Tải bản đầy đủ (.pdf) (39 trang)

Liệu phân cấp tài khóa có cải thiện kết quả chăm sóc y tế bằng chứng thực nghiệm từ Trung Quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (718.65 KB, 39 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TPHCM



Môn: Tài chính công

Đề tài:
LIỆU PHÂN CẤP TÀI KHÓA CÓ CẢI
THIỆN KẾT QUẢ CHĂM SÓC Y TẾ?
BẰNG CHỨNG THỰC NGHIỆM TỪ
TRUNG QUỐC





















TPHCM, tháng 08 năm 2013.


GVHD : PGS. TS SỬ ĐÌNH THÀNH
NTH : Nhóm 6
LỚP : Ngân hàng Đêm 1 – Khóa 22

Danh sách nhóm
1.

Cao Nữ Nguyệt Anh

2. Hồ Hữu Nghĩa

3. Lê Thị Phương Thảo

4.

Mai Nguyễn Huyền Trang






MỤC LỤC

Tóm tắt (Abstract) 1
I. Giới thiệu: 2
1.1 Nội dung chính của paper: 2
1.2 Mục tiêu nghiên cứu: 3
1.3 Tại sao phải thực hiện bài nghiên cứu này: 3

1.4 Câu hỏi nghiên cứu: 4
1.5 Giả thuyết nghiên cứu: 4
1.6 Hệ thống chăm sóc y tế ở Trung Quốc: 5
II. Tổng quan các kết quả nghiên cứu trước đây (Literature review): 10
III. Phương pháp nghiên cứu (Methodology and data): 15
3.1 Phương pháp nghiên cứu: 15
3.2 Thu thập và xử lý số liệu: 15
3.3 Mô hình nghiên cứu: 16
IV. Kết quả nghiên cứu: 20
4.1 Tóm tắt số liệu thống kê: 20
4.2 Kết quả hồi quy (FD là biến giả): 22
4.3 Kết quả hồi quy (FD là tỷ lệ): 27

V. Kết luận: 30
5.1 Kết luận chung: 30
5.2 Hạn chế và hướng nghiên cứu tương lai: 31
TÀI LIỆU THAM KHẢO 32

Liệu phân cấp tài khóa có cải thiện kết quả chăm sóc y tế? Bằng chứng thực nghiệm từ Trung Quốc

Nhóm 06 – Lớp Ngân hàng Đêm 1 – Cao học K22 Page 1

Tóm tắt (Abstract)
Từ cuối những năm 1970, Trung Quốc đã thông qua một loạt các cải cách
kinh tế, điều đã dẫn đến sự thành công toàn diện của nền kinh tế. Việc cải cách

Hệ Thống Phân Phối Thuế (TSS), như một phần của chính sách phân cấp tài
khóa dần dần, được đề xuất vào năm 1994. Lý thuyết thông thường cho rằng sự
phân cấp tài khóa có thể dẫn đến những lợi ích tiềm năng khác nhau, bao gồm
việc tăng đáp ứng của chính quyền địa phương trong việc cung cấp hàng hóa
công. Tuy nhiên, rất ít nghiên cứu thực nghiệm kiểm tra tác động của phân cấp
tài khóa đến kết quả sức khỏe ở Trung Quốc.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh (IMR) là
một chỉ số về kết quả chăm sóc sức khỏe và cung cấp một phép đo định lượng
về tác động của phân cấp tài khóa lên tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh ở cấp chính
quyền địa phương. Chúng tôi ước lượng phân cấp tài khóa theo cả 2 cách: Như
một biến giả và như một tỷ lệ, và ước lượng hàm sản xuất tỷ lệ tử vong trẻ sơ
sinh sử dụng cả cách tiếp cận bằng phương pháp bình phương nhỏ nhất (OLS)

và phương pháp bình phương tối thiểu tổng quát khả thi dạng bảng (FGLS).
Chúng tôi thấy rằng, trái ngược với dự đoán của các lý thuyết thông thường,
phân cấp tài khóa đã tạo ra một tác động bất lợi toàn diện đến IMR ở Trung
Quốc.

Liệu phân cấp tài khóa có cải thiện kết quả chăm sóc y tế? Bằng chứng thực nghiệm từ Trung Quốc

Nhóm 06 – Lớp Ngân hàng Đêm 1 – Cao học K22 Page 2

I. Giới thiệu:
Sống một cuộc sống lâu hơn và khỏe mạnh hơn đã trở thành lựa chọn hàng
đầu và là mục đích của phát triển con người (Chương trình Phát triển Liên Hợp

Quốc, 1990-2008). Trong số các biện pháp đo lường sức khỏe con người khác
nhau, tuổi thọ của trẻ sơ sinh được coi là “thử nghiệm nhạy cảm nhất về những
điều kiện sức khỏe” (Liu, Hsiao, và Eggleston, 1999). Vì ở giai đoạn bắt đầu
của cuộc sống, một trẻ sơ sinh dễ bị tổn thương nhất. Như vậy, tình trạng sức
khỏe được cải thiện có thể có tác động tích cực sâu rộng trong việc giảm tỷ lệ
tử vong trẻ sơ sinh. Blaxter (1981) và Sen (1998) lập luận rằng chất lượng cuộc
sống phụ thuộc rất nhiều vào chăm sóc sức khỏe, kiến thức y tế, và bảo hiểm y
tế. Họ cũng thấy rằng số liệu thống kê về tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh phản ánh tất
cả những vấn đề chính sách. Theo Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc
(UNDP), tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh (IMR) được định nghĩa là số ca tử vong trẻ
sơ sinh trên 1.000 trẻ sinh sống dưới một năm tuổi trong cùng một năm (UNDP,
1990-2008). Chỉ số này đã được sử dụng rộng rãi để so sánh giữa các quốc gia

và phân tích xu hướng các kết quả chăm sóc sức khỏe. Do đó, chỉ số này cũng
được sử dụng trong mô hình của bài nghiên cứu này để nghiên cứu tác động
của phân cấp tài chính đối với chăm sóc sức khỏe.
1.1 Nội dung chính của paper:
Tập trung vào các mối liên hệ giữa tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh và phân cấp tài
khóa ở Trung Quốc. Điều này là do:
Trước hết, Trung Quốc đã đạt được tiến bộ đáng kể trong việc giảm IMR từ
năm 1949 đến năm 1978, đó là khoảng thời gian kinh tế kế hoạch với một mức
thu nhập cá nhân thấp. Với những cải cách năm 1978, nền kinh tế của Trung
Quốc bắt đầu bùng nổ trong những năm 1980 và duy trì tốc độ tăng trưởng cao
- trung bình khoảng 9% tăng trưởng trong Tổng sản phẩm quốc nội thực (GDP)
trong suốt những năm 1990 và thế kỷ 21

1
. Theo những quan điểm thông thường,
phát triển kinh tế cao hơn sẽ kết hợp với việc giảm tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh
(Ngân hàng Thế giới, 1993). Tuy nhiên, ở Trung Quốc, tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh

1
Tại http://www. chinability.com/GDP.htm
Liệu phân cấp tài khóa có cải thiện kết quả chăm sóc y tế? Bằng chứng thực nghiệm từ Trung Quốc

