Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

6 vấn đề nan giải trong kinh tế vĩ mô

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1011.42 KB, 79 trang )

School of Finance, UEH



1



SÁU VẤN ĐỀ NAN GIẢI
TRONG KINH TẾ VĨ MÔ QUỐC TẾ

LÊ NGỌC PHÚ THUẬN
LẠI THỊ MAI THÙY
PHÙNG THẾ THỊNH
PHÙNG THỊ THÙY TRANG
VÕ THỊ NGỌC HẰNG









School of Finance, UEH



2



I. Giới thiệu

Kinh tế vĩ mô quốc tế là một lĩnh vực đầy rẫy những vấn đề thật sự hóc
búa và chúng ta thƣờng có từ 5 đến 10 câu trả lời khác nhau (hoặc nhiều hơn
nữa) cho từng vấn đề. Những câu trả lời này thì rất khéo léo và có vẻ là phù
hợp nhƣng lại chƣa đủ sức thuyết phục, vì thế những vấn đề nan giải vẫn tồn
tại. Tại sao ngƣời ta dƣờng nhƣ lại ƣu tiên quá nhiều cho sự tiêu dùng hàng
hóa trong nƣớc (Vấn đề nan giải về xu hƣớng nội địa hóa trong mậu dịch).
Tại sao sự mất cân đối trong tài khoản vãng lai của các quốc gia thuộc tổ
chức hợp tác và phát triển kinh tế đƣợc quan sát lại có khuynh hƣớng ít liên
quan tới tiết kiệm và đầu tƣ khi chúng đƣợc đo lƣờng trong bất kì một thời
kỳ liên tục nào (Vấn đề nan giải của Feldstein-Horioka). Tại sao những nhà
đầu tƣ trong nƣớc thƣờng thích nắm giữ những tài sản vốn cổ phần nội địa
hơn? (Vấn đề nan giải trong danh mục đầu tƣ có xu hƣớng nội địa hóa). Tại
sao sự tiêu dùng không tƣơng quan cao đối với những quốc gia thuộc tổ
chức hợp tác và phát triển kinh tế (Vấn đề nan giải về sự tƣơng quan mức
tiêu dùng – BKK puzzle). Khả năng nửa chu kỳ của những thay đổi tỷ giá
thực có thể mất từ 3 đến 4 năm xảy ra nhƣ thế nào? (Vấn đề nan giải về
ngang bằng sức mua). Tại sao tỷ giá quá dễ thay đổi và dƣờng nhƣ tách rời
khỏi những nền tảng cơ bản (Vấn đề nan giải về tỷ giá thiếu liên kết)
Những gì chúng tôi cố gắng để làm trong bài viết này là đƣa ra một nền
tảng thống nhất cho tất cả những hiểu biết về những vấn đề này, trong đó sự
ma sát chính (đầy ý nghĩa nhƣng đáng tin cậy) là một mức độ của chi phí
mậu dịch quốc tế trong thị trƣờng hàng hóa. Những chi phí mậu dịch này có
School of Finance, UEH



3

thể bao gồm chi phí vận chuyển, hàng rào thuế quan và phi thuế quan và
nhiều nhân tố khác nữa có thể cản trở mậu dịch.
Đây không phải là lần đầu tiên chúng ta đề cập đến mối quan hệ này.
Trong một đóng góp cơ bản cho những tài liệu trong thƣơng mại và tài chính
quốc tế, Samuelson (1954) tranh luận rằng sự tồn tại của một vấn đề trao đổi
quốc tế phụ thuộc rất nhiều vào việc có xu hƣớng nội địa hóa trong tiêu dùng
hay không, và ông ta còn chỉ ra rõ ràng cách mà xu hƣớng nội địa hóa bắt
nguồn từ chi phí vận chuyển nhƣ thế nào
1
. Tuy nhiên, trong một nghiên cứu
sau đó cách tiếp cận tuyến tính của Samuelson hầu nhƣ bị bỏ qua bởi sự ƣa
chuộng một mô hình đƣợc cách điệu hóa hơn căn cứ vào việc tách biệt các
sản phẩm của một quốc gia thành 2 loại: hàng hóa mậu dịch và phi mậu dịch
2
. Phân tích trong bài nghiên cứu của chúng tôi đề xuất rằng: cho nhiều mục
đích, việc phân nhóm này ít có lợi hơn những lựa chọn tự nhiên của việc giới
thiệu những chi phí mậu dịch một cách đơn giản.
1. Đặc biệt trong cách xử lý của chúng tôi đối với những bất thƣờng của thị trƣờng vốn, cách tiếp cận
trong nghiên cứu này không giống với những nghiên cứu mà thƣờng đƣợc đề cập trong các nguồn
tài liệu. Tiêu biểu, một tác giả chọn từ một danh sách của những sự bất hoàn hảo trong thị trƣờng
vốn đáng tin cậy ra một thứ thích hợp nhất để giải thích cho một câu hỏi riêng biệt. Chúng ta
không thể phủ nhận tầm quan trọng của vô số các bất hoàn hảo đặc biệt đến những thị trƣờng tài
sản quốc tế. Tuy nhiên, mục tiêu của chúng ta ở đây là chỉ ra rằng chúng ta có thể tiến xa tới đâu
trong việc Obstfeld và Rogoff (1996, Chapter 4) ghi chi phí thƣơng mại vào bản dịch của
Dornbusch-Fischer-Samuelson (1977) mô hình Ricardian và chỉ ra rằng những phân tích về vấn đề
vận chuyển Samuelson có thể mở rộng thành một sự sắp xếp chức năng hiện đại (modern dynamic
setting). See Krugman (1991) trong sự liên quan của vấn đề vận chuyển đến các cuộc tranh cãi
hiện nay trong kinh tế học vĩ mô quốc tế.
2. Một sự phản đối đáng chú ý là Backus, Kehoe, and Kydland (1992), những ngƣời mà đã nhận thấy
rằng phƣơng pháp gần đúng của họ cho việc kết hợp chặt chẽ những chi phí thƣơng mại nhỏ

không giải thích đƣợc câu đố về sự tƣơng quan tiêu dùng a calibrated one-good global real-
business-cycle mode. Một ngƣời khác, Dumas (1992), ông ta tìm kiếm một mô hình kinh tế mở
một sản phẩm năng động, stochastic với những chi phí vận chuyển và thăm dò một số lƣợng
những phần phát hành (a number of issues), bao gồm chi phí tỷ giá kì hạn. Công việc của ông ấy
là lý thuyết và chất lƣợng (theoretical), tuy nhiên ông ấy ko xác định những hàm ý có kinh nghiệm
trong mô hình của mình cho những câu đố đa dạng mà chúng ta nhìn thấy ở đây. Hơn nữa, quan
điểm của chúng tôi trong nghiên cứu này là yêu cầu phải mở rộng đến những trƣờng hợp sản phẩm
toàn cầu (multigood). Trong một bài báo gần đây, Ravn and Mazzenga (1999) nghiên cứu xa hơn
về những …(implication) chu kì kinh doanh của các chi phí vận chuyển trong một biến thể của mô
hình Backus-Kehoe-Kydland.
School of Finance, UEH



