Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

luận văn thạc sỹ quản trị kinh doanh giải pháp tăng cường công tác quản lý thu thuế tncn trên địa bàn huyện tiên du tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (512.37 KB, 102 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI





NGUYỄN THỊ NỤ
GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ THU THUẾ
TNCN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN TIÊN DU TỈNH BẮC NINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN TRỊ KINH DOANH
Chuyên ngành: QUẢN TRỊ KINH DOANH
Mã số:
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN VIẾT ĐĂNG
HÀ NỘI, 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của chính bản thân tôi.
Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và chưa hề
được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các
thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, tháng năm 2013
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Nụ
LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian nghiên cứu và thực hiện luận văn này tôi đã nhận được
nhiều sự quan tâm, giúp đỡ, góp ý của nhiều tập thể và cá nhân trong và ngoài
trường.
Trước hết cho tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới TS. Nguyễn Viết Đăng,
người hướng dẫn Khoa học đã tận tình giúp đỡ tôi về kiến thức cũng như


phương pháp nghiên cứu, chỉnh sửa trong quá trình thực hiện Luận văn này.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình tôi, bạn bè tôi, những
người thường xuyên hỏi thăm, động viên tôi trong quá trình thực hiện Luận
văn này.
Có được kết quả nghiên cứu này tôi đã nhận được những ý kiến đóng
góp của các thầy cô giáo trong trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội, sự tận
tình cung cấp thông tin của các anh, chị ở Chi cục thống kê, cán bộ, nhân
viên Chi cục thuế Huyện Tiên Du. Tôi xin được ghi nhận và cảm ơn những sự
giúp đỡ này.
Mặc dù bản thân đã rất cố gắng, nhưng Luận văn này không tránh khỏi
những thiếu sót. Vì vậy, tôi rất mong nhận được sự chỉ dẫn, góp ý của quý
thầy, cô giáo và tất cả bạn bè.
Hà Nội, tháng năm 2013
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Nụ
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ VÀ ĐỒ THỊ
DANH MỤC VIẾT TẮT
CQCT Cơ quan chi trả
CC Cơ cấu
DT Dự toán
ĐTNT Đối tượng nộp thuế
NNT Người nộp thuế
NSNN Ngân sách nhà nước
MST Mã số thuế
TNCN Thu nhập cá nhân
TH Thực hiện
SL Số lượng
UBND Ủy ban nhân dân


PHẦN I: MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Thuế thu nhập nói chung và thuế TNCN nói riêng đã được áp dụng từ
lâu trên thế giới và có lịch sử hàng trăm năm. Thuế TNCN được áp dụng lần
đầu tiên ở Anh năm 1799 dưới hình thức thu tạm thời nhằm mục đích trang
trải cho cuộc chiến tranh chống Pháp và được chính thức ban hành vào năm
1842. Sau đó, thuế TNCN được nhanh chóng lan truyền sang các nước công
nghiệp khác như: Nhật (năm 1887), Mỹ (năm 1913), Pháp (năm 1914) Các
nước Châu Á như Thái Lan bắt đầu áp dụng vào năm 1939, ở Phi-líp-pin năm
1945, Hàn Quốc năm 1948, In-đô-nê-sia năm 1949, Trung Quốc năm 1984.
Đến nay, đã có khoảng 180 nước áp dụng thuế TNCN và thuế TNCN đã trở
thành một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách thuế của nhiều nước.
Các quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển đều coi thuế TNCN là một
trong những sắc thuế có tầm quan trọng đặc biệt trong việc huy động nguồn
thu ngân sách, thực hiện phân phối công bằng xã hội và điều tiết vĩ mô nền
kinh tế.
Ở Việt Nam, thuế TNCN lần đầu tiên được ban hành vào năm 1990 dưới
hình thức Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, Luật thuế
TNCN đã được Quốc hội Nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khoá
XII thông qua tại kỳ họp thứ 2 thông qua ngày 27/11/2007 có hiệu lực thi hành
từ ngày 1/1/2009 thay cho Pháp lệnh thuế đối với người có thu nhập cao. Sau
hơn 04 năm thực hiện, Luật thuế TNCN đã chứng tỏ được những ưu thế của
nó, đặc biệt là đảm bảo và góp phần làm tăng số thu cho Ngân sách Nhà nước,
đồng thời cũng khắc phục được những hạn chế của thuế thu nhập đối với người
có thu nhập cao trước đây. Bên cạnh đó, việc thực thi hành Luật thuế TNCN
cũng đã nảy sinh nhiều vướng mắc mà bằng chứng là trong những năm qua Bộ
Tài chính đã phải ban hành rất nhiều văn bản hướng dẫn thi hành Luật và
những văn bản sửa đổi bổ sung để phù hợp với tình hình phát triển của kinh tế -
xã hội Việt Nam.
Thuế TNCN là loại thuế trực thu, thu trực tiếp vào thu nhập của cá nhân,