Nhóm 06 – Lớp Ngân hàng Đêm 1 – Cao học K22 Page 3

ở vào khoảng 29 trẻ sơ sinh tử vong trên 1.000 trẻ sinh sống từ cuối những năm

1980 cho đến nay, và không thấy tiếp tục cắt giảm quy mô lớn mặc dù tăng
trưởng kinh tế cao trong suốt khoảng thời gian đó (Liên Hiệp Quốc, 2005).
Thứ hai, cải cách TSS năm 1994 tại Trung Quốc tái tập trung thu ngân sách
chính phủ trong khi vẫn giữ phần lớn trách nhiệm chi tiêu y tế trên vai của
chính quyền địa phương mà không có sự cung cấp hỗ trợ kinh phí đầy đủ từ
chính quyền trung ương. Lý thuyết thông thường của phân cấp tài khóa dự
đoán rằng chính quyền địa phương sẽ đáp ứng tốt hơn nhu cầu của địa phương
bao gồm chăm sóc sức khoẻ sinh sản (Oates, 1993). Không giống như các chỉ
tiêu y tế khác như tuổi thọ và tỷ lệ bà mẹ tử vong, tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh có
thể nhạy cảm hơn với các khoản đầu tư y tế công cộng trong chi tiêu y tế của
chính phủ. Theo Barker (1997), Wagstaff (2001), và Case, le Roux, và
Menendez (2004), chăm sóc sức khỏe trước khi sinh, đội ngũ và trang thiết bị y

tế đỡ đẻ, dinh dưỡng trẻ sơ sinh và vệ sinh công cộng là tất cả các kênh mà
thông qua đó sức khỏe trẻ sơ sinh có thể bị ảnh hưởng. Những yếu tố này cũng
là kết quả trực tiếp của chi tiêu chăm sóc sức khỏe của chính phủ. Trách nhiệm
gia tăng cùng với sự tài trợ không đầy đủ ở cấp địa phương có thể góp phần
vào sự trì trệ trong việc giảm thiểu tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh kể từ cuối những
năm 1980 ở Trung Quốc. Vì vậy, nghiên cứu này cố gắng để định lượng liệu
tốc độ phát triển kinh tế cao trong những năm 1990 và đầu thế kỷ 21, cũng như
việc phân cấp tài khóa đại diện bởi các cải cách TSS năm 1994 có ảnh hưởng
đến tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh ở Trung Quốc.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu:
Cung cấp một phép đo định lượng về tác động của phân cấp tài khóa lên
IMR ở Trung Quốc sử dụng dữ liệu của chính quyền địa phương.

1.3 Tại sao phải thực hiện bài nghiên cứu này:
Trước đây, một số nghiên cứu đã cố gắng để kết hợp chăm sóc y tế với
phân cấp tài khóa (Asfaw, Frohberg, James, và Jutting, 2007; Cantarero &
Pascual, 2008; Duret, 1999; Uchimura & Jutting, 2007). Trong lĩnh vực y tế,
phân cấp tài khóa đặc biệt đề cập đến việc phân cấp nguồn lực tài chính và
Liệu phân cấp tài khóa có cải thiện kết quả chăm sóc y tế? Bằng chứng thực nghiệm từ Trung Quốc

Nhóm 06 – Lớp Ngân hàng Đêm 1 – Cao học K22 Page 4

trách nhiệm chi tiêu cho y tế từ trung ương đến chính quyền địa phương (Mills,
Vaughan, Smith & Tabibzadeh, 1990). Lĩnh vực phân cấp này sẽ trở thành một
thành phần quan trọng của cải cách chính sách ở nhiều nước bao gồm Trung

Quốc, Ghana, Indonesia, Philippines, Uganda và Zambia. Sử dụng các phương
pháp khác nhau của việc phân cấp, các học giả thường thấy rằng phân cấp tài
khóa cao hơn dẫn đến một IMR thấp hơn (Asfaw, Frohberg, James, và Jutting,
2007; Cantarero & Pascual, 2008; Duret năm 1999; Uchimura & Jutting, 2007).
Tuy nhiên, có rất ít nghiên cứu tìm hiểu tác động của phân cấp tài khóa lên
IMR ở Trung Quốc.
Thêm vào đó, nghiên cứu này dự kiến cải thiện các nghiên cứu hiện có theo
nhiều cách. Đầu tiên, chúng tôi sử dụng một bộ dữ liệu toàn tỉnh dạng bảng cho
phép xem xét các tác động của các biến không quan sát biến thiên theo thời
gian. Thứ hai, chúng tôi đo lường chi phí y tế trong tổng số tiền chi tiêu, là %
của tổng số chi tiêu chính phủ và tỷ lệ cho tổng sản phẩm khu vực danh nghĩa
(GRP). Thứ ba, chúng tôi thêm vào một số các biến kiểm soát như một biến giả

khu vực, nguồn nhân lực y tế, cơ sở vật chất y tế, đô thị hóa, và khả năng sinh
sản. Cuối cùng, ngoài phương pháp biến giả truyền thống, chúng tôi cũng đo
mức độ phân cấp quản lý tài chính bằng cách sử dụng tỷ lệ chi ngân sách tỉnh
bình quân đầu người với tổng chi ngân sách trung ương bình quân đầu người và
chi ngân sách tỉnh.
1.4 Câu hỏi nghiên cứu:
- Tốc độ phát triển kinh tế cao trong những năm 1990 và đầu thế kỷ 21 có
ảnh hưởng đến tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh ở Trung Quốc không?
- Phân cấp tài khoá đại diện bởi các cải cách TSS năm 1994 có ảnh hưởng
đến tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh ở Trung Quốc không?
1.5 Giả thuyết nghiên cứu:
Ho: Phân cấp tài khóa làm giảm tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong ở TQ.

H
1
: Phân cấp tài khóa không làm giảm tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong ở TQ.
Liệu phân cấp tài khóa có cải thiện kết quả chăm sóc y tế? Bằng chứng thực nghiệm từ Trung Quốc

Nhóm 06 – Lớp Ngân hàng Đêm 1 – Cao học K22 Page 5

1.6 Hệ thống chăm sóc y tế ở Trung Quốc:
Trung Quốc có hình thức chính phủ nhất thể với năm cấp độ phân cấp bố
trí theo kiểu kim tự tháp với chính quyền trung ương ở trên cùng, phía trên các
cấp địa phương bao gồm chính quyền cấp tỉnh, cấp địa khu (bao gồm cả các
thành phố cấp địa khu), cấp quận (bao gồm thành phố cấp quận), và cấp hương

(tương đương xã, phường). Chính quyền cấp tỉnh bao gồm 22 tỉnh, năm khu
vực dân tộc thiểu số tự trị, và bốn thành phố trực thuộc quản lý bởi Hội đồng
Quốc gia.
Như là một phần của phúc lợi công cộng trong giai đoạn kinh tế kế hoạch
từ năm 1949 đến 1978, chăm sóc sức khỏe sinh sản được thiết kế một cách
sáng tạo bởi chính quyền trung ương và được thực hiện thành công bởi chính
quyền địa phương. Các cấp thấp hơn cung cấp một hệ thống y tế công trong các
khu đô thị và chủ yếu dựa vào các bác sĩ nông dân bán thời gian (hoặc “bác sĩ
chân trần”) trong các vùng nông thôn. Việc đào tạo và cung cấp dịch vụ bác sĩ
chân trần được sự trợ cấp của chính quyền địa phương. Sidel và Sidel (1975)
tóm tắt hệ thống y tế kiểu này như một sự kết hợp của y học cổ truyền Trung
Quốc và y học phương Tây hiện đại: Cách phòng bệnh, lao động chuyên sâu,

hợp tác theo định hướng, chủ nghĩa quần chúng tập thể, và chủ nghĩa quân bình.
Hệ thống này đã được chứng minh có hiệu quả trong việc nhanh chóng giảm tỷ
lệ tử vong trẻ sơ sinh từ hơn 200 trên 1.000 ca sinh sống vào năm 1950 xuống
còn khoảng 50 trong năm 1978, giảm khoảng ba phần tư về lượng (xem Hình
1). Tuổi thọ trung bình ở Trung Quốc đã tăng từ 35 năm 1949 lên khoảng 70
trong những năm 1980. Các điều kiện y tế toàn diện ở Trung Quốc được cải
thiện đáng kể và nhiều bệnh truyền nhiễm bị tiệt trừ trong vòng chưa đầy 30
năm. Do những thành tựu đáng kể, hệ thống này được công nhận là một mô
hình y tế cơ sở của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) tại Hội nghị Alma Ata năm
1978 (WHO, 2008).
Liệu phân cấp tài khóa có cải thiện kết quả chăm sóc y tế? Bằng chứng thực nghiệm từ Trung Quốc


