Lời nói đầu
Chúng ta đang tiến dần đến một xã hội tốt đẹp hơn và bớc quá độ đi lên Chủ
Nghĩa Xã Hội là cần thiết. Và trong thời kỳ quá độ, chúng ta lựa chọn mô hình kinh
tế tổng quát mà Đảng ta đã đề ra: chủ trơng cho phép sử dụng nhiều hình thức kinh
tế, khai thác mọi khả năng của các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế quốc doanh
giữ vai trò chủ đạo. Thực chất là phát triển nền kinh tế thị trờng có sự quản lý của
Nhà nớc theo định hớng Xã Hội Chủ Nghĩa. Thực tế đã chứng minh nền kinh tế thị
trờng có những đóng góp to lớn thúc đẩy phát triển kinh tế, tuy nhiên những khuyết
tật mà nó gây ra cũng không nhỏ, cần có bàn tay của Nhà nớc. Cũng nh nền kinh tế
kế hoạch hóa tập trung đã đem lại thành công không nhỏ nh mô hình của Liên Xô cũ
nhng nhợc điểm lớn là không tôn trọng quy luật cung cầu. Vì vậy sự kết hợp giữa hai
mô hình kinh tế này là hoàn toàn hợp lý, phát huy đợc u điểm , khắc phục đợc nhợc
điểm của hai mô hình kinh tế trên. Trong mô hình kinh tế hỗn hợp này, thành phần
kinh tế nhà nớc giữ vai trò hết sức quan trọng trong việc bình ổn nền kinh tế. Việc
nghiên cứu về vai trò của nó giúp ta hiểu đợc ý nghĩa to lớn về cả hai mặt lý luận và
thực tiễn.
Về mặt lý luận: giúp ta nắm bắt, hiểu đợc cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-
Lênin và đặc biệt là quan điểm của Lênin về nền kinh tế nhiều thành phần.
Về mặt thực tiễn: khẳng định đợc tính đúng đắn trong sự lựa chọn của Đảng và
nhà nớc là phát triển nền kinh tế thị trờng có sự điều tiết của nhà nớc.
Trong đề án, ngoài phần mở đầu và kết luận, nói chung gồm bốn phần chính
sau:
Phần I : Lý luận chung về kinh tế nhà nớc.
Phần II : Tính tất yếu và nội dung vai trò chủ đạo của thành phần
kinh tế nhà nớc.
Phần III: Thực trạng vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhà nớc ở
Việt Nam hiện nay.
Phần IV: Những giải pháp tăng cờng vai trò chủ đạo của kinh tế
nhà nớc hiện nay.
2
Phần I. Lý luận chung về Kinh tế Nhà nớc
Cho đến nay xã hội loài ngời đã trải qua hai hình thái kinh tế đó là kinh tế tự
nhiên tự cấp tự túc và kinh tế hàng hóa. Kinh tế hàng hóa là kiểu tổ chức hoạt động
kinh tế tồn tại và phát triển trong nhiều hình thái kinh tế xã hội. Kinh tế hàng hóa là
loại hình tiến bộ, là nấc thang cao hơn kinh tế tự nhiên tự cấp tự túc trong sự phát
triển chung của nhân loại. Kinh tế thị trờng là nấc thang phát triển cao hơn của kinh
tế hàng hóa, khi mà các yếu tố đầu vào và đầu ra của sản xuất đều thực hiện thông
qua thị trờng.
