Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Phân tích chính sách can thiệp giá của chính phủ nhằm bình ổn giá xăng dầu ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (542.41 KB, 27 trang )

Phân tích chính sách can thiệp giá của chính phủ nhằm bình ổn giá xăng dầu ở Việt Nam
LỜI MỞ ĐẦU
Xăn dầu là mặt hàng thiết yếu đóng vai trò rất quan trọng không chỉ ảnh hưởng
đến sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia, mà còn ảnh hưởng đến hoạt động an ninh
quốc phòng, trật tự xã hội. Chính vì ý nghĩa quan trọng của nó mà hoạt động kinh
doanh xăng dầu luôn được nhà nước quan tâm và quản lý chặt chẽ
Nhóm nghiên cứu đã khái quát các chính sách bình ổn giá của nhà nước nhằm
quản lý thị trường xăng dầu trong 20 năm qua để trên cơ sở phân tích, đánh giá các
mặt đạt được và những tồn tại yếu kém của các chính sách của chính phủ đồng thời rút
ra những bài học quan trọng cho việc quản lý hoạt động kinh doanh xăng dầu, đặt ra
các vấn đề cần tiếp tục đổi mới để phát triển thị trường xăng dầu trong giai đoạn tiếp
theo, thích ứng với những biến động ngày càng phức tạp của nguồn năng lượng dầu
mỏ.
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG XĂNG DẦU THẾ GIỚI VÀ
VIỆT NAM
Nhóm thực hiện: Nhóm 5- Đêm2- K20 1
Phân tích chính sách can thiệp giá của chính phủ nhằm bình ổn giá xăng dầu ở Việt Nam
I. Mặt hàng xăng dầu
Trên thế giới cũng như tại Việt Nam, xăng dầu được coi là loại hàng hóa đặc
biệt quan trọng, có thể coi là máu huyết của nền kinh tế quốc dân. Xăng dầu là sản
phẩm của quá trình lọc hóa dầu thô.
1. Dầu thô
Dầu thô là thuật ngữ dùng để chỉ các loại dầu khí khai thác được từ dưới lòng
đất và chưa qua các quá trình công nghệ chế biến. Dầu thô được hình thành và được
sinh ra từ quá trình phân hủy xác động, thực vật dưới đáy biển trong một thời gian dài.
Trong quá trình hình thành, chúng được tích tụ dần dưới các địa tầng, địa chất khác
nhau của vỏ trái đất và tạo thành các mỏ dầu như ngày nay.
2. Công nghệ chế biến dầu thô
Nền công nghiệp lọc, hóa dầu từ đầu thế kỷ 20 đã được nhiều nước xác định là
ngành kinh tế và khoa học mũi nhọn. Trải qua gần một thế kỷ nghiên cứu, đầu tư và
phát triển, ngày nay công nghệ lọc, hóa dầu đã đạt được nhiều tiến bộ và kỹ thuật rất


cao như: công nghệ chế biến sau Reforming xúc tác (RFCC) hay như Cracking xúc tác
(CCR)…
Quá trình chế biến dầu thô thu được rất nhiều sản phẩm khác nhau với tỷ lệ cụ
thể như sau:
- Xăng các loại (A90; A92; A95…) chiếm tỷ lệ 25%;
- Dầu hỏa chiếm tỷ lệ 12%;
- Nhiên liệu đốt lò chưng cất trực tiếp là 24%; cận nhiên liệu đốt lò là 39%.
Với công nghệ hiện đại, tỷ lệ thu được từ quá trình chế biến hiện nay có thể đạt
tới:
- Xăng là 48-58%; Dầu hỏa là 8%;
- Nhiên liệu đốt lò chưng cất trực tiếp 24-34%; cận nhiên liệu đốt lò 10%.
Nhóm thực hiện: Nhóm 5- Đêm2- K20 2
Phân tích chính sách can thiệp giá của chính phủ nhằm bình ổn giá xăng dầu ở Việt Nam
II. Thị trường xăng dầu thế giới
1. Nhu cầu tiêu thụ xăng dầu thế giới
Do nhu cầu phát triển kinh tế, tổng lượng tiêu thụ năng lượng ở các nước trên
thế giới tăng rất nhanh. Từ năm 1999 cho đến 2005, mức tiêu thụ dầu thô thế giới
đó tăng từ 67 lên đến 84 triệu thùng mỗi ngày, được sử dụng trong các ngành công
nghiệp, giao thông vận tải và phục vụ tiêu dùng
Trong 10 năm qua, tiêu dùng của các nước phát triển tăng 18% và ở các nước
đang phát triển là gấp đôi. Theo ước tính đến năm 2025, sức tiêu thụ của thế giới sẽ
lên đến 118 triệu thùng mỗi ngày. Mỹ vẫn là quốc gia sử dụng nhiều dầu mỏ nhất thế
giới, khoảng 25% số lượng dầu thô sản xuất được của thế giới, nước tiêu thụ dầu mỏ
lớn thứ nhì thế giới là Trung Quốc sử dụng 200 nghìn thùng dầu. Thập niên 80, mức
tiêu thụ của Trung Quốc khoảng 2 triệu thùng; năm 2000 là 6 triệu và năm 2006 là 7,5
triệu thùng/ngày. Dự đoán nhu cầu của Trung Quốc sẽ gia tăng từ 6% lên 8% tổng nhu
cầu tiêu thụ dầu của thế giới và năm 2025, lên đến 20 triệu thùng ngày.
Theo các báo cáo, nghiên cứu hàng năm của một số cơ quan như Bộ năng lượng
Hoa kỳ, Cơ quan năng lượng quốc tế, Phòng Thống kê Liên Hiệp Quốc … về kết quả
thăm dò khảo sát cho thấy trữ lượng dầu thụ thế giới đó xác định được cho đến thời

điểm hiện nay khoảng 1.000 tỷ thùng. Với trữ lượng này thì nhân loại chỉ có thể sử
dụng dầu mỏ trong khoảng 50 năm nữa.
Bảng 1: Mức tiêu thụ sản phẩm dầu mỏ tính trên đầu ngừời mỗi năm của một số
nước. (Đvt: lít/người/năm)
Nhóm thực hiện: Nhóm 5- Đêm2- K20 3
Phân tích chính sách can thiệp giá của chính phủ nhằm bình ổn giá xăng dầu ở Việt Nam
STT Quốc gia GASOLINE
(LIT)
GAS
(m3)
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
MỸ
NHẬT BẢN
SINGAPORE
HÀN QUỐC
MALAYSIA
THÁI LAN
INDONESIA
PHILIPPINNE
TRUNG QUỐC
ẤN ĐỘ

1.821
435
251
249
242
130
60
55
45
32
81
20
15,7
8
28
7,2
6,1
5,5
5,2
7,1
Theo bảng trên ta thấy, Mỹ tiêu thụ nhiều nhất: Mỗi người dân Hoa Kỳ tiêu thụ
gấp trên 60 lần so với người dân ở cuối bảng là Ấn Độ và gần gấp 4 lần so người dân
xếp ở vị trí thứ hai là Nhật Bản. Bảng này cũng cho ta biết khả năng gây ô nhiễm môi
trường từ các nước tiêu thụ nhiều dầu mỏ cao hơn hẳn những nước tiêu thụ ít.
2. Nguồn cung xăng dầu thế giới
Trong khi nhu cầu sử dụng dầu mỏ ngày càng tăng (tiêu dùng hàng năm chiếm
khoảng 2% của tổng số dự trữ và mức tăng hàng năm khoảng 2%) thì trữ lượng thăm
dò, sản lượng khai thác lại không như mong muốn. Theo thông báo của cơ quan năng
lượng quốc tế (IAEA) năm 2006, với mức sản lượng khai thác như hiện nay thì với trữ
lượng khoảng 1.200 tỷ thùng của các mỏ dầu trên thế giới đã phát hiện thì chỉ có thể

duy trì khai thác được khoảng 50 năm nữa. Để cân bằng nhu cầu, mỗi năm phải tìm ra
48 tỷ thùng dầu mới.
Biểu đồ 1: Nguồn cung-cầu xăng dầu thế giới qua các đoạn
Nhóm thực hiện: Nhóm 5- Đêm2- K20 4
Phân tích chính sách can thiệp giá của chính phủ nhằm bình ổn giá xăng dầu ở Việt Nam