Nhóm 06 – Lớp Ngân hàng Đêm 1 – Cao học K22 Page 6


Hình 1: Tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh ở Trung Quốc, 1950-2006
Tuy nhiên, hệ thống y tế tập trung tương đối thành công này đã không tồn
tại trong cải cách kinh tế năm 1978, với việc thúc đẩy tìm kiếm lợi nhuận, tư
nhân hóa, thương mại hóa, và thị trường hóa trong lĩnh vực y tế. Tất cả các cơ
sở y tế như Trung Tâm Kiểm Soát và Phòng Bệnh (CDC) bây giờ phải chịu
trách nhiệm về lợi nhuận của họ và thiệt hại theo cải cách kinh tế mà không
được hỗ trợ tài chính công hoặc bất kỳ loại trợ cấp khác nào của chính phủ cho
riêng họ. Dịch vụ chăm sóc sức khỏe bao gồm chăm sóc sức khỏe trẻ sơ sinh và
tiêm chủng được tính theo giá thị trường. Kết quả là, phòng bệnh và hệ thống y

học chi phí thấp theo định hướng hợp tác xã trước đó đã bị giải thể và được
thay thế bằng một hệ thống y học theo định hướng thị trường với giá cả tăng
cao. Dưới một phần mười dân số Trung Quốc, phần lớn trong số đó là công
chức, nhân viên trong các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) có bảo hiểm y tế
(Bertelsmann Stiftung, 2010).
Cùng với việc thị trường hóa các sản phẩm chăm sóc sức khỏe, dịch vụ và
các tổ chức, chi phí y tế của chính phủ đã bị thu hẹp gần một nửa. Như thể hiện
trong Hình 2, tổng chi tiêu quốc gia về chăm sóc sức khỏe bao gồm chi ngân
sách chính phủ, chi tiêu ngoài ngân sách nhà nước và chi tiêu cá nhân. Trong số
đó, tỷ lệ chi ngân sách của chính phủ đã giảm từ khoảng 39% năm 1982 xuống
Liệu phân cấp tài khóa có cải thiện kết quả chăm sóc y tế? Bằng chứng thực nghiệm từ Trung Quốc


Nhóm 06 – Lớp Ngân hàng Đêm 1 – Cao học K22 Page 7

còn khoảng 18% năm 2006, và chi tiêu ngoài ngân sách nhà nước cũng đã giảm
từ hơn 47% vào cuối năm 1970 xuống còn 32% trong năm 2006
2
. Ngược lại,
chi tiêu cá nhân về y tế đã tăng gấp đôi trong vòng ba thập kỷ qua, từ khoảng
20% năm 1978 lên gần 50% trong năm 2006.

Hình 2: Thành phần của tổng chi tiêu chăm sóc y tế, 1978-2006
Sau cải cách TSS 1994, chi tiêu chăm sóc y tế được chuyển từ chính quyền
trung ương sang chính quyền địa phương. Các quan chức của chính quyền địa

phương đang theo đuổi tăng trưởng kinh tế lấy GDP làm trung tâm với mục
đích được đề xướng, là chi phí đầu tư chăm sóc y tế công cộng. Căn cứ vào các
quy định của chính phủ có liên quan, trách nhiệm chi tiêu y tế được cùng đảm
nhận bởi chính quyền cấp trung ương, cấp tỉnh, cấp quận, và cấp hương
3.
Trong
thực tế, chi tiêu của chính quyền trung ương về y tế đã được giảm thiểu. Đó là

2
Tài khoản cho tài chính công ở Trung Quốc theo dõi hai tài khoản: tài khoản ngân sách và tài khoản ngoài ngân
sách. Bao gồm cả doanh thu và các khoản chi tiêu. Chi ngân sách liên quan đến việc phân phối và sử dụng các quỹ
mà chính phủ đã đưa ra dựa trên Luật Ngân sách, để đáp ứng nhu cầu xây dựng kinh tế và các mục đích khác nhau.

Chi tiêu ngoài ngân sách đề cập đến các chi phí liên quan được sắp xếp phù hợp với kế hoạch bổ sung ngân sách
và trích lập từ các tài khoản đặc biệt ở cấp hành chính tương tự. Xem Ngân hàng Thế giới (2000, 2001) cho vai trò
của các quỹ ngoài ngân sách ở Trung Quốc.)
3
Ví dụ, Văn bản số 3 của Hội Đồng Quốc Gia, “Quyết định về cải cách và phát triển y tế công cộng”, ban hành
trong tháng 1 năm 1997, yêu cầu chi tiêu công cho y tế ở cả chính quyền trung ương và chính quyền địa phương
tăng ở một tỷ lệ cao hơn so với tăng trưởng chi ngân sách chung.
Liệu phân cấp tài khóa có cải thiện kết quả chăm sóc y tế? Bằng chứng thực nghiệm từ Trung Quốc

Nhóm 06 – Lớp Ngân hàng Đêm 1 – Cao học K22 Page 8

do chính quyền cấp tỉnh và dưới tỉnh gánh vác nhiệm vụ. Cụ thể, chính quyền

địa phương đã đảm nhận 97% chi phí chăm sóc y tế trong những năm gần đây
trong khi chính quyền trung ương chia sẻ chỉ có 3%. Tuy nhiên, phần lớn doanh
thu của chính quyền địa phương đã được sử dụng để bắt đầu xây dựng cơ sở hạ
tầng quy mô lớn và các dự án đầu tư ngoài việc tài trợ cho chi phí hành chính.
Công quỹ còn lại dành cho chăm sóc sức khỏe là tối thiểu. Ngược lại với tỷ lệ
tăng GDP danh nghĩa hàng năm trung bình 9%, tổng chi tiêu cho chăm sóc y tế
như một tỷ lệ phần trăm của GDP danh nghĩa giảm, từ khoảng hơn 1% vào năm
1981 xuống còn dưới 1% trong 2006
4
. Hơn nữa, phần chi tiêu cho chăm sóc y
tế trong tổng chi tiêu chính phủ cũng giảm từ hơn 5% vào năm 1981 xuống
dưới 5% vào năm 2006 (xem Hình 3).


Hình 3: Tỷ trọng Chi tiêu chăm sóc y tế trong tổng chi tiêu Chính phủ và
GDP danh nghĩa, 1981-2006
Do sự sụt giảm trong chi tiêu chính phủ cho y tế và sự gia tăng thị trường
hóa dịch vụ y tế, nên không có gì đáng ngạc nhiên là kết quả tổng thể cho chăm
sóc y tế đang xấu đi. Chi tiêu của chính phủ cho y tế sụt giảm sẽ trực tiếp làm
hạn chế nguồn tích lũy vốn cho y tế, điều này có thể dẫn đến kết quả y tế xấu đi
giống như tình trạng trì trệ trong việc giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh IMR

4
Xem tại
Liệu phân cấp tài khóa có cải thiện kết quả chăm sóc y tế? Bằng chứng thực nghiệm từ Trung Quốc


Nhóm 06 – Lớp Ngân hàng Đêm 1 – Cao học K22 Page 9

trong những thập niên 1990 và 2000. Một đánh giá công bằng về sức khỏe
được thực hiện bởi WHO năm 2002, Trung Quốc được xếp hạng 144 trong
tổng 191 quốc gia trên thế giới. Bên cạnh kểt quả tổng thế yếu kém, thì sự
chênh lệch trong chi tiêu y tế cũng được mở rộng. Chi tiêu y tế của Chính Phủ
dịch chuyển từ khu vực nông thôn sang khu vực đô thị để đào tạo cán bộ y tế
chuyên nghiệp, mua sắm thiết bị y tế chuyên khoa, và tài trợ cho nghiên cứu cải
tiến trong y tế. Khoảng cách của chi phí y tế bình quân đầu người giữa thành
thị và nông thôn thì ngày càng gia tăng (xem hình 4). Hillier và Shen (1996)
ước tính là khoảng cách y tế bình quân đầu người giữa thành thị và nông thôn

đã tăng 4 lần trong năm 1991 và 6 lần trong thập niên 1990.