Đối với nớc ta phát triển kinh tế thị trờng có vai trò quan trọng. Bởi lẽ, muốn
chuyển nền kinh tế còn kém phát triển lên sản xuất lớn Xã Hội Chủ Nghĩa thì không
còn con đờng nào khác là phải phát triển kinh tế thị trờng. Kinh tế thị trờng khắc
phục đợc những nhợc điểm của kinh tế tự nhiên, đẩy mạnh phân công lao động xã
hội, phát triển ngành nghề, tạo việc làm cho ngời lao động, khuyến khích ứng dụng
khoa học công nghệ mới nhằm tăng năng suất lao động, đồng thời tạo ra cơ chế phân
bổ và sử dụng các nguồn lực của xã hội một cách hợp lý, tiết kiệm... Nhng bên cạnh
đó, yếu tố thị trờng chứa đựng tính tự phát, chứa đựng nhiều yếu tố bất ổn, mất cân
đối. Vì chạy theo lợi nhuận, các nhà sản xuất có thể gây nhiều hậu quả xấu: môi tr-
ờng bị huỷ hoại, tính cạnh tranh không lành mạnh, phá sản, thất nghiệp, phân hóa
giàu nghèo, lợi ích chung bị coi nhẹ, các vấn đề công bằng xã hội không đợc đảm
bảo, tệ nạn xã hội gia tăng, thậm chí có ngời làm ăn bất hợp pháp, trốn thuế, làm
hàng giả. Để hạn chế các khuyết tật đó đòi hỏi phải có bàn tay Nhà nớc quản lý nền
kinh tế thị trờng. Việt Nam đã chọn phát triển nền kinh tế thị trờng theo định hớng
Xã Hội Chủ Nghĩa có sự quản lý của Nhà nớc. Và công cụ để Nhà nớc quản lý nền
kinh tế thị trờng đó chính là thành phần kinh tế nhà nớc. Kinh tế nhà nớc đợc Đảng
và nhà nớc ta xác định là thành phần kinh tế giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị
3
trờng định hớng Xã Hội Chủ Nghĩa ở nớc ta. Do vậy cần tìm hiểu một số những khái
niệm cơ bản về thành phần kinh tế nhà nớc.
Hiểu theo cách chung nhất, thành phần kinh tế nhà nớc là những đơn vị trực tiếp
sản xuất kinh doanh hay phục vụ sản xuất kinh doanh mà toàn bộ nguồn lực thuộc
sở hữu nhà nớc hoặc phần của nhà nớc chiếm tỉ trọng khống chế.
Kinh tế nhà nớc bao gồm các doanh nghiệp nhà nớc (kinh tế quốc doanh), các
tài sản thuộc sở hữu nhà nớc (đất đai, tài nguyên khoáng sản, hệ thống ngân hàng, tài
chính, dự trữ quốc gia...), các dịch vụ công cộng do nhà nớc đảm nhiệm... Nh vậy các
doanh nghiệp nhà nớc là một bộ phận chủ yếu nhất của kinh tế nhà nớc.
Cần phân biệt sở hữu nhà nớc và thành phần kinh tế nhà nớc. Phạm trù sở hữu
nhà nớc rộng hơn phạm trù thành phần kinh tế nhà nớc. Thành phần kinh tế nhà nớc
trớc hết phải thuộc sở hữu nhà nớc. Nhng sở hữu nhà nớc có thể do các thành phần
kinh tế khác sử dụng. Ngợc lại, thuộc sở hữu nhà nớc không phải là kinh tế nhà nớc,
chẳng hạn nhà nớc góp vốn cổ phần thông qua liên doanh, liên kết, gọi là thành phần
kinh tế t bản nhà nớc.
Kinh tế thị trờng trớc hết là các doanh nghiệp nhà nớc và doanh nghiệp cổ phần
đợc hình thành trên cơ sở:
- Nhà nớc đầu t xây dựng.
- Quốc hữu hóa các doanh nghiệp t bản t nhân.
- Góp cổ phần khống chế với các doanh nghiệp t nhân.
Ngoài ra với bản chất nhà nớc Xã Hội Chủ Nghĩa, nhà nớc xác định đất đai, tài
nguyên thiên nhiên, tài chính, ngân hàng... do nhà nớc nắm giữ, chi phối, để điều
tiết, định hớng sự phát triển kinh tế xã hội.