có phạm vi ảnh hưởng rộng, áp dụng đối với nhiều đối tượng và đánh trên nhiều
loại thu nhập. Luật thuế TNCN có hiệu lực từ 01/01/2009 đến nay đã hơn 4 năm
thực hiện, trong quá trình thực hiện công tác quản lý thuế TNCN ở Việt Nam nói
chung và quản lý thuế TNCN trên địa bàn huyện Tiên Du nói riêng còn hạn chế
như: Chính sách thuế chưa rõ ràng, chưa quản lý hết người nộp thuế, đối tượng
chịu thuế, tổ chức bộ máy cơ quan thuế còn hạn chế. Thực trạng công tác thu
thuế TNCN trên địa bàn huyện Tiên Du hiện nay như thế nào?
Công tác quản lý thu thuế TNCN trên địa bàn huyện Tiên Du có những
bất cập, hạn chế gì?
Những khó khăn, thuận lợi trong việc tổ chức thu thuế TNCN trên huyện
Tiên Du
Cần những giải pháp nào để công tác quản lý thu thuế TNCN trên địa
bàn huyện Tiên Du hiệu quả hơn, tốt hơn trong thời gian tới?
Chính vì thế, để quản lý được tốt NNT, đối tượng chịu thuế góp phần tăng thu
NSNN về thuế TNCN trên địa bàn huyện là vấn đề cấp thiết. Xuất phát từ những
vấn đề nêu trên, đề tài: “Giải pháp tăng cường công tác quản lý thu thuế
TNCN trên địa bàn huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh” được lựa chọn để nghiên
cứu làm luận văn cao học.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu chung
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn từ đó đề xuất một số giải
pháp chủ yếu nhằm tăng cường công tác quản lý thu thuế TNCN trên địa bàn
huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
Để hoàn thành mục tiêu chung đề tài có các mục tiêu cụ thể như sau:
Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý thu thuế TNCN
Phân tích thực trạng của công tác quản lý thu thuế TNCN trên địa bàn
huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh.
Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý thu thuế
TNCN trên địa bàn huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh.

1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là: công tác quản lý thu thuế TNCN trên địa bàn
huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh
Đối tượng điều tra, khảo sát để thu thập thông tin là: Cơ quan quản lý
thu thuế các cấp (từ huyện, xã) và đối tượng chịu thuế TNCN, đối tượng nộp
thuế
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Đề tài tập trung chủ yếu nghiên cứu, đánh giá công tác
quản lý thuế TNCN trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh
Về thời gian: Các số liệu thống kê được phân tích từ giai đoạn 2010-
2012
PHẦN II: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ THU THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
2.1. Cơ sở lý luận về công tác quản lý thu thuế thu nhập cá nhân
2.1.1. Tổng quan về thuế TNCN
2.1.1.1 Khái niệm về thuế TNCN
Thuế TNCN là một loại thuế trực thu đánh trên thu nhập nhận được của
các cá nhân trong một khoảng thời gian nhất định (thường là một năm) hoặc
theo từng lần phát sinh
Thuế TNCN là một sắc thuế có tầm quan trọng lớn trong việc huy động
nguồn thu cho ngân sách và thực hiện công bằng xã hội.Thuế TNCN đánh
vào cả cá nhân kinh doanh và cá nhân không kinh doanh.
2.1.1.2 Vai trò của thuế TNCN
Là một bộ phận của hệ thống thuế, thuế TNCN vừa mang các vai trò
chủ yếu của thuế nói chung vừa có các vai trò riêng mà các loại thuế khác
không có được như:
Tạo lập nguồn tài chính cho ngân sách nhà nước: Thuế là nguồn thu
chủ yếu của NSNN, trong đó thuế TNCN là một trong những bộ phận quan
trọng cấu thành thuế nói chung nên cũng góp một phần quan trọng để tạo