3. Diễn biến giá xăng dầu thế giới
Do nguồn cung bị hạn chế trong khi nhu cầu tiêu thụ ngày càng tăng nên giá
xăng dầu có xu hướng tăng. Những năm đầu thế kỷ 20, giá dầu thô trung bình là 10
USD/thùng. Đến đầu thế kỷ 21, năm 2010, giá dầu thô lên mức trên 90 USD/ thùng.
Theo điều tra của Reuters thông qua 31 chuyên gia phân tích công nghiệp, dự báo giá
dầu thô Mỹ trung bình năm 2011 sẽ là 96,73 USD/thùng.
Theo khảo sát của Reuters, các chuyên gia phân tích dự báo do tình hình chính
trị căng thẳng tại Bắc Phi, Trung Đông và giá dầu dự kiến sẽ ở ngưỡng trên 100$/
thùng cho đến hết năm 2013 trong khi ở báo cáo kế trước họ chỉ dự báo giá dầu thô 2
năm tới ở ngưỡng xấp xỉ 100 USD/thùng.
Biểu đồ 2: biều diễn biến động giá xăng dầu trung bình từ năm 2000 đến năm
2010
Nhóm thực hiện: Nhóm 5- Đêm2- K20 5
Phân tích chính sách can thiệp giá của chính phủ nhằm bình ổn giá xăng dầu ở Việt Nam
III. Thị trường xăng dầu Việt Nam
1. Nhu cầu tiêu thụ xăng dầu trong nước
Nhu cầu xăng dầu của Việt Nam tăng theo đà tăng trưởng kinh tế. Giai đoạn
2000-2020 là thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tạo nền tảng để đến
năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại;
nhịp độ tăng trưởng GDP tăng gấp 2,1 lần so với năm 2000. Trong giai đoạn này,
nhu cầu xăng dầu dự kiến tăng mạnh, mặt hàng xăng tăng nhanh, dầu lửa, mazut
xu hướng giảm; nhu cầu ở miền Nam tăng nhanh, chiếm tỷ trọng cao khoảng 54%
Bảng 2: Nhu cầu xăng dầu Việt Nam giai đoạn 2000-2020 Năm
Năm Phương án cơ sở Phương án thấp Phương án cao

2000 8.344 8.344 8.344
2005 13.623 13.052 14.053
2010 21.445 19.499 23.467
2020 34.456 30.046 35.647
(Nguồn: Tạp chí Thương mại)
2. Nguồn nguyên liệu đầu vào
Hiện nay, nguồn cung ứng đầu vào của các doanh nghiệp đầu mối nhập khẩu
xăng dầu Việt Nam là từ nhà máy lọc dầu Dung Quất (đáp ứng 33% nhu cầu thị
trường), phần còn lại là nhập khẩu mà chủ yếu là từ thị trường Singapore.
Nguồn cung trong nước là từ nhà máy lọc dầu Dung Quất. Sau hơn 2 năm kể
từ ngày đón dòng sản phẩm đầu tiên (ngày 22/2/2009), nhà máy lọc dầu Dung Quất
cho ra những sản phẩm hữu ích và trở thành yếu tố chính trong việc bình ổn thị trường
xăng dầu trong nước.
Từ chỗ hoạt động ở mức 100% công suất, hiện nay, Nhà máy lọc dầu Dung
Quất được nâng lên ở mức 105% công suất. Hiện nay, Dung Quất đang cung cấp xăng
dầu cho 4 nhà tiêu thụ lớn gồm Petrolimex, Petec, PV Oil và Vinapco với tổng khối
lượng mà 4 đơn vị này nhận tiêu thụ là 4,7 triệu m3 sản phẩm các loại, gồm xăng A92,
A95, dầu diezel, xăng máy bay Z1 và dầu nhiên liệu FO.
Nhập Khẩu:
Hàng năm, căn cứ nhu cầu xăng dầu của nền kinh tế quốc dân và nguồn xăng
dầu sản xuất trong nước, Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Công
Thương xác định nhu cầu định hướng về xăng dầu nhập khẩu của năm tiếp theo. Nhu
cầu xăng dầu phục vụ cho quốc phòng được xác định riêng. Trên cơ sở nhu cầu định
hướng về xăng dầu nhập khẩu, Bộ Công Thương giao hạn mức nhập khẩu tối thiểu cả
năm theo cơ cấu chủng loại cho từng thương nhân có Giấy phép kinh doanh xuất khẩu,
nhập khẩu xăng dầu để làm thủ tục nhập khẩu với cơ quan hải quan.
Nhóm thực hiện: Nhóm 5- Đêm2- K20 6
Phân tích chính sách can thiệp giá của chính phủ nhằm bình ổn giá xăng dầu ở Việt Nam
Căn cứ nhu cầu thị trường, thương nhân kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu xăng
dầu quyết định khối lượng xăng dầu nhập khẩu các loại để tiêu thụ tại thị trường trong

nước nhưng không thấp hơn mức tối thiểu được giao.
Về chủng loại và thị trường nhập khẩu: Theo số liệu thống kê, nhập khẩu xăng
dầu các loại của Việt Nam năm 2010 đạt 9,5 triệu tấn, giảm 25% về lượng, chiếm
7,2% trong tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hoá của cả nước năm 2010.
Singapore dẫn đầu thị trường về lượng và kim ngạch cung cấp xăng dầu các loại
cho Việt Nam năm 2010, đạt 3,5 triệu tấn với kim ngạch, chiếm 33,8% trong tổng kim
ngạch.
3. Khái quát về các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu Việt Nam
Các doanh nghiệp khi tham gia vào kinh doanh xăng dầu gồm có 3 nhóm chính:
Các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu đầu mối lớn nhập khẩu; các doanh nghiệp đầu
mối phân phối, các của hàng/ đại lý bán lẻ.
Doanh nghiệp đầu mối lớn nhập khẩu xăng dầu: Hiện nay, có 12 doanh nghiệp
Việt Nam là đầu mối nhập khẩu xăng dầu. Hoạt động chủ yếu của các doanh nghiệp là
nhập khẩu và phân phối xăng dầu. Đây là các doanh nghiệp có hệ thống cơ sở vật chất
đáp ứng các yêu cầu kinh doanh xăng dầu như nêu trên. Bao gồm:
1. Tổng công ty xăng dầu Việt Nam (Petrolimex)
2. Tổng công ty dầu Việt Nam (PVoil)
3. Công ty thương mại kỹ thuật và đầu tư (Petec)
4. Công ty CP Dầu khí Mê kông (Petro Mê Kông)
5. Cty TNHH MTV dầu khí Tp HCM (SaigonPetro)
6. Công ty thương mại dầu khí Đồng Tháp (Petimex)
7. Tổng công ty xăng dầu Quân đội
8. Công ty xăng dầu hàng hải Việt Nam
9. Công ty thương mại xuất nhập khẩu Thành Lễ
10. Cty THNN điện lực Hiệp Phước
11. Công ty CP xăng dầu hàng không (Vinapco)
12. Cty CP nhiên liệu bay Petrolimex
Riêng Tổng công ty xuất nhập khẩu xăng dầu Việt Nam Petrolimex còn có đội
tầu chuyên dụng đáp ứng nhu cầu vận chuyển xăng dầu không chỉ của Tổng công ty
mà còn phục vụ nhu cầu vận chuyển của các doanh nghiệp nhập khẩu khác. Đây là lợi

thế riêng có của Petrolimex mà nhờ vậy Tổng công ty luôn giữ được thế mạnh số 1
của mình trên thị trường.
Hoạt động của các doanh nghiệp này nhận được rất nhiều sự hỗ trợ từ phía
Chính phủ cũng như các bộ, ban ngành. Các doanh nghiệp này vừa làm nhiệm vụ kinh
doanh vừa làm nhiệm vụ chính trị nên áp lực đảm bảo nguồn cung đè nặng lên vai các
Nhóm thực hiện: Nhóm 5- Đêm2- K20 7
Phân tích chính sách can thiệp giá của chính phủ nhằm bình ổn giá xăng dầu ở Việt Nam
doanh nghiệp này. Hoạt động của các doanh nghiệp có đặc điểm:
+ Nguồn tiền của doanh nghiệp lớn
+ Nhu cầu ngoại tệ nhập khẩu lớn
+ Hiệu quả hoạt động kinh doanh phụ thuộc rất lớn vào diễn biến giá xăng dầu
thế giới và biến động tỷ giá. Thông thường hiệu quả từ hoạt động kinh doanh xăng dầu
là thấp
Doanh nghiệp đầu mối nhỏ: hoạt động của họ chỉ đơn thuần kinh doanh xăng
dầu, lợi nhuận thu được chủ yếu là từ hưởng hoa hồng. Trong bối cảnh các doanh
nghiệp đầu mối nhập khẩu còn gặp nhiều khó khăn thì hoa hồng được hưởng của
các doanh nghiệp ngày càng thấp và có thể không bù đắp được các chi phí mà doanh
nghiệp phải bỏ ra.
Đại lý, các doanh nghiệp tư nhân kinh doanh bán lẻ xăng dầu: Lợi nhuận của họ
chủ yếu đem lại từ việc hưởng hoa hồng. Tuy nhiên, do hiện nay chi phí hoa hồng rất
thấp (khoảng 100 đồng/lít), không đủ bù đắp chi phí (theo tính toán để đảm bảo kinh
doanh có hiệu quả thì mức hoa hồng tối thiểu 400 đồng/lít). Vì vậy, để đảm bảo có lãi,
nhiều đại lý/cửa hàng bán xăng dầu đã có hành vi gian lận thương mại (pha nước, bơm
thiếu ). Trường hợp bị phát hiện sẽ ảnh hưởng đến uy tín và kinh doanh (thậm chí bị
tước giấy phép).
Hiện nay, hệ thống phân phối xăng dầu cả nước được tổ chức như sau: Mỗi
doanh nghiệp đầu mối (DNĐM) sẽ tổ chức cho mình một kênh phân phối riêng, bao
gồm:
- Các cửa hàng bán lẻ thuộc DNĐM;
- Đại lý ký hợp đồng trực tiếp với DNĐM;