Hình 4: Tổng chi tiêu y tế bình quân đầu người theo khu vực thành thị và
nông thôn
Trong suốt những thử nghiệm nhiều năm, Trung Quốc hiện đã cố gắng để
tìm ra một hệ thống chăm sóc sức khỏe toàn diện. Ở khu vực thành thị, đó là sự
kết hợp từ những quỹ tích lũy xã hội và những tài khoản cá nhân với bảo hiểm
y tế tối thiểu bắt buộc, bảo hiểm y tế của người thuê mướn lao động và khoản
bảo hiểm y tế của cá nhân người lao động. Ở khu vực nông thôn, một hệ thống
y tế hợp tác nông thôn mới đã được thực hiện với sự tham gia chung của cư dân
Liệu phân cấp tài khóa có cải thiện kết quả chăm sóc y tế? Bằng chứng thực nghiệm từ Trung Quốc


Nhóm 06 – Lớp Ngân hàng Đêm 1 – Cao học K22 Page 10

nông thôn, chính quyền địa phương, và chính quyền trung ương.
Mặc dù những cải cách kinh tế năm 1978 đã mang lại sự phát triển kinh
tế đáng chú ý cho Trung Quốc, nhưng chăm sóc sức khỏe thì dường như không
được cải thiện nhiều. Việc giảm tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh đã trì trệ sau năm 1980,
thể hiện trong Hình 1. Trong khi đó, tuổi thọ thì vẫn gần như nhau từ 68 năm
1982 lên 69 năm 1993 (Hsiao & Liu, 1996). Thêm vào đó, như Bloom và Gu
(1997) và Liu và các cộng sự (1999) đã báo cáo thì hầu hết mỗi chỉ tiêu đơn về
chăm sóc sức khỏe của người dân thành thị thì tốt hơn là của người dân nông
thôn sau cải cách kinh tế. Ví dụ trẻ sơ sinh tử vong ở khu vực thành thị đã liên
tục giảm mặc dù tỷ lệ thấp hơn khi so sánh với tốc độ trước năm 1978 trong khi

tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong (IMR) ở nông thôn thì liên tục tăng từ những thập niên
1990.
II. Tổng quan các kết quả nghiên cứu trước đây
(Literature review):
Tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong và tuổi thọ thì thường được chọn để đo lường mức
độ sức khỏe tổng thể trong những lý thuyết hiện nay. Trái ngược với tuổi thọ thì
chịu nhiều ảnh hưởng hơn bởi sự đầu tư sức khỏe của cá nhân, sự tích lũy của
các nhân tố tích cực và tiêu cực trong cuộc sống và thói quen sinh hoạt của một
người, thì tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong lại chịu ảnh hưởng nhiều hơn bởi mức thu
nhập, chi tiêu công và cơ sở y tế địa phương. Theo đó, để định lượng tác động
của thu nhập và chi tiêu y tế công cộng, bài nghiên cứu này chỉ tập trung vào tỷ
lệ trẻ sơ sinh tử vong.

Tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong có thể là kết quả của cả nguyên nhân trực tiếp và
gián tiếp. Trước đây chủ yếu là gồm những nguyên nhân trực tiếp (như sinh
non, chấn thương sinh, bệnh di truyền và dị tật bẩm sinh) và những nguyên
nhân mãn tính (như suy dinh dưỡng, chăm sóc trước khi sinh, sự sẵn có của các
loại vắc xin, và nhiễm trùng). Nguyên nhân gián tiếp của tỷ lệ trẻ sơ sinh tử
vong bao gồm nhân tố xã hội, kinh tế, môi truờng đã làm trẻ sơ sinh bị nguy
hiểm và nhạy cảm hơn là nguyên nhân trực tiếp. Những nhân tố này bao gồm,
nhưng không giới hạn: Mức thu nhập, phân phối thu nhập, chi phí chăm sóc
Liệu phân cấp tài khóa có cải thiện kết quả chăm sóc y tế? Bằng chứng thực nghiệm từ Trung Quốc

Nhóm 06 – Lớp Ngân hàng Đêm 1 – Cao học K22 Page 11


sức khỏe công cộng, nguồn nhân lực y tế, nguồn thiết bị y tế, sự tham gia lực
lượng lao động của phụ nữ, đô thị hóa, chất lượng quản trị, vệ sinh công cộng,
và những vấn đề khác liên quan tới cơ sở hạ tầng như việc tiếp cận nước sạch
và điện… Trong những điều trên, thì chi tiêu chăm sóc sức khỏe công cộng là
đầu vào trực tiếp, ngược lại nguồn nhân lực y tế (như số lượng bác sĩ và y tá
trên 1000 người) và nguồn thiết bị y tế (như số lượng giường bệnh trên 1000
người) là đầu ra trực tiếp chăm sóc sức khỏe. Hiệu ứng tổng thể của phân cấp
tài khóa lên kết quả chăm sóc sức khỏe bao gồm các tác động trực tiếp như chi
phí tiết kiệm trong sản xuất và phân phối dịch vụ chăm sóc sức khỏe cũng như
các tác động gián tiếp như việc gia tăng chi tiêu cho chăm sóc sức khỏe hay
việc cải thiện nguồn vốn chăm sóc sức khỏe.
Mặc dù IMRs biến động với chiến tranh, nạn đói, dịch bệnh và bất ổn

xã hội, phúc lợi chung của một xã hội làm cải thiện sự suy giảm IMR của nó.
Do đó, các nước giàu có xu hướng IMR thấp hơn so với các nước nghèo.
Flegg (1982) tiến hành một nghiên cứu chéo giữa những nước kém
phát triển trong giai đoạn 1968-1972 và sử dụng ước lượng bình phương bé
nhất (OLS) kiểm soát bất bình đẳng thu nhập, tỷ lệ sản phụ, tỷ lệ nữ mù chữ, và
nguồn nhân lực y tế (đo lường bởi số lượng bác sĩ trên 1000 người và số lượng
y tá trên 1000 người). Kết quả chỉ ra rằng ảnh hưởng của GDP thực bình quân
đầu người lên IMR thì không có ý nghĩa thống kê, cho thấy mức thu nhập (đo
lường bởi GDP thực bình quân đầu người) thì không quyết định trực tiếp đến tỷ
lệ trẻ sơ sinh tử vong và có thể chỉ ảnh hưởng đến tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong gián
tiếp thông qua nguồn nhân lực y tế. Trong thực tế, việc sử dụng dữ liệu chéo
các nước của WHO năm 2004 Anand và Barnighausen (2004) đã khẳng định

mối quan hệ dương đáng kể giữa nguồn nhân lực y tế và sự suy giảm tỷ lệ trẻ
sơ sinh tử vong.
Những nghiên cứu trước đây cũng tìm ra được chi tiêu chăm sóc sức
khỏe công cộng có tác động tích cực lên tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong. Ví dụ,
Corman, Grossman, và Joyce (1987) sử dụng tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong chéo qua
các hạt năm 1977 ở Mỹ và tìm ra được những chương trình chi tiêu sức khỏe
Liệu phân cấp tài khóa có cải thiện kết quả chăm sóc y tế? Bằng chứng thực nghiệm từ Trung Quốc

Nhóm 06 – Lớp Ngân hàng Đêm 1 – Cao học K22 Page 12

công cộng liên quan đến nghèo đói đóng vai trò quan trọng trong việc giảm tỷ
lệ trẻ sơ sinh tử vong. Ngân hàng thế giới (1995) cũng chỉ ra những ảnh hưởng

