tỷ lệ tăng trưởng GDP cũng bị sụt giảm gần như tương ứng, thay cho “quyết
tâm” đến 8-9% trước đó, hiển nhiên điều này không phát đi dấu chỉ “điềm
lành”. Trong thực tế, chỉ tiêu tổng sản phẩm nội địa của Việt Nam đã giảm
ít nhất một phần ba, xét về số báo cáo. Còn nếu để ý đến tính thực chất của
21

loại số liệu này và nếu tham khảo những phản biện của giới chuyên gia kinh
tế Hồng Kông đối với tỷ lệ tăng trưởng GDP gần 8% hiện nay ở Trung
Quốc, giới phân tích kinh tế Việt Nam vẫn có thể rút ra một kết luận: “tốc
độ tăng trưởng 5-5,5%” của Việt Nam vẫn còn cao gấp đôi mức tăng trưởng
bình quân của những quốc gia đầu tàu kinh tế thế giới, đây là một mâu
thuẫn lớn phải đặt dấu chấm hỏi.
Ngoài ra, bất chấp tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng trong 2 thập
kỷ qua, giá trị gia tăng tính trên đầu người của Việt Nam còn ở mức thấp so
với các nước có cùng ngưỡng điểm tín nhiệm ‘B’ và ‘BB’. Theo đánh giá
của Fitch, chất lượng và độ kịp thời của các dữ liệu kinh tế và tài chính của
Việt Na m cũng là những điểm yếu trong vấn đề đánh giá tín nhiệm, đặc biệt
là các dữ liệu về dự trữ ngoại hối quốc gia của Việt Nam thường được công
bố chậm.
Báo cáo của Fitch nhận định, trở ngại chính đối với định hạng tín nhiệm
của Việt Nam là rủi ro tiềm tàng đối với ổn định tài chính vĩ mô và nền tài
chính công từ hệ thống ngân hàng lớn và có độ minh bạch thấp. Đặc biệt,
mức chi phí mà Chính phủ có thể phải gánh vác trong việc tái cơ cấu hệ
thống ngân hàng còn rất khó đoán biết.

Kịch bản căn bản của Fitch ước tính rằng, chi phí tái cấp vốn hệ thống ngân
hàng của Việt Na m sẽ ở mức 10% GDP năm 2012. Tuy nhiên, có nhiều khả
năng xung quanh ước tính này, tùy thuộc vào mức độ phát triển của nền
kinh tế, các cải cách cơ cấu và vai trò của vốn ngoại.
Báo cáo của tổ chức này nói rằng, triển vọng ‘ổn đinh’ dành cho mức
đánh giá tín nhiệm của Việt Na m phản ánh kỳ vọng của Fitch rằng, các nhà
hoạch định chính sách Việt Nam sẽ duy trì cam kết ổn định kinh tế vĩ mô,
bao gồm tỷ lệ lạm phát thấp hơn, đồng tiền ổn định, và tránh mức thâm hụt
cán cân vãng lai lớn. Fitch cho rằng, Việt Na m đã tái cân bằng cán cân vãng
lai trong khi tránh được một cuộc suy thoái sâu, trái với những gì diễn ra ở
một số nền kinh tế mới nổi và phát triển. Fitch ước tính, thặng dư tài khoản
vãng lai của Việt Nam đã tăng lên mức 7,2% GDP trong năm 2012, từ mức
22

0,2% GDP trong năm 2011. Fitch dự báo, GDP thực tế của Việt Na m tăng
trưởng 5,5% trong năm 2013 so với mức tăng 5% trong năm 2012.
Fitch cũng nhắc tới việc lạm phát của Việt Nam đã giảm nhanh, trung
bình ở mức 9,1% trong năm 2012 so với mức 18,7% trong năm 2011. Lạm
phát giảm cho phép Ngân hàng Nhà nước cắt giảm lãi suất 6 điểm phần
trăm trong 2012. Tuy nhiên, Fitch cho rằng, chính sách tiền tệ của Việt
Nam khó có thể được nới lỏng thêm vì làm vậy có thể làm giảm sự hỗ trợ
cho tỷ giá hối đoái. Áp lực lạm phát lõi của Việt Na m được Fitch cho là còn
ở mức cao.
Chi tiết xếp hạng t ín nhiệm Việt Nam của Moody’s, S&P 500 và Fitch:

Nguồn: vietstock.vn
3. Euromoney
3.1. Quá trình hình thành:
Euromoney vốn là một tạp chí tiếng Anh với các bài viết chủ y ếu về
doanh nghiệp và tài chính, được phát hành lần đầu tiên vào năm 1969 bởi

ngài Patrick Sergeant. Nó được xem như là tạp chí dẫn đầu của nhà xuất
bản Euromoney Inst itutional Investor. Các đề tài của tạp chí này bao quát
khắp các mặt của hoạt động kinh tế - tài chính trong mọi lĩnh vực, từ vi mô
đến vĩ mô, từ công ty chưa niêm yết đến các công ty đại chúng.
Đến năm 1993, Euromoney giới thiệu đến độc giả Euromoney Country
Risk như một công cụ hữu hiệu để đánh giá rủi ro rừng quốc gia.
Euromoney hàng năm đánh giá nguy cơ của từng quốc gia qua “Country
23