Kinh tế nhà nớc thuộc sở hữu nhà nớc, sản xuất kinh doanh theo nguyên tắc
hạch toán kinh tế, thực hiện phân phối theo lao động và hiệu quả sản xuất kinh
doanh. Theo chủ trơng của Đảng ta, kinh tế nhà nớc cần tập trung vào những ngành,
những lĩnh vực trọng yếu nh kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, hệ thống tài chính, ngân
4
hàng, những cơ sở nh sản xuất kinh doanh, thơng mại dịch vụ quan trong, những cân
đối lớn, chủ yếu của nền kinh tế và thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị tr-
ờng.
Nh chúng ta đã biết nền tảng, cơ sở kinh tế cho kinh tế nhà nớc giữ vững vai trò
chủ đạo chính là các doanh nghiệp nhà nớc. Có các loại doanh nghiệp nhà nớc sau:
- Loại doanh nghiệp sản xuất kinh doanh vì lợi ích công cộng
+ Sản xuất hàng hóa quốc phong an ninh nh sản xuất vũ khí, quân trang, quân
dụng.
+ Sản xuất hàng hóa dịch vụ công cộng, hàng hóa công ích.
- Loại doanh nghiệp nhà nớc thuần tuý kinh tế, hoạt động
theo cơ chế thị trờng, lấy lợi nhuận là mục tiêu hoạt
động.
Đối với tất cả các nền kinh tế có sự có mặt của nhà nớc, đều có thành phần kinh
tế nhà nớc. Tuy nhiên về bản chất, quy mô và vai trò của thành phần kinh tế nhà nớc
ở mỗi quốc gia khác nhau thì có sự khác nhau. Điều này thể hiện rõ nhất ở các nớc t
bản và các nớc Xã Hội Chủ Nghĩa nói chung và Việt Nam nói riêng.
Sự giống nhau: giữa nền kinh tế thị trờng t bản chủ nghĩa và nền kinh tế thị tr-
ờng định hớng Xã Hội Chủ Nghĩa cùng xuất phát từ tính khách quan của nó. Cả hai
kiểu kinh tế thị trờng này đều chịu sự tác động của cơ chế thị trờng với hệ thống các
quy luật: quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh, quyluật lu thông
tiền tệ ... Đồng thời cả nền kinh tế thị trờng ở các nớc t bản chủ nghĩa và nền kinh tế
thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa đều là các nền kinh tế hỗn hợp, tức là nền kinh
tế thị trờng có sự điều tiết (quản lý) của nhà nớc. Tuy nhiên sự can thiệp của nhà nớc
ở các nền kinh tế là khác nhau. Không có nền kinh tế thị trờng thuần túy (hoàn hảo),
chỉ vận hành theo cơ chế thị trờng.
Sự khác nhau giữa nền kinh tế thị trờng t bản chủ nghĩa và nền kinh tế thị trờng
định hớng xã hội chủ nghĩa thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý và phân
5
phối. Nếu so với kinh tế thị trờng t bản chủ nghĩa thì kinh tế thị trờng định hớng xã
hội chủ nghĩa có những điểm khác căn bản sau đây:
- Về mục đích: Kinh tế thị trờng t bản chủ nghĩa phục vụ lợi ích các nhà t bản,
xây dựng cơ sở kinh tế cho chủ nghĩa t bản, bảo vệ chế độ t bản, phát triển
chủ nghĩa t bản; bây giờ có điều chỉnh gì cũng là để bảo vệ chủ nghĩa t bản.
Còn chúng ta xây dựng kinh tế thị trờng định hớng Xã Hội Chủ Nghĩa, nhất
là trong những chặng đờng đầu của thời kỳ quá độ, lực lợng sản xuất còn yếu
kém, là để phát triển lực lợng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội, phục vụ và nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm từng bớc
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Ta dùng cơ chế thị trờng, sử dụng các
hình thức và phơng pháp quản lý của kinh tế thị trờng để kích thích sản xuất,
khuyến khích tinh thần năng động, sáng tạo của ngời lao động, giải phóng
sức sản xuất, thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhng là để đi lên chủ
nghĩa xã hội, không để cho thị trờng phát triển theo con đờng chủ nghĩa t
bản.