đáng kể của chi tiêu sức khỏe công cộng lên việc giảm tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong
ở những khu vực lạc hậu tại Philipines. Sử dụng dữ liệu cuộc điều tra dân số và
sức khỏe từ hơn 60 nước có thu nhập thấp giữa năm 1990 và 1999, Wang (2003)
thấy rằng tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong ở khu vực nông thôn cao hơn đáng kể ở khu
vực thành thị. Nghiên cứu mới đây của Bokhari, Gai và Gottret (2007) ước tính
độ co giãn của trẻ tử vong dưới 5 tuổi đối với cả thu nhập và chi tiêu cho sức
khỏe của chính phủ sử dụng kỹ thuật biến công cụ và thấy rằng tỷ lệ tử vong
chịu ảnh hưởng bởi chi tiêu cho sức khỏe của chính phủ mà không phải do tăng
trưởng kinh tế.
Mặt khác, một vài nghiên cứu cho kết quả đối lập. Ví dụ, Filmer và
Pritchett (1999) sử dụng dữ liệu chéo các nước của Quĩ nhi đồng liên hiệp quốc
và NHTG với 4 ước tính và tìm ra được ảnh hưởng chi tiêu sức khỏe công cộng

lên tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong thì không đáng kể về thống kê và kinh tế.
Musgrove (1996) tóm tắt rằng một trong những yếu tố quyết định của tỷ lệ trẻ
sơ sinh tử vong đáng kể là biến thu nhập trong khi thị phần chi phí y tế trong
GDP, thị phần chi phí y tế trong tổng chi tiêu chính phủ, và thị phần tổng chi
tiêu chính phủ trong GDP thì không có quyết định đáng kể. Sử dụng mẫu cắt
ngang của 117 quốc gia năm 1993 và mô hình điều chỉnh cho hiệp phương sai
không đồng nhất, Zakir và Wunnava (1999) tìm thấy chi tiêu chính phủ cho y tế
và thị phần của nó trong GNP thì không đóng vai trò quyết định trong tỷ lệ trẻ
sơ sinh tử vong. Berger và Messer (2002) cũng biện luận rằng mối quan hệ
nghịch giữa chi tiêu cho y tế và việc giảm IMR bởi những nghiên cứu trước đó
thì không được thực hiện dựa trên phân tích của họ với dữ liệu chéo 20 quốc
gia trong Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế từ 1960-1992 và sử dụng ước

lượng bình phương bé nhất (OLS). Ngược lại, họ tìm ra việc gia tăng chi tiêu
công cho y tế thì có liên quan tới IMRs. Thêm vào đó, nghiên cứu của họ cho
rằng việc gia tăng bất bình đẳng trong thu nhập có liên quan tới tỷ lệ tử vong
thấp hơn.
Liệu phân cấp tài khóa có cải thiện kết quả chăm sóc y tế? Bằng chứng thực nghiệm từ Trung Quốc

Nhóm 06 – Lớp Ngân hàng Đêm 1 – Cao học K22 Page 13

Liên quan đến ảnh hưởng của phân cấp tài khóa lên việc giảm IMR,
một vài nghiên cứu lập luận rằng phân cấp tài khóa có thể dẫn đến gia tăng đáp
ứng và trách nhiệm của chính quyền địa phương bằng việc cung cấp ưu đãi
hàng hóa công ở địa phương phù hợp như là chủ động tiêm chủng (Alesina và

Spolaore, 1997; Faguet, 2004; Lockwood, 2002; Oates, 1972; Silverman, 1992).
Ảnh hưởng này còn được biết đến như là “hiệu quả phân bổ”. Scabright (1996),
Person và Tabellini (2000), và Hindriks và Lockwood (2005) tranh luận rằng
phân cấp tài khóa có thể giảm các khoản thuê mướn chức vụ bằng cách thu
thêm các khoản thuế. Hayek (1945) tranh cãi rằng việc cung cấp những sở
thích của cư dân bởi chính quyền địa phương sẽ tiết kiệm chi phí truyền tải
thông tin từ chính quyền địa phương đến chính quyền trung ương. Hiệu quả
này liên quan đến “ hiệu quả phân bổ”. Ví dụ mục tiêu nhắm vào dân số có thu
nhập thấp và trẻ em có nguy cơ suy dinh dưỡnng, thì các chương trình phúc lợi
đặc biệt của địa phương nên được bắt đầu ngay như thực phẩm bổ sung, giới
thiệu chăm sóc sức khỏe, giáo dục thể chất cho phụ nữ mang thai có thu nhập
thấp chứ không nên chờ chấp thuận từ chính quyền trung ương. Bên cạnh hiệu

quả phân phối và hiệu quả sản xuất thì điều thứ ba có thể đạt được từ việc phân
cấp tài khóa ở một nước lớn như TQ là các chính quyền địa phương khác nhau
có thể thử nghiệm với những cách thay thế cho việc giảm IMR. Loại hiệu quả
này có thể được gọi là thí nghiệm hay “ hiệu quả thực nghiệm” (Garzarelli,
2006; Oates, 1999). Tất cả những điều ở trên là hiệu quả trực tiếp của phân cấp
tài khóa lên việc giảm IMR. Có tồn tại những cơ chế mà qua đó phần cấp tài
chính có thể có ảnh hưởng gián tiếp để giảm IMR. Ví dụ, chuyển giao quyền
lực tài chính có thể thay đổi cấu trúc chi phí chăm sóc sức khỏe địa phương, vì
nó ảnh hưởng tới nguồn nhân lực chăm sóc sức khỏe địa phương và sau đó là
ảnh hưởng tới IMR.
Dù sao, Prud’homme (1995) và Tanzi (1996) gợi nhớ chúng ta rằng
những lợi ích tiềm năng của phân cấp tài khóa có thể không được nhận biết đầy

đủ. Đầu tiên, khoảng cách đáng kể giữa giàu nghèo và IMR của khu vực thành
thị ở TQ có thể được mở rộng trong hoàn cảnh mà việc cân bằng tài chính
không thể đạt được hoàn toàn bằng việc chuyển đổi trung tâm. Thứ hai, vì thiếu
Liệu phân cấp tài khóa có cải thiện kết quả chăm sóc y tế? Bằng chứng thực nghiệm từ Trung Quốc

Nhóm 06 – Lớp Ngân hàng Đêm 1 – Cao học K22 Page 14

kĩ năng cá nhân, thông tin, năng lực quản trị, và trang thiết bị cải tiến, phúc lợi
của việc cung cấp chăm sóc y tế bị giảm đáng kể. Thứ ba, chính quyền địa
phương yếu kém có thể cũng xảy ra do bởi suy đồi đạo đức kèm theo khi phân
cấp tài khóa như tình trạng tham nhũng và quan liêu. Ðiều này có thể là trường
hợp đặc biệt ở TQ khi không có hệ thống bầu cử dân chủ. Chính quyền địa

phương có thể tham nhũng và quan liêu hơn mà không có sự giám sát nào từ
chính quyền trung ương do bởi phân cấp và từ người dân do bởi thiếu cơ thể
bầu cử. Thêm vào đó, ngay cả có sự hiện diện của hiệu quả phân bổ và sản xuất
từ phía cầu cũng bị chống lại bởi sự kém hiệu quả của những nhà cung cấp địa
phương do bởi nền kinh tế thiếu qui mô và phạm vi (Prud’homme, 1995; Tanzi,
1996).
Bên cạnh việc thảo luận về lý thuyểt thì bằng chứng thực nghiệm về
ảnh hưởng của phân cấp tài khóa lên sức khỏe thì cũng được xem xét. Sử dụng
dữ liệu bảng của cả những nước có thu nhập cao và những nước có thu nhập
thấp trong giai đoạn 1970-1995 với OLS và ước lượng những tác động cố định,
Robalino, Picazo, và Voetberd (2001) đã tìm ra những ảnh hưởng đáng kể của
phân cấp tài khóa lên việc giảm tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong. Họ cũng thêm rằng

