Mối liên hệ giữa phân cấp tài khóa và nợ công ở các nước OECD
Nhóm 2 – TCDN Đêm 3 1
Tiểu luận
MỐI LIÊN HỆ GIỮA PHÂN CẤP TÀI KHÓA VÀ NỢ CÔNG
Ở CÁC NƯỚC OECD
Mối liên hệ giữa phân cấp tài khóa và nợ công ở các nước OECD
Nhóm 2 – TCDN Đêm 3 2
MỤC LỤC
TÓM TẮT 4
1. GIỚI THIỆU 4
2 . TỔNG QUAN LÝ THUYẾT 5
3. DỮ LIỆU 11
3.1. Đo lường mức độ phân cấp 11
3.2. Biến phụ thuộc và độc lập 14
3.3. Mối quan hệ hai chiều 20
4. MÔ TẢ CHI TIẾT 23
4.1. Tính dừng 23
4.2. Mô hình kinh tế lượng 24
5. KẾT QUẢ 25
5.1. Kết quả cơ bản 25
5.2. Kiểm tra tính vững 28
5.2.1. Kiểm tra tính vững cơ bản (chung) 28
5.2.2 .Yếu tố ngoại sinh 32
5.2.3. Các yếu tố nội sinh 35
6. KẾT LUẬN 39
Mối liên hệ giữa phân cấp tài khóa và nợ công ở các nước OECD
Nhóm 2 – TCDN Đêm 3 3
BẢNG B IỂU
Bảng 1: Định nghĩa và nguồn của đo lường phân cấp 12
Bảng 2: Tóm tắt thống kê cho đo lường phân cấp 13
Bảng 3: Tương quan chéo giữa các đo lường phân cấp 13
Bảng 4 – Định nghĩa và nguồn các biến 15
Bảng 5 : Tó m tắt thống kê cho biến độc lập và phụ thuộc (mô hình cơ bản) 16
Bảng 6 – Tóm tắt thống kê cho các biến sử dụng mô hình tính vững và GMM 17
Bảng 7 - Kiể m định nghiệm đơn vị 22
Bảng 8 : Đo lường hồi quy sự thay đổi của tỷ lệ nợ trên GDP theo phân cấp giai đoạn
1975 - 2001 26
Bảng 9 – Hồi quy sự thay đổi của tỉ lệ nợ trên GDP trên đo lường phân cấp, giai đoạn
1975-2001, kiể m tra tính vững. 30
Bảng 10 – Hồi quy sự thay đổi của tỉ lệ nợ trên GDP trên đo lường phân cấp, giai đoạn
1975-2001, các ngoại lệ 33
Bảng 11 – Hồi quy sự thay đổi của tỉ lệ nợ trên GDP trên phân cấp đo lường, giai đoạn
1975-2001, ước lượng GMM 36
Mối liên hệ giữa phân cấp tài khóa và nợ công ở các nước OECD
Nhóm 2 – TCDN Đêm 3 4
MỐI LIÊN HỆ GIỮA PHÂN C ẤP TÀI KHÓA VÀ NỢ CÔNG
Ở CÁC NƯỚC OECD
TÓM TẮT
Việc vay nợ quá mức của chính quyền địa phương được coi là một trong những
nguy hiểm của việc phân cấp trong quản lý tài chính. Mặt khác, phân cấp quản lý tài
chính có thể đảm bảo sự ổn định tài chính của khu vực công bằng cách hạn chế quyền
chi phối thái quá của chính phủ. Bởi vì tác động của phân cấp quản lý trên kết quả tài
chính là mơ hồ từ góc độ lý thuyết nên chúng tôi tìm đáp án cho câu hỏi này theo kinh
nghiệm bằng việc nghiên cứu theo dữ liệu bảng của 17 nước trong khối OECD trong
giai đoạn 1975-2001. Phát hiện của chúng tôi cho thấy rằng: Phân cấp chi tiêu làm
giảm đáng kể nợ công, trong khi phân cấp thuế và sự mất cân bằng tài chính theo
chiều dọc là không đáng kể.
Keywords: Phân cấp tài khóa – Nợ công – Giới hạn ngân sách
JEL Classification H71 · H77 · H30
1. GIỚI THIỆU
Phân cấp khu vực công đã trở thành một mục tiêu chính sách quan trọng của
các tổ chức quốc tế lớn. Ví dụ Ngân hàng thế giới cho rằng, phân cấp tài khóa, khi
thực hiện đầy đủ, có thể làm giảm sự mất ổn định chính trị, nâng cao hiệu quả của
chính phủ, và đóng góp vào tổng mức phúc lợi (Ngân hàng Thế giới 2000), và vì thế
nó đã hỗ trợ phân cấp các dự án trong nước của các quốc gia trong suốt hai thập kỷ
qua (theo Nhóm đánh giá độc lập của Ngân hàng Thế giới năm 2008).
Trong phạm vi kinh tế, giả định phân cấp tài khoá mang lại lợi ích chủ yếu xuất
phát từ hai quan điểm. Đầu tiên, từ lý thuyết phân cấp nổi tiếng của Oates 1972,
Tiebout 1956, nói rằng phân quyền cung cấp hàng hoá công có khả năng giải quyết
vấn đề sở thích khác nhau giữa các cư dân khác nhau về địa lý và văn hóa; và thứ hai,
từ truyền thống lựa chọn công, lập luận rằng sự phân chia của nhà nước vào nhiều cấp
và sự tồn tại của thể chế cạnh tranh hạn chế khả năng độc quyền của các chính phủ
Leviathan đánh thuế quá mức lên công dân (Brennan và Buchanan năm 1980).
Mối liên hệ giữa phân cấp tài khóa và nợ công ở các nước OECD
Nhóm 2 – TCDN Đêm 3 5
Cái nhìn này về phân cấp tài khoá bị nhiều chỉ trích, và một số nhược điểm tiềm
tàng đã được xác định trong các nghiên cứu. Ví dụ, phân cấp quản lý tài chính có thể
làm giảm khả năng thực hiện các chính sách ổn định và phân phối lại thu nhập của
chính phủ (Musgrave 1959). Tuy nhiên, ngày càng có nhiều nhận thức cho rằng, phân
cấp tài khóa có thể bóp méo các ưu đãi của các chính trị gia địa phương và liên bang
nếu nó bị thiết kế kém. Nguyên nhân của nhược điểm này là do các quốc gia thực hiện
phân cấp dễ bị mất ổn định kinh tế vĩ mô, thâm hụt ngân sách cao hơn, và mức độ nợ
cũng không ổn định (Goodspeed 2002).
Tuy nhiên, cả hai lý thuyết nghiên cứu chỉ đưa ra rằng phân cấp quản lý tài
khóa dẫn đến kết quả tài chính và kinh tế gần như tối ưu, còn bằng chứng kinh tế có hệ
thống vẫn còn khan hiếm. Do đó bài viết này nhằm mục đích khám phá thực nghiệm
hiệu lực của tuyên bố này với dữ liệu bảng cho 17 quốc gia trong khối OECD trong
giai đoạn 1975-2001. Vì mục đích này, chúng tôi xem xét trong phần 2 nghiên cứu
thực nghiệm và lý thuyết về phân cấp quản lý tài chính và tài chính công kỹ lưỡng
hơn. Trong phần 3, chúng tôi mô tả cách triển khai các quan điểm chung về phân cấp
quản lý tài khóa, và thảo luận về các biến phụ thuộc và các biến độc lập được sử dụng
trong phân tích kinh tế. Trong phần 4, chúng tôi thảo luận về đặc điểm kỹ thuật và giới
thiệu các mô hình thực nghiệm.Trong phần 5 trình bày kết quả và trong phần 6, chúng
tôi đưa ra kết luận.
2 . TỔNG QUAN LÝ THUYẾT
Một trường phái lý thuyết quan trọng về tài khóa liên bang cho rằng phân cấp
đe dọa đến sự ổn định tài chính của khu vực công bằng cách thực hiện "ràng buộc
ngân sách mềm".
1
Trong những lý thuyết liên quan, giả định có một mối quan hệ phân
phối chính giữa chính phủ liên bang và địa phương, và điều kiện rủi ro đạo đức có thể
thắng thế trên một phần sau này.