nguồn tài chính cho nhà nước. Thuế TNCN được tính với diện rộng, khả năng
tạo nguồn thu cho ngân sách rất lớn. Bên cạnh đó, thuế TNCN tác động trực
tiếp vào thu nhập của dân cư mà người dân của bất kỳ quốc gia nào cũng đều
mong muốn và cố gắng có thu nhập ngày càng cao để nâng cao đời sống vật
chất tinh thần. Thuế TNCN luôn có sự gia tăng nhanh chóng cùng với sự tăng
lên của thu nhập bình quân đầu người.
Góp phần thực hiện công bằng xã hội: Thực hiện công bằng xã hội là
một trong những vai trò quan trọng của thuế nói chung, ngoài ra thuế TNCN
cùng với việc thực hiện biểu thuế luỹ tiến từng phần, thuế TNCN đã thực hiện
được việc điều tiết thu nhập, đảm bảo công bằng trong xã hội.
Điều tiết thu nhập, tiêu dùng và tiết kiệm: Thuế TNCN cũng có tác
dụng điều tiết vĩ mô đối với nền kinh tế.Loại thuế này điều tiết trực tiếp nên
một mặt tác động trực tiếp đến tiết kiệm, mặt khác làm cho khả năng thanh
toán của các cá nhân bị giảm.Từ đó cầu hàng hoá, dịch vụ giảm sẽ tác động
đến sản xuất.
Góp phần phát hiện thu nhập bất hợp pháp: Thực tế đã chứng minh
nhiều khoản thu nhập của một số cá nhân nhận được từ việc thực hiện các
hành vi bất hợp pháp hoặc bằng cách lợi dụng những kẽ hở của pháp luật mà
nhà nước không kiểm soát được như tham ô, nhận hối lộ, buôn bán hàng quốc
cấm, trốn tránh thuế, lừa đảo chiếm đoạt tài sản của nhà nước và công dân
Những hành vi này ảnh hưởng rất xấu đến đời sống kinh tế - xã hội của mỗi
quốc gia. Phải kết hợp hữu hiệu nhiều biện pháp để ngăn chặn và chống lại
những hành vi trên, một trong số các biện pháp ngăn chặn đó thì phải kể đến
vai trò của thuế TNCN.Tuy nhiên, vì công tác quản lý thuế TNCN còn nhiều
hạn chế nên những vai trò này vẫn chưa thực sự được phát huy ở những nước
chậm phát triển.
Đặc điểm của thuế TNCN
Một là, thuế TNCN là một loại thuế trực thu đánh vào thu nhập của
NNT, người nộp thuế đồng nhất với người chịu thuế nên khó có thể chuyển
gánh nặng thuế sang cho người khác.

Hai là, thuế TNCN là loại thuế có độ nhạy cảm cao vì nó liên quan trực
tiếp đến lợi ích cụ thể của người nộp thuế và liên quan đến hầu hết mọi cá
nhân trong xã hội. Đặc điểm này xuất phát từ tính trực thu của thuế TNCN.
Ba là, thuế TNCN là loại thuế luôn gắn liền với chính sách xã hội của
mỗi quốc gia mặc dù các quốc gia hiện nay vẫn luôn hướng tới một hệ thống
chính sách thuế mang tính trung lập.Khi tính Thuế TNCN có xem xét đến
hoàn cảnh cá nhân của người nộp thuế bằng việc quy định một số khoản được
khấu trừ có tính chất xã hội trước khi tính thuế.
Bốn là, thuế TNCN thường được tính theo biểu thuế luỹ tiến từng phần
do thuế TNCN được đánh theo nguyên tắc “khả năng nộp thuế” và cũng xuất
phát từ vai trò chủ yếu của thuế TNCN là điều tiết mạnh người có thu nhập
cao, động viên sự đóng góp của những người có thu nhập thấp, thu nhập trung
bình trong xã hội.
Năm là, thuế TNCN không bóp méo giá cả hàng hoá, dịch vụ.Thuế
TNCN không cấu thành trong giá bán (giá thanh toán) hàng hoá, dịch vụ nên
nó không tạo ra sự sai lệch giá cả hàng hoá, dịch vụ.
2.1.1.3. Tổng quan về quản lý thuế TNCN
* Khái niệm quản lý thuế TNCN
Quản lý thuế TNCN là sự tác động có chủ đích của cơ quan chức năng
trong bộ máy nhà nước đối với quá trình tính và thu thuế TNCN để thay đổi
quá trình này nhằm tạo nguồn thu cho ngân sách và đạt được các mục tiêu nhà
nước đặt ra.
* Sự cần thiết phải tăng cường công tác quản lý thuế TNCN
Tăng cường công tác quản lý đối với thuế TNCN nhằm hoàn thiện hệ
thống chính sách thuế TNCN đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội: Có
thể nói thuế TNCN không chỉ là nguồn thu của NSNN mà còn là công cụ
quan trọng điều tiết thu nhập của cá nhân có thu nhập theo hướng người có
thu nhập cao phải nộp thuế nhiều, người không có thu nhập hoặc thu nhập
thấp không phải nộp thuế hoặc nộp thuế ít, tạo ra môi trường bình đẳng về
pháp luật cho người Việt Nam cũng như người nước ngoài, góp phần thúc đẩy