hiệu ứng này cũng hiện diện ngay trong cả bối cảnh tham nhũng cao. Một
nghiên cứu của TQ bởi Uchimura và Jutting (2007) sử bảng dữ liệu cấp quận,
cũng cho thấy các quận có phân cấp tài khóa nhiều thì có tỷ lệ IMR thấp hơn
nếu họ có cơ chế chuyển đổi chức năng tốt giữa chính quyền địa phương và
năng lực tăng cường tài chính của địa phương. Tuy nhiên nghiên cứu này
không kiểm soát các nhân tố như là chi phí y tế, nguồn nhân lực cho y tế hoặc
nguồn thiết bị y tế có trong hầu hết các nghiên cứu hàm sản xuất IMR trước đó.
Thêm vào đó, Asfaw và cộng sự (2007) sử dụng chỉ số IMR ở nông thôn của 14
tiểu bang Ấn Độ giữa khoảng 1990 và 1997 và tìm ra phân cấp tài khóa đóng
vai trò thống kê đáng kể trong việc giảm IMR ở nông thôn.
Đối lập với những kết quả ở trên, Tang và Bloom (2000) giới thiệu một
nghiên cứu ở các quận nông thôn nghèo ở TQ và tìm ra bằng chứng nhỏ rằng

việc phân cấp tài khóa triệt để có thể dẫn tới việc gia tăng kết quả chăm sóc sức
Liệu phân cấp tài khóa có cải thiện kết quả chăm sóc y tế? Bằng chứng thực nghiệm từ Trung Quốc

Nhóm 06 – Lớp Ngân hàng Đêm 1 – Cao học K22 Page 15

khỏe. Các cảnh báo rong nghiên cứu này phản đối việc cố gắng tiến hành phân
cấp triệt để mà không giải quyết giới hạn tài chính địa phương hay sự yếu kém
trong năng lực quản trị ở địa phương. Guldner (1995) cũng chỉ ra rằng phân
cấp trong y tế mà không có hướng dẫn có thể dẫn đến thỏa hiệp về hiệu quả của
hệ thống chăm sóc sức khỏe và làm suy yếu các chính sách ưu tiên quốc gia
dựa trên những phân tích của VN. Trong thực tế, Green và Collins (1994) nhấn
mạnh chăm sóc sức khỏe chính sẽ phải có mức độ tập trung về nguồn phân bổ

và kế hoạch và hình thức đề xuất phân cấp không nên cản trở chính sách của
chính quyền.
III. Phương pháp nghiên cứu (Methodology and data):
3.1 Phương pháp nghiên cứu:
Phân tích thông qua hồi quy bằng phương pháp bình phương nhỏ nhất
(OLS) và phương pháp bình phương tối thiểu tổng quát khả thi (FGLS) hiệu
chỉnh phương sai thay đổi và tự tương quan theo cơ chế tự hồi qui bậc 1
(AR(1)) .
Sử dụng khung nghiên cứu của hàm IMR, chúng tôi phân tích cả hai kênh
trực tiếp và gián tiếp là thu nhập và cơ sở y tế. Đối với mục đích so sánh, chúng
tôi sử dụng hai phương pháp phân cấp tài khóa: Đầu tiên, chúng tôi xử lý cải
cách TSS 1994 như là một thử nghiệm tự nhiên và sử dụng một thuật ngữ

tương tác của một biến giả phân cấp tài khóa và một biến giả vị trí địa lý để
đánh giá hiệu quả của phân cấp tài khóa lên IMR ở các vùng khác nhau; thứ hai,
chúng tôi đo lường mức độ phân cấp tài khóa bằng cách sử dụng tỷ lệ chi ngân
sách tỉnh bình quân đầu người với tổng chi ngân sách trung ương bình quân
đầu người và chi ngân sách cấp tỉnh bình quân đầu người, được phát triển bởi
Qiao, Martinez-Vazquez và Xu (2008).
3.2 Thu thập và xử lý số liệu:
Dữ liệu theo chuỗi thời gian tại mức chính quyền cấp tỉnh ở TQ được thu
thập từ Cục Thống kê Quốc Gia Trung Quốc từ năm 1980-2003 của 31 chính
quyền cấp tỉnh tại TQ bao gồm:
Liệu phân cấp tài khóa có cải thiện kết quả chăm sóc y tế? Bằng chứng thực nghiệm từ Trung Quốc


Nhóm 06 – Lớp Ngân hàng Đêm 1 – Cao học K22 Page 16

+ 4 khu "siêu" chính quyền thành phố tự trị được quản lý trực tiếp bởi Hội
Đồng Nhà Nước- Bắc Kinh, Thiên Tân, Thượng Hải và Trùng Khánh.
+ 8 tỉnh ven biển gồm Liêu Ninh, Hà Bắc, Sơn Đông, Giang Tô, Chiết
Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông và Hải Nam
+ 13 tỉnh vùng sâu vùng xa gồm Cát Lâm, Hắc Long Giang, An Huy,
Giang Tây, Hà Nam, Hồ Bắc, Hồ Nam, Sơn Tây, Tứ Xuyên, Quý Châu, Vân
Nam, Thiểm Tây và Cam Túc.
+ 5 khu tự trị đông dân tộc thiểu số- Nội Mông, Quảng Tây, Tây Tạng,
Ninh Hạ và Tân Cương.
Trong đó, dữ liệu IMR cấp tỉnh năm 1981, 1990 và 2000 là những dữ liệu

điều tra dân số được thu thập khoảng mỗi mười năm ngược lại với dữ liệu cho
năm 1980, 1989 và 2003 được ước tính bởi Cục thống kê Quốc gia TQ
3.3 Mô hình nghiên cứu:
iti
ititittititit
itititititit
ev
URBANFERGEOFDGEODOCPBEDP
HESGHESEHEPCGRPPCFDIMR










11109876
543210
*
lnln









Trong đó:
 i=1, 2, 3,…,31 tỉnh trong mẫu và t = năm 1980, 1981, 1989, 1990,
2000 và 2003.
 Biến phụ thuộc, IMR
it,
là chỉ số chăm sóc sức khỏe cho mỗi năm và

của mỗi tỉnh để đánh giá các tác động của phân cấp tài khóa và sự chi tiêu
cho y tế công cộng của các chính quyền địa phương.
 Biến độc lập được quan tâm chính, FD
it
, là phân cấp tài khóa được
đo lường bằng 2 cách : (1) Biến giả dummy nhận 0 cho trước cải cách TSS
năm 1994 và 1 là sau cải cách; và (2) Tỷ lệ chi ngân sách tỉnh bình quân
đầu người với tổng chi ngân sách trung ương bình quân đầu người và chi
ngân sách tỉnh bình quân đầu người, như đã sử dụng ở Qiao, Martinez
Vazquez & Xu (2008). Nếu phân cấp tài khóa cải thiện phản ứng nhanh của
chính quyền địa phương,
1


sẽ âm. Chúng ta so sánh những kết quả từ
Liệu phân cấp tài khóa có cải thiện kết quả chăm sóc y tế? Bằng chứng thực nghiệm từ Trung Quốc