4
làm sáng tỏ những bí ẩn cốt lõi trong thực tiễn mà không đá động gì đến bản
chất những sự bất hoàn hảo của thị trƣờng vốn quốc tế. Đáng chú ý, chúng
tôi nhận thấy rằng một khi đã tính đến chi phí mậu dịch trong thị trƣờng
hàng hóa, nhiều mâu thuẫn thực nghiệm với các mẫu hình kinh điển của
kinh tế vĩ mô quốc tế đã biến mất. Cách tiếp cận của chúng tôi – căn cứ vào
một mô hình cách điệu hóa rất đơn giản – thì dƣờng nhƣ là một thành công
đặc biệt trong việc giải quyết khối lƣợng lớn các vấn đề nan giải cốt lõi. Để
giải thích một cách thỏa đáng cho những vấn đề khác nhau về việc định giá,
chúng ta sẽ cần phải phát triển một cơ cấu đa dạng hơn để làm nổi bật sự
cạnh tranh không hoàn hảo, cùng với giá cả và tiền lƣơng cố định, nhƣ trong
những tài liệu mở rộng gần đây về “nền kinh tế mở vĩ mô mới” đề cập đến.
Mặc dù chúng tôi không trình bày một mô hình ở đây, nhƣng chúng tôi sẽ
chứng minh rõ ràng tại sao chi phí mậu dịch lại là một nhân tố thiết yếu.
Vấn đề đầu tiên mà chúng tôi đề cập đến là vấn đề về hiện tƣợng nội
địa hóa trong mậu dịch (McCallum, 1995), và khi chúng tôi tìm hiểu thì điều

này gần nhƣ có liên quan đến những vấn đề chuyển đổi cổ điển. Theo sau
Wei (1998) và Evans (1999) chúng ta sẽ thảo luận chi phí mậu dịch thực
nghiệm hợp lý, kết hợp với những ƣớc lƣợng chuẩn về độ co giãn của sự
thay thế giữa nhập khẩu và xuất khẩu, có thể giải thích đƣợc nhiều điều
trong vấn đề này nhƣ thế nào.
Bằng cách thiết lập sự ma sát thƣơng mại trong những phân tích cốt lõi
của chúng tôi, chúng ta lại trở lại với một trong những vấn đề sơ khai và
hốc búa nhất trong tài chính quốc tế, những vấn đề nan giải của Feldstein
Horioka. Chúng tôi chỉ ra rằng chi phí mậu dịch có thể tạo nên cái nêm giữa
lãi suất thực có hiệu lực áp dụng cho ngƣời đi vay và cho vay. Trong mô
hình của chúng tôi, tác động này có tính phi tuyến cao, nó tự biểu hiện mình
School of Finance, UEH



5
một cách mạnh mẽ chỉ khi mà sự mất cân đối tài khoản vãng lai trở nên quá
lớn. Chúng tôi tranh luận rằng lãi suất thực mới hình thành sẽ có tác động
giữ cho sự mất cân đối trong tài khoản vãng lai đƣợc quan sát nằm giữ trong
một phạm vi bình thƣờng. Mặc dù cơ bản là dựa vào sức mạnh lý thuyết của
những tranh luận, nhƣng chúng tôi sẽ chứng minh một cách có kinh nghiệm
rằng những quốc gia có sự thâm hụt tài khoản vãng lai có khuynh hƣớng có
lãi suất thực cao, nhƣ mô hình của chúng tôi dự báo.
Kế đến, chúng tôi chỉ ra rằng với cùng một phƣơng pháp tiếp cận có thể
giải thích một cách đơn giản và nhẹ nhàng về xu hƣớng nội địa hóa đƣợc
thảo luận rộng rãi trong việc nắm giữ vốn cổ phần nội địa (hay rộng hơn nữa
là cho tất cả các tài sản). Phần dƣới đây bao gồm vấn đề về sự tƣơng quan
tiêu dùng, điều mà có liên quan chặt chẽ với ba nhân tố trƣớc đó, vì thế
không có gì là đáng ngạc nhiên khi một lần nữa chúng tôi áp dụng cùng một
cách tiếp cận . Chúng tôi cũng đề cập một cách ngắn gọn đến những nhân tố

khác có liên quan.
Chúng tôi đã bỏ qua những điều cứng nhắc không đáng kể trong thảo
luận của mình về bốn vấn đề đầu tiên, bởi vì lý luận chính của chúng tôi
không phụ thuộc vào sự có mặt của chúng. Nhƣng khi chúng tôi trở lại với
hai vấn đề cuối cùng – vấn đề về sự ngang bằng sức mua và tỷ giá hối đoái
thiếu liên kết – dĩ nhiên chúng tôi phải nghĩ đến việc thêm vào những thành
phần khác, trong một hình thức của sự cạnh tranh không hoàn chỉnh và một
mức độ cứng nhắc nào đó của lƣơng và giá. Tuy nhiên chúng tôi tranh luận
rằng chi phí mậu dịch trong thị trƣờng đầu ra phải là một thành phần cốt yếu
trong việc giải quyết tốt các vấn đề này. Phần cuối cùng kết luận và đánh giá
kết quả của chúng tôi trong việc làm rõ hơn xu hƣớng dài hạn của các chi
phí vận chuyển thế giới.
School of Finance, UEH



6
2. VẤN ĐỀ VỀ XU HƯỚNG NỘI ĐỊA HÓA TRONG MẬU DỊCH
Điểm xuất phát cho tất cả các vấn đề mà chúng tôi khảo sát là những
dấu hiệu tăng trƣởng mà thị trƣờng hàng hóa quốc tế xuất hiện nhiều sự
phân khúc hơn là những gì chúng ta tƣởng. Có lẽ những đề xuất ấn tƣợng
nhất của sự phân khúc xuất phát từ nghiên cứu của McCallum (1995). Bằng
cách sử dụng mô hình trọng lƣợng của Tinbergen (nhóm NC TCQT sẽ trình
bày trong phần phụ lục) điều chỉnh theo khoảng cách, các quy mô đối tác
thƣơng mại và một vài nhân tố khác, McCallum đã nhận thấy rằng mậu dịch
giữa các tỉnh thành trong nội bộ quốc gia Canada lớn gấp 20 lần mậu dịch
giữa cá nhân các tỉnh thành Canada với các tiểu bang của Mỹ, một sự chênh
lệch lớn đáng ngạc nhiên. Sự thật là những tài liệu sau đó vừa củng cố
những ƣớc tính của McCallum vừa nghi ngời sự giải thích của chúng.
Những tính toán của McCallum căn cứ vào thời điểm năm 1988, khởi đầu

của hiệp định tự do mậu dịch giữa Mỹ và Canada, và trƣớc khi những mô
hình mậu dịch đƣợc điều chỉnh một cách đầy đủ. Bằng việc sử dụng những
dữ liệu của giai đoạn 1993 – 1996, Helliwell (1998) đã nhận thấy rằng xu
hƣớng nội địa hóa không giải thích đƣợc rơi vào một thừa số của 12, điều
mà vẫn còn gây ngạc nhiên cho nhiều ngƣời. Mặc dù những dữ liệu mậu
dịch nội bộ chỉ có sẵn đối với Mỹ và Canada, Wei (1998) và Evans (1999)
đã sử dụng những phƣơng pháp gián tiếp để kiểm tra xu hƣớng nội địa hóa
của các cặp quốc gia khác trong tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế. Wei đề
xuất rằng sự thiên lệch trung bình chỉ thấp cỡ 2.5, trong khi Evans nhận thấy
những giá trị ở giữa những giá trị của Wei và Helliwell.
3
Van Wincoop
(2000) tranh luận rằng thậm chí mặc dù McCallum điều chỉnh ở phạm vi tiểu
bang và tỉnh thành trong phƣơng trình trọng lƣợng của ông ta, nhƣng sự đo
lƣờng chuyển hƣớng thƣơng mại của ông vẫn gây ra một ấn tƣợng quá mức
School of Finance, UEH