nền kinh tế phát triển trong công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế. Trong những
năm vừa qua, nền kinh tế nước ta phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước ta đã tiến
hành các cuộc cải cách thuế nói chung và hệ thống chính sách thuế TNCN nói
riêng, không ngừng hoàn thiện và kiện toàn hệ thống thuế nhằm đảm bảo tính
hiệu lực của Luật thuế TNCN trong cả nước và tính hiệu quả của công tác quản
lý thu thuế. Nhờ vậy, chính sách thuế TNCN đã góp phần tích cực vào nguồn
thu NSNN và sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.Tuy nhiên, trước những
yêu cầu đặt ra của thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, công tác quản lý thuế đối với
thuế TNCN hiện nay đã bộc lộ những hạn chế. Để tạo bộ khung pháp lý về quản
lý thuế hoàn chỉnh, phù hợp với những thay đổi của sự phát triển kinh tế quốc tế
thì việc hoạch định, cải cách chính sách về quản lý thuế nhằm nâng cao công tác
quản lý của Nhà nước đối với thuế TNCN là rất cần thiết vì:
Công tác quản lý thuế của Nhà nước đối với thuế TNCN nhằm góp phần
tăng nguồn thu cho NSNN để phát triển đất nước: Kinh tế - xã hội càng phát
triển, hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng thì nhu cầu chi tiêu của Nhà
nước để giải quyết các vấn đề an ninh, quốc phòng, an sinh xã hội, phát triển sự
nghiệp giáo dục, y tế cũng ngày càng gia tăng. Do đó, hệ thống chính sách
thuế TNCN phải bao quát được hết mọi nguồn thu nhập cần thiết, các khoản
thu nhập phát sinh cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường, cơ cấu thuế
suất không quá cao, quá phức tạp, quá khả năng đóng góp, thực hiện của người
nộp thuế, bảo đảm tăng thu vào tổng số thu NSNN.Qua đó, đáp ứng được mọi
nhu cầu chi tiêu thường xuyên, vừa góp phần tích luỹ cho xây dựng cơ sở hạ
tầng và trả nợ, góp phần giảm bội chi ngân sách, kiềm chế lạm phát.
Ví dụ: Tỷ trọng thu thuế TNCN trong tổng thu ngân sách của nhiều quốc
gia đã phản ánh tiến trình đó, tại các nước khối ASEAN: 5-10%, các nước phát
triển có tỷ trọng 15-16% có nước đạt tới tỷ trọng 30- 40% như Anh, Mỹ. Việt
Nam, tỷ trọng thu về thuế TNCN cũng mới chỉ đạt khoảng 5% tổng thu ngân
sách.
Quản lý thuế của Nhà nước nhằm đảm bảo thực hiện thuế TNCN được