- Về chế độ sở hữu: Dới chủ nghĩa t bản, nền tảng của chế độ sở hữu là sở hữu
t nhân t bản chủ nghĩa. Còn ở nớc ta hiện nay, cũng thực hiện đa dạng hóa
các hình thức sở hữu, nhng trên cơ sở chế độ công hữu về các t liệu sản xuất
chủ yếu.
- Các thành phần kinh tế: Dới chủ nghĩa t bản, nền kinh tế có nhiều thành
phần (có cả kinh tế nhà nớc, liên doanh, kinh tế t bản nhà nớc... ) nhng do
nhà nớc t sản quản lý và do t bản t nhân chi phối, kinh tế t nhân là chủ đạo.
Còn ở nớc ta hiện nay cũng co nhiều thành phần kinh tế, trong đó có cả kinh
tế t bản t nhân nhng do nhà nớc xã hội chủ nghĩa quản lý, kinh tế nhà nớc giữ
vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nớc cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành
nền tảng vững chắc.
6
- Về chế độ quản lý: Trong thời đại ngày nay, kinh tế thị trờng t bản chủ nghĩa
và kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa đều cần có sự quản lý của
nhà nớc, không muốn để cho bàn tay vô hình là thị trờng chi phối. T bản
cũng phải làm thế, thậm chí ở nhiều nớc còn can thiệp khá mạnh. Điều khác
nhau ở đây là bản chất hai nhà nớc. Nhà nớc của họ là nhà nớc t sản, dân chủ
t sản, bảo vệ lợi ich của thiểu số giai cấp t sản, những ngời có của. Còn
chúng ta là nhà nớc xã hội chủ nghĩa thật sự của dân, do dân, vì dân và do
Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo, bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân lao
động. Về quản lý thì xu thế của kinh tế thị trờng t bản chủ nghĩa chủ yếu vẫn
là tự do cạnh tranh, vẫn là cá lớn nuốt cá bé, hình thành các công ty siêu
quốc gia, xuyên quốc gia, các tập đoàn lớn cạnh tranh nhau quyết liệt. Còn
của ta có sự quản lý của nhà nớc để kết hợp tính định hớng và cân đối của kế
hoạch với tính năng động và nhạy cảm của thị trờng. Trong các Nghị quyết
Đại hội VII và Đại hội VIII đều nói thị trờng vừa là đối tợng, vừa là căn cứ
để chúng ta kế hoạch hóa. Chúng ta sử dụng cơ chế thị trờng không phải
đoạn tuyệt với kế hoạch hóa mà là để thực hiện kế hoạch hóa một cách tổng
thể hơn, tốt hơn. Sự quản lý của nhà nớc là để phát huy mặt tích cực, hạn chế
mặt tiêu cực của cơ chế thị trờng. Đối với chúng ta, cơ chế thị trờng không
phải là liều thuốc vạn năng, không phải là mục đích, mà chỉ là phơng tiện.
Mục đích của chúng ta không phải là chạy theo lợi nhuận tối đa cho một
thiểu số ngời, mà chính là để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Về chế độ phân phối: Cả hai nền kinh tế thị trờng t bản chủ nghĩa và kinh tế
thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa đều có nhiều hình thức phân phối. Sự
khác nhau la ở chỗ kinh tế thị trờng t bản chủ nghĩa phân phối chủ yếu theo
t bản, phục vụ lợi ích tối đa của các nhà t bản; còn chúng ta phân phối theo
kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời có các hình thức
phân phối khác, vừa khuyến khích lao động, vừa đảm bảo phúc lợi cơ bản.