Ví dụ, Goodspeed (2002) phát triển một mô hình bao gồm hai giai đoạn. Trong
giai đoạn đầu tiên, chính quyền địa phương cung cấp hàng hoá công bằng nguồn thu
thuế hoặc đi vay. Mục tiêu của chính phủ liên bang là tối đa hóa khả năng tái tranh cử
của mình. Khả năng này được mô phỏng như một chức năng của các cấp chi tiêu ròng
trong mỗi thẩm quyền. Kể từ giai đoạn thứ hai, chi tiêu ròng trong một thẩm quyền bị
1
Xem Kornai et al. (2003) về tranh cãi rộng rãi xung quanh các khái niệm ràng buộc ngân sách mềm
Mối liên hệ giữa phân cấp tài khóa và nợ công ở các nước OECD
Nhóm 2 – TCDN Đêm 3 6
giảm do nợ giai đoạn đầu tiên bởi vì chính quyền địa phương phải trả nợ gốc và lãi,
chính phủ liên bang có thể tăng chi tiêu ròng và khả năng tái tranh cử của mình bằng
cách cho phép chuyển giao tài trợ tài chính thích hợp. Những ưu đãi của chính phủ liên
bang được đưa vào tài khoản của chính quyền địa phương trong giai đoạn đầu tiên, tức
là, khi chúng tôi quyết định mức vay, sẽ làm cho việc đi vay của địa phương không có
hiệu quả cao.
2
Ngoài các khái niệm ràng buộc ngân sách mềm, có thay thế, tại sao phân cấp tài
khóa lại có thể liên quan đến sự mất cân bằng tài khóa.
Một trường phái lý thuyết liên
quan đến tác động của các chương trình chuyển giao liên chính phủ. Ý tưởng cơ bản
đằng sau những phương pháp tiếp cận là chuyển giao theo chiều dọc có thể đóng góp
vào các vấn đề chung. Nếu chính phủ liên bang phân bổ tài trợ cho khu vực pháp lý địa
phương, sau này có động cơ xuất hiện như thể chúng tôi thiếu thốn: Chúng tôi có thể
đưa ra mức thâm hụt cao để "chứng minh" rằng chúng tôi đang được tài trợ. Bởi vì chi
phí cận biên của các quỹ liên bang được phân phối trên toàn liên bang trong khi những
lợi ích tập trung trong mỗi thẩm quyền cá nhân, hành vi như vậy là hợp lý từ quan
điểm của từng chính quyền địa phương (Weingast et al. 1981).
Một trường phái lý thuyết liên quan đến "kỹ thuật" phối hợp các chính sách của
các cấp khác nhau của chính phủ. Nếu có một số chính phủ độc lập có thể chi tiêu và
đánh thuế theo quyết định của riêng mình, một chính sách tài khóa phối hợp có thể
không được duy trì, và thể hiện trong một thâm hụt ngân sách thiên vị ở tất cả các cấp
chính quyền (De Mello, 1999).
Trong khi một số lượng đáng kể các nghiên cứu liên quan giải quyết vấn đề các
quốc gia được phân cấp biểu hiện một xu hướng thâm hụt, chỉ có vài nghiên cứu cố
gắng cho rằng phân cấp tài khóa có thể gây ra bởi các chính trị gia địa phương và liên
bang để giảm mức độ nợ nần. Do đó, lập luận gián tiếp hơn, thực chất là giải quyết vấn
đề khác nhau, phải được rút ra.
Lý thuyết lựa chọn công đã có những đóng góp quan trọng trong lĩnh vực này.
Trong lý thuyết này, các chính phủ tối đa hóa các khoản thu, và phân cấp quản lý tài
khóa được cho là để buộc các chính phủ kiềm chế thuế việc chiếm thuế vì người dân
có thể rời khỏi khu vực pháp lý mà chính phủ hoạt động để tối đa hoá doanh thu
2
Wildasin (1997) phát triển một mô hình có liên quan để nghiên cứu hậu quả của ràng buộc ngân s ách
mềm trong quan hệ liên chính phủ cho phúc lợi xã hội.
Mối liên hệ giữa phân cấp tài khóa và nợ công ở các nước OECD
Nhóm 2 – TCDN Đêm 3 7
(Hayek 1939, Brennan và Buchanan 1980).
3
Ngoài ra, trái với quan điểm truyền thống
rằng thỏa thuận chia sẻ thuế và sự mất cân bằng tài chính theo chiều dọc dẫn đến
không hiệu quả bằng cách cho phép các chính phủ "thông đồng" và do đó tránh được
những áp lực cạnh tranh tạo ra bởi phân cấp tài khóa, có một số tranh luận trong tài
liệu này gợi ý rằng chúng tôi có thể được nâng cao phúc lợi xã hội. Ví dụ,
Köthenbürger (2005) cho thấy rằng các chương trình cân bằng có thể bổ sung cho cạnh
tranh thuế trong việc đạt được hiệu quả hơn bằng cách gián tiếp "đánh thuế" nguồn thu
từ thuế bởi chính phủ Leviathan độc quyền khu vực công.
Những tranh luận sự lựa chọn công có thể được điều chỉnh thẳng thắn để giải
thích nợ công, bằng cách cho rằng mức nợ nên thấp hơn khi công dân có gánh nặng
thuế trong tương lai vào tài khoản trong quyết định có thể thay đổi của chúng tôi, hoặc
nếu chúng được vốn hóa vào giá tài sản sở hữu.
Câu hỏi về cách phân cấp tài khóa có liên quan đến sự tích tụ nợ chưa được
khám phá trong nghiên cứu thực nghiệm.Thay vào đó, tác động của phân cấp tài khóa
theo quy mô của chính phủ dường như đã khơi dậy sự quan tâm của các nhà kinh tế
ứng dụng.
4
Oates (1985), ví dụ, Brennan và Buchanan khám phá giả thuyết Leviathan
với dữ liệu cấp nhà nước Mỹ và với các dữ liệu quốc tế, nhưng không tìm thấy một
mối quan hệ quan trọng. Mặt khác, sử dụng dữ liệu chuỗi thời gian ở cấp liên bang,
Marlow (1988) thấy rằng phân cấp tài khóa có liên quan tiêu cực với tổng quy mô
chính phủ tại Hoa Kỳ.
Trong một nghiên cứu với dữ liệu bảng trên 32 quốc gia công nghiệp và đang
phát triển, Jin và Zou (2002) đưa đến những kết luận khác biệt hơn bằng cách phân
tách các khái niệm chung của phân cấp tài khóa vào "đại diện" khác nhau. Có nghĩa là,
3
Ý tưởng cho rằng cạnh t ranh giữa các tổ chức công có t hể cải thiện chức năng của chính phủ không
chỉ áp dụng cho các cơ quan thu thuế ngang giữa chính quyền địa phương. Ví dụ, Eichenberger và
Schelker (2007) cho t hấy các bang Thụy Sĩ tồn tại Ủy ban Tài chính, được bầu riêng rẽ với các chính
phủ đánh giá độc lập của các quyết định ngân sách, dẫn đến gánh nặng thuế nhỏ hơn. Tuy nhiên, cũng
cần phải nói rằng có một số đóng góp cho rằng nếu chỉ có sự cạnh tranh của các tổ chức công là
không đủ để t ạo ra kết quả hiệu quả, ví dụ như, Apolte (2001).
4
Ngoài ra còn có một số nghiên cứu điều t ra về tác động của phân cấp tài khoá bằng biến số thực
nghiệm phi tàichính.Ví dụ, Fisman và Gatti (2002) cho thấy các bang của nước Mỹ chuyển giao liên
bang có liên quan đến tỉ lệ kết án lạm dụng ch ức vụ công. Chúng tôi kết luận trên cơ sở sự mất cân
bằng tài chính theo chiều dọc và ràng buộc ngân sách mềm có thể dẫn đến tỷ lệ cao hơn của tham
nhũng.
Mối liên hệ giữa phân cấp tài khóa và nợ công ở các nước OECD
Nhóm 2 – TCDN Đêm 3 8
chúng tôi nhận ra rằng phân cấp tài khóa hoặc có thể liên hệ đến chi tiêu hoặc doanh
thu của ngân sách, và rằng những tác động có thể thay đổi tùy theo mặt ngân sách
được xem xét. Thật vậy, chúng tôi phát hiện ra sự tồn tại của hiệu ứng xung đột. Kết
quả của chúng tôi xác nhận rằng điều quan trọng là nhận thức được phân cấp tài khóa
như một khái niệm chung trong đó bao gồm các khía cạnh khác nhau. Đó là, chi tiêu
công, phân cấp nguồn thu, và sự mất cân bằng tài chính theo chiều dọc (ví dụ, sự khác
biệt giữa chi phí địa phương và tự chủ thu) phải được coi là đại diện khác nhau và độc
lập với phân cấp quản lý tài chính, và phân tích như vậy.