7
về xu hƣớng nội địa hóa trong mậu dịch toàn cầu, bởi vì nó tính toán sự
thiên lệch từ triển vọng của quốc gia nhỏ, Canada, hơn là từ triển vọng của
một quốc gia lớn, Mỹ
4
. Một cách tổng thể, sự giải thích cân bằng của những
tài liệu cho rằng các quốc gia pho bày một mức độ hƣớng nội cao trong mậu
dịch, nhƣng sự thiên lệch này không cực đoan nhƣ những đánh giá ban đầu
của McCallum đã đề xuất.
Nhƣng nếu vẫn có một mức độ có ý nghĩa của xu hƣớng nội địa hóa
trong mậu dịch quốc tế, chúng ta có thể giải thích nó nhƣ thế nào? Rõ ràng,

mậu dịch quốc tế làm kéo theo những chi phí cộng thêm do ranh giới giữa
hai quốc gia chẳng hạn nhƣ: rào cản thuế quan và phi thuế quan, rủi ro tỷ giá
(và cũng có thể là chi phí vận chuyển quốc tế thì cao hơn do những vấn đề
hợp tác lớn trong việc xây dựng hệ thống vận chuyển thế giới). Có phải
những chi phí phát sinh theo ranh giới quốc gia này là cần thiết để làm phát
sinh xu hƣớng nội hóa đƣợc khảo sát, thậm chí là hơn cả trong phạm vi
những đánh giá khiêm tốn của Wei và Evans? Một cách không cần thiết, vì
những vấn đề thật sự là sự tƣơng tác giữa chi phí theo ranh giới và sự co
giãn thay thế giữa hàng hóa trong nƣớc và nƣớc ngoài. Vì đây là một chủ đề
tuần hoàn trong thảo luận của chúng tôi về nhiều vấn đề khác nhau, thật cần
thiết để chọn ra một ví dụ đơn giãn để minh họa.
3. Wei cố gắng để đánh giá sự hƣớng nội một cách gián tiếp bằng cách nhìn nhận số lƣợng mà một
quốc gia nhập khẩu từ chính nó chính là sự khác biệt giữa tổng sản phẩm và tổng xuất khẩu. Tuy
nhiên, sự ƣớc đoán sự hƣớng nội vào mức 2.5 của ông Wei có thể thấp hơn do sự loại trừ khu vực
dịch vụ ra khỏi sự tính toán. Evans (1999) sử dụng dữ liệu của những quốc gia đƣợc lựa chọn cho
một số lƣợng những quốc gia thuộc tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế.
4. Van Wincoop (2000) chỉ ra rằng việc đo lƣờng sự chênh lệch thƣơng mại của McCallum phải
đƣợc giải thích một cách cẩn thận để xác định đƣợc (negative border) tác động đến thƣơng mại
Mỹ - Canada nhƣ thế nào. Bởi vì nền kinh tế Canada thì (relative) quá nhỏ bé so với kinh tế Mỹ,
nên chỉ một sự thay đổi vừa phải trong mậu dịch Mỹ - Canada trong mậu dịch của Canada cũng
đƣa tới một sự gia tăng tỷ lệ phần trăm đáng kể trong mậu dịch của bản thân nƣớc Canada. Bằng
cách sử dụng các dữ liệu mậu dịch giữa các tiểu bang của Mỹ, Van Wincoop đánh giá rằng ranh
giới giữ Mỹ và Canada đã làm giảm mậu dịch giữa hai nƣớc lên đến mức tố đa là 30%.
School of Finance, UEH



8
2.1 MÔ HÌNH CỦA SỰ TƢƠNG TÁC GIỮA CHI PHÍ MẬU DỊCH VÀ
SỰ CO GIÃN CỦA CẦU THEO GIÁ

Ở đây chúng tôi sẽ chỉ ra rằng bằng cách nào chi phí mậu dịch quốc tế
có thể làm cho sự tiêu dùng nội địa hƣớng về những hàng hóa đƣợc sản xuất
trong nƣớc một cách ấn tƣợng.
Giả định một nền kinh tế cực kỳ đơn giản chỉ có sự giao thƣơng của 2
quốc gia. Trong đó, hàm hữu dụng đại diện cho việc tiêu thụ hàng hóa trong
nƣớc đƣợc biểu diễn nhƣ sau:
 
)1/(
/)1(/)1(





FH
CCC
(1)
Trong đó: C
H
: là mức tiêu dùng nội địa của hàng hóa sản xuất trong nƣớc
C
F
: là mức tiêu dùng nội địa của hàng hóa sản xuất nƣớc ngoài
Hàm hữu dụng của hai nƣớc đang đƣợc xem xét (2 nƣớc đang giao
thƣơng) đƣợc giả định là giống hệt nhau. Với: C
*
H
, C
*
F

tƣơng ứng là mức
tiêu dùng của nƣớc giao thƣơng.
Mức tiêu dùng trong nƣớc thì phụ thuộc vào sản lƣợng trong nƣớc (Y
H
)
trên đầu ngƣời, còn mức tiêu dùng nƣớc ngoài thì phụ thuộc vào sản lƣợng
Y
F
trên đầu ngƣời. Chúng tôi cho rằng có nguyên lý tảng băng trôi trong chi
phí vận chuyển, vì vậy, đối với mỗi một đơn vị hàng hóa trong nƣớc (hoặc
ngoài nƣớc) đƣợc vận chuyển bằng tàu chỉ còn một phần giá trị 1- τ đến
đƣợc bờ biển nƣớc ngoài (hoặc nƣớc chủ nhà). Ta có P
H
(P
F
) là giá nội địa
của hàng hóa trong nƣớc (hoặc hàng hóa nƣớc ngoài) và P
*
H
(P
*
F
) là giá cả
tƣơng ứng ở nƣớc ngoài, tất cả giá cả đƣợc đo lƣờng với cùng một đơn vị
tiền tệ phổ biến trên thế giới (bởi vì chúng ta đang ở trong một thế giới mà
giá cả là linh hoạt, nên thật không quan trọng việc có hai quốc gia dùng
School of Finance, UEH




9
chung một đơn vị tiền tệ hay không). Sau đó, nếu nhƣ các thị trƣờng có cạnh
tranh thì kinh doanh chênh lệch giá ngụ ý rằng:
P
F
= P
*
F
/(1 – τ), (2)
P
H
= (1 – τ) P
*
H
. (3)
Do đó, nếu ta đặt p = P
F
/P
H
, và p
*
= P
*
F
/ P
*
H
,
p
*

= p(1 – τ)
2
. (4)
(Chúng ta sẽ duy trì giả định về thị trƣờng cạnh tranh trong suốt 4 phần
đầu tiên của nguyên cứu này, mặc dù quan điểm chính của chúng tôi vẫn
đƣợc ứng dụng trong bối cảnh cạnh tranh không hoàn hảo khi chúng tôi thảo
luận về vấn đề thứ 5 và 6)
Từ điều kiện đầu tiên cho sự gia tăng cực đại của hàm hữu dụng bởi
mức tiêu dùng trong và ngoài nƣớc, chúng ta có:


p
C
C
F
H



*)(
*
*
p
C
C
F
H

(5 )
Kết hợp (4) và (5) suy ra:

*
*
2
)1(
H
H
F
H
C
C
C
C




( 6 )
Để minh họa, ta xem xét một trƣờng hợp cân đối đơn giản sau Y
H
= Y
F
,
thừa nhận C
H
/C
F
= C
*
F
/C

*
H
và phƣơng trình (6) đƣợc biến đổi nhƣ sau:



p
C
C
C
C
H
F
F
H


)1(
*
*

Phƣơng trình này chỉ ra rằng, tỷ lệ của mức tiêu dùng trong nƣớc (nƣớc
ngoài) trên hàng hóa nhập khẩu tƣơng đối với hàng hóa trong nƣớc (nƣớc
ngoài) nhƣ sau:

)1(
*
**
)1(





H
F
F
H
C
Cp
pC
C


School of Finance, UEH



10
Vì vậy, ví dụ nhƣ không có chi phí mậu dịch (τ = 0), suy ra pC
F
/C
H
=
1. Nếu τ = 0.25 (…) và θ = 6, suy ra: C
H
/pC
F
= 4.2. Tỷ lệ này thì phù hợp
với những gì mà chúng tôi quan sát đƣợc ở nhiều quốc gia thuộc tổ chức hợp
tác và phát triển kinh tế và mức độ của xu hƣớng nội địa hóa có thể đƣợc mở

rộng bằng cách gia tăng τ hoặc θ hoặc giả định rằng một quốc gia thì đang
mậu dịch rất ít với những đối tác nƣớc ngoài có cùng mức độ phát triển

2.2 QUAN HỆ PHI TUYẾN GIỮA CHI PHÍ MẬU DỊCH VÀ TÌNH
TRẠNG NỘI ĐỊA HÓA TRONG MẬU DỊCH
Chi phí mậu dịch càng cao (τ tiến gần đến 1) thì tác động của 1% sụt
giảm giá trị của τ trong xu hƣớng nội địa hóa càng lớn

)1(
1log
)/log(







d
pCCd
FH

Đối với trƣờng hợp chuẩn của chúng tôi τ = 0.25, θ = 6, sự co giãn của
xu hƣớng nội địa hóa đối với chi phí mậu dịch là:
67.1)1/()1( 


Hiển nhiên là ví dụ này đã đƣợc đơn giản hóa quá mức. Nó hoàn toàn
thừa nhận độ co giãn thay thế chung đối với hàng hóa của bất kì một cặp
quốc gia riêng lẽ nào, nƣớc chủ nhà và nƣớc ngoài. Một cách tƣơng tự, tổng

thể tất cả hàng hóa đều có cùng chi phí mậu dịch. Nó bỏ qua sự quan trọng
tiềm năng của sự thay thế giữa những yếu tố đầu vào nội địa và nƣớc ngoài
trong sản xuất. Tuy nhiên, nó minh họa ngắn gọn rằng một sự co giãn thay
thế cao có thể giải thích đƣợc một sự nội địa hóa thƣơng mại đƣợc quan sát
lớn nhƣ thế nào thậm chí với chi phí mậu dịch thấp. Đâu là giá trị hợp lý cho
những tham số τ và θ?
2.3 NHỮNG ƢỚC LƢỢNG THỰC NGHIỆM CỦA θ
School of Finance, UEH



11
Mặc dù những ƣớc lƣợng của θ nằm trong một giới hạn nào đó, nhƣng
những nghiên cứu gần đây về thƣơng mại đã tìm thấy những giá trị cho sự
co giãn của cầu nhập khẩu đối với giá cả (tính trên tất cả các hàng hóa trong
rổ hàng hóa tiêu dùng nội địa) thì nằm đâu đó trong khoảng giá trị từ 5 đến
6. Chẳng hạn nhƣ kể cả Trefler và Lai (1999), những ngƣời mà đã trình bày
với ban hội thẩm về những ƣớc lƣợng trong giai đoạn 1972 – 1992 cho một
ban hội thẩm của 28 ngành công nghiệp của 36 quốc gia. Dự đoán của họ
thiên về con số 5.3. Con số trung bình đó phản ánh độ co giãn của sự thay
thế phân tán đƣợc ƣớc lƣợng cao đến 21.4 (đối với ngành hóa học công
nghiệp), 18.9 (đối với ngành điện và máy điện tử), nhƣng cũng thấp đến 1.2
( đối với ngành in ấn xuất bản). Harrigan xem xét dữ liệu phân loại theo tiêu
chuẩn SITC 1983 (mã 3 chữ số) của 13 nƣớc OECD đại diện cho 90% sự
sản xuất của OECD và nhận thấy độ co giãn nằm trong phạm vi 5 – 12.
Phải công nhận rằng có nhiều giao dịch liên quan đến những ngành
công nghiệp cạnh tranh không hoàn hảo. Có thể cố gắng để suy ra giá trị của
θ bằng cách xem xét sự gia tăng của giá cả vƣợt quá chi phí biên. Sử dụng
cách tiếp cận đó, Cheung, Chinn, and Fujii đã quan sát những dữ liệu bình
quân cấp 2 chữ số của ngành công nghiệp trong phạm vi những quốc gia

thuộc tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế, và họ quy tính co giãn vào trong
phạm vi 3.5 đến 4. Hummels (1999a) cố gắng để xử lý những tác động của
độ co giãn thƣơng mại phát sinh từ những tác động của độ co giãn thay thế
trong cơ cấu một mặt cắt. Bằng cách sử dụng phƣơng pháp bình phƣơng nhỏ
nhất tuyến tính, ông tiến gần đến mức tăng trung bình là 22%, ứng với giá trị
của θ là 5.6, mặc dù ông ta đã dự đoán ra những giá trị khác cao hơn. Cuối
cùng, trong một bài báo kinh điển của họ về cầu ô tô, bao gồm cả những sản
School of Finance, UEH



12
phẩm trong nƣớc và ngoại nhập, Berry, Levinsohn, and Pakes (1995) đã
nhận thấy sự co giãn của cầu đối với giá nằm trong mức 3.1 đến 6.4
5
.
5. Những nghiên cứu về dấu ấn độc quyền trong bán hàng nội địa, mặc dù ở đây không thật sự có thể
áp dụng một cách trực tiếp, cũng nhƣ những ƣớc đoán sản lƣợng tƣơng tự cho ø. Ví dụ,
Rotemberg and Woodford (1992) tìm ra một dấu ấn cho nƣớc Mỹ xung quanh con số 20%, tƣơng
ứng với giá trị ø = 6, những thảo luận (insubsequent), Rotemberg and Woodford (1995) tranh cải
rằng có một sự không chắc chắn lớn về dấu ấn hiện nay của nền công nghiệp Mỹ, mà những đánh
giá đƣợc ƣa chuộng nằm trong phạm vi 20% đến 40%, tức là ø có giá trị từ 3.5 đến 6.