7
- Về chính sách xã hội: Kinh tế thị trờng t bản chủ nghĩa thời kỳ hoang sơ ra
đời bằng tớc đoạt, bằng cớp bóc, tích tụ ruộng đất, dồn dân. Mác nói chủ
nghĩa t bản ra đời bằng tích luỹ nguyên thủy thấm đầy máu và nớc mắt đến
tận lỗ chân lông của nó. Ngày nay chủ nghĩa t bản có sự điều chỉnh nhất
định, văn minh hơn, hiện đại hơn và cũng chủ ý một số chính sách xã hội,
(có lẽ vì thế mà có ngời đã gọi chủ nghĩa t bản ngày nay là chủ nghĩa t bản
nhân dân, chủ nghĩa t bản xã hội. Nhng xét về bản chất thì sự điều chỉnh
đó không giải quyết đợc mâu thuẫn cơ bản, từ nguồn gốc chế độ sở hữu của
chủ nghĩa t bản: đây chỉ là điều chỉnh buộc các nhà t bản phải làm để bảo vệ,
duy trì, kéo dài sự tồn tại của chủ nghĩa t bản, đại đa số nhân dân lao động
vẫn sống khổ sở. Ta vẫn thờng nghe nói thế giới ngày nay 20% ngời giàu
chiếm 80% của cải, 80% số ngời còn lại chỉ có 20% của cải... Chúng ta chủ
trơng làm giàu nhng đó là làm giàu hợp pháp: cùng với làm giàu phải xóa đói
giảm nghèo, hạn chế sự phân cực quá đáng giàu nghèo. Trong nền kinh tế thị
trờng, sự phân hóa giàu nghèo là khó tránh khỏi, phải chấp nhận, nhng phải
hạn chế nó. Phải chăm lo tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong quá trình
phát triển kinh tế, chứ không phải đến khi kinh tế phát triển mới lo chính
sách xã hội .Nhiều nớc trên thế giới đang đòi nhà nớc dành 20% ngân sách
cho chính sách xã hội thì từ lâu tỷ lệ đó ở ta đa là 28 %; chính sách xoá đói
giảm nghèo của ta đợc thế giới rất hoan nghênh.Chúng ta giữ gìn đạo đức và
bản sắc văn hoá dân tộc ,xây dựng quan hệ giữa con ngời với con ngời có
tình yêu thơng lẫn nhau ; không phải tất cả chỉ vì tiền.
Đó là các điểm giống nhau và khác nhau giữa kinh tế thị trờng t bản chủ nghĩa
và kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa. Chủ trơng của Đảng ta về vấn đề này
là sự thể hiện rõ t duy, quan niệm của Đảng ta về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất
với tính chất và trình độ của lực lợng sản xuất. Đây là điểm mới và là mô hình kinh tế
tổng quát của chúng ta trong thời kỳ quá độ.
8
Mặc dù cha có một mô hình chủ nghĩa xã hội hoàn chỉnh để nghiên cứu thực
tiễn, nhng có thể khẳng định sự lựa chọn mô hình của Đảng và Nhà nớc ta là hoàn
toàn đúng đắn để thực hiện nội dung định hớng Xã hội chủ nghĩa: Quá trình thực
hiện dân giàu, nớc mạnh, tiến lên hiện đại trong một xã hội nhân dân làm chủ, nhân
ái, có văn hoá, có kỉ cơng, xoá bỏ áp bức, bất công, tạo điều kiện cho mọi ngời có
cuộc sống ấm no, tự do , hạnh phúc.
9
Phần II. Tính tất yếu và nội dung vai trò chủ đạo của thành phần Kinh tế Nhà
nớc
Những yêu cầu khách quan đòi hỏi kinh tế Nhà nớc phải nắm giữ vai trò chủ
đạo trong nền kinh tế:
Thứ nhất : Kinh tế Nhà nớc là con đẻ của Nhà nớc, đợc Nhà nớc trực tiếp
quản lí và giúp đỡ, có điều kiện hơn các thành phần khác.Nó cũng là công cụ quan
trọng để Nhà nớc can thiệp vào nền kinh tế, giúp nhà nớc thực hiện chức năng quản lí
vĩ mô nền kinh tế, đảm bảo nền kinh tế phát triển theo định hớng XHCN.