- Hộ cá thể ký hợp đồng trực tiếp với DNĐM;
- Tổng đại lý ký hợp đồng trực tiếp với DNĐM;
- Đại lý ký hợp đồng qua Tổng đại lý.
Theo thống kê của Bộ thương mại năm 2006, cả nước có khoảng 12.023 cửa
hàng bán xăng dầu trong đó Petrolimex (4.773 cửa hàng), Saigonpetro (2.098 cửa
hàng), Petec (1.623 cửa hàng) và PDC (1.355 cửa hàng) là doanh nghiệp nhập khẩu
đầu mối có hệ thống kênh phân phối lớn nhất chiếm đến 82% tổng các cửa hàng. Bên
cạnh đó, trong số 12.023 cửa hàng bán lẻ xăng dầu trên cả nước thì tất cả đều chịu sự
quản lý của các doanh nghiệp đầu mối nhà nước, trong đó cửa hàng trực thuộc doanh
nghiệp đầu mối chiếm 40%.
CHƯƠNG II: SỰ CAN THIỆP GIÁ CỦA CHÍNH PHỦ VÀO THỊ TRƯỜNG
XĂNG DẦU
Nhóm thực hiện: Nhóm 5- Đêm2- K20 8
Phân tích chính sách can thiệp giá của chính phủ nhằm bình ổn giá xăng dầu ở Việt Nam
I. Giai đoạn trước năm 2000
Giai đoạn này kéo dài trên 10 năm, với sự gia tăng của các đầu mối nhập khẩu
từ một đầu mối duy nhất, tăng dần lên 5 và đến năm 1999, đã có 10 đầu mối tham gia
nhập khẩu xăng dầu cho nhu cầu nội địa.
Trong những năm từ 1989 đến 1992, khi không còn nguồn xăng dầu cung cấp
theo Hiệp định với Liên xô (cũ), Nhà nước chuyển từ quy định "giá cứng" sang áp
dụng giá chuẩn để phù hợp với việc hình thành nguồn xăng dầu nhập khẩu từ lượng
ngoại tệ do doanh nghiệp đầu mối tự cân đối, mua của các doanh nghiệp xuất khẩu
qua ngân hàng hoặc hình thức uỷ thác bao tiêu xăng dầu cho doanh nghiệp có ngoại tệ
thu được từ xuất khẩu. Vào giai đoạn này, nguồn ngoại tệ từ dầu thô do Nhà nước bảo
đảm chỉ chiếm dưới 40% tổng nhu cầu ngoại tệ nhập khẩu xăng dầu. Doanh nghiệp
đầu mối được quyền quyết định giá bán +/- 10% so với giá chuẩn để bảo đảm hoạt
động kinh doanh.
Từ năm 1993, để thống nhất quản lý giá bán, Nhà nước ban hành quy định giá
tối đa; doanh nghiệp tự quyết định giá bán buôn và bán lẻ trong phạm vi giá tối đa.
Nhà nước xác định mức độ chịu đựng của nền kinh tế để xác định giá tối đa; việc điều

chỉnh giá tối đa ở giai đoạn này chỉ diễn ra khi tất cả các công cụ điều tiết đã sử dụng
hết.
Công cụ thuế nhập khẩu được sử dụng như một van điều tiết để giữ mặt bằng
giá tối đa, không tạo ra siêu lợi nhuận và doanh nghiệp cũng không phát sinh lỗ sau
một chu kỳ kinh doanh.
Phụ thu là một công cụ bổ sung cho thuế nhập khẩu khi mức thuế nhập khẩu đã
được điều chỉnh tăng hết khung, được đưa vào Quỹ Bình ổn giá do Nhà nước quản lý.
Lệ phí giao thông thu từ năm 1994 cũng được hình thành từ nguyên tắc tận thu
cho ngân sách Nhà nước khi điều kiện cho phép, là khoản thu cố định và sau này đổi
tên là phí xăng dầu.
Đặc điểm lớn nhất của giai đoạn này là:
Giai đoạn này cũng là thời kỳ giá xăng dầu thế giới ở mức đáy (dầu thô chỉ ở
mức trên 10 usd/thùng) và ổn định.
Nhóm thực hiện: Nhóm 5- Đêm2- K20 9
Phân tích chính sách can thiệp giá của chính phủ nhằm bình ổn giá xăng dầu ở Việt Nam
Mức giá P max được đặt cao hơn mức giá cân bằng trong nước để không xảy ra
tình trạng thiếu hụt cung cầu. Mức giá tối đa được xác định trên cơ sở dự đoán về sức
chịu đựng về sức cầu của nền kinh tế đối với mặt hàng xăng dầu. Nhà nước áp mức
giá trần P max để các doanh nghiệp không tăng P0 quá mức giá P max nhằm bảo đảm
sản lượng xăng dầu tiêu thụ trong nền kinh tế.
Nhờ quy định của Nhà nước về giá chuẩn, doanh nghiệp đầu mối được điều
chỉnh giá bán xăng dầu nhập khẩu thuộc nguồn ngoại tệ tự huy động từ các doanh
nghiệp xuất khẩu, đảm bảo quyền lợi cho họ thông qua tỷ giá phù hợp nên đã huy
động được số ngoại tệ nhập khẩu gần 60% nhu cầu xăng dầu cho nền kinh tế sau khi
không còn nguồn xăng dầu theo Hiệp định.
Chính chủ trương không áp dụng cơ chế bù giá cho các đối tượng sử dụng xăng
dầu thông qua doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu là điều kiện quyết định để Việt Nam
có thể tự cân đối được ngoại tệ nhập khẩu xăng dầu ngay cả khi nguồn ngoại tệ tập
trung của Nhà nước từ dầu thô mới chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ hơn 50% so với tổng nhu
cầu ngoại tệ nhập khẩu xăng dầu lúc đó.

Với cơ chế giá tối đa, Nhà nước đã đạt được mục tiêu đề ra, cụ thể là:
(1) Cân đối cung - cầu được đảm bảo vững chắc;
(2) Các hộ sản xuất và người tiêu dùng lẻ được hưởng mức giá tương đối ổn
định; biến động giá tuy chỉ theo xu hướng tăng song mức tăng đều, không gây khó
khăn nhiều cho sản xuất và tiêu dùng khi chủ động hoạch định được ngân sách cho
tiêu thụ xăng dầu hàng năm;
(3) Ngân sách Nhà nước tăng thu thông qua việc tận thu thuế nhập khẩu, phụ
thu, phí xăng dầu;
(4) Doanh nghiệp có tích luỹ để đầu tư phát triển, định hình hệ thống cơ sở vật
chất, từ cầu cảng, kho đầu mối, kho trung chuyển, phương tiện vận tải đến mạng lưới
bán lẻ.
Ở cuối của giai đoạn này giá thế giới- nguồn-thị trường đã có dấu hiệu biến
động mạnh, ở mức cao hơn; các cân đối cung cầu và ngân sách, chỉ tiêu tăng trưởng
kinh tế và lạm phát…đều có nguy cơ bị phá vỡ khi tình trạng đó kéo dài; trong khi
chưa tìm được cơ chế điều hành thích hợp, vì mục tiêu ổn định để phát triển kinh tế xã
hội, Nhà nước đã sử dụng biện pháp bình ổn giá, khởi đầu cho giai đoạn bù giá cho
người tiêu dùng qua doanh nghiệp nhập khẩu trong gần 10 năm tiếp theo.
II. Giai đoạn từ năm 2000 đến trước thời điểm Nhà nước công bố chấm dứt
bù giá, vận hành giá xăng dầu theo thị trường (tháng 9/2008)
Từ đầu những năm 2000, biến động giá xăng dầu thế giới đã có những thay đổi
căn bản; mặt bằng giá mới hình thành và liên tiếp bị phá vỡ để xác lập mặt bằng mới
trong các năm tiếp theo. Nhà nước thực hiện chính sách bù giá cho người tiêu dùng
thông qua doanh nghiệp nhập khẩu khi cố gắng giữ mức giá nội địa ở mức thấp nên số
tiền ngân sách bù giá ngày càng gia tăng, từ 1000 tỷ (năm 2000) lên đến 22 nghìn tỷ
đồng năm 2008.
Nhóm thực hiện: Nhóm 5- Đêm2- K20 10
Phân tích chính sách can thiệp giá của chính phủ nhằm bình ổn giá xăng dầu ở Việt Nam
Cũng trong giai đoạn này, sau khi nổ ra cuộc chiến tranh Vùng Vịnh lần thứ
2; giá xăng dầu đã dịu lại song cũng đã hình thành một mặt bằng mới; trước nguy cơ
không thể cân đối ngân sách cho bù giá xăng dầu, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành

Quyết định số 187/2003/QĐ-TTg ngày 15/9/2003 về kinh doanh xăng dầu, với các tư
tưởng cơ bản bao gồm:
- Nhà nước xác định giá định hướng; doanh nghiệp đầu mối được điều chỉnh tăng giá
bán trong phạm vi + 10% (đối với xăng) và + 5% (đối với các mặt hàng dầu).
- Hình thành 2 vùng giá bán; giá bán tại vùng xa cảng nhập khẩu, doanh nghiệp được
phép cộng tới vào giá bán một phần chi phí vận tải nhưng tối đa không vượt quá 2%
so với giá bán ở vùng gần cảng nhập khẩu.
- Chỉ thay đổi giá định hướng khi các yếu tố cấu thành giá thay đổi lớn, Nhà nước
không còn công cụ điều tiết, bảo đảm các lợi ích của người tiêu dùng - Nhà nước và
doanh nghiệp.
Tuy nhiên, vì những lý do khách quan, sự đột phá cơ chế điều hành giá trong
QĐ 187 chưa được triển khai trên thực tế; cho đến hiện nay, Nhà nước tiếp tục điều
hành và can thiệp trực tiếp vào giá bán xăng dầu, kể cả chiều tăng và giảm.
Trong giai đoạn này, mặc dù chưa vận hành điều khoản về giá xong sự ra đời
của QĐ 187 năm 2003 và NĐ 55 năm 2007 đã tạo ra một hệ thống phân phối rộng
khắp với gần 10.000 cửa hàng xăng dầu trên cả nước, góp phần ổn định, lành mạnh
hóa thị trường trước đây khá lộn xộn khi thiết lập quan hệ giữa người nhập khẩu và
các đại lý, tổng đại lý khi gắn trách nhiệm, quyền lợi của doanh nghiệp đầu mối với
các đại lý, tổng đại lý cũng như giúp cơ quan quản lý chức năng, người tiêu dùng cùng
tham gia vào quá trình giám sát hoạt động của các đại lý, tổng đại lý trong việc chấp
hành quy định kinh doanh xăng dầu.
Đánh giá chung cho giai đoạn này, có thể thấy quyết tâm rất cao để đổi mới cơ
chế quản lý kinh doanh xăng dầu thể hiện qua 2 văn bản pháp quy là QĐ 187 và NĐ
55 song cho đến hiện nay, văn bản đã không đi vào thực tế kinh doanh (trừ hệ thống
phân phối được thiết lập nhưng việc kiểm soát tính tuân thủ hầu như chưa thực hiện
được). Yếu tố ổn định giá vẫn được đặt lên hàng đầu và chính nó đã làm cho các cơ
Nhóm thực hiện: Nhóm 5- Đêm2- K20 11
Phân tích chính sách can thiệp giá của chính phủ nhằm bình ổn giá xăng dầu ở Việt Nam
quan quản lý Nhà nước lúng lúng khi phải điều hành đạt các mục tiêu dường như mâu
thuẫn nhau ở cùng một thời điểm.

Đánh giá về giai đoạn này:
Việc thay đổi giá bán xăng dầu dựa trên sự thay đổi của giá bán cơ sở đảm bảo
bù đắp toàn bộ chi phí và lợi nhuận định mức. Việc tính toán giá bán cơ sở được các
doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu đầu mối công khai trên các trang Web của doanh
nghiệp đầu mối. Mặc dù Nhà nước đã có những thay đổi hoặc từng bước mở rộng
quyền tự chủ cho các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu nhưng trong thực tế, các
doanh nghiệp Việt Nam không được tự quyết về giá bán một cách thực sự.
Việc áp dụng một biện pháp duy nhất (biện pháp bù giá), làm cho giá nội địa
thoát ly giá thế giới trong một chu kỳ quá dài với bối cảnh giá xăng dầu thế giới đã
nhiều lần hình thành mặt bằng giá mới cao hơn; ngoài yếu tố cung cầu thì yếu tố địa
chính trị cũng ảnh hưởng lớn đến biến động giá; biên độ dao động giá quá mạnh sau
mỗi ngày… đã làm cân đối ngân sách bị phá vỡ, doanh nghiệp bị kiệt quệ nguồn lực
cho phát triển; việc kìm giá và điều chỉnh sốc tác động tiêu cực đến nền kinh tế, chưa
kể hiện tượng đầu cơ chờ tăng giá làm méo mó nhu cầu, chuyển khá nhiều nguồn lực
cho đại lý; phần lớn người tiêu dùng không được thông tin đầy đủ về cơ chế điều hành
và lợi ích mà Nhà nước đem lại cho nhân dân nên thường xuyên có phản ứng tiêu cực
sau mỗi lần điều chỉnh giá (kể cả tăng và giảm), từ đó chưa tạo được sự đồng thuận
trong xã hội; thẩm lậu xăng dầu qua biên giới ngày càng phức tạp, khó kiểm soát; Nhà
nước thất thu ngân sách kể cả lúc giá thấp hơn và cao hơn nước lân cận do thẩm lậu
xăng dầu qua biên giới.
Hệ quả rất xấu của cơ chế bù giá xăng dầu kéo dài (mà người tiêu dùng vẫn
hiểu là bù lỗ cho doanh nghiệp đầu mối) là việc khó chấp nhận điều chỉnh tăng giá, kể
cả mức rất thấp và phản ứng mạnh trước thông tin doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu
không có hiệu quả mà luôn được Nhà nước bù lỗ.
Cũng cần khẳng định rằng, chỉ khi Nhà nước bảo đảm đủ cân đối ngoại tệ cho
nhập khẩu xăng dầu thì mới có thể áp dụng biện pháp bù giá. Đây chính là điểm khác
biệt so với giai đoạn trước, khi mà nguồn ngoại tệ từ dầu thô và các nguồn dự trữ tập
trung khác của Nhà nước đã đủ lớn.
III. Giai đoạn từ cuối năm 2008 đến nay
Từ tháng 9 năm 2008 đến nay, nhà nước tiến hành vận hành giá xăng dầu theo

giá thị trường. Nhóm nghiên cứu phân tích chính sách can thiệp vào giá xăng dầu của
nhà nước hiện tại thành 2 chính sách chính sau:
- Chính sách điều hành giá
- Chính sách thuế
1.
Nhóm chính sách điều hành giá
Theo nghị định 84/2009/NĐ-CP ngày 15/10/2009 về kinh doanh xăng dầu, việc
kinh doanh xăng dầu hiện nay tuân theo cơ chế thị trường có sự định hướng của Nhà
nước.
Nhóm thực hiện: Nhóm 5- Đêm2- K20 12
Phân tích chính sách can thiệp giá của chính phủ nhằm bình ổn giá xăng dầu ở Việt Nam
Doanh nghiệp đầu mối được quyền quyết định giá bán buôn; việc điều chỉnh
giá bán lẻ xăng dầu được thực hiện dựa trên sự thay đổi của giá bán cơ sở đảm bảo
bù đắp toàn bộ chi phí và lợi nhuận định mức; Doanh nghiệp đầu mối có trách nhiệm
tham gia bình ổn giá theo quy định của pháp luật và được bù đắp lại những chi phí hợp
lý khi tham gia bình ổn giá.
Hiện nay, Giá bán lẻ xăng dầu được niêm yết tại các website của doanh nghiệp
kinh doanh xăng dầu và được xác định, điều chỉnh theo giá cơ sở.
Giá cơ sở là giá để hình thành giá bán lẻ xăng dầu bao gồm các yếu tố và được
xác định bằng (=) (Giá CIF (+) Thuế nhập khẩu (+) Thuế tiêu thụ đặc biệt) (x) Tỷ giá
ngoại tệ (+) Chi phí kinh doanh định mức cộng (+) Quỹ Bình ổn giá (+) Lợi nhuận
định mức trước thuế (+) Thuế giá trị gia tăng (+) Phí xăng dầu (+) Các loại thuế, phí
và các khoản trích nộp khác theo quy định pháp luật hiện hành; được tính bình quân
của số ngày dự trữ lưu thông (30 ngày)

Giá CIF là giá xăng dầu thế giới cộng (+) Phí bảo hiểm cộng (+) Cước vận
tải về đến cảng Việt Nam;

Tỷ giá ngoại tệ để tính giá cơ sở là tỷ giá bán bình quân giữa đồng đô la
Mỹ (USD) và đồng Việt Nam (VNĐ) mà các ngân hàng thương mại bán

cho các doanh nghiệp đầu mối phù hợp với số ngày dự trữ lưu thông theo
quy định tại Điều 22 Nghị định số 84/2009/NĐ-CP.

Chi phí kinh doanh định mức là chi phí lưu thông xăng dầu (chi phí bán
buôn, chi phí bán lẻ) trong nước của các thương nhân đầu mối (đã bao
gồm chi phí giành cho Tổng đại lý, đại lý) để tính giá cơ sở theo mức tối
đa, trong đó:

Chi phí bán lẻ bình quân giữa các vùng trong cả nước đối với xăng, dầu
điêzen, dầu hoả tối đa: 600 đồng/lít;

Chi phí bán buôn bình quân giữa các vùng trong cả nước đối với dầu
madut tối đa: 400 đồng/kg.