Nhóm 06 – Lớp Ngân hàng Đêm 1 – Cao học K22 Page 17

những mô hình sử dụng 2 cách đo lường phân cấp tài khóa khác nhau.
Theo Ebel và Yilmaz (2002), trong trường hợp phân cấp, các chính quyền
địa phương phải có quyền để đánh thuế " nguồn tài nguyên của họ". Dựa vào
định nghĩa này, đo lường thích hợp nhất có lẽ là phần trong tổng các khoản thu
của tỉnh (bao gồm các khoản trợ cấp và thu chuyển nhượng từ chính quyền
trung ương) từ các khoản thu từ nguồn lực của tỉnh. Akai và Sakara (2002) làm

theo đo lường này trong nghiên cứu chéo giữa các tiểu bang về phân cấp tài
khóa ở Hoa Kỳ. Không may, ở Trung Quốc, không một chính quyền dưới tầm
quốc gia nào có đủ quyền lực để đánh một loại thuế mới lẫn tự thay thế các tỷ
lệ thuế hiện hành. Hơn nữa, một nguồn thu cấp tỉnh phức tạp như các khoản thu
được chia, các khoản thu thuế hoàn lại, chuyển nhượng và thu nhập ngoài ngân
sách phức tạp hơn các nguồn thu ở cấp địa phương ( Qiao, et al., 2008). Do đó,
hầu hết nghiên cứu phân cấp tài khóa về Trung Quốc thảo luận về các đo lường
từ khía cạnh chi tiêu. Theo logic từ các nghiên cứu qua các nước thì việc sử
dụng tỷ lệ chi tiêu của chính quyền đại phương đối với chi tiêu của chính quyền
trung ương, phân cấp tài khóa cấp tỉnh có thể được đo lường bởi tỷ số của chi
trực tiếp cấp tỉnh với các khoản chi của trung ương ở tỉnh đó. Tuy nhiên, dữ
liệu về các khoản chi tiêu chính phủ trung ương của mỗi tỉnh ở Trung Quốc thì

không có sẵn (Lin và Liu, 2000). Zhang và Zou (1998) sử dụng tỷ số của các
khoản chi tiêu cấp tỉnh với các khoản chi tiêu trung ương như là một đo lường
của phân cấp tài khóa ở cấp tỉnh, cái mà nhận được sự phê bình do mẫu số
chung đó.
Với những cân nhắc đó, chúng tôi làm theo Qiao và cộng sự (2008) và sử
dụng tỷ lệ chi ngân sách tỉnh bình quân đầu người với tổng chi ngân sách trung
ương bình quân đầu người và người chi ngân sách tỉnh bình quân đầu để đo
lường phân cấp tài khóa. Mặc dù còn xa mới được hoàn hảo nhưng đo lường
này có một số giá trị sau: (1) Đo lường này từ khía cạnh chi tiêu tốt hơn so với
sự nắm bắt về mức độ tự chủ tài chính địa phương; (2) tổng chi tiêu trung ương
và chi cấp tỉnh là mẫu số chung của tỷ số này có tính đến sự biến thiên của
phân cấp ở một vài mức độ. Và (3) nó kiểm soát về dân số. Tỷ số này càng cao,

Liệu phân cấp tài khóa có cải thiện kết quả chăm sóc y tế? Bằng chứng thực nghiệm từ Trung Quốc

Nhóm 06 – Lớp Ngân hàng Đêm 1 – Cao học K22 Page 18

chính quyền cấp tỉnh có sự phân cấp tài khóa càng cao. Theo đo lường này,
chúng tôi sắp xếp 31 chính quyền cấp tỉnh từ năm 1980 đến năm 2003 theo giá
trị trung bình và tìm ra rằng top đầu 6 chính quyền cấp tỉnh phân cấp là Tây
Tạng, Thượng Hải, Bắc Kinh, Thiên Tân, Thanh Hải, Ninh Hạ và Tân Cương
trong khi top dưới là Quý Châu, Giang Tây, Tứ Xuyên, Hồ Nam, An Huy và Hà
Nam. Các khu vực tập trung đông dân tộc thiểu số và 3 thành phố cũ được
quyền tự chủ tài chính địa phương nhiều nhất trong khi các khu vực nội thành
thì độc lập tài chính ít nhất.

 lnGRPPC
it
là Logarit Nepe của GRP thực bình quân đầu người.
Chúng tôi sử dụng sự biến thiên này để nắm bắt hiệu ứng suy giảm của thu
nhập trên IMR. Hệ số β
2
được gỉa định là âm chỉ ra rằng sự tăng lên trong
thu nhập làm giảm IMR.
 ln HEPCit, HESE
it
và HESG
it

tương ứng là chi tiêu y tế bình quân
đầu người, phần chi tiêu y tế trong tổng chi tiêu và phần chi tiêu y tế trong
GRP danh nghĩa. Các biến này được kỳ vọng tương quan nghịch với IMRs.
Chúng đại diện cho các đầu vào trực tiếp thông qua đó FD
it
có lẽ có các tác
động gián tiếp vào IMR
it
. Các tác động gián tiếp của FD
it
có thể bao gồm
sự gia tăng cơ sở vật chất y tế và tích lũy vốn con người, trong khi các tác

động trực tiếp có thể bao gồm, nhưng không được giới hạn như có nhiều
các chương trình chăm sóc sức khỏe đa dạng đáp ứng nhu cầu đa dạng của
địa phương, có nhiều hơn các chương trình giáo dục cho phụ nữ mang thai
ở địa phương và tiết kiệm chi phí trong việc truyền thông tin về nhu cầu
chăm sóc sức khỏe địa phương từ chính quyền địa phương đến chính quyền
trung ương.
 BEDP
it
và DOCP
it
là số giường bệnh và bác sĩ trên 10.000 người
đo lường nguồn cơ sở vật chất y tế và nguồn nhân lực. Cả hệ số β

6
lẫn β
7
đều dự kiến là âm. Các biến này là các đầu ra của chi tiêu chăm sóc sức
khỏe thì có thể tạo thành các nguyên nhân gián tiếp của IMR
it
và có thể liên
quan chặt chẽ đến nguyên nhân mãn tính của IMRs như là chăm sóc khi
sinh và chăm sóc y tế khi mang thai.
Liệu phân cấp tài khóa có cải thiện kết quả chăm sóc y tế? Bằng chứng thực nghiệm từ Trung Quốc

Nhóm 06 – Lớp Ngân hàng Đêm 1 – Cao học K22 Page 19


 GEO
it
là một biến giả vị trí địa lý. 4 khu "siêu" chính quyền thành
phố tự trị được quản lý trực tiếp bởi Hội Đồng Nhà Nước- Bắc Kinh, Thiên
Tân, Thượng Hải và Trùng Khánh được gán là 1; 8 tỉnh ven biển gồm Liêu
Ninh, Hà Bắc, Sơn Đông, Giang Tô, Chiết Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông
và Hải Nam được gán là 2; 13 tỉnh vùng sâu vùng xa gồm Cát Lâm, Hắc
Long Giang, An Huy, Giang Tây, Hà Nam, Hồ Bắc, Hồ Nam, Sơn Tây, Tứ
Xuyên, Quý Châu, Vân Nam, Thiểm Tây và Cam Túc được gán là 3; và 5
khu tự trị đông dân tộc thiểu số- Nội Mông, Quảng Tây, Tây Tạng, Ninh
Hạ và Tân Cương được gán là 4. Thể hiện trong hình 5, theo trung bình,

IMRs của các vùng sâu vùng xa và khu tự trị thì cao hơn khoảng 2 lần so
với của các vùng ven biển và 4 lần chính quyền thành phố tự trị. Weng và
Wang (1993) cũng tìm ra rằng IMR giữa người dân tộc thiểu số thì cao hơn
khoảng 50% so với giữa người Hán, dân tộc lớn nhất ở Trung Quốc. Do đó,
β
8
được giả thuyết là dương.

Hình 5: Trung bình IMRs của 4 nhóm các tỉnh hoặc các vùng cấp tỉnh
 FD
t
*GEO

it
là kết quả tương tác giữa biến giả phân cấp và biến giả
vùng. Cùng với GEO
it
, chi tiêu công được phân tích thành 2 khía cạnh:
thay đổi thời gian cụ thể và hiệu ứng khu vực cụ thể, GEO
it
, ám chỉ khía
cạnh khu vực cố định chung; và một phân cấp tài khóa tương tác với hiệu
Liệu phân cấp tài khóa có cải thiện kết quả chăm sóc y tế? Bằng chứng thực nghiệm từ Trung Quốc