Thứ hai : Trong nền kinh tế thị trờng các chủ thể kinh doanh đều vì mục
đích tối đa hoá lợi nhuận mà không thấy đợc hoặc cố tình bỏ qua sự vi phạm đến các
chủ thể khác, gây nên những bất hợplí về cơ cấu ngành, cơ cấu lao động nơi thừa, nơi
thiếu dẫn đến phát sinh nhiều vấn đề xã hội ảnh hởng đến tiến độ phát triển chung
của toàn bộ nền kinh tế.
Thứ ba : Các hoạt động tạo ra hàng hoá và dịch vụ công cộng hiển nhiên t
nhân không thể cung cấp đợc, hoặc để t nhân nắm trong tay với mục tiêu tối đa hoá
lợi nhuận sẽ làm thiệt hại đến lợi ích toàn xã hội.
Thứ t : Kinh tế nhà nớc luôn nắm trong tay những công cụ kinh tế vĩ mô
quan trọng, thâm nhập hoàn toàn vào những lĩnh vực then chốt , trọng yếu của nền
kinh tế, không chỉ phục vụ cho mục đích đem lại lợi nhụân mà còn taọ ra môi trờng
kinh tế xã hội không có những dấu hiệu bất ổn sẽ thu hút một nguồn vốn lớn chảy
vào trong nớc. Nguồn vốn đầu t có ý nghĩa hết sức quan trọng khắc phục những lỗ
hổng do tình trạng thiếu vốn hiện nay gây ra , và là cơ sở thực hiện các chính sách
kinh tế, tạo đà phát triển cho tơng lai.
Ngày nay, do xu hớng quốc tế hoá nền kinh tế, rất nhiều các tổ chứcliên hiệp
kinh tế ra đời . Các tổ chức này với tiêu thức hoạt động đề ra tạo ra rất nhiều nhngcơ
hội lớn mà chúng ta phải nhanh chóng hội nhập . Trong khu vực Việt Nam đã tham
10
gia vào hiệp hội các nớc Đông nam á (Asean)1995, đến năm 1998 Việt Nam lại gia
nhập Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á - Thái bình dơng(Apec). Đến năm nay 2001,
Việt Nam đã chính thức gia nhập Tổ chức thơng mại thế giới WTO. Nh chúng ta đã
biết mục tiêu của các tổ chức này là nhằm thiết lập một hệ thống mậu dịch thế giới
cởi mở, tự do, có hiệu quả hơn , đồng thời duy trì sự phát triển lợi ích chung của nhân
dân các nớc trong khu vực, đóng góp vào sự tăng trởng và phát triển kinh tế thế giới,
chính vì vậy có đủ điều kiện tham gia vào tổ chức này là hết sức có ý nghĩa phục vụ
cả lợi ích trớc mắt và lâu dài.
Ngày nay toàn cầu hoá và khu vực hoá kinh tế là những quá trình kinh tế
khách quan , không đảo nghịch. Chúng tạo ra những cơ hội lớn cha từng có trong lịch
sử , nhng đồng thời cũng tạo ra những thách thức lớn đối với sự phát triển của từng
quốc gia , từng khu vực với t cách là một bộ phận hữu cơ của nền kinh tế thế giới
thống nhất. Lựa chọn chiến lợc phát triển quốc gia trong những điều kiện mới , nhất
thiết phải tính đến quá trình toàn cầu hoá và khu vực hoá kinh tế. Điều này lại một
lần nữa cần đến bàn tay của Nhà nớc.
Nh đã phân tích, trong nền kinh tế thị trờng, kinh tế nhà nớc giữ vai trò chủ
đạo là tính tất yếu , cũng nh trong giai đoạn hiện nay phải phát triển nền kinh tế thị
trờng định hớng XHCN do những yêu cầu khách quan:
Về phơng diện kinh tế , có thể khái quát rằng, lịch sử phát triển của sản xuất
và đời sống xã hội của nhân loại đã và đang trải qua hai kiểu tổ chức kinh tế thích
ứng với trình độ phát triển của lực lợng sản xuất và phân công lao động xã hội , hai
thời đại kinh tế khác hẳn nhau về chất đó là : thời đại kinh tế tự nhiên , tự cung tự cấp
; và thời đại kinh tế hàng hoá, mà giai đoạn cao của nó đợc gọi là kinh tế thị trờng.