Risk Survey”, bằng việc theo dõi sự ổn định chính trị và kinh tế của 186
quốc gia có chủ quyền. Nó là một bảng tổng kết khảo sát sự đồng thuận ý
kiến của các chuyên gia đánh giá về sự ổn định của nền kinh tế, hệ thống
chính trị, các chính sách quốc gia.
Phương thức đánh giá của Euromoney:
Thang điểm được đánh giá là từ 100 điểm (Tốt nhất) và 0 (có nguy cơ
cao). Euromoney thiết lập một công thức tính chung cho các quốc gia với 2
nhóm chỉ tiêu cụ thể được tính theo công thức sau: 70% rủi ro quốc gia và
kết hợp nó với 3 nhóm chỉ t iêu cơ bản (chiếm tỉ trọng 30%)
Rủi ro quốc gia (chiếm tỉ trọng 70%) bao gồm 3 nhóm chính là:
 Rủi ro chính trị: được đánh giá thông qua các 5 biến số cụ thể là tham
nhũng, xác suất không thanh toán của chính phủ, tính ổn định của chính
phủ, sự minh bạch thong tin, các chính sách về môi trường.
 Rủi ro hệ thống: được đánh giá thông qua 4 biến số là dân số (tỉ lệ giới
tính), cơ sở hạ tầng cứng, mối liên hệ giữa trình độ lao động và công
nghiệp, cơ sở hạ t ầng mềm.
 Rủi ro kinh tế: được đánh giá thông qua 5 biến số là giá trị GNP, tỉ lệ
thất nghiệp, tình hình tài chính của chính phủ, chính sách t iền tệ hiện
hành và chỉ số ổn định của N gân hàng.
Ba nhóm chỉ tiêu cơ bản chiếm tỉ trong 30% còn lại sẽ được tính theo
thang điểm từ 0 đến 10 (những quốc gia nào chưa có số liệu sẽ được tính là

0); các chỉ tiêu này được định lượng dựa trên các biến số:
 Chỉ số nợ (chiếm tỉ trọng 10%): thang điểm được tính dựa trên hệ thống
qui định của World Bank về các chỉ số phát triển tài chính toàn cầu.
 Khả năng t iếp cận thị trường vốn (chiếm tỉ trọng 10%)
 Xếp hạng tín dụng (chiếm tỉ trọng 10%): điểm được tính dựa trên các
đánh giá của ba tổ chức Moody’s, S&P và Fitch rồi được qui đổi thông
qua một bảng qui đổi cụ thể
24

Source: Euromoney country risk

Country risk rankings (January 2013)

Least risky countries, Score out of 100
Rank
Previous

Country Overall score

1

1

Norway

89.87

2

3


Luxembourg

87.29

3

4

Singapore

86.81

4

5

Sweden

86.81

5

2

Switzerland

86.78

6


6

Finland

84.54

7

7

Denmark

82.64

8

9

Hong Kong

82.43

9

8

Netherlands

81.82


10

8

Canada

81.82

4. Economist Intelligence Unit (EIU)
4.1 Sơ lược Economist Intelligence Unit (EIU)
Economist Intelligence Unit (EIU)- cơ quan nghiên cứu kinh tế toàn cầu
thuộc tạp chí The Economist -
Thành lập 10.1946 , The Economist Intelligence Unit là một nhà xuất
bản chuyên nghiệp phục vụ cho các công ty thiết lập và quản lý các hoạt
động xuyên quốc gia. Trong hơn 60 năm qua, nó là một nguồn thông tin về
những hoạt động phát triển kinh doanh, các xu hướng kinh t ế và chính trị,
các qui định của chính phủ và thông lệ công ty trên toàn cầu.
The Economist Intelligence Unit phát hành các thông tin của nó theo 4
cách: thông qua các danh mục kỹ thuật số của nó, nơi mà các phân tích mới
nhất được cập nhật hàng ngày; thông qua hàng loạt các sản phẩm thuê bao
in ấn từ thư từ cho đến các sản phẩm tham khảo hàng năm. T hông qua các
báo cáo nghiên cứu; và bằng cách tổ chức các hội thảo và diễn thuyết. Công
ty là một thành viên của The Economist Group.
4.2 Phương pháp xếp hạng rủi ro
Economist Intelligence Unit (EIU) xuất bản các báo cáo rủi ro quốc gia
từng quý với dữ liệu cập nhật từng tháng. Những báo cáo này tóm tắt hạng
mức rủi ro cho 100 quốc gia đang phát triển và mắc nợ cao được quan sát

×