Dĩ nhiên, những nghiên cứu này ám chỉ những hàng hóa thật sự đƣợc
giao dịch. Nhƣ Hummels nhấn mạnh, có khả năng là độ co giãn thay thế sẽ
cao hơn giá trị trung bình đối với những hàng hóa không đƣợc giao dịch.
Trong trƣờng hợp này, một ƣớc lƣợng θ = 20 nhƣ Wei dự đoán thì dƣờng
nhƣ không hợp lý. Brown và Stern (1989) sử dụng giá trị θ = 15 cho cuộc
thử nghiệm đáng tin cậy của mình


2.4 NHỮNG ƢỚC LƢỢNG THỰC NGHIỆM CỦA CHI PHÍ MẬU DỊCH
τ
Có một sự thiếu nhất trí về mức độ của chi phí mậu dịch, bao gồm
(trong số những thứ khác) hàng rào thuế quan và phi thuế quan và chi phí
vận chuyển. Năm 1993 trên nền tảng có trọng số của một nền sản xuất nội
địa, thuế suất trung bình của Mỹ là 4.9%, của liên minh Châu Âu là 7.7%,
của Nhật là 3.5%, của Canada là 8.9%
6
. Về phần hàng rào phi thuế quan,
những thống kê chính thức chỉ đƣa ra thông tin về sự tồn tại của chúng, còn
về tác động của chúng thì phải ƣớc lƣợng bằng cách sử dụng mô hình kinh
tế. Đối với thuế Anderson và Neary (1998) sử dụng một mô hình cân bằng
chung có thể tính toán đơn giản để ƣớc lƣợng mức thuế tƣơng ứng tƣơng
đƣơng với hàng rào phi thuế quan cho một phạm vi lớn các quốc gia, và một
cách tiêu biểu, họ đã tìm thấy những ƣớc lƣợng trong cùng tầm quan trọng,
School of Finance, UEH



13
dĩ nhiên là nó lớn hơn đối với một vài quốc (chẳng hạn nhƣ Nhật Bản) hơn
là những quốc gia khác (chẳng hạn nhƣ Mỹ). Kết quả này cũng phù hợp với
những ƣớc lƣợng về phƣơng trình thƣơng mại của Lee và Swagel (1997)
7
.
6. xem OECD (1996, bảng 1.1, dòng 9)
7. tuy nhiên, Harrigan (1993) nhận thấy rằng hàng rào phi thuế quan thì không quan trọng bằng thuế
và chi phí vận chuyển.

Những chi phí vận chuyển quốc tế khác nhau cũng là một yếu tố tiềm

năng quan trọng của τ.
8
Nếu nhìn qua tất cả các hàng hóa mậu dịch trên một
giá trị trọng số cơ bản thì chi phí vận chuyển, phí bảo hiểm cho hàng nhập
khẩu của Mỹ trung bình khoảng 3.6% năm 1995 và 3.3% năm 1996 và
1997
9
. Nhƣng những con số này báo cáo thấp đi đáng kể chi phí trung bình
trong vận chuyển hàng hóa bằng tàu. Đầu tiên, nhƣ Hummels (1999a) đã chỉ
ra rằng chi phí trung bình thì cao hơn nhiều đối với nhiều quốc gia khác (Vì
Mỹ có đƣờng bờ biển dài và vận chuyển bằng đƣờng biển có khuynh hƣớng
rẽ hơn bằng đƣờng bộ). Thứ 2, những con số này chƣa bao gồm những chi
phí đáng kể khác của việc vận chuyển quốc tế, bao gồm việc chuẩn bị những
giấy từ cần thiết (vận đơn) để phù hợp với thông lệ quốc tế và những chi phí
của việc trì hoãn trong khâu quá cảnh hoặc trong khâu tiếp nhận tại cảng
Đúng nhƣ sự đo lƣờng thực nghiệm về tính co giãn thay thế giữa hàng
hóa nội địa và hàng ngoại nhập có thể có xu hƣớng đi xuống, cũng có khả
năng là những ƣớc lƣợng đơn giãn về chi phí vận chuyển trung bình đƣợc
báo cáo thấp hơn nhiều so với τ trung bình đối với tất cả những hàng hóa
trong nền kinh tế (nhờ vào những tác động thay thế). Bảng 1 đƣa ra từ
Hummels (1999a), ngƣời mà căn cứ vào những ƣớc lƣợng của ông ta trong
sự phân tán cao những dữ liệu 10 số. Chúng ta có thể nhìn thấy trong bảng
trên rằng chi phí vận chuyển của nhiều loại hàng hóa thì hơi lớn hơn chi phí
School of Finance, UEH



14
vận chuyển trung bình (có trọng số), bảng trên đã loại bỏ những hàng hóa
không đƣợc giao dịch.

8. nhớ lại rằng những dự đoán của Helliwell and McCallum sử dụng khoảng cách trong một nỗ lực
kiểm soát chi phí vận chuyển. Tuy nhiên, khoảng cách địa lý là một sự đo lƣờng không hoàn hảo
của những chi phí này
9. Tác giả rất cảm ơn Robert Feenstra vì đã biên soạn những con số này căn cứ vào nhập khẩu hàng
hóa của Mỹ, cục điều tra dân số Mỹ. những ƣớc lƣợng đƣa ra chi phí vận chuyển nhƣ là một tỷ lệ
phần trăm của tổng giá trị nhập khẩu chƣa tính những khoản phí này. Quan trọng là những con số
này không đề cập đến vùng nội địa hay cảng biển mà chuyến hàng khởi hành từ (nơi xuất phát của
chuyến hàng)


Bảng 1 PHÂN LOẠI HÀNG HÓA THEO TỶ SUẤT VẬN CHUYỂN - SUẤT CƯỚC
(MỸ, 1994)
a

Average freight rate
Hàng hóa thương mại
Trade-weighted
Unweighted
Tất cả hàng hóa
3.8

Thực phẩm chƣa chế biến
8.2
14.1
Thức uống và thuốc lá
6.9
14.4
Nguyên liệu thô
8.2
15.1

Nhiên liệu vô cơ, dầu nhớt
6.6
15.7
Dầu mỡ động thực vật
7.1
10.6
Sản phẩm hóa học và những sản phẩm có liên quan
4.5
9.0
Vật liệu
5.3
10.3
Trang thiết bị máy móc, phƣơng tiện vận chuyển
2.0
5.7
Sản xuất linh tinh
4.7
8.3
Tất cả hàng hóa khác
1.0
2.5
Nguồn: Hummels (1999a) đƣợc sƣu tập từ cục điều tra dân số Mỹ, nhập khẩu hàng hóa
Mỹ. Chi phí vận chuyển bao gồm phí chuyên chở và phí bảo hiểm nhƣ là một tỷ lệ phần
trăm trong tổng giá trị tính theo các tiêu chuẩn kế toán tài chính (FAS). Những tính toán
dựa trên dữ liệu hệ thống Harmonized 10 nhóm hàng hóa (trên 15.000 chủng loại hàng
School of Finance, UEH