nghiêm minh: Do đặc điểm của Thuế TNCN là một loại thuế trực thu điều tiết
vào thu nhập của cá nhân, do người chịu thuế trực tiếp nộp thuế vào NSNN,
nên nó rất có tác dụng trong việc điều hoà thu nhập, góp phần giảm bớt sự
chênh lệch về thu nhập và tài sản giữa các những người dân cư.Tuy nhiên,
thuế TNCN lại có hạn chế lớn là dễ gây phản ứng từ phía NNT hoặc dễ xảy ra
tình trạng trốn, lậu thuế nếu quy định mức thuế suất cao. Hơn nữa, thuế
TNCN có diện thu thuế rộng và phân tán, việc theo dõi, tính toán và thu thuế
rất phức tạp.Vì vậy, nếu không có biện pháp quản lý thu thuế hiệu quả thì dễ
dẫn đến hạn chế tác dụng của loại thuế này trong việc tập trung số thu đầy đủ,
kịp thời về cho NSNN, do đó phải có quản lý thuế của Nhà nước để đảm bảo
việc thu thuế được nghiêm chỉnh, đúng pháp luật.
Quản lý thuế của Nhà nước đối với thuế TNCN để đảm bảo mục tiêu
công bằng xã hội: Thuế TNCN động viên trực tiếp vào thu nhập của cá nhân,
thể hiện rõ nghĩa vụ của công dân đối với đất nước và được căn cứ trên các
nguyên tắc "lợi ích", "công bằng" và "khả năng nộp thuế". Theo nguyên tắc
lợi ích thì mọi người trong xã hội đều được hưởng những thành quả phát triển
của đất nước về luật pháp thể chế, cơ sở hạ tầng, phúc lợi xã hội, an ninh trật
tự đồng thời cũng có nghĩa vụ đóng góp một phần thu nhập của mình cho
xã hội thông qua việc nộp thuế. Nguyên tắc "công bằng" và “khả năng nộp
thuế” thể hiện ở chỗ: người có thu nhập cao hơn thì nộp thuế nhiều hơn,
người có thu nhập như nhau nhưng có hoàn cảnh khó khăn hơn thì nộp thuế ít
hơn, mỗi cá nhân dù có thu nhập từ các nguồn khác nhau đều được điều chỉnh
thống nhất trong một chính sách thuế; Ở nước ta hiện nay cùng với sự phát
triển của nền kinh tế, thu nhập của các những người dân cư cũng tăng lên,
nhưng khoảng cách chênh lệch về thu nhập giữa nhóm người có thu nhập cao
và nhóm người có thu nhập thấp cũng có xu hướng ngày càng tăng, thu nhập
của các những người nhân dân có sự chênh lệch nhau, số đông dân cư có thu
nhập còn thấp, nhưng cũng có một số cá nhân có thu nhập khá cao, nhất là
những cá nhân làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài,
trong khu chế xuất hoặc có một số cá nhân người nước ngoài làm việc tại Việt

Nam. Mặc dù thuế TNCN chưa mang lại số thu lớn cho NSNN, song xét trên
phương diện công bằng xã hội và phương diện công cụ quản lý vĩ mô của Nhà
nước thì thuế TNCN có vị trí cực kỳ quan trọng, do đó việc điều tiết thuế thu
nhập đối với những người có thu nhập cao là cần thiết, đảm bảo thực hiện
chính sách công bằng xã hội.
Quản lý thuế của Nhà nước đối với thuế TNCN nhằm đáp ứng yêu cầu
hội nhập kinh tế quốc tế: Trong diễn trình toàn cầu hóa.Việt Nam đã là thành
viên của nhiều tổ chức kinh tế - chính trị quốc tế và khu vực. Chúng ta đã là
thành viên của Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) và của
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) Ở cấp liên khu vực, chúng ta là thành
viên tích cực của Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương
(APEC), Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM), của Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á (ASEAN)
Quá trình hội nhập Việt Nam đã có nhiều cam kết về chính sách cắt
giảm thuế,đồng nghĩa với việc NSNN sẽ bị giảm một phần.Tuy nhiên bên
cạnh việc thực hiện cắt giảm một số sắc thuế trong đó có thuế TNCN với
phạm vi điều chỉnh rộng liên quan đến mọi những người dân cư, hiện nay
chúng ta đã hội nhập đầy đủ toàn diện với kinh tế quốc tế do đó để đảm bảo
yêu cầu đòi hỏi về tính phù hợp với các điều ước và thông lệ quốc tế về chính
sách tài chính; đồng thời tạo điều kiện tối đa cho cho người nộp thuế trong
việc kê khai nộp thuế thì đòi hỏi việc quản lý thuế của Nhà nước đối với thuế
TNCN phải được nâng cao.
* Tính nghiêm minh của luật pháp
Cơ quan quản lý làm việc có hiệu quả, luật pháp được thực hiện
nghiêm minh sẽ đảm bảo việc vi phạm giảm đi.Các ĐTNT cũng như cơ quan
thuế cũng sẽ thực hiện nghiêm túc hơn các quy định trong luật thuế bởi họ
biết rằng khi vi phạm họ sẽ không tránh khỏi những hình phạt.Như vậy, công
tác quản lý thuế TNCN sẽ đạt hiệu quả hơn.
* Tình hình kinh tế và mức sống của người dân
Hiệu quả của công tác quản lý thuế TNCN phụ thuộc không nhỏ vào