Thực tế là chỉ có một số ít nghiên cứu về tác động của phân cấp quản lý tài
khóa về nợ chính phủ, không có nghĩa là các nhà nghiên cứu đã không cố gắng phân
tích các yếu tố quyết định của nợ công nói chung. Ngược lại, có nhiều nghiên cứu liên
quan đến vấn đề này, và có sự công nhận những đóng góp trong đó là quan trọng đối
với các đặc điểm kỹ thuật chính xác của các mô hình kinh tế dưới đây.
Bởi vì phương pháp tiếp cận truyền thống giải thích các mức độ khác nhau của
nợ giữa các quốc gia không đầy đủ,
5
các tài liệu gần đây có xu hướng tập trung vào
giải thích mang tính chính trị (Alesina và Perotti 1995). Một hướng nghiên cứu tìm
hiểu xem liệu có sự khác biệt về ý thức hệ trong chính sách cho vay của chính phủ.
Hai nghiên cứu đáng chú ý là Neck và Getzner (2001), người đã tiến hành một nghiên
cứu về các yếu tố kinh tế - chính trị của tăng trưởng nợ công tại Áo và Seitz (2000), đã
phân tích các yếu tố quyết định thâm hụt ngân sách địa phương ở Đức. Tuy nhiên, cả
hai nghiên cứu, đều tìm thấy rằng các tác nhân kinh tế nói chung là có liên quan hơn là
biến ý thức hệ.
Một trường phái khác nghiên cứu về các yếu tố chính trị quyết định nợ công tìm
hiểu sự phân tách của chính phủ (trong hệ thống nghị viện) hoặc, tương ứng, phân chia
chính phủ (trong hệ thống tổng thống) có ảnh hưởng đến kết quả tài chính. Kỳ vọng lý
thuyết là khi các chính phủ bao gồm nhiều đối tác liên minh (hệ thống nghị viện) hoặc
khi các bên khác nhau kiểm soát nhiệm kỳ tổng thống và cơ quan lập pháp (hệ thống
tổng thống) thì nghiêm trọng hơn. Volkerink và de Haan (2001) thực sự thấy rằng một
số hình thức của chính phủ bị phân tách dẫn đến thâm hụt ngân sách lớn hơn. Tuy
nhiên, Elgie và McMenamin (2008) cho thấy kết quả của chúng tôi không thể được
5
Có nghĩ a là, những đóng góp mà nhận thức sự cần thiết phải "ổn định mức tiêu dùng" và "ổn địnhkinh tế vĩ
mô" như các yếu tố quyết định chính của chính sách vay nợ của chính phủ
Mối liên hệ giữa phân cấp tài khóa và nợ công ở các nước OECD
Nhóm 2 – TCDN Đêm 3 9
nhân rộng theo cách thông thường khi một mẫu khác nhau được sử dụng.
Tác động của các tổ chức tài chính vay công cũng được phân tích trong một số
nghiên cứu. Feld và Kirchgässner (2001), ví dụ, cho rằng các tổ chức dân chủ trực tiếp
như trưng cầu ngân sách có thể ngăn chặn các hành động không hiệu quả và hoạt động
ích kỷ của các chính trị gia, người hoạt động trong khuôn khổ chung của một nền dân
chủ đại diện. Trong phân tích thực nghiệm của chúng tôi với các dữ liệu bảng trên
thành phố của Thụy Sĩ, chúng tôi thực sự thấy rằng thể chế dân chủ trực tiếp như vậy
dẫn đến việc giảm nợ công. Đối với Hoa Kỳ, Kiewiet và Szakaly (1996) đi đến kết
luận tương tự cho "nợ được bảo lãnh".
Một tài liệu liên quan đến nghiên cứu tác động của quy trình hoạch định ngân
sách trên tích lũy nợ. Cả quy tắc số cũng như các thủ tục đã được phân tích. Ví dụ về
các quy tắc số là các yêu cầu cân đối ngân sách trong tiểu bang Hoa Kỳ hoặc các tiêu
chuẩn Maastricht quy định, giới hạn trên đối với nợ công và/hoặc thâm hụt. Quy định
thủ tục, mặt khác, liên quan đến nghiêm ngặt của các thủ tục chi phối các giai đoạn
khác nhau mà tại đó ngân sách được xây dựng.
Ví dụ Cabasés et al. (2007), khám phá những hiệu quả của hạn chế vay với các
dữ liệu trên thành phố Tây Ban Nha, và thấy rằng chúng tôi áp đặt một s ố kỷ luật về
chính sách vay mượn của chính quyền địa phương. Lagona và Padovano (2007) chỉ
trích phương pháp luận với những tác động của quy tắc ngân sách thường được phân
tích. Chúng tôi cho rằng ứng dụng các chỉ số để đo nghiêm ngặt các quy tắc ngụ ý sự
cần thiết phải phân loại tùy ý. Thay vào đó, chúng tôi đề xuất một phương pháp tiếp
cận chủ yếu phân tích thành phần phi tuyến. Tuy nhiên, kết quả của chúng tôi cũng chỉ
ra rằng các quy tắc nghiêm ngặt hơn dẫn đến cân đối tài chính lớn hơn và kích thước
nhỏ hơn ngân sách. Sử dụng dữ liệu trên tiểu bang Hoa Kỳ, Bohn và Inman (1996)
cũng xác nhận việc phát hiện các kết quả tài chính có liên quan đáng kể đến các quy
tắc ngân sách.
Như đã nói ở trên, chỉ có một vài nghiên cứu thực nghiệm mà chủ yếu xem xét
các tác động của phân cấp tài khóa trên cân bằng tài chính.
6
De Mello (2000) tập trung
6
Có một số nghiên cứu có kiểm soát đối với các tác động của phân cấp quản lý tài chính giải quyết những vấn đề
quan tâm kh ác nhau.Ví dụ, Singh và Plekhanov (2005) s ử dụng trong một nghiên cứu hiệu quả của phân cấp tài
khoá dùng giới hạn trong vay địa phương là một biến kiểm soát. Chúng tôi tì m thấy trong một số mô hình phân
cấp quản lý có xu hướng tăng đáng k ể thâm hụt ngân sách địa phương. Nhưng câu hỏi này không phải là trọng
tâm chính của phân tích, kết luận này nên được xem là kết quả sơ bộ
Mối liên hệ giữa phân cấp tài khóa và nợ công ở các nước OECD
Nhóm 2 – TCDN Đêm 3 10
vào tác động của phân cấp quản lý tài chính về thâm hụt của chính phủ liên bang và
địa phương riêng biệt. Ông thấy rằng quyền tự chủ thuế địa phương thường dẫn đến sự
gia tăng thâm hụt ngân sách địa phương, trong đó hàm ý phân cấp có thể làm trầm
trọng thêm các ràng buộc ngân sách mềm và thất bại phối hợp.
Fornasari et al. (2000) tìm thấy trong nghiên cứu của chúng tôi trên 32 quốc gia
đang phát triển và công nghiệp, phân cấp chi tiêu nói chung góp phần vào một khu vực
chính phủ lớn hơn, nhưng mà thâm hụt ngân sách địa phương là không liên quan đến
sự cân bằng tài chính của chính quyền trung ương. Tuy nhiên, khi một thước đo thu
phân cấp được sử dụng, phân hóa ra là tiêu cực liên quan đến thâm hụt ngân sách
chính quyền trung ương. Chúng tôi cũng phân biệt giữa một phân tích "dài hạn" sử
dụng trung bình cắt ngang và phân tích "ngắn hạn" bằng cách sử dụng biến dạng bảng,
và thấy rằng phân cấp chi tiêu làm tăng thâm hụt ngân sách chính quyền trung ương
trong khi biến nội tại được sử dụng.
Freitag và Vatter (2008) tìm thấy trong một nghiên cứu dữ liệu từ Thụy Sĩ rằng
càng phân cấp nhiều càng có xu hướng có mức thâm hụt nhỏ hơn trong thời gian
khủng hoảng kinh tế. Tuy nhiên, chúng tôi thất bại khi quan sát sự khác biệt đáng kể
giữa các bang tập trung và phi tập trung khi nền kinh tế đang hoạt động tốt.