15

hóa). Chi phí chuyên chở không có trọng số thì căn cứ vào tất cả những hàng hóa đơn lẽ
đƣợc nhập khẩu
Những nhân tố khác nào có thể đƣợc bao gồm trong τ? Trong một bài
viết đối lập, Rose (2000) sử dụng mô hình trọng lực tranh luận rằng những
quốc gia với những liên minh tiền tệ trao đổi mua bán với nhau nhiều gấp 2
hay3 lần so với những quốc gia khác không sử dụng cùng một đồng tiền
chung. Tất nhiên, chi phí chuyển đổi tiền và sự không chắc chắn của tỷ giá
có thể đƣợc cộng vào chi phí mậu dịch. Trong khi tính biến thiên của tỷ giá
hối đoái có thể có những tác động xấu trực tiếp lên sự chu chuyển vốn, bất
kỳ một tác động tiêu cực trực tiếp nào đến dòng chảy mậu dịch đều dẫn đến
một sự gia tăng gián tiếp những bất hoàn hảo trong thị trƣờng vốn theo phân
tích của chúng tôi. Tƣơng tự đối với những chi phí thông tin đa dạng của
mậu dịch quốc tế, xem Rauch (1999) và Portes và Rey (1999) với những
thảo luận và những bằng chứng thực nghiệm
10
. Những khác biệt trong hệ
thống luật pháp và phƣơng thức chi trả có thể cũng đƣợc cộng vào τ.
Cuối cùng nhƣng cũng không kém phần quan trọng là phải nhấn mạnh
rằng những phân tích của chúng tôi giả định rằng không có sự hƣớng nội
trong sở thích. Giả định rằng chúng tôi thay thế hàm hữu dụng đại diện cho
mức tiêu dụng nội địa (1) bằng:
)1(//)1(/)1(
)(




FH
CCU


Và hàm hữu dụng đại diện cho mức tiêu dùng nƣớc ngoài là:
)1(//)1*(/)1*(*
)(




FH
CCU

Có thể dễ dàng chỉ ra rằng những tác động của sự hƣớng nội trong sở
thích (ω <1) là tƣơng ứng với những tác động của chi phí thƣơng mại τ.
School of Finance, UEH



16
Helpman (1999) tranh luận rằng một khi có thể kiểm soát đƣợc thu nhập, sẽ
không có dấu vết rõ ràng của sự hƣớng nội trong sở thích. Thật vậy, nó giúp
làm rõ hơn để tìm thấy nguồn gốc của sự thiên lệch thƣơng mại từ những ma
sát khác. Tuy nhiên điều quan trọng là phải nhận ra rằng một sự hƣớng nội
trong nhu cầu hàng hóa có thể tác động tƣơng tự đến chi phí thƣơng mại, ít
10. Anderson và Marcouiller (1999) tranh cãi rằng chính sự tham nhũng và những hợp đồng không
hoàn hảo bắt buộc là những nhân tố lớn phá vỡ mậu dịch, đặc biệt là đối với những nƣớc đang
phát triển. vì trọng tâm của chúng tôi là những nƣớc công nghiệp hóa nên chúng ta sẽ không quan
tâm đến những loại chi phí mậu dịch xa hơn này ở đây.
nhất là đối với những vấn đề về mậu dịch và sự thiên lệch trong danh mục
đầu tƣ.
2.5 NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ THƢƠNG MẠI THỰC
Mặc dù những vấn đề về tài chính quốc tế là trọng tâm của chúng tôi,

chúng tôi vẫn chú ý rằng những chi phí thƣơng mại có thể giải thích tốt cho
một số những vấn đề về thƣơng mại thực. Ví dụ, những giải thích đƣợc ƣa
chuộng của Trefler về (missing trade) vấn đề về thƣơng mại gián đoạn kết
hợp với những khác biệt trong năng suất trung lập Hicks (Hicks-neutral
productivity) đối với nhiều quốc gia với một sự hƣớng nội trong tiêu dùng
(thứ mà với mỗi thảo luận của chúng tôi ở trên có thể đã đƣợc suy ra từ chi
phí thƣơng mại). Deardorff (1998) chỉ rõ ra rằng với những chi phí vận
chuyển, những điều kiện tiêu chuẩn cho sự cân bằng giá cả yếu tố sản xuất
trong thế giới của Heckscher-Ohlin sụp đỗ , điều này cũng hàm ý đến sự
chuyên môn hóa lớn. Khi sự cân bằng giá cả nhân tố sản xuất thất bại thảm
hại trên thực tế, điều này hàm ý đến một vấn đề quan trọng khác có thể đã
đƣợc giải quyết một phần bởi chi phí vận chuyển
11
. Anderson (1979),
Deardorff (1998) và những ngƣời khác chỉ ra rằng chi phí vận chuyển có thể
giúp giải thích sức mạnh thực tiễn đáng ngạc nhiên về phƣơng trình trọng
School of Finance, UEH



17
lƣợng của dòng chu chuyển thƣơng mại .Không chỉ những chi phí thƣơng
mại giúp giải quyết một số các vấn đề trong dữ liệu, chúng còn có vẻ quan
trọng trong việc xác định những biểu hiện kinh tế. Radelet và Sachs (1998)
tranh luận rằng những quốc gia có chi phí chuyên chở cao do địa hình bất lợi
(ví dụ núi cao hay đƣờng vào cảng bị giới hạn) tăng trƣởng chậm hơn nhiều
11. “thƣơng mại gián đoạn” là cách mà Trefler mô tả cho những bí ẩn mà những nhân tố đƣợc quy
cho là chứa đựng trong thƣơng mại thì không có vẻ là tƣơng ứng với lợi thế cạnh tranh
so với những quốc gia có lợi thế vận chuyển tự nhiên. Cuối cùng chúng tôi
lƣu ý rằng những bằng chứng trong sự chênh lệch giá cả quốc tế dƣờng nhƣ

khá phù hợp với một mức độ phân khúc thị trƣờng cao đƣợc chứng tỏ về mặt
số lƣợng; chúng tôi sẽ trở lại với vấn đề này sau trong khi thảo luận các vấn
đề 5 và 6.
Trang bị một sự hiểu biết đơn giãn về việc bằng cách nào mà những chi
phí thƣơng mại hợp lý cũng nhƣ là tính co giãn cao của sự thay thế trong
tiêu dùng có thể giải thích sự hƣớng nội đáng kể trong mậu dịch, chúng ta
sẵn sàng khảo sát sự liên kết với những vấn đề lớn khác.









School of Finance, UEH



18














3. Vấn đề nan giải của Feldstein – Horioka
Hiện đã có không thiếu các giải thích cho lý thuyết nổi tiếng về vấn đề
nan giải trong tiết kiệm - đầu tƣ của Feldstein và Horioka (1980), với rất
nhiều bài viết về các chủ đề đã đƣợc xuất bản trong hầu hết các tạp chí hàng
đầu. Nhƣng vấn đề là trong số các giải thích đó , không có bất kì giải thích
nào (bao gồm cả nỗ lực của chúng tôi) thuyết phục một cách tuyệt đối .
Hầu hết các giải thích hợp lý, nhƣng thiếu kinh nghiệm và vẫn còn nhiều
phiền hà, có xu hƣớng tốn nhiều chi phí hơn cho việc xử lý những vấn đề đó
. Thực tế , nguyên tắc đó dƣờng nhƣ không có đặc trƣng trong dữ liệu của
một quốc gia , điều này thể hiện những nhân tố bên trong ảnh hƣởng đến
thƣơng mại giữa các nƣớc phụ thuộc vào cách làm việc .
School of Finance, UEH



19
3,1 VẪN CÕN MỘT BÀI TOÁN :