Kinh tế tự nhiên là kiểu tổ chức kinh tế xã hội đầu tiên của nhân loại . Đó là
phơng thức sinh hoạt kinh tế ở trình độ thấp ban đầu là sử dụng những tặng vật của tự
nhiên và sau đó đợc thực hiện thông qua những tác động trực tiếp vào tự nhiên để tạo
ra những giá trị sử dụng trong việc duy trì sự sinh tồn của con ngời.Nó đợc bó hẹp
11
trong mối quan hệ tuần hoàn khép kín giữa con ngời và tự nhiên.Kinh tế tự nhiên lấy
quan hệ trực tiếp giữa con ngời và tự nhiên , mà tiêu biểu là giữa lao động và đất đai
làm nền tảng .Hoạt động kinh tế đó gắn liền với hoạt động sinh tồn, với kinh tế nông
nghiệp tự cung tự cấp. Nó đã tồn tại và thống trị trong các xã hội cộng sản nguyên
thuỷ, chiếm hữu nô lệ , phong kiến và tuy không còn giữ địa vị thống trị nhng vẫn
còn tồn tại trong xã hội t bản cho đến ngày nay. Kinh tế tự nhiên hiện vật ,sinh tồn,
tự cung, tự cấp, tự gắn liền với kém phát triển và lạc hậu.
Kinh tế hàng hoá bắt đầu bằng kinh tế hàng hoá đơn giản, ra đời từ khi chế
độ cộng sản nguyên thuỷ tan rã, dựa trên hai tiền đề cơ bản là có sự phân công lao
động xã hội và có sự tách biệt về kinh tế do chế độ sở hữu khác nhau về t liệu sản
xuất .Chuuyển từ kinh tế tự nhiên , tự cung , tự cấp sang kinh tế hàng hoá là bớc
chuyển sang thời đại kinh tế của sự phát triển, thời đại văn minh của nhân loại. Trong
lịch sử phát triển của mình, vị thế kinh tế hàng hoá dần đợc đổi thay: từ chỗ nh là
kiểu tổ chức kinh tế - xã hội không phổ biến , không hợp thời trong xã hội chiếm hữu
nô lệ của những ngời thợ thủ công và nông dân tự do , đến chỗ đợc thừa nhận trong
xã hội phong kiến, và đến chủ nghĩa t bản thì kinh tế hàng hoá giản đơn không những
đợc thừa nhận mà còn đợc phát triển lên giai đoạn cao hơn đó là kinh tế thị trờng.
Kinh tế thị trờng là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hoá cũng đã trải
qua ba giai đoạn phát triển. Giai đoạn thứ nhất là giai đoạn chuyển từ kinh tế hàng
hoá giản đơn sang kinh tế thị trờng(còn goị là giai đoạn kinh tế thị trờng sơ khai hay
dã man). Giai đoạn thứ hai là giai đoạn phát triển kinh tế thị trờng tự do. Đặc trng
của giai đoạn này là sự phát triển kinh tế theo tinh thần tựa do, nhà nớc không can
thiệp vào hoạt động kinh tế. Giai đoạn thứ ba là giai đoạn kinh tế thị trờng hiện đại.
Đặc trng của giai đoạn này là nhà nớc can thiệp vào nền kinh tế thị trờng và mở rộng
giao lu kinh tế với nớc ngoài .Sự can thiệp của nhà nớc vào kinh tế thị trờng thông
qua việc xây dựng các hình thức sở hữu nhà nớc, các chơng trình khuyến khích đầu t
và tiêu dùng, cùng với việc sử dụng các công cụ kinh tế tài chính, tín dụng , tiền
12