Nghiên cứu thêm về điều này và liên quan đến câu hỏi là Stein (1998), những
người quan sát phân cấp đó mở rộng kích thước của khu vực công nhưng không thâm
hụt của ở quy mô chính phủ tại châu Mỹ Latinh; Rodden (2002) người kiể m soát trong
một số mô hình về mức độ phân cấp thu và chi tiêu, và phát hiện ra rằng cả hai có xu
hướng tăng tổng thâm hụt ngân sách chính phủ, và Schaltegger và Feld (2009), người
tìm thấy cho Thụy Sĩ là nơi càng ít bang tập trung càng có nhiều khả năng tiến hành
điều chỉnh tài chính thành công.
Đánh giá về các lý thuyết cho thấy rằng một số nghiên cứu phân cấp tài khóa đe
dọa đến sự ổn định tài chính của khu vực công, trong khi những người khác quan điểm
theo hướng ngược lại. Vì mỗi nghiên cứu ước tính mô hình mang phong cách riêng và
sử dụng bộ dữ liệu khác nhau, các nghiên cứu hiện có là không có ý nghĩa để kết luận
vấn đề, điều này cho thấy nó có thể là đáng giá để tích lũy thêm bằng chứng về vấn đề
này. Chúng tôi có thể nghĩ về hai nhược điểm chính của nghiên cứu hiện tại. Đầu tiên,
hầu hết các nghiên cứu sử dụng các biến có vấn đề để đo mức độ phân cấp quản lý tài
Mối liên hệ giữa phân cấp tài khóa và nợ công ở các nước OECD
Nhóm 2 – TCDN Đêm 3 11
khóa và do đó có thể đi đến kết luận sai. Thứ hai, tập trung vào các địa phương thay vì
vay mượn chính phủ hợp nhất có thể là vấn đề bởi vì phân cấp tài khóa, nếu nó thực sự
dẫn đến sự thiếu hiệu quả, không nhất thiết phải làm xấu đi tài chính địa phương.
Những mô tả trong phần tiếp theo chúng tôi cố gắng giải quyết những hạn chế.
3. DỮ LIỆU
Từ khi cả hai lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm cho thấy phân cấp có thể có
ảnh hưởng đến tài chính công nhưng không đưa ra một kết quả rõ ràng, chúng tôi
khám phá những câu hỏi xa hơn với những cải tiến sau đây: Thứ nhất, bằng cách sử
dụng một biện pháp mới, nắm bắt được hiệu quả (hoặc “thực sự") mức độ phân cấp
quản lý thuế tốt hơn so với những biến được truyền thống được sử dụng, thứ hai, bằng
cách sử dụng dữ liệu về nợ chính phủ hợp nhất thay vì trên nợ liên bang và nợ địa
phương hoặc thâm hụt ngân sách riêng, thứ ba, bằng cách sử dụng dữ liệu bảng và thứ
tư, bằng cách thực hiện một s ố kiểm tra tính vững.
3.1. Đo lường mức độ phân cấp
Một vấn đề chủ yếu cho việc ứng dụng kinh tế trong tài khóa liên bang là tìm
một biện pháp chính xác của phân cấp tài khóa.Hầu hết các chúng tôi sử dụng các chỉ
số bắt nguồn từ Niên giám GFS của IMF
7
. Nó được công nhận rộng rãi rằng các biện
pháp này không nhất thiết phải nắm bắt được mức độ thực sự của quyền tự chủ địa
phương và tầm quan trọng (Ebel và Yilmaz 2002). Về chi ngân sách, chúng tôi không
phân biệt được chính quyền địa phương quyết định mức giới hạn và thành phần của
chi tiêu tự chủ, hoặc cho dù chúng tôi chỉ đơn giản là hành động như các cơ quan của
chính phủ liên bang. Về mặt doanh thu, chúng tôi không phân biệt được chính quyền
địa phương có quyền thu tăng nguồn thu, hay doanh thu bắt nguồn chủ yếu từ các
khoản trợ cấp liên bang và các thỏa thuận chia sẻ thuế. Một vấn đề nữa với các biện
pháp GFS của IMF là chúng không đầy đủ trong chừng mực khi nhiều giá trị bị thiếu.
Mặc dù có những thiếu sót, chúng tôi sử dụng hai biến có nguồn gốc từ Niên
giám GFS của IMF và sẵn có trong một bộ dữ liệu Ngân hàng Thế giới để đo lường
mức độ phân cấp chi tiêu và sự mất cân bằng tài chính theo chiều dọc. Các thước đo
phân cấp chi tiêu được xây dựng như thông thường bằng cách chia tất cả các chi tiêu
của chính quyền địa phương bằng tổng chi tiêu chính phủ, trong khi các thước đo cho
7
Những nghiên cứu về mức độ phân cấp sử dụng một số thước đo thay thế. Vd phân cấp chính trị thường đ ược
sử dụng để đo lường bằng hệ thống hiến pháp củ a một nước như một liên bang hoặc bang đơn nhất hoặc bằng
chính quyền địa phương cấp dưới được bầu ra
Mối liên hệ giữa phân cấp tài khóa và nợ công ở các nước OECD
Nhóm 2 – TCDN Đêm 3 12
sự mất cân bằng tài chính theo chiều dọc được xây dựng bằng cách chia doanh thu địa
phương từ tài trợ liên bang cho tổng doanh thu địa phương. Trong khi thừa nhận rằng
các biện pháp này không phải hoàn toàn không có lỗi, chúng tôi tin rằng chúng tôi
cung cấp một cách xấp xỉ an toàn khía cạnh quan trọng của quyền tự chủ địa phương.
Hơn nữa, cơ sở dữ liệu của Ngân hàng Thế giới đặc biệt này là các bộ dữ liệu duy nhất
mà chúng tôi nhận thức được rằng cung cấp các biện pháp đo lường (i) đối với tất cả
các nước OECD, (ii) với một cấu trúc bảng, và (iii) một cách dễ dàng truy cập.
Chúng tôi gọi là thước đo đầu tiên là phân cấp chi tiêu vì nó dựa chi tiêu địa
phương, thước đo thứ hai, là trợ cấp vì nó phụ thuộc số cổ phần của các khoản tài trợ
nhận được chính quyền địa phương phân chia trợ cấp
Các đo lường chính xác hơn từ Niên giám GFS của IMF về mức độ phân cấp
quản lý thuế được cung cấp trong một cơ sở dữ liệu được xây dựng bởi Stegarescu
(2005). Xây dựng trên một phân loại cụ thể về doanh thu thuế đưa ra trong OECD
(1999), Stegarescu xuất phát ba chỉ số khác nhau về phân cấp quản lý thuế. Những chỉ
số này được xây dựng bằng cách phân biệt các loại thuế địa phương liên quan đến các
mức độ tự chủ chính quyền địa phương có hơn chúng tôi. Doanh thu thuế được phân
loại có nguồn gốc từ: (i) các loại thuế mà chính quyền địa phương xác định giá cả và
các căn cứ (“thuế riêng "), (ii) các loại đầu tiên của thuế cộng với thuế chia sẻ mà
chính quyền địa phương có liên quan trong việc xác định phân chia doanh thu (“chia sẻ
thuế "), và (iii) Hai loại đầu tiên của thuế cộng với các khoản thuế còn lại. Các biện
pháp đo lường phân cấp thuế sau đó được tính bằng cách chia doanh thu thuế trong
mỗi một trong ba lớp với tổng doanh thu thuế của chính phủ.
Mặc dù, ba cách đo lường khác nhau được phân chia bởi Stegarescu (2005),
chúng tôi sử dụng chủ yếu là biến thứ nhất. Tiếp nữa, chúng tôi gọi biến đó là phân
cấp thuế.
Bảng 1: Định nghĩa và nguồn của đo lường phân cấp
Mối liên hệ giữa phân cấp tài khóa và nợ công ở các nước OECD
Nhóm 2 – TCDN Đêm 3 13
Bảng 2: Tóm tắt thống kê cho đo lường phân cấp
Việc tóm tắt kết quả thống kê được tính toán cho tất cả quan sát có sẵn.
Chú ý rằng số lượng quan sát được báo cáo ở trong bản g này thì lớn hơn số lượn g quan sát
trong bảng hồi quy bởi vì cách dùng sai phân bậc 1 ước lượng mô hình kinh tế và giá trị bị bỏ
sót trong một vài biến.