Feldstein và Horioka đã thực sự chứng tỏ điều gì , tất nhiên, là trên
khắp các quốc gia OECD, xét trong một khoảng thời gian dài thì thì tỉ lệ tiết
kiệm nội địa trung bình là tương quan cao với một tỷ lệ tương tự trong đầu
tư nội địa trung bình . Quả thật vậy, trong các mẫu kiểm tra dữ liệu ban đầu
của Feldstein và Horioka, từ năm 1960 đến giữa những thập niên 1970 , hồi
qui chéo đầu tƣ theo tiết kiệm gần nhƣ là có cùng hệ số với nhau trong suốt
giai đoạn này . Sự thật là , hệ số Feldstein-Horioka này – đây là một cách
để giải thích nhƣ đo lƣờng hiệu quả của tỷ lệ tiết kiệm trên tỷ lệ đầu tƣ ,

hoặc đo lƣờng một tỉ lệ "tiết kiệm giữ lại để đầu tƣ " - đã giảm theo thời
gian . Nhƣ Bảng 2 minh họa, tuy nhiên, nó vẫn còn lớn đáng kể. Bảng cho
thấy hồi qui chéo giữa các quốc gia về đầu tƣ ( tƣơng quan với GDP) ngƣợc
với tiết kiệm quốc gia (tƣơng quan với GDP), trung bình trong 8 năm của
khoảng thời gian gần đây, 1990-1997. Đối với các nƣớc OECD, hệ số (0,60)
là nhỏ hơn 0,89 đƣợc tìm thấy trong Số liệu thống kê ban đầu của Feldstein
và Horioka, nhƣng nó vẫn còn lớn hơn mong đợi của thị trƣờng vốn toàn
cầu, nơi mà tiền tiết kiệm của các vùng mang lại tỷ lệ lợi nhuận cao nhất.
Các hệ số đã giảm thêm một lần nữa ở những quốc gia bên ngoài OECD
(đặc biệt là các nƣớc nghèo), mặc dù các kết quả mở rộng (cần phải đƣợc
nhìn nhận một cách hết sức thận trọng ) đƣợc đƣa đến từ dữ liệu về chất
lƣợng thu nhập của các quốc gia nghèo và dữ liệu sản phẩm cho hầu hết các
nƣớc ngoài OECD. (Các dữ liệu hồi qui trong Bảng 2 đƣợc báo cáo trong
Bảng 7 ở phụ lục, trong đó cũng mô tả cách thức các quốc gia trong các mẫu
đã đƣợc lựa chọn ).

School of Finance, UEH



20
Bảng 2 HỒI QUY FELDSTEIN-HORIOKA, I/Y = α + β NS/Y + 
a

Số quan sát


R
2
Tất cả các quốc gia

56
0.15
0.41
0.33


(0.02)
(0.08)

Những quốc gia với GNP/đầu ngƣời > 1000
48
0.13
0.48
0.39


(0.02)
(0.09)

Những quốc gia với GNP/đầu ngƣời > 2000
41
0.07
0.70
0.62


(0.02)
(0.09)

Những nƣớc thuộc OECD

24
0.08
0.60
0.68


(0.02)
(0.09)







Lý thuyết về những vấn đề nan giải của Feldstein – Horioka là bền
vững vì cốt lỗi hồi qui chỉ đơn giản tóm tắt một cách cô đọng là các tài
khoản vãng lai của OECD có xu hƣớng đáng ngạc nhiên ít liên quan đến
tổng số tiết kiệm và đầu tƣ. Đặc biệt là khi tỉ lệ trung bình duy trì trong cả
giai đoạn . Đối với các nƣớc đang phát triển, đặc biệt là liên tục có nhiều sự
cố nợ, có lẽ là không có gì ngạc nhiên khi mà chủ nợ né tránh cho vay với
khoản tiền lớn trong thời gian kéo dài . Nhƣng rất khó để xảy ra rủi ro vỡ nợ
chủ sở hữu với các nƣớc OECD, đặc biệt là khi xem xét tổng những dòng
chảy tài sản tài chính quốc tế là lớn hơn nhiều so với dòng tài sản ròng .
School of Finance, UEH



21
Thật vậy, đối với các nƣớc OECD, sự so sánh giá cả tài sản ở một mức độ

cao, hội nhập ; kinh doanh chênh lệch giá tài sản phi rủi ro đƣợc xuất hiện
gần nhƣ hoàn hảo. Chúng tôi rời khỏi nó để ngƣời đọc xem nguồn khác
(cho ví dụ , Obstfeld và Rogoff, 1996, Chƣơng 3) đánh giá các nỗ lực trƣớc
đó để giải thích vấn đề mà Feldstein-Horioka đƣa ra .



Một tài liệu tóm tắt về thƣơng mại mậu dịch thì có ít nhất là năm hoặc
sáu và nhiều hơn nữa các giải thích hàng đầu. Tất cả đều không có tính
thuyết phục - bởi vì một số chúng đƣợc dựa trên các giả định rất đặc biệt về
bản chất của các cú sốc ngoại sinh (ví dụ nhƣ, Obstfeld, 1986, hoặc
Mendoza, 1991), những giải thích khác thì lại mâu thuẫn với thực nghiệm .
Ví dụ, trong mô hình thông tin bất cân xứng của Gordon và Bovenberg
(1996), vấn đề "lemons" là để giải thích lý do tại sao nhà đầu tƣ nƣớc ngoài
ít đầu tƣ trong nƣớc.Tuy nhiên sự khởi đầu từ ngang bằng lãi suất có phòng
ngừa đƣợc giả định là ở đó không có bất kì dòng vốn cổ phần từ nƣớc ngoài
. Giải thích rằng cố gắng để duy trì giả định về luân chuyển đồng vốn hoàn
hảo thƣờng chứa đựng hàm ý tƣơng quan tiết kiệm - đầu tƣ trên khắp các
tiểu bang hoặc các khu vực trong một quốc gia. Tuy nhiên, các bằng chứng
không hoàn chỉnh sẵn có trên một phần tiết kiệm và đầu tƣ của các khu vực
bên trong quốc gia hiện không đơn giản chỉ ra kết quả nhƣ các nguyên tắc
của Feldstein - Horioka ; ví dụ, Helliwell (1998, Chƣơng 4). Chúng tôi đề
xuất ở đây một giải thích hoàn toàn mới, dựa trên chi phí giao dịch cho các
hàng hoá trong thƣơng mại quốc tế. Một đặc điểm hấp dẫn trong phƣơng
School of Finance, UEH



22
pháp của chúng tôi là cách tiếp cận của nó có vẻ để giúp giải quyết những

vấn đề nan giải hơn là làm chúng phức tạp thêm .



Điều quan trọng là để nhấn mạnh rằng trong khi mô hình của chúng tôi bao
gồm các chi phí thƣơng mại đối với hàng hóa, nó cũng phù hợp với tự do
mậu dịch và kinh doanh chứng khoán không tốn chi phí . Vì vậy, nó là hoàn
toàn phù hợp với quan sát rằng dòng chảy chứng khoán quốc tế là đáng kể
mặc dù dòng chảy ròng còn nhỏ. Mô tả của chúng ta cũng đáng chú ý cả về
việc tự hình thành giá và lãi suất hiệu lực của những trở ngại trong thƣơng
mại và vừa có thể tạo ra sự khác biệt quốc tế có ý nghĩa thực tiễn trong lãi
suất thực cho dù toàn bộ thị trƣờng tài sản là hoàn hảo .