Các mức chi phí kinh doanh định mức tối đa trên sẽ được Bộ Tài chính
Thông báo điều chỉnh phù hợp với thực tế kinh doanh của các thương
nhân đầu mối trong từng thời kỳ.
Cơ cấu giá thành xăng dầu chốt vào ngày 15/03/2011
Nhóm thực hiện: Nhóm 5- Đêm2- K20 13
Phân tích chính sách can thiệp giá của chính phủ nhằm bình ổn giá xăng dầu ở Việt Nam
Nguyên tắc điều chỉnh giá bán lẻ xăng dầu:
Điều chỉnh giảm giá bán lẻ xăng dầu: Trường hợp giá cơ sở giảm trong phạm
vi mười hai phần trăm (≤ 12%) so với giá bán lẻ hiện hành, thương nhân đầu mối
phải giảm giá bán lẻ tương ứng; Trường hợp giá cơ sở giảm trên mười hai phần trăm
(>12%) so với giá bán lẻ hiện hành, sau khi cơ quan có thẩm quyền áp dụng các giải
pháp điều tiết về tài chính theo quy định của pháp luật (Thuế nhập khẩu, Quỹ Bình
ổn giá …), thương nhân đầu mối tiếp tục giảm giá bán lẻ của mình; không hạn chế
khoảng thời gian giữa hai (02) lần giảm và số lần giảm giá.
Điều chỉnh tăng giá bán lẻ xăng dầu: Trường hợp các yếu tố cấu thành biến
động làm cho giá cơ sở tăng trong phạm vi bảy phần trăm (≤ 07%) so với giá bán lẻ

hiện hành, thương nhân đầu mối được quyền tăng giá bán lẻ tương ứng;Trường hợp
các yếu tố cấu thành làm cho giá cơ sở tăng vượt bảy phần trăm (> 07%) đến mười hai
phần trăm (≤ 12%) so với giá bán lẻ hiện hành, thương nhân đầu mối được quyền tăng
giá theo điểm a khoản này cộng (+) thêm sáu mươi phần trăm (60%) của mức giá cơ
sở tăng trên bảy phần trăm (> 07%) đến mười hai phần trăm (≤ 12%); bốn mươi phần
trăm (40%) còn lại sử dụng Quỹ Bình ổn giá để bù đắp; Trường hợp các yếu tố cấu
thành biến động làm cho giá cơ sở tăng trên mười hai phần trăm (>12%) so với giá
bán lẻ hiện hành hoặc việc tăng giá ảnh hưởng đến phát triển kinh tế - xã hội và đời
sống nhân dân, Nhà nước công bố áp dụng các biện pháp bình ổn giá thông qua điều
hành thuế, quỹ Bình ổn giá và theo quy định của pháp luật hiện hành
Tổng mức trích lập Quỹ Bình ổn giá được xác định bằng mức trích quỹ bình ổn
giá nhân (x) với sản lượng xăng, dầu thực tế đã tiêu thụ ở thị trường nội địa trong thời
gian trích lập Quỹ Bình ổn giá. Số tiền tích được từ quỹ sẽ được sử dụng vào mục đích
Nhóm thực hiện: Nhóm 5- Đêm2- K20 14
Phân tích chính sách can thiệp giá của chính phủ nhằm bình ổn giá xăng dầu ở Việt Nam
bình ổn giá bán lẻ trong nước khi giá thế giới biến động tăng giảm bất thường.
Căn cứ vào các khoản chi phí này, cứ quý IV hàng năm, doanh nghiệp đầu mối
phải đưa ra dự báo mức giá trên thị trường thế giới (Platt's Singapore) bình quân trong
khoảng 3 tháng để tính toán giá bán lẻ trong nước. Nếu giá thế giới giảm mạnh, doanh
nghiệp lãi trên 500 đồng cho mỗi lít xăng thì phải chủ động giảm giá bán lẻ trong nước
với mức giảm không hạn chế. Còn khi giá thế giới tăng mạnh và doanh nghiệp bị lỗ,
khoản tiền lỗ này sẽ được trích từ Quỹ bình ổn giá để bù cho doanh nghiệp.
Do giá xăng dầu trên thị trường thế giới biến động liên tục , nếu nhà nước tiếp
tục bù giá trong điều kiện giá xăng dầu thế giới biến động rất nhanh chóng theo hai xu
hướng ngược nhau đã dẫn đến một nghịch lý là: trong thời kỳ giá thế giới đã giảm sâu,
Nhà nước vẫn phải bỏ một số tiền bù giá tương đương, thậm chí cao hơn so với giai
đoạn giá thế giới tăng đỉnh điểm. Do đó quỹ bình ổn giá ra đời đã giải quyết được vấn
đề nghịch lý trên.
Khi giá thế giới giảm thấp hơn mức giá trong nước - Doanh nghiệp trích một
phần lợi nhuận thu được từ chênh lệch giá vào quỹ bình ổn giá.

Khi giá thế giới tăng cao hơn mức giá trong nước - Doanh nghiệp sử dụng quỹ
bình ổn giá để trợ giá

Ưu điểm:
- Giá xăng dầu trong nước được bảo đảm ổn định trước những biến động liên
tục của giá xăng dầu quốc tế. Khi giá dầu thế giới giảm thấp, doanh nghiệp đã
trính một phần lợi nhuận kinh doanh vào quỹ bình ổn giá sau đó doanh nghiệp
Nhóm thực hiện: Nhóm 5- Đêm2- K20 15
Phân tích chính sách can thiệp giá của chính phủ nhằm bình ổn giá xăng dầu ở Việt Nam
sử dụng quỹ bình ổn giá để trợ giá trong nước khi giá xăng dầu trên thị trường
quốc tế tăng cao.
- Chính sách bình ổn giá kiểm soát được hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
xăng dầu, bảo đảm được hoạt động kinh doanh có lãi của doanh nghiệp và vẫn
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước với một mức tương đối ổn định.
- Nhà nước không phải trợ giá từ ngân sách

Nhược điểm:
- Nhà nước can thiệp rất sâu vào thị trường xăng dầu Việt Nam, các thành phần
kinh tế tham gia kinh doanh xăng dầu trong nước không do thị trường điều tiết
mà bởi ý chí của Nhà nước.
- Từ khi công bố chấm dứt bù giá đến nay, doanh nghiệp vẫn không có thực
quyền về xác định giá bán như các văn bản quy định; Nhà nước không có biện
pháp kiểm soát các doanh nghiệp kết cấu giá bán xăng để hình thành nguồn
trả nợ ngân sách, tạo ra sự mấp mô về giá bán, doanh nghiệp không bình đẳng
trong cạnh tranh; các văn bản mới tiếp tục ra đời song cũng không đi vào thực
tế (barem thuế nhập khẩu, quỹ bình ổn giá); cơ chế đăng ký giá kéo dài mang
nặng tính xin cho (phê duyệt), các cơ quan truyền thông khai thác và đưa ra
thông tin về tăng giảm giá rất sớm, không những không có tính định hướng dư
luận mà tạo ra áp lực nặng nề cho cả doanh nghiệp và cơ quan quản lý, nguồn
lực từ doanh nghiệp đầu mối chuyển qua đại lý rất khó kiểm soát sự minh bạch

và đúng đắn của các nhu cầu ở trước thời điểm tăng giá. Trầm trọng hơn là xã
hội không thừa nhận hoạt động kinh doanh xăng dầu là phải có lãi (dù rất thấp)
như tất cả các hoạt động kinh doanh khác, trong khi dễ dàng chấp nhận thông
tin về hoạt động ngân hàng có thể lãi hàng ngàn tỷ đồng.
- Những biện pháp can thiệp vào thị trường của Nhà nước, không buộc các
doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu phải áp dụng những chiến lược kinh doanh
cạnh tranh có lợi cho người tiêu dùng vì các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu
đã được hưởng toàn bộ khoản trợ cấp đó.
2.
Nhóm chính sách thuế
Nhà nước áp dụng thuế nhập khẩu với mặt hàng xăng dầu theo công văn Số:
837/BTC-CSTV/v các mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi mặt hàng xăng, dầu tương
ứng với giá mặt hàng xăng, dầu trên thị trường thế giới, cụ thể:
STT
Giá platt’s dầu thô WTI
(USD/thùng)
Mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi
(%)
Nhóm thực hiện: Nhóm 5- Đêm2- K20 16
Phân tích chính sách can thiệp giá của chính phủ nhằm bình ổn giá xăng dầu ở Việt Nam
Xăng, đàu hỏa
nhiên liệu bay
Diezen, mazut
1 Từ 45 đến dưới 60 30 25
2 Từ 60 đến dưới 75 25 20
3 Từ 75 đến 95 20 15
Giá platt’s dầu thô WTI được sử dụng làm căn cứ xác định và ban hành mức
thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi nêu trên là giá trên thị trường Singapore của bình
quân 30 ngày trước ngày điều chỉnh thuế suất của các mặt hàng xăng, dầu liên quan.
Các mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi quy định tại biểu nêu trên là một

trong những căn cứ, cơ sở để Bộ Tài chính xem xét, ban hành các Thông tư hướng dẫn
về mức thuế suất thuế nhập khẩu đối với mặt hàng xăng dầu cụ thể để áp dụng thực
hiện cho từng thời kỳ và trong điều kiện thị trường xăng dầu trong và ngoài nước diễn
biến bình thường. Các mức thuế suất thuế nhập khẩu trên cũng là một trong những căn
cứ để các doanh nghiệp đầu mối kinh doanh xăng dầu chủ động xây dựng kế hoạch,
phương án kinh doanh.
Trường hợp đặc biệt, giá thị trường trong nước và thế giới đột biến hoặc diễn
biến bất thường ( giá platt’s dầu thô WTI dưới mức 45 USD/thùng hoặc cao hơn 95
USD/thùng), các mức thuế nhập khẩu ưu đãi đối với một số mặt hàng xăng, dầu nêu
trên được điều hành theo quy định cụ thể của Bộ Tài chính. Trong mọi trường hợp
mức thuế nhập khẩu ưu đãi tối đa không vượt quá 40% (bốn mươi phần trăm).