Bảng 3: Tương quan chéo giữa các đo lường phân cấp
Hệ số tương quan được tính toán với tất cả các biến quan sát.
Chúng tôi giữ lại các biến quan sát này (ngoại trừ kiểm định tính vững
8
) vì 2 lý
do. Đầu tiên, vì trong mẫu của chúng tôi về chính quyền địa phương có kiểm soát vượt
quá nguồn thu phân chia cho thuế chỉ trong 4 quốc gia (Áo, Bỉ, Đức, Tây Ban Nha),
cách đo lường thứ hai thì cộng thêm ít thông tin hơn. Hơn nữa, hai trong bốn quốc gia
(Áo, Đức) cho thấy hầu như không có sự thay đổi qua thời gian trong biến này. Cách
đo lường thứ ba từ bộ dữ liệu của Stegarescu, mặt khác, bị loại bỏ đi bởi vì nó gom tất
cả các loại thuế với nhau. Do đó, không có nhiều sự khác nhau từ sự đo lường phân
cấp doanh thu được báo cáo trong niên giám GFS cuả Quỹ tiền tệ thế giới.
Một mô tả ngắn gọn về sự đo lường phân cấp tài khóa được dùng trong bài
nghiên cứu này và nguồn của chúng tôi được cung cấp ở trong Bảng 1. Tóm tắt những
phân tích được trình bảy trong Bảng 2. Mối tương quan ma trận chéo giữa chúng có
8
Chúng tôi kiểm soát trong phần thực nghiệm của bài viết này về kiểm tra tính vững việc phân cấp thuế được đo
lường ở biến th ứ hai, vd khi việc chia sẻ thuế được xem xét. Tuy nhi ên, chúng tôi tì m thấy trong vi ệc kiểm tra
tính vững này là không k ết quả nào thay đổi.
Mối liên hệ giữa phân cấp tài khóa và nợ công ở các nước OECD
Nhóm 2 – TCDN Đêm 3 14
thể được tìm thấy ở Bảng 3. Trong hình số 1, chúng tôi cho thấy xu hướng tiến đến giá
trị trung bình của các quốc gia trong mẫu qua thời gian.
Hình 1: Sự phát triển của đo lường phân cấp, trung bình giữa các quốc
gia
Ma trận tương quan cho thấy rằng sự phân cấp trong chi tiêu và thuế thì có tính
vững và tương quan thuận. Kỳ vọng, tỷ lệ tài trợ và các biến trong phân cấp thuế thì có
mối quan hệ tương quan nghịch. Mối quan hệ của các biến trong phân cấp chi tiêu và
phân chia trợ cấp cũng là nghịch biến, nhưng hơi yếu. Tất cả những phát hiện này chỉ
ra rằng (i) ở các nước OECD chi tiêu thêm của chính quyền địa phương có xu hướng
được tài trợ với “thuế riêng” và (ii) nguồn thu “thuế riêng” và nhận trợ cấp được thay
thế trong khu vực của chính quyền địa phương.
Cả hai số liệu tóm tắt thống kê và hình 1 gợi ý rằng chi tiêu có sự phân cấp
nhiều hơn so với các loại thuế trong suốt thời kỳ chúng tôi phân tích
9
.
3.2. Biến phụ thuộc và độc lập
Trong phần này,chúng tôi thảo luận một cách tóm tắt về các biến phụ thuộc và
biến kiểm soát mà chúng tôi sử dụng trong mô hình kinh tế của mình. Các biến với
nguồn và định nghĩa của được liệt kê trong Bảng 4. Chúng tôi báo cáo những thống kê
tóm tắt trên các biến được sử dụng trongcác mô hình cơ bản trong Bảng 5. Thống kê
tóm tắt về các biến được sử dụng trong kiểm định tính vững và hồi quy các biến cụ thể
được tìm thấy trong Bảng 6.
9
Chuỗi được trình bày chỉ đến 1998 thay vì 2001 ở Bảng 1 bởi vì sau 1998, cả hai biến chi tiêu và tài trợ bị thiếu
ở nhiều nước
Mối liên hệ giữa phân cấp tài khóa và nợ công ở các nước OECD
Nhóm 2 – TCDN Đêm 3 15
Chúng tôi sử dụng các khoản nợ tài chính ròng của chính phủ nói chung như là
thước đo chính của chúng tôi. Các khoản nợ tài chính ròng được ưu tiên hơn tổng
khoản nợ bởi vì chúng bao gồm cả tài sản công và nợ phải trả. Rõ ràng, nếu chính phủ
sử dụng nợ để có được một s ố tài sản tài chính hoặc tài sản hữu hình, thì tình hình tài
chính ròng của quốc gia đó vẫn không thay đổi, có thể được phản ánh vào dữ liệu.
Chúng tôi xem xét các khoản nợ của toàn bộ chính phủ thay vì chỉ xem xét các khoản
nợ ở cấp trung ương hoặc địa phương bởi vì sự vay mượn quá mức của địa phương
không nhất thiết dẫn đến suy thoái tài chính địa phương khi trung ương tăng khoản
chuyển nhượng (và ngược lại). Bỏ qua vấn đề này có thể dẫn đến kết luận sai lầm về
tác động của phân cấp tài khóa.
Dữ liệu về nợ ròng cho giai đoạn 1975-2001 được cung cấp bởi các nước
OECD, nhưng chuỗi thời gian cho một số quốc gia (chẳng hạn, Tây Ban Nha) khá
ngắn và có thể một số giá trị bị thiếu.
Bảng 4 – Định nghĩa và nguồn các biến
Mối liên hệ giữa phân cấp tài khóa và nợ công ở các nước OECD
Nhóm 2 – TCDN Đêm 3 16
Bảng 5 : Tóm tắt thống kê cho biến độc lập và phụ thuộc (m ô hình cơ bản)
Mối liên hệ giữa phân cấp tài khóa và nợ công ở các nước OECD
Nhóm 2 – TCDN Đêm 3 17
Tóm tắt thống kê được tính cho tất cả các quan sát có sẵn.
Lưu ý rằng số lượng quan sát trình bày trong bảng này lớn hơn số lượng trong mô hình hồi quy vì (i)
sử dụng sai phân bậc 1 để ước lượng mô hình kinh tế lượng và (ii) vài biến thiếu giá trị.
Bảng 6 – Tóm tắt thống kê cho các biến sử dụng mô hình tính vững và GMM
Tóm tắt thống kê được tính cho tất cả các quan sát có sẵn.
Lưu ý rằng số lượng quan sát trình bày trong bảng này lớn hơn số lượng trong mô hình hồi quy vì (i)
sử dụng sai phân bậc 1 để ước lượng mô hình kinh tế lượng và (ii) vài biến thiếu giá trị.
Trong khi khoản nợ tài chính ròng là thước đo chính của chúng tôi về nợ của
chính phủ, chúng tôi cũng tiến hành thêm kiểm đ ịnh tính vững với các đo lường thay
thế. Đặc biệt, chúng tôi xem xét tổng các khoản nợ tài chính và nợ chính phủ được tính
toán theo yêu cầu của hiệp ước Maastricht
10
.
10
Nợ chính phủ tính theo yêu cầu của hiệp ước Maastricht là đặc biệt hữu ích cho việc so sánh giữa cácquốc gia
vì nó được dựa trên các định nghĩa quốc tế phù hợp. Tuy nhiên , chúng tôi không sử dụng biến đặc biệt này làm
thước đo chính của nợ vì các quốc gia liên bang quan trọng nh ư Mỹ hay Úc lẽ ra bị loại bỏ (chỉ có dữ liệu cho
các nước thành viên EMU có sẵn), và bởi vì chúng tôi không nằm trong giai đoạn khủng hoảng giá dầu lịch sử
(chỉ có dữ liệu từ năm 1990 trở đi có sẵn), nơi mà mức độ phân cấp quản lý tài chính có thểcó một tác dụng quan
trọng vào sự t ăng trưởng của nợ.
Mối liên hệ giữa phân cấp tài khóa và nợ công ở các nước OECD
Nhóm 2 – TCDN Đêm 3 18
Chúng tôi sử dụng một số biến kiểm soát kinh tế, nhân khẩu chúng tôic và
chính trị, những biến mang yếu tố quyết định quan trọng đến kết quả tài chính, và đồng
thời tương quan với phân cấp tài khóa. Trong phần này, chúng tôi thảo luận các biến
trong các mô hình cơ sở. Các biến được sử dụng trong kiểm định tính vững sẽ được
thảo luận trong phần tiếp theo.