mức độ phát triển kinh tế và đời sống của dân cư.Cùng một đơn vị thu thuế trên
một khu vực, số đối tượng nộp thuế TNCN nhiều, số thuế thu được nhiều sẽ
giảm bớt chi phí trên một đồng thuế thu được, và ngược lại có ít đối tượng nộp
thuế và số thuế thu được ít thì chi phí cho một đồng thuế thu được sẽ cao. Sự
phát triển kinh tế sẽ đồng hành với sự phát triển của cơ sở hạ tầng phục vụ cho
công tác quản lý nói chung và công tác quản lý thuế TNCN nói riêng. Khi cơ
sở hạ tầng tốt thì khả năng quản lý thuế cũng sẽ được đơn giản và hiệu quả.
* Ý thức chấp hành luật thuế của đối tượng nộp thuế
Ý thức chấp hành pháp luật nói chung và pháp luật thuế nói riêng tỉ lệ
thuận với ý thức và trách nhiệm nộp thuế. Khi người dân có ý thức chấp hành
luật thuế tốt, họ sẽ tự giác trong kê khai, nộp thuế; Hành vi trốn thuế sẽ ít xảy ra.
Từ đó, công tác quản lý thu thuế sẽ gặp nhiều thuận lợi và đạt kết quả tốt hơn.
Nếu người dân có ý thức chất hành luật thuế kém sẽ làm giảm hiệu quả của công
tác quản lý thu thuế.Thực tế, khi người dân nhận thức được quyền lợi họ sẽ được
hưởng những hàng hóa, dịch vụ công cộng mà nhà nước cung cấp họ sẽ thấy rõ
trách nhiệm của mình đối với nhà nước là đóng thuế cho Nhà nước.
Tóm lại: ý thức chấp hành pháp luật thuế của ĐTNT cũng ảnh hưởng
một phần tới công tác quản lý thuế TNCN.Ý thức chấp hành luật của người
dân có thể nâng cao dần qua quá trình tuyên truyền, giáo dục.
2.1.2. Nội dung công tác quản lý thu thuế TNCN
Công tác quản lý là một phần quan trọng của quản lý tài chính nhà
nước, công tác này không chỉ được nhìn nhận ở tầm vĩ mô, mà còn cả ở tầm
vi mô và phải bao gồm toàn bộ các công việc thuộc lĩnh vực lập pháp, hành
pháp và tư pháp về thu thuế.
Sau khi đã được phê chuẩn và ban hành, chính sách thuế TNCN được
tổ chức, thực hiện. Đây là khâu đóng vai trò quan trọng nhất quyết định hiệu
quả của việc sử dụng công cụ thuế. Nhờ việc tổ chức thực hiện chính sách
thuế và quá trình tính, thu thuế mới diễn ra trong thực tế, đồng thời các quy
định về quá trình mới đến được mọi người dân thông qua tuyên truyền, phổ
biến chính sách thuế. Nội dung công tác quản lý thuế TNCN bao gồm:

2.1.2.1. Tổ chức bộ máy thu thuế
Nhà nước xây dựng bộ máy quản lý thu thuế để quản lý thuế TNCN
cũng như các sắc thuế khác. Bộ máy quản lý thuế được xây dựng tùy thuộc
vào điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của từng nước. Nhìn tổng thể trong
phạm vi nền kinh tế quốc dân, cơ quan thuế ở các nước trên thế giới đều được
tổ chức thành hệ thống bao gồm nhiều cấp. Tại nhiều nước, hệ thống đó
không hoàn toàn phù hợp với hệ thống chính quyền nhà nước và bao gồm: Cơ
quan thuế trung ương, cơ quan thuế cấp huyện, thành phố và cơ quan thuế cấp
quận, huyện như Trung quốc, Việt Nam…Ngoài ra, ở một số quốc gia thì hệ
thống của ngành thuế còn được tổ chức theo các dạng khác.
Ở từng cấp, bộ máy cơ quan thuế có thể được tổ chức theo các mô hình sau:
Mô hình tổ chức theo sắc thuế: Các phòng, ban riêng biệt được thành
lập để quản lý một số loại thuế cụ thể.Mỗi phòng, ban phải thực hiện tất cả
các chức năng, nghiệp vụ quản lý các loại thuế được phân công.Có thể nói
đây là “mô hình quản lý kép kín” đối với mỗi loại thuế.
Mô hình tổ chức theo chức năng: Tổ chức các phòng, ban chức