Ưu điểm:
- Điều chỉnh thuế nhập khẩu theo những biến động của thị trường thế giới. Khi
giá trên thị trường thế giới tăng thì điều chỉnh giảm, khi giá giảm thì điều chỉnh
tăng.
- Đóng góp nguồn thu rất lớn cho ngân sách Nhà Nước , tạo điều kiện phát triển
kinh tế xã hội trong nước.
- Điều tiết cung cầu hạn chế tiêu thụ đối với người tiêu thụ để bảo vệ môi trường.

Nhược điểm:
- Cách tính thuế nhập khẩu xăng dầu theo tỷ lệ % trên giá CIF, do yếu tố “động”
của giá dầu thế giới nên gây tác động “kép” tới giá bán xăng dầu trong nước, ảnh
hưởng trực tiếp đến nguồn thu ngân sách từ thuế nhập khẩu xăng dầu, khó kế
hoạch hoá nguồn thu cho ngân sách Nhà Nước.
- Việc thu thuế nhập khẩu theo tỷ lệ trên giá CIF làm phức tạp hoá các thủ tục
hoàn thuế nhập khẩu khi xăng dầu được tái xuất.
Nhóm thực hiện: Nhóm 5- Đêm2- K20 17
Phân tích chính sách can thiệp giá của chính phủ nhằm bình ổn giá xăng dầu ở Việt Nam
- Các văn bản pháp quy về thuế ra đời cần có nhiều thời gian cho viêc soạn thảo,

triển khai thực hiện trong thực tiễn nên tác dụng can thiệp vào giá chậm trong khi
mặt hàng xăng dầu rất “nhạy cảm” về giá, tác động rất lớn đến nền kinh tế vì đây
là chi phí đầu vào của các ngành kinh tế khác.
- Thu chủ yếu ở khâu nhập khẩu (tối đa 40% như hiện nay), trong bối cảnh xuất
hiện nguồn xăng dầu sản xuất trong nước và trong lộ trình hội nhập kinh tế quốc
tế, việc thu thuế như hiện nay còn trở nên bất cập.
- Mức thuế suất, ngưỡng giá được thiết kế trong biểu thuế chưa có sự liên kết
hữu cơ giữa các sản phẩm xăng dầu khác nhau nên khi có biến động đã có độ sai
lệch lớn về thuế suất áp dụng giữa các sản phẩm.
CHƯƠNG III: ĐÁNH GIÁ VỀ CÁC CHÍNH SÁCH VÀ CÁC BIỆN
PHÁP BÌNH ỔN GIÁ
Nhóm thực hiện: Nhóm 5- Đêm2- K20 18
Phân tích chính sách can thiệp giá của chính phủ nhằm bình ổn giá xăng dầu ở Việt Nam
I. Đánh giá chung về cơ chế quản lý của Nhà nước đối với thị trường xăng
dầu và bài học kinh nghiệm
1. Những mặt đã đạt được:

Một là, đã tạo được một hệ thống các doanh nghiệp Nhà nước tham gia hoạt
động nhập khẩu, phá vỡ thế độc quyền nhập khẩu thuộc về các đơn vị đã có
cơ sở vật chất kỹ thuật được đầu tư trước và có thời gian tích luỹ khá dài,
tạo ra thế đứng mới cho các doanh nghiệp lần đầu tiên tham gia nhập khẩu
và khẳng định ưu thế vượt trội của các đơn vị được đầu tư theo một cách
nhìn mới trong cơ chế thị trường.

Hai là, việc kìm giá trong một khoảng thời gian dài kể cả khi giá xăng dầu
thế giới có biến động bất thường có tác động thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,
góp phần ổn định tình hình chính trị - kinh tế xã hội trong nước.

Ba là, từng bước thiết lập một thị trường cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
qua đó hình thành chi phí xã hội cần thiết cho hoạt động kinh doanh xăng

dầu và mức lợi nhuận hợp lý. Xu hướng này được định hình sẽ đưa xăng
dầu từ các cảng đầu mối đến nơi tiêu thụ bằng con đường ngắn nhất, loại
hình phương tiện có giá cước rẻ nhất và ít qua các khâu trung gian nhất,
đem lại lợi ích chung của toàn xã hội.

Bốn là, đã thu hút được lực lượng đông đảo các thương nhân thuộc mọi
thành phần kinh tế tham gia vào khâu phân phối (hạ nguồn), đưa xăng dầu
tới người tiêu dùng thông qua hệ thống trên 10.000 cửa hàng xăng dầu
trên phạm vi cả nước; trong đó có trên 8000 cửa hàng xăng dầu thuộc của
thương nhân thuộc các thành phần kinh tế (ngoài 2000 cửa hàng của các
doanh nghiệp đầu mối nhập khẩu) khác chiếm tỷ trọng trên 60% tổng nhu
cầu xã hội được tham gia thị trường để người tiêu dùng có nhiều sự lựa
chọn.
2. Những mặt còn hạn chế:

Một là, Về quản lý chỉ tiêu hạn ngạch nhập khẩu: với một chính sách quản
lý chỉ tiêu nhập khẩu thời gian qua (giao cố định, tối thiểu), nhưng chưa có
chế tài xử lý đối với các doanh nghiệp đầu mối tham gia thị trường không
đều có nguy cơ dẫn đến cơn sốt xăng dầu do thiếu nguồn. Ngược lại khi thị
trường bão hoà về nguồn, Nhà nước cũng bị thiệt hại do các doanh nghiệp
buộc phải bán dưới hình thức “tháo khoán” để giải phóng vốn làm giảm
nguồn lực tích luỹ chung của từng doanh nghiệp và cũng chính là của Nhà
nước và xã hội.

Hai là, Về thuế nhập khẩu (1)/ Cách tính thuế nhập khẩu xăng dầu theo tỷ
lệ % trên giá CIF, do yếu tố “động” của giá dầu thế giới nên gây tác động
“kép” tới giá bán xăng dầu trong nước, ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn thu
ngân sách từ thuế nhập khẩu xăng dầu, khó kế hoạch hoá nguồn thu; (2)/
Thu chủ yếu ở khâu nhập khẩu (tối đa 40% như hiện nay), trong bối cảnh
xuất hiện nguồn xăng dầu sản xuất trong nước và trong lộ trình hội nhập

Nhóm thực hiện: Nhóm 5- Đêm2- K20 19
Phân tích chính sách can thiệp giá của chính phủ nhằm bình ổn giá xăng dầu ở Việt Nam
kinh tế quốc tế, việc thu thuế như hiện nay còn trở nên bất cập; (3)/ Việc thu
thuế nhập khẩu theo tỷ lệ trên giá CIF làm phức tạp hoá các thủ tục hoàn
thuế nhập khẩu khi xăng dầu được tái xuất.

Ba là, Việc điều hành giá bán các mặt hàng xăng vẫn do Nhà nước quy
định; hệ luỵ của quy định đăng ký, giá bán trong nước thường không bắt kịp
giá thị trường; gây bất ổn thị trường do đầu cơ trước thông tin tăng giá; tạo
ra tâm lý trông chờ, ỷ lại của người tiêu dùng và thường có phản ứng khi có
sự tăng giá.

Bốn là, Cơ chế bù giá duy trì quá lâu làm mất đi tính chủ động của doanh
nghiệp, giảm động lực tiết giảm chi phí tăng, doanh nghiệp không có tích
luỹ cho đầu tư phát triển, mất cơ hội đầu tư, giảm sức cạnh tranh; người tiêu
dùng không có ý thức tiết kiệm; đánh giá không đầy đủ hiệu quả đầu tư các
công trình mà nhiên liệu chiếm tỷ trọng lớn.

Năm là, Công tác quy hoạch phát triển hệ thống kinh doanh xăng dầu không
rõ ràng về thẩm quyền và trách nhiệm, thiếu sự kiểm soát dẫn đến đầu tư
không đồng đều, manh mún gây lãng phí xã hội; việc bình ổn thị trường ở
những vùng sâu, vùng xa gặp nhiều khó khăn
3. Những bài học kinh nghiệm

Từ thực tiễn vận hành khái quát thành chính sách, xem xét sự tác động của
chính sách vào thực tiễn để hiệu chỉnh, hoàn thiện nhằm vận hành tốt hơn
các cơ chế, tạo đủ hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp hoạt động, các
chính sách sát thực và phù hợp với thực tiễn.

Một là, Quan điểm chia sẻ lợi ích giữa Nhà nước - Doanh nghiệp - Người

tiêu dùng phải được hiểu một cách đúng đắn mới có biện pháp xử lý đúng
nhằm tác động tích cực đến nguồn thu ngân sách, buộc các doanh nghiệp
phải tiết giảm chi phí và người sử dụng cũng phải tiết kiệm trong tiêu dùng.

Hai là, Điều hành giá tăng đột biến hoặc chia bước nhỏ tuỳ thuộc vào mục
tiêu của Nhà nước từng thời kỳ, song không nhất thiết lúc nào cũng phải đặt
yếu tố ổn định lên trên hết bởi tiếp cận thị trường chính là sự thay đổi cho
phù hợp.

Ba là, Cơ chế quản lý thiếu rõ ràng, chưa minh bạch cùng với sự phối hợp
tốt/chưa tốt của các cơ quan quản lý Nhà nước có tác động tích cực hoặc
tiêu cực đến hoạt động của doanh nghiệp và suy cho cùng là ảnh hưởng đến
sự vận hành của nền kinh tế.

Bốn là, Việt Nam là nước xuất khẩu dầu thô và nhập khẩu xăng dầu. Mọi
tác động của thị trường xăng dầu thế giới đều ảnh hưởng đến thị trường
trong nước, do đó khi chế định các chính sách đều phải xét trên tổng thể mối
quan hệ này.

Thực hiện chính sách ưu đãi sản xuất xăng dầu trong nước phải đi đôi với
đánh giá hiệu quả tổng thể khi bản thân đầu vào của sản xuất là dầu thô
Nhóm thực hiện: Nhóm 5- Đêm2- K20 20
Phân tích chính sách can thiệp giá của chính phủ nhằm bình ổn giá xăng dầu ở Việt Nam
cũng không thể thoát ly thị trường. Việc khuyến khích, ưu đãi không làm
thiệt hại đến lợi ích chung của Nhà nước hoặc “núp bóng” sản xuất trong
nước để lợi dụng chính sách ưu đãi.
II. Đánh giá về thị trường xăng dầu VN và giải pháp kiểm soát sự ảnh
hưởng giá xăng dầu:
1. Đánh giá thị trường xăng dầu Việt Nam hiện nay:
1.1.

Thị trường xăng dầu Việt Nam có những mặt mạnh cơ bản:

Nhà nước chủ động ổn định thị trường;

Nhà nước kiểm soát hệ thống phân phối;

Bảo vệ quyền lợi của nhà nước và của người tiêu dùng.
Trong những mặt mạnh nêu trên, hai yếu tố “Nhà nước chủ động ổn định thị
trường” và “Nhà nước kiểm soát hệ thống phân phối” mang tính quyết định đến sự
phát triển của thị trường. Yếu tố “Bảo vệ quyền lợi của nhà nước và của người tiêu
dùng” là yêu cầu, mục tiêu cơ bản có tính nguyên tắc và là nền tảng cần thiết cho việc
đưa ra các giải pháp phát triển kinh doanh xăng dầu Việt Nam.
1.2. Thị trường xăng dầu cũng còn nhiều điểm yếu kém

Thị trường phần lớn phụ thuộc vào nhập khẩu;

Tính cạnh tranh của thị trường thấp;

Giá thành sản phẩm cao;

Khả năng cạnh tranh của các DNNN không cao;

Hiệu quả quản lý nhà nước còn hạn chế;

Cơ chế quản lý ngành phức tạp;

Chính sách về giá, thuế chưa linh hoạt.
Trong các điểm yếu trên, yếu tố “Tính cạnh tranh của thị trường thấp” , phục
thuộc nguồn xăng dầu nhập khẩu và giá dầu thô thế giới, “Giá thành sản phẩm cao”
là hệ quả từ yếu tố “hiệu quả quản lý nhà nước còn hạn chế”, có nguyên nhân từ chính

sách phát triển thị trường và phát triển ngành chưa đồng nhất của Nhà nước, xuất phát
từ đặc điểm manh mún của nền kinh tế Việt nam.
2. Giải pháp kiểm soát ảnh hưởng sự biến động xăng dầu nhằm bình ổn giá:
2.1 Giải pháp giảm sự lệ thuộc vào nguồn cung cấp dầu của thế giới – Giải pháp
tăng cung

Đẩy nhanh tiến độ xây dựng các nhà máy lọc dầu:
Việc xây dựng các nhà máy lọc dầu hiện nay có ý nghĩa rất lớn đối với ngành
dầu khí nói riêng và nền kinh tế nước ta nói chung. Khi đó chúng ta sẽ tự chủ được
một phần nào đó về cung nguyên nhiên liệu cũng như nâng cao giá trị xuất khẩu các
Nhóm thực hiện: Nhóm 5- Đêm2- K20 21
Phân tích chính sách can thiệp giá của chính phủ nhằm bình ổn giá xăng dầu ở Việt Nam
sản phẩm từ dầu mỏ thay vì là chỉ xuất khẩu dầu thô với giá trị thấp như trước kia,
đồng thời giảm được giá trị nhập khẩu xăng dầu, cải thiện cán cân thanh toán.
Nhà máy lọc dầu Dung Quất, một công trình trọng điểm quốc gia đang có
những sản phẩm xăng dầu các loại để bán cung cấp chủ yếu trong thị trường trong
nước.

Nghiên cứu, ứng dụng khoa học kỹ thuật hiện đại vào ngành khai
thác và chế biến dầu khí:
Những ứng dụng khoa học kỹ thuật vào ngành khai thác sẽ nâng cao hiệu quả
cũng như chất lượng cho hoạt động khai thác, đồng thời giảm sự lệ thuộc của ta vào
việc thuê các thiết bị của nước ngoài. Phát triển lọc dầu trong nước để tăng giá trị xuất
khẩu sản phẩm

Tiết kiệm tối đa nguồn tài nguyên thiên nhiên:
Để đảm bảo an ninh năng lượng, các nước có nhiều biện pháp khác nhau.
Trong đó đối với Việt Nam biện pháp thực thi nhất là thực hành tiết kiệm năng
lượng.
Hoạt động tiết kiệm có quy mô lớn nhất trong ngành dầu khí là chấm dứt tình

trạng đốt bỏ khí đồng hành tại nơi khai thác dầu thô, thu gom và đưa lượng lớn khí
này vào bờ phục vụ cho phát điện, sản xuất ure và các hóa chất khác, thậm chí có thể
biến thành nhiên liệu lỏng thay cho xăng.
Lượng khí đồng hành ở mỏ Bạch Hổ bị đốt bỏ từ năm 1986 đến 1994 lên đến
5.5 tỷ m
3
và sau năm 1995 lượng khí này mới được sử dụng như một năng lượng
hữu ích. Lượng khí đồng hành ở bể Cửu Long có thể thu gom khoảng 43 tỷ m
3
. Mỏ
Bạch Hổ trong thời gian ổn định có thể cung cấp 1.5 đến 2 tỷ m
3
/năm. Mỏ Rạng
Đông
ước tính mỗi ngày khai thác được 58.5 triệu m
3
nhưng từ 1998 đến 2001 ngoài việc
sử dụng cho các nhu cầu tại mỏ thì phần khí còn lại vẫn bị đốt bỏ. Trong khoảng thời
gian từ năm 2004 đến 2010, mỏ Hồng Ngọc dự tính có thể cung cấp khoảng 800 triệu
m
3
và mỏ Emerald có thể cung cấp khoảng 4.5 tỷ m
3
. Ngoài lợi ích kinh tế, việc chấm
dứt đốt bỏ khí đồng hành còn mang lại lợi ích bảo vệ môi trường, chống hiệu ứng
nhà kính do lượng khí CO
2
và CH
4
cùng các loại khí độc hại khác phát tán vào khí

quyển trong quá trình đối khí gây ra.
2.2. Giải pháp về những hàng hóa thay thế – giải pháp giảm cầu:

Hàng hóa thay thế trong ngành năng lượng và nhiên liệu:
Để có thể giảm bớt những ảnh hưởng tiêu cực của biến động giá xăng dầu đối
với nền kinh tế trong nước thì một trong những biện pháp thực hiện là giảm bớt nhu
cầu tiêu dùng của nền kinh tế đối với loại sản phẩm này. Việc giảm cầu có thể thực
hiện bằng cách tìm các nguồn năng lượng và nhiên liệu khác với nguồn xăng dầu để
vận hành máy móc, thiết bị. Như sử dụng năng lượng mặt trời, hay có thể nghiên cứu
để tìm cách tổng hợp nhân tạo những hợp chất cần thiết mà từ trước đến nay chỉ có
thể chiết xuất từ nguồn dầu mỏ.
Nhóm thực hiện: Nhóm 5- Đêm2- K20 22
Phân tích chính sách can thiệp giá của chính phủ nhằm bình ổn giá xăng dầu ở Việt Nam

Dùng phương tiện giao thông công cộng thay cho phương tiện giao thông
cá nhân:
Nước ta đông dân hơn (80 triệu dân), nếu như ½ số người sử dụng phương tiện
xe cá nhân thì cầu nguồn nhiên liệu sẽ tăng cao do vậy hạn chế hay giảm bớt xe cá
nhân, thay bằng phương tiện xe công cộng như xe buýt hay xe điện ngầm là biện pháp
cần thiết.
2.3. Giải pháp về cơ chế chính sách:

Cần tạo lập một môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp
tham gia thị trường:
Nhà nước nên đưa ra chính sách để tạo hành lang pháp lý để khuyến khích
thương nhân thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư hệ thống phân phối theo
đúng quy hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt

Cơ chế điều hành nguồn:
Việt Nam đã có nguồn xăng dầu sản xuất trong nước và đáp ứng trên 30% nhu

cầu xã hội; nguồn xăng dầu này trước hết phải được tiêu dùng tại thị trường trong
nước thông qua cơ chế đấu giá cạnh tranh để các doanh nghiệp đầu mối tiêu thụ như
xăng dầu nhập khẩu. Với cơ chế này vừa tạo được nguồn thu tối đa cho ngân sách Nhà
nước vừa bám sát giá thị trường thế giới, không qua nhiều tầng nấc trung gian đẩy giá
bán lên cao.
Trong một vài năm tới, nước ta vẫn phải nhập khẩu trên 60% nhu cầu xăng dầu
cả nước, việc phân giao hạn ngạch nhập khẩu cho các đầu mối sau khi được sắp xếp
lại không nên chia đều bình quân các sản phẩm sẽ là lãng phí xã hội nếu như doanh
nghiệp nhập khẩu với một khối lượng quá nhỏ được chia đều cho cả năm kế hoạch

Cơ chế điều hành giá bán xăng dầu: Cơ chế quản lý giá bán xăng dầu cần
hướng tới các mục tiêu sau:
(1) Sự bình ổn giá, ngăn ngừa tác động tự phát của giá xăng dầu trên thị trường
thế giới vào hệ thống giá xăng dầu trong nước, đẩy giá bán trong nước lên quá cao
hoặc giảm quá thấp không hợp lý; khuyến khích cạnh tranh về giá;
(2) Nguyên tắc điều hành giá theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà
nước, có lên, có xuống theo tín hiệu của thị trường thế giới; mức giá bán lẻ xăng của
Việt Nam tương đương với mặt bằng giá của các nước có chung đường biên giới để
ngăn ngừa và hạn chế tình trạng buôn lậu xăng dầu qua biên giới. Nhà nước chỉ can
thiệp bằng các biện pháp hành chính trong trường hợp “khẩn cấp/ đặc biệt” và được
công bố công khai để người tiêu dùng cùng chia sẻ và ủng hộ.
(3) Thực hiện nguyên tắc chia sẻ lợi ích và trách nhiệm giữa Nhà nước, doanh
nghiệp và người tiêu dùng; doanh nghiệp kinh doanh xăng, dầu phải có trách nhiệm
nộp đủ các khoản thu của ngân sách Nhà nước theo luật định (theo mức thuế mà Nhà
nước công bố)
Nhóm thực hiện: Nhóm 5- Đêm2- K20 23
Phân tích chính sách can thiệp giá của chính phủ nhằm bình ổn giá xăng dầu ở Việt Nam
2.4. Cơ chế điều hành thuế khâu nhập khẩu:
Trong thời gian qua, nguồn cung cấp xăng dầu cho tiêu thụ trong nước được
đáp ứng từ nguồn nhập khẩu, vì vậy để thu tập trung và để tránh gian lận thương mại,

nên các khoản thu của ngân sách hiện nay chủ yếu thu ở khâu nhập khẩu qua thuế
nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt (mặt hàng xăng); các khoản thu còn lại gồm thuế
VAT, phí xăng, dầu, thuế thu nhập doanh nghiệp được thu ở khâu bán ra.
Với cách điều hành thuế nhập khẩu hiện nay đáp ứng được yêu cầu nguồn thu
ngân sách được tập trung, tận thu khi giá xăng dầu trên thị trường thế giới xuống thấp.
Tuy nhiên, khi xăng dầu tiêu thụ trong nước được đáp ứng từ 2 nguồn nhập khẩu và
sản xuất trong nước, nếu để thuế nhập khẩu cao (tối đa 40%) sẽ không khuyến khích
nhà máy lọc dầu hạ thấp chi phí vì được bảo hộ thông qua thuế nhập khẩu cao, dễ dẫn
đến nguy cơ thiếu nguồn cung do nhập khẩu không cạnh tranh được.
Cần thiết phải cải cách thuế nhập khẩu một cách căn bản, theo cam kết giảm
thuế, thay thế bằng khoản thu mới, bù đắp phần hụt thu do giảm thu thuế nhập khẩu;
lượng xăng dầu được sản xuất trong nước cần được thu tương đương với nguồn nhập
khẩu để bình đẳng giữa kinh doanh xăng dầu nhập khẩu với kinh doanh xăng dầu sản
xuất trong nước. Giải pháp thực hiện là chuyển phần lớn thuế nhập khẩu và toàn bộ
thuế tiêu thụ đặc biệt sang thu ở khâu bán ra, cụ thể:
(1) Thuế nhập khẩu: nên giữ ở tỷ lệ đủ để khuyến khích sản xuất đề nghị
khung thuế nhập khẩu mới là 0% - 5% thay cho khung hiện nay 0% - 40%, phần còn
lại (sau khi trừ 5%) thu ở khâu nhập khẩu, sẽ chuyển sang thu theo số tuyệt đối ở khâu
bán ra và có thể gọi là “Thuế sử dụng xăng dầu”;
(2) Thuế tiêu thụ đặc biệt: đang áp dụng đối với mặt hàng xăng là 10% tính
trên giá CIF có thuế nhập khẩu và cũng được thu ở khâu nhập khẩu. Thời gian tới đề
nghị chuyển sang thu khâu bán ra, cũng thu theo số tuyệt đối;
(3) Phí xăng dầu không phân biệt từ nguồn sản xuất trong nước hay từ
nguồn nhập khẩu, thu 100% ở khâu bán ra như hiện nay; đối tượng kê khai và nộp phí
xăng dầu là các doanh nghiệp đầu mối vừa bảo đảm tập trung, dễ kiểm soát, tránh gian
lận.
2.5. Cơ chế Phòng ngừa rủi ro giá dầu:
Nhà nước tạo hành lang pháp lý để các doanh nghiệp nhập khẩu xăng dầu cũng
như các hộ sản xuất sử dụng nhiều xăng dầu (than, điện, xi măng, sắt thép ) có điều
kiện áp dụng cơ chế “PHÒNG NGỪA RỦI RO GIÁ DẦU” thông qua phương thức

mua bán xăng dầu phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm ổn định đầu vào của sản xuất,
bình ổn thị trường trong nước trước biến động khó lường của giá dầu thế giới
KẾT LUẬN
Nhóm thực hiện: Nhóm 5- Đêm2- K20 24
Phân tích chính sách can thiệp giá của chính phủ nhằm bình ổn giá xăng dầu ở Việt Nam
Khi có sự biến động giá xăng dầu, mỗi quốc gia đều chịu ảnh hưởng ở một mức
nhất định tùy vào quy mô của quốc gia và sự phát triển của quốc gia đó. Hiện nay các
nước phát triển đã có những kinh nghiệm đối phó tác động của sự biến động giá xăng
dầu bằng việc tăng cường dự trữ dầu, thực hiện tiết kiệm năng lượng và có ưu thế
trong việc tìm kiếm những nguồn nguyên liệu thay thế cho nên trong ngắn hạn, những
cơ chế chính sách điều tiết phù hợp thì sự biến động đó sẽ không ảnh hưởng nhiều.
Chỉ khi nào biến động đó diễn ra trong thời gian dài thì mới có thể tác động đến nền
kinh tế này. Ngược lại nước nhỏ như Việt Nam và một số nước khác, nhu cầu về nhiên
liệu, năng lượng cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước làm cho Việt
Nam chịu ảnh hưởng khá lớn với mỗi biến động giá xăng dầu trên thế giới. Vì vậy.
Xem xét và đánh giá đúng mức độ ảnh hưởng của các chính sách đối với nền kinh tế
để từ đó hạn chế những tác động tiêu cực. phát huy những mặt tích cực là những đóng
góp của bài tiểu luận này.
Nhóm thực hiện: Nhóm 5- Đêm2- K20 25

×