Biến dân số được đưa vào để kiểm soát quy mô và/hoặc hiệu ứng tắc nghẽn
trong việc sản xuất hàng hóa công. Nếu các hàm sản xuất giảm theo quy mô do sự
khan hiếm của một số yếu tố (ví dụ, đất), thì các yêu cầu gia tăng chi tiêu có thể dẫn
đến việc mở rộng các khoản nợ. Mặc dù chúng tôi đo lường gánh nặng nợ nần theo
quy mô của nền kinh tế bằng cách chia nó trên GDP, quy mô dân số của một quốc gia
vẫn có thể có một tác động độc lập bổ sung, và bỏ qua nó có thể dẫn đến các ước tính
thiên vị vì các quốc gia đông dân hơn có thể cũng phân cấp hơn (Treisman 2002)
11
.
Tăng trưởng GDP và tỷ lệ thất nghiệp được tính vào để kiểm soát cho các hiệu
ứng chu kỳ kinh doanh. Tỷ lệ lạm phát được tính vào vì thâm hụt tài chính và mở rộng
cung tiền là cách thay thế để tài trợ cho chi tiêu công. Biến độ tuổi lao động, dùng để
đo lường phần đóng góp của dân số từ 15 đến 65 tuổi, được đưa vào để kiểm soát cho
mức thu nhập đối với người có thể gánh vác gánh nặng thuế hiện tại và tương lai do
các khoản nợ hiện hữu.
Chúng tôi xác định tư tưởng của đảng cầm quyền ở cấp liên bang bằng cách
thêm vào một chỉ số chạy từ 1 (về bên phải) đến 5 (về bên trái). Biến này được lấy từ
cơ sở dữ liệu CPDSI xây dựng bởi Armingeon và cộng sự (2008). Một số đóng góp đã
chứng tỏ rằng có thể có sự khác biệt đáng kể trong các hành vi tài chính của các Đảng
đối lập. Ví dụ, trường hợp chính phủ cánh tả nhiều khả năng thực hiện chính sách mở
rộng và thường làm tăng lạm phát (Hibbs 1977). Tuy nhiên, ảnh hưởng của ý thức hệ
về nợ công là chưa rõ ràng. Trong khi chính sách tài khóa mở rộng có thể một mặt dẫn
đến chi tiêu nhiều hơn, một số chúng tôi cho rằng đảng cánh tả cũng có khả năng tăng
thuế, với ảnh hưởng không rõ ràng về mức độ nợ (Borrelli và Royed 1995). Do đó
chúng tôi không có tiên nghiệm chắc chắn đến các dấu hiệu của hệ số ước tính.
11
Trong khi các nghiên cứu khác tìm thấy yếu tố khu vực địa lý có ý nghĩa dự b áo về phân cấp tài khóa hơn là
quy mô dân số (Treisman 2006) Chúng tôi không sử dụng khu vực địa lý như biến kiểm soát trong phân tích của
chúng tôi vì nó thay đổi theo thời gian và không bao hàm trong mô hình tác động cố định
Mối liên hệ giữa phân cấp tài khóa và nợ công ở các nước OECD
Nhóm 2 – TCDN Đêm 3 19
Chúng tôi cũng thêm vào chỉ số Herfindahl-Hirschman, đo lường mức độ phân
mảnh của chính phủ, vì một số nghiên cứu cho thấy rằng các chính phủ bị phân mảnh
hơn có xu hướng dễ bị ảnh hưởng hơn đối với các vấn đề vốn chung. Chỉ số này giả
định mang giá trị cao hơn khi chính phủ ít bị phân mảnh. Nó được thực hiện từ bộ dữ
liệu DPI năm 2006 được cung cấp bởi Beck và cộng sự. (2001).
Biến độ mở được thêm vào để kiểm soát tác động của toàn cầu hóa lên kết quả
tài chính. Bỏ qua biến này có thể dẫn đến các ước tính chệch bởi vì toàn cầu hóa có thể
tương quan với mức độ phân cấp tài khóa và tại cùng một thời điểm với nợ công
(Sharma 2005). Tuy nhiên, các dấu hiệu dự kiến của hệ số kỳ vọng là không rõ ràng.
Một mặt, các quốc gia mở cửa hơn có thể buộc phải thực hiện chính sách tài khóa thận
trọng hơn bởi vì các nhà đầu tư và các công ty có thể dễ dàng rời khỏi các quốc gia
không tiềm năng (De Mello2005). Mặt khác, toàn cầu hóa có thể hạn chế khả năng
tăng thuế của các chính phủ, buộc chúng tôi, ít nhất là tạm thời, phải thay thế nguồn
thu thuế bằng các khoản nợ (Razin vàSadka1991).
Biến lãi suất được đưa vào để kiểm soát cho chi phí đi vay. Các dấu hiệu kỳ
vọng của hệ số là không rõ ràng. Một mặt, sự gia tăng lãi suất sẽ làm cho việc đi vay
tiền từ một nguồn tài chính kém hấp dẫn hơn. Mặt khác, nợ ngắn hạn thường được tái
cấp vốn bằng cách mua lại các khoản nợ mới. Kể từ thời điểm mà tại đó, một phần nào
đó của nợ đến hạn là ngoại lệ, lãi suất cao hơn chỉ đơn giản là có thể thổi phồng số tiền
phải trả của khoản nợ hiện hữu, từ đó ảnh hưởng nhiều hơn đến nợ công.
Cuối cùng, chúng tôi thêm vào một biến giả cho trường hợp nước Đức trước
năm 1991 để kiểm soát một thực tế là đất nước này được thống nhất vào tháng 10 năm
1990 và vì vậy làm chuyển đổi, theo một cách nào đó, thành một quốc gia khác với
một dân số lớn hơn, GDP lớn hơn,và nhiều thay đổi khác riêng biệt
12
.
Người đọc xem xét kỹ lưỡng sẽ nhận ra rằng một trong những yếu tố quan trọng
quyết định nợ công là thiếu tập hợp các biến kiểm soát đo lường cách vay nợ địa
phương theo quy định, tức là, cho dù chính quyền địa phương được phép vay, và có áp
đặt giới hạn đặc biệt bởi chính phủ liên bang. Thiếu sót này cần giải thích thêm bởi các
nghiên cứu trước đó, như là của Rodden (năm 2002), hướng đến tầm quan trọng của
12
Cũng lưu ý rằng vài số liệu tại Đức trước 1991 không có trong CSDL số 83 của viễn cảnh kinh tế OECD.
Trong trường hợp này chúng tôi sử dụng phiên bản trước đó của CLDL viễn cảnh kinh tế để có được dữ liệu của
Đức trước 1991
Mối liên hệ giữa phân cấp tài khóa và nợ công ở các nước OECD
Nhóm 2 – TCDN Đêm 3 20
hạn chế vay địa phương đối với kết quả tài chính. Chúng tôi không kiểm soát được
một cách rõ ràng cho hệ thống vay địa phương, vì dữ liệu có sẵn về các hạn chế vay
cho các nước trong mẫu không thể hiện sự thay đổi biến theo thời gian cụ thể và do đó
không thể được tính đến trong các mô hình tác động cố định, mà chúng tôi xác định
thêm dưới đây như là đặc điểm kỹ thuật thích hợp (xem phần 4.2).
Lưu ý rằng, chúng tôi cũng không kiểm soát được một cách rõ ràng cho cấu
trúc hiến pháp của các quốc gia bởi vì điểm đặc trưng của hiến pháp ít khi thay đổi
theo thời gian và do đó đa cộng tuyến với các hiệu ứng cố định quốc gia. Có nghĩa là,
chúng tôi không trực tiếp kiểm soát cho dù một quốc gia có một hệ thống tổng thống
hay quốc hội, cho dù quốc gia đó đưa ra một quy tắc bầu cử theo tỷ lệ hoặc đa số, và
cho dù nó có thể chế dân chủ trực tiếp. Chúng tôi cũng không trực tiếp kiểm soát cho
các vị trí lập hiến của chính quyền địa phương, có nghĩa là, cho dù là một quốc gia
trung ương tập quyền hoặc một liên bang
13
.
Tuy nhiên, cấu trúc của hiến pháp vẫn
được kiểm soát một cách gián tiếp thông qua các hiệu ứng cố định quốc gia.
Rõ ràng, chỉ có những quan sát mà tất cả các biến mang giá trị đầy đủ có thể
được sử dụng trong các mô hình thực nghiệm. Thật không may, yêu cầu này làm giảm
đáng kể số lượng các quan sát có sẵn, chủ yếu là do số liệu về khoản nợ tài chính ròng
và các biện pháp phân cấp không có sẵn cho một số quốc gia OECD. Các bộ dữ liệu
cuối cùng bao gồm 17 quốc gia
14
, và do đó bao gồm trên một nửa các nước thành viên
OECD.
3.3. Mối quan hệ hai chiều
Đối với một đánh giá sơ bộ của các mối quan hệ giữa phân cấp tài khóa và nợ
công, Sơ đồ hai chiều giữa các khoản nợ tài chính ròng trung bình (được đo lường chủ
yếu bởi nợ chính phủ) và mức trung bình của một trong ba biện pháp phân cấp ở các
nước trong mẫu của chúng tôi được cung cấp trong hình 2, 3 và 4.
Những con số này cho thấy khoản nợ tài chính ròng trung bình có mối liên hệ
nghịch chiều với cả chi tiêu và phân cấp quản lý thuế, và mối liên hệ cùng chiều với
13
Lưu ý rằng Bỉ không còn là một quốc gia đơn nhất và chính thức trở th ành một liên bang vào năm 1994. Đôi
khi cho rằngTây Ban Nha là một liên bang thì hiệu quả mặc dù nó vẫn chính thức thống nhất . Dựa trên sự thay
đổi tại Bỉ (và có lẽ ở Tây Ban Nha) một giả định liên bang có thể được về mặt lý thuyết tính đến trong các mô
hình với các hiệu ứng cố định. Tuy nhiên, chúng tôi phải căn cứ kết luận liên quan đến biến này trong phạm vi sự
thay đổi hai quốc gi a tốt nhất. Do điều này có vẻ không hợp lý, chúng tôi không theo đuổi cách tiếp cận n ày
thêm nữa.
14
Úc, Áo, Bỉ, Can ada, Đan Mạch , Tây Ban Nha, Phần Lan, Pháp, Anh, Đức, Aixlen, Ý, Hà Lan, Na Uy , Bồ Đào
Nha, Thụy Đi ển, Mỹ
Mối liên hệ giữa phân cấp tài khóa và nợ công ở các nước OECD
Nhóm 2 – TCDN Đêm 3 21
biến trợ cấp. Vì vậy, cả chi tiêu và phân cấp quản lý thuế dường như dẫn đến các chính
sách tài chính lành mạnh hơn, trong khi sự mất cân bằng tài chính theo chiều dọc được
tạo ra bởi các khoản tài trợ từ trên xuống dường như làm tăng mức độ nợ.
Hình 2: Khoản nợ tài chính ròng và phân cấp chi tiêu
Hình 3 : Khoản nợ tài chính ròng và phân cấp thuế
Mối liên hệ giữa phân cấp tài khóa và nợ công ở các nước OECD
Nhóm 2 – TCDN Đêm 3 22
Hình 4 : Khoản nợ tài chính ròng và Tỷ trọng khoản trợ cấp
Bảng 7 - Kiểm định nghiệm đơn vị
Kiểm định nghiệm đơn vị trên số liệu dạng bảng với tất cả dữ liệu có sẵn
Giá trị quan sát p-values đ ược để trong ngoặc đơn
Tuy nhiên, những hạn chế của kết luận cơ bản về mối tương quan đơn là phổ
biến. Do vậy, phương pháp kinh tế phức tạp hơn được sử dụng trong các phần sau đây
để phân tích các tác động nhân quả của phân cấp quản lý tài chính về nợ công.
Mối liên hệ giữa phân cấp tài khóa và nợ công ở các nước OECD
Nhóm 2 – TCDN Đêm 3 23
4. MÔ TẢ CHI TIẾT
Trong phần này, chúng tôi mô tả cách tiếp cận kinh tế của chúng tôi. Trước tiên
chúng tôi điều tra xem liệu các biến chính của chúng tôi có tính dừng không, và sau đó
thảo luận về các phương pháp toán kinh tế.
4.1. Tính dừng
Biến phụ thuộc (khoản nợ tài chính ròng) và ba biến phân cấp đều được đưa ra
có độ dừng đáng kể
15
. Khi dùng mô hình tự hồi quy đơn giản được ước lượng bằng
OLS (bình phương nhỏ nhất), chúng tôi tìm thấy cho mỗi biến quan tâm mà hệ số về
giới hạn tự hồi quy gần như đồng nhất. Mặt khác, sai phân bậc 1 thể hiện tính dừng ít
hơn. Khi các mô hình hồi quy được ước lượng với sai phân bậc 1, các hệ số về hồi quy
luôn luôn là thấp hơn mức đồng nhất
16
.
Tiếp theo, chúng tôi điều tra độ ổn định trong các biến quan tâm bằng cách sử
dụng Kiểm định Levin-Lin-Chu nghiệm đơn vị trên số liệu dạng bảng. Các kết quả
được thu thập trong Bảng 7. Các kiểm định được tính toán cho cả các bậc và sai phân
bậc 1 của các biến lãi suất
17
. Đối với các đặc điểm kỹ thuật, chúng tôi tính đến cả xu
hướng tuyến tính và độ dừng riêng trong kiểm định về mức độ, nhưng độ dừng riêng
chỉ áp dụng cho các bài kiể m định cho sai phân bậc một
18
. Độ trễ cho các kiểm định
được tự động xác định bằng cách sử dụng thông tin tiêu chuẩn Schwarz.
Theo kết quả báo cáo trong Bảng 7, mức độ của các biến quan tâm có nghiệm
đơn trong khi sai phân bậc 1 có tính dừng
19
. Dựa trên bằng chứng này, chúng tôi kết
15
Chúng tôi rất biết ơn những tham khảo từ tạp chí mà chúng tôi điều tra trong bài viết này .
16
Lưu ý rằng chúng tôi không kiểm soát việc tự tương quan trong quá trình xử lý sai số, điều mà có thể dẫn đến
sự không phù hợp của mô hình với các biến phụ thuộc, v à cũng không đưa ra các đặc trưng dạng bảng của dữ
liệu trong các hồi quy này. Chúng chỉ mang tính thăm dò
17
Lưu ý rằng ki ểm định đơn dạng bảng được tính bằng Eviews trong khi các mô hình kinh tế lượng dưới đây
được ước lượng với Stata. Stata tỏ ra ưu trội hơn với dữ liệu dạng bảng. Tuy nhiên, như chúng ta biết nó thiếu
khả năng tính các kiểm định đơn vị với dữ liệu bảng không cân bằng, bắt buộc chúng tôi sử dụng Eviews thay vì
thực hiện các kiểm định này.
18
Nguyên nhân xem xét xu hướng mức độ của biến nhưng không phải sai phân bậc 1 là những kiểm định đơn vị
gốc sẽ có khuynh h ướng thiên lệch khi tì m ra gốc đơn nhất (v à do đó d ẫn đến kết lu ận quá trình có tính dừng
khác) Nếu chúng ta không xây dựng giả thuyết thay thế đúng, sự thay thế thích hợp các mức củ a biến, trong
trường hợp của chúng ta, là xu hướng tính dừng (và do đó, không có một đơn vị gốc). VD các khoản nợ tài chính
ròng trên GDP có xu hướng tăng ở hầu hết các nước trong mẫu của chúng tôi. Khi một biến xu hướng không có
trong hàm kiểm định, một hành vi xu hướng chỉ có thể nhận thấy bằng mô hình ước lượng bằng cách tìm đơn vị
gốc ngay cả khi dãy là xu h ướng tính dừng thực tế. Mặt khác, không hợp lý để đo án răng các sai phân bậc 1 là
có tính xu hướng. Vì thế, các xu hướng không được xem xét trong kiểm định đơn vị gốc về sai phân bậc 1 . Xem
xét một cách riêng biệt, Elder và Kenn edy (2001) có nh ững th ảo luận chi tiết hơn về vấn đề này.
19
Eviews cũng mặc định trình bày thêm ngoài kiểm định Levin-Lin-Chu là kiểm định Breitung, Im-Pesaran-
Shin, ADF, Phillip-Perron. Để ngắn gọn, chúng tôi không trình bày những kiểm định thay thế trong bài viết này.
Tuy nhiên, chúng sẵn có theo yêu cầu. Các kiểm định thay thế dẫn đến cùng kết luận giống kiểm định Levin-Lin-
Chu đối với các sai phân bậc 1. Và rõ ràng cho thấy rằng chúng có tính dừng. Có vài bất đồng trong các mức, đôi
Mối liên hệ giữa phân cấp tài khóa và nợ công ở các nước OECD
Nhóm 2 – TCDN Đêm 3 24
luận rằng mô hình toán kinh tế phải được xác lập theo sai phân bậc 1. Do đó chúng tôi
chuyển đổi tất cả các biến phụ thuộc và biến độc lập được liệt kê trong Bảng 4
20
thành
sai phân bậc 1 trong các mô hình ước lượng mở rộng dưới đây.
4.2. Mô hình kinh tế lượng
Chúng tôi sử dụng mô hình hồi quy tuyến tính tổng quát sau đây là điểm khởi
đầu của phân tích của chúng tôi:
Với y
it
biểu thị các khoản nợ tài chính ròng trên tỉ lệ GDP quốc gia i tại thời
điểm t, α
i
quốc gia ảnh hưởng cố định các quốc gia (một mô hình thống kê), ω
t
ảnh
hưởng cố định thời gian (biến giả theo năm), và ε
it
là sai số. ∆ là sai phân bậc 1. Vector
Z và DEC được xác định như sau:
Z ={∆ Dân số, ∆ Lạm phát, ∆ độ tuổi lao động, ∆ độ mở, ∆ Tăng trưởng GDP,
∆ thất nghiệp, ∆ lãi suất, ∆ ý thức hệ, ∆ sự phân mảnh, nước Đức}
DEC ={∆ phân cấp chi tiêu, ∆ phân cấp thuế, ∆ trợ cấp}
Chúng tôi kiểm tra tính hợp lệ của kiểm định giả thuyết (và do đó mặc nhiên về
tính hợp lệ của các hình thức chức năng) bằng cách điều tra phần dư từ ước lượng mô
hình dự kiến trong phương trình (1) (Đó là, khi mẩu tiêu biểu và hiệu ứng cố định thời
gian được bao gồm trong mô hình) được phân phối chuẩn. Kiểm tra đồ thị chỉ ra rằng
các phần dư thì thực sự có phân phối chuẩn
21
. Chúng tôi cũng kiểm tra một cách rõ
ràng tính giá trị của các đặc điểm kỹ thuật tuyến tính bằng cách kiểm tra biến phụ
thuộc cần chuyển đổi sang dạng phân phối chuẩn hay không, kết quả là không sự
khi giả thuyết đơn vị gốc bị từ chối. Tuy nhiên, để tránh sự nguy hi ểm của tương quan giả, chúng tôi chọn giả
thuyết mà mức độ quan tâm của các biến là I (1), được chỉ ra trong kiểm định Levin-Lin-Chu.
20
Ngoại trừ bi ến du mmy và các biến được tuyển chọn (mà là biến đếm đ ược)
21
Nhiều kiểm định chính thức (với sktest và iqr test có trong Stata), cho thấy 2 ngoại lệ: Bỉ vào 1981 và Hà Lan
năm 1987, nếu không có 2 quan sát trên thì giả thuyết đối với phần còn lại sẽ không bị từ chối. Ngay cả khi có
hai quan sát này dường như là ngoại lệ, chúng tôi cũng để lại trong mẫu vì không có lý do rõ ràng để biện hộ cho
việc loại ra khỏi mẫu. Vì mẫu của chúng tôi xoay quanh cỡ 300 nên 2 mẫu này cũng khác có ảnh hưởng đáng kể
lên hệ số ước lượng. Để chắc chắn , chúng tôi thực hiện kiểm định thêm bên dưới để xem các k ết quả của chúng
tôi có thực sự vững (robust) đối với 2 ngoại lệ này và các ngo ại lệ tiềm ẩn khác không. Chúng tôi thực sự tìm
thấy rằng k ết quả là không đổi khi các ngo ại lệ tiềm ẩn bị loại trừ. Trong vài trường hợp, sự hiện diện của một
vài ngoại lệ không có ý răng hàm chức năng tuyến tính là sai. Có nghĩa là không có bằng chứng có tính hệ thống
nào cho thấy rằng một hàm thay thế khác là thích hợp hơn. Ngoại lệ đầu tiên dường như là do tỷ lệ nợ tài chính
ròng trên GDP của Bỉ đã tăng đáng kinh ngạc lên 16,4% từ 1980 đến 1981. Ngoại lệ thứ hai do tỷ lệ nợ tài chính
ròng trên GDP của Hà Lan đã gi ảm 14,8% từ 1986 đến 1987. Ngược với Bỉ , chúng tôi không có một giải thích
về mặt kinh tế mang tính thuyết phục nào cho sự sụt giảm lớn n ày. Chúng tôi cho rằng đó là do một sự thay đổi
trong định nghĩa về nợ tài chính ròng trong năm cụ thể đó.
Mối liên hệ giữa phân cấp tài khóa và nợ công ở các nước OECD
Nhóm 2 – TCDN Đêm 3 25
chuyển đổi nào là cần thiết
22
.
Tiếp theo, chúng tôi tìm hiểu xe m mô hình tác động ngẫu nhiên hoặc mô hình
tác động cố định là đúng với đặc trưng. Cả kiểm định Hausman và kiểm định F về ý
nghĩa tác động cố định quốc gia chỉ ra rằng mô hình tác động cố định là phù hợp với
đặc điểm kỹ thuật hơn (Kết quả không được trình bày nhưng có sẵn khi có yêu cầu).
Do đó chúng tôi chỉ trình bày báo cáo kết quả cho các mô hình hiệu ứng cố định.
Sau đó chúng tôi tiến hành một kiểm định Wald có điều chỉnh cho điều chỉnh
phương sai (Baum 2000) trên mô hình tác động cố định, và thấy rằng giả thuyết 0
thường bị loại bỏ. Để rút ra những kết luận chắc chắn về vấn đề này cũng như với các
loại khác của heteroscedasticity (biến đổi phương sai), chúng tôi luôn luôn sử dụng sai
số chuẩn mạnh để kiểm định giả thuyết.
Cuối cùng, một kiểm định tự tương quan cho các đặc trưng riêng sai số ε
it
không bác bỏ giả thuyết H
o
của không tự tương quan
23
. Do đó chúng tôi không điều
chỉnh thông số kỹ thuật của chúng tôi để kiểm soát hiện tượng tự tương quan.
5. KẾT QUẢ
Đầu tiên, chúng tôi mô tả kết quả của ước lượng mô hình cơ bản (1). Tiếp sau,
chúng tôi nghiên cứu xem liệu những kết quả này có đủ mạnh để xác nhận Nợ chính
phủ và sự phân cấp của thuế, và những thay đổi khác của mô hình cơ bản. Sau đó,
chúng tôi tiến hành xe m xét liệu những biến ngoại lai có ảnh hưởng đến các kết quả
theo một cách khác (không đúng với quy luật không). Cuối cùng, kiểm tra liệu những
biến nội sinh tiểm ẩn trong các biến kiểm soát có là vấn đề cần quan tâm không.
5.1. Kết quả cơ bản
Kết quả của mô hình cơ bản được trình bày trong Bảng 8. Trong mô hình đầu
tiên (FE 1), các biến phân cấp bị loại ra. Trong những mô hình tiếp theo, mỗi biến
phân cấp được đưa vào mô hình một cách riêng lẻ. Chính xác hơn, trong mô hình thứ 2
(FE2) chỉ có biến phân cấp chi tiêu được đưa vào mô hình. Biến phân cấp thuế thì
được đưa riêng vào mô hình thứ 3 (FE3).Mô hình 4 (FE4) thì có biến trợ cấp. Cuối
cùng, mô hình thứ 5 (FE5) bao gồm đồng thời cả 3 biến phân cấp.Vì mô hình cuối
22
Chúng tôi sử dụng lệnh ladder và gladd er trong Stata để điều tra xem liệu sự biến đổi là cần thiết.
23
Chúng tôi sử dụng kiểm định được đề xuất trong Wooldridge (2002). Việc chúng tôi không tì m thấy tự tương
quan là kết quả kỳ vọng từ (i) mô hình được ghi rõ trong sai phân bậc 1 và (ii)bao h àm thêm hiệu ứng cố định.