3,2 CHI PHÍ VẬN CHUYỂN CÓ THỂ GÂY RA MỐI QUAN HỆ PHI
TUYẾN GIỮA TÀI KHOẢN VÃNG LAI VÀ LÃI SUẤT THỰC :
Các cơ sở trực giác của lý do tại sao chi phí vận chuyển có thể làm
giảm sự mất cân bằng tài khoản vãng lai có thể đƣợc minh hoạ trong 2 giai
đoạn tiêu chuẩn và 2 loại hàng hóa , mô hình đóng góp của các nƣớc nhỏ .
Sẽ không khó khăn để tự tạo ra lãi suất thực trên thế giới , hoặc kết hợp
những điều không chắc chắn (nhƣ trong phần kế tiếp), nhƣng không phải sự
kết hợp là điều cần thiết ở đây. Chúng tôi sẽ thảo luận về đầu tƣ sau để
School of Finance, UEH



23

khẳng định rằng những lý luận cơ bản mà chúng tôi đƣa ra vẫn sẽ xuyên suốt
bài viết .
Các mô hình dƣới đây là hoàn toàn hợp tiêu chuẩn, ngoại trừ một lần
nữa chúng tôi sẽ chấp nhận chi phí "tảng băng trôi " của Samuelsonian
trong mậu dịch , do đó phần trăm chi phí τ của bất kì hàng hóa nào mất đi
trên đƣờng quá cảnh . Hàm hữu dụng đại diện cho tiêu dùng trong nƣớc là
u(C1) + δu(C2) ,
có tổng mức tiêu thụ thực tế C phụ thuộc vào tiêu thụ của hàng hóa nội địa
và hàng nhập khẩu , C
H
and C
F
, với tính co giãn không đổi của sự thay thế θ
nhƣ trong phƣơng trình (1). Các quốc gia nhỏ đƣợc cung cấp chỉ với hàng
hóa H , với Y
H,1
trong giai đoạn 1, và Y
H,2
trong giai đoạn 2. Hàng hóa F
luôn luôn phải đƣợc nhập khẩu (Sự cung cấp cả 2 loại hàng hóa trong nƣớc
thì không làm đảo lộn tranh luận của chúng tôi ). Một quốc gia thì nhỏ trong
trƣờng hợp hành động của nó không có ảnh hƣởng đến giá
*
H
P

*
F
P
của thế

giới, đó là việc cố định qua hai thời kỳ trong điều khoản của đơn vị tài
khoản (tiền). Và cũng không thể có ảnh hƣởng gì đến lãi suất thực ở nƣớc
ngoài r * ( bằng lãi suất danh nghĩa nƣớc ngoài , giả định là không có lạm
phát ). Tuy nhiên , với chi phí quá cảnh iceberg τ trong vận chuyển hàng
hóa thì những kiểu tiêu dùng trong nước có thể ảnh hưởng đến giá cả tương
đối và lãi xuất thực trong nước .

Chúng tôi sẽ đƣa ra một phân tích mang tính hình thức bên dƣới , lý
luận cơ bản là đơn giản. Ví dụ , giả sử là một mô hình đóng góp của quốc
gia và đánh giá về thời gian ƣu đãi δ là nhƣ vậy trong giai đoạn đầu tiên,
xuất khẩu ròng hàng hóa H là số âm . Sau đó, chúng tôi sẽ xác nhận ngắn
gọn , các mức giá tương đối của hàng hóa H sẽ cao hơn ở giai đoạn 1 so với
School of Finance, UEH



24
giai đoạn 2. Sẽ có giảm phát , và lãi suất thực trong nước sẽ ở trên mức
r*. Tình hình là đảo ngược khi các quốc gia bắt đầu có đủ mức thặng dư
trong tài khoản vãng lai , vì thế lãi suất cho vay tiêu dùng cơ bản thực của
nó (quốc gia nhỏ ) phải nằm dưới r*. Nhƣ chúng tôi chứng minh dƣới đây,
điều này có thể có hiệu lực khá mạnh mẽ, giả định xác định đƣợc giá trị thực
tế cho các chi phí thƣơng mại τ và co giãn của sự thay thế θ .(việc tính giá
trị tƣơng tự nhƣ cách giải quyết bài toán xu hƣớng nội địa hóa trong mậu
dịch ) .

13

3.3 SỰ GIỚI HẠN NGÂN SÁCH VÀ CHI PHÍ VẬN TẢI


Phân tích đòi hỏi có suy nghĩ cẩn thận về việc giới hạn ngân sách đối
với vấn đề đại diện . Tựu chung , bƣớc đầu tiên trong việc giới hạn ngân
sách có thể ghi bằng công thức :
111,1,1,1,1,1,
CPCPCPDYP
FFHHHH


P ở đây là giá trong nƣớc của hàng hóa H theo điều khoản đơn vị tiền tệ thế
giới , và D đƣợc vay mƣợn từ nƣớc ngoài . Tổng mức giá trong nƣớc theo
điều khoản đơn vị tiền tệ thế giới là :
 
)1/(1
11





FH
PPP
( 8 )
Bởi vậy , tổng mức tiêu thụ thực tế trong bất kì giai đoạn nào , tiêu
thụ của hàng hóa khu vực trong nƣớc và nƣớc ngoài là :

C
P
P
C
C

P
P
C
F
F
H
H


















( 9 )
Tƣơng tự nhƣ vậy , giai đoạn thứ 2 của sự giới hạn ngân sách đƣợc
đo lƣờng theo đơn vị tiền tệ thế giới :

222,2,2,2,2,2,

*)1( CPCPCPDrYP
FFHHHH


School of Finance, UEH



25
Kết hợp sự giới hạn ngân sách ở các giai đoạn , khắc phục khó khăn
ngân sách :

*1*1
2,2,
1,1,
22
11
r
YP
YP
r
CP
CP
HH
HH






Hoặc trong điều khoản thực tế của các doanh nghiệp trong nƣớc :
21
*
/)1(1 PPrr 
, khi

 
2
2,2,
1
1,1,
2
1
1
1
1 P
YP
rP
YP
r
C
C
HHHH




( 10 )




3.4 LẠM PHÁT

Vì hàng hóa F luôn đƣợc nhập khẩu , giá trong nƣớc của nó là
)1/(
*


FF
PP
, cao hơn giá nƣớc ngoài ở cả 2 giai đoạn , theo phƣơng trình
(2 ) . Cùng lập luận , khi xuất khẩu hàng hóa H – nó phải ở mức giá thấp
nhất của một trong 2 giai đoạn – giá trong nƣớc của nó là
)1(
*


HH
PP

phải thấp hơn giá của nƣớc ngoài , nhƣ phƣơng trình (3) . Tuy nhiên , nếu
tổng chi tiêu quốc nội là cao tƣơng đối so với sản lƣợng trong bất kì giai
đoạn nào , có khả năng hàng hóa H sẽ đƣợc nhập khẩu hơn là xuất khẩu
(
HH
YC 
) , trong trƣờng hợp đó , mức giá trong nƣớc
)1/(
*



HH
PP
phải
cao hơn giá cả của nƣớc ngoài . Nhƣ chúng ta sẽ thấy , những trƣờng hợp
trung gian rất quan trọng là
HH
YC 
trong một giai đoạn ,
H
P
sẽ nằm giữa
)1(
*


H
P

)1/(
*


H
P
, mặc dù thực tế là không có sự khứ hồi hàng hóa .


×