Nhóm 06 – Lớp Ngân hàng Đêm 1 – Cao học K22 Page 20


ứng khu vực, FD
t
*GEO
it
thể hiện một sự phản ứng nhanh từ các chính
quyền địa phương ở các vùng sâu trong đất liền và vùng dân tộc thiểu số
sau phân cấp tài khóa.
 FER
it
là tỷ lệ tăng dân số tự nhiên (là tỷ lệ tăng dân số trừ tỷ lệ tử
vong) được sử dụng như là một đại diện cho tỷ lệ sinh. Kỳ vọng rằng tỷ lệ

sinh càng cao, IMR càng cao.
 URBAN
it
được định nghĩa là tỷ lệ của dân số thành thị với tổng dân
số. Nó tương ứng với mức độ đô thị hóa và nắm bắt được sự chênh lệch
IMR giữa khu vực thành thị và nông thôn với β
11
có thể âm.
Chú thích: Biến giả vị trí địa lý "1" tương ứng với 4 chính quyền thành phố
tự trị được quản lý trực tiếp bởi Hội Đồng Nhà Nước - Bắc Kinh, Thiên Tân,
Thượng Hải và Trùng Khánh; "2 là 8 tỉnh ven biển gồm Liêu Ninh, Hà Bắc,
Sơn Đông, Giang Tô, Chiết Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông; "3" là 13 tỉnh sâu

trong đất liền gồm Cát Lâm, Hắc Long Giang, An Huy, Hà Nam, Hồ Bắc, Sơn
Tây, Tứ Xuyên, Quý Châu, Vân Nam, Thiểm Tây và Cam Túc; và "4" tương
ứng với 5 khu tự trị đông dân tộc thiểu số- Nội Mông, Quảng Tây, Tây Tạng,
Ninh Hạ và Tân Cương.
Cuối cùng, sai số υ
i
là cú sốc thời gian không đổi khu vực cụ thể và ℮
it

nhiễu trắng.
IV. Kết quả nghiên cứu:
4.1 Tóm tắt số liệu thống kê:


Bảng 1: Tóm tắt số liệu thống kê
Biến
Số
quan
sát
Trung
bình
Độ lệch
chuẩn
Giá trị


nhỏ
nhất
Giá trị

lớn nhất

Biến phụ thuộc

Liệu phân cấp tài khóa có cải thiện kết quả chăm sóc y tế? Bằng chứng thực nghiệm từ Trung Quốc

Nhóm 06 – Lớp Ngân hàng Đêm 1 – Cao học K22 Page 21


Tỷ lệ tử vong trẻ dưới 1 tuổi IMR (%) 178 32.00 21.18 3.66 121.92
Biến độc lập

Phân cấp tài khóa (FD) với 2 đo
lường:

Biến giả FD (gán"0" trước TSS 1994
và gán "1" sau TSS 1994)
186 0.33 0.47 0 1
Tỷ lệ FD ( được định nghĩa là tỷ số
của chi tiêu ngân sách cấp tỉnh bình
quân theo đầu người và tổng của chi

tiêu ngân sách trung ương và chi tiêu
ngân sách cấp tỉnh bình quân đầu
người)
182 0.63 0.14 0.33 0.93
LN của tổng sản phẩm theo vùng thực
tế bình quân đầu người (lnGRPPC)
182 7.50 1.32 5.31 10.76
LN chi tiêu y tế bình quân đầu người
(lnHEPC)
178 3.60 0.74 2.27 5.83
Phần chi tiêu y tế công trên tổng chi
tiêu công (lnHESE)

178 0.20 0.18 0.02 1.61
Phần chi tiêu y tế công trong tổng sản
phẩm danh nghĩa theo vùng (HESG)
178 0.03 0.02 0.002 0.12
Số giường bệnh trên 1000 người dân
(BEDP)
182 25.02 11.27 0.17 62.10
Số bác sĩ trên 1000 người dân
(DOCP)
182 17.63 9.44 0.13 46.30
Liệu phân cấp tài khóa có cải thiện kết quả chăm sóc y tế? Bằng chứng thực nghiệm từ Trung Quốc


Nhóm 06 – Lớp Ngân hàng Đêm 1 – Cao học K22 Page 22

Vị trí địa lý mỗi tỉnh (GEO) 186 2.65 0.90 1 4
Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên (FER) 180 11 5.35 -1.35 23.57
Tỷ lệ đô thị hóa ( URBAN, phần trăm
của dân số thành thị trong tổng dân
số)
182 0.27 0.17 0.09 0.82
Nguồn dữ liệu: Cục Thống Kê Quốc Gia Trung Quốc
Lưu ý: IMR là dữ liệu điều tra dân số
IMRs biến thiên từ 3.66 (năm 2000 ở Bắc Kinh) đến khoảng 122 ( năm
1981 ở Tân Cương) với giá trị trung bình của 32 trẻ tử vong trên 1,000 trẻ mới

sinh và sống sót sau khi sinh.
Mức độ phân cấp tài khóa bằng số biến thiên từ 0.33 đến khoảng 0.93 với
trung bình là 0.63.
Chi phí chăm sóc y tế bình quân đầu người chạy từ khoảng 10 Đài tệ đến
341 Đài tệ với trung bình là 49 Đài tệ.
Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên biến thiên từ -1.35 đến 23.57 với trung bình là
11.
Tỷ lệ đô thị hóa biến thiên từ 10% đến khoảng 82% với trung bình khoảng
27%.
4.2 Kết quả hồi quy (FD là biến giả):
Trước hết chúng tôi chạy hồi quy với phân cấp tài khóa được đo lường bởi
một biến giả. Sử dụng OLS với lựa chọn tăng cường chúng tôi đánh giá tác

động của thu nhập và phân cấp tài khóa trong mô hình (i); và sau đó thêm 3
biến chi tiêu y tế: ln HEPC
it
, HESEi
t
và HESG
it
trong mô hình (ii), trong đó có
thể tồn tại đa cộng tuyến ở mức cao; trong mô hình (iii), thêm 2 biến đầu ra chi
tiêu y tế: Biến cơ sở vật chất y tế BEDP
it
và biến nguồn nhân lực chăm sóc sức

khỏe DOCP
it
;

trong mô hình (iv), bao gồm tất cả các biến kểm soát khác: Biến
giả vị trí địa lý (GEO
it
), sự tương tác giữa biến giả phân cấp tài khóa và vị trí
địa lý (FD
it
*GEO
it

), đô thị hóa (URBAN
it
) và tỷ suất sinh (FER
it
). Cuối cùng,
Liệu phân cấp tài khóa có cải thiện kết quả chăm sóc y tế? Bằng chứng thực nghiệm từ Trung Quốc

Nhóm 06 – Lớp Ngân hàng Đêm 1 – Cao học K22 Page 23

áp dụng kỹ thuật bảng FGLS cho mô hình này sau khi hiệu chỉnh tự tương quan
theo cơ chế tự hồi qui bậc 1 (AR(1)) theo bảng cụ thể. Phương pháp FGLS có
ưu điểm hơn mô hình hiệu ứng cố định trong đó tự tương quan không quan sát

được và không biến thiên theo thời gian thì không cần áp dụng đối với các tỉnh
khác nhau bởi vì mục tiêu của các chính quyền địa phương ở các vùng khác
nhau thì đang thay đổi (WHO, 2008).
Bảng 2: Kết quả hồi quy (biến giả FD)
Biến phụ thuộc: Tỷ lệ tử vong trẻ dưới 1 tuổi theo tỉnh hàng năm (%
0
)
OLS Ước lượng
bảng
(i) (ii) (iii) (iv) FGLS
Biến giả FD 13.69** 40.79** 41.61*** 24.13**
*

13.09***
(4.04) (5.95) (6.12) (7.91) (3.69)
lnGRPPC -12.69**
*
-8.64*** -9.6*** -5.13 -6.09***
(1.73) (3.19) (3.29) (3.55) (1.61)
lnHEPC 0.34 0.14 -1.41 0.32
(2.93) (2.97) (3.11) (1.29)
HESE 44.27*** 40.61*** 14.22** -25.35*
(14.51) (13.54) (5.78) (13.21)
HESG 872.45*** 876.30*** 798.20*
**

523.22***
(98.25) (95.59) (120.76)

(96.80)
BEDP 0.34* 0.37** 0.24***
(0.19) (0.18) (0.09)
DOCP -0.27* -0.09 -0.09
(0.15) (0.18) (0.11)
GEO 2.88 3.56***
(2.47) (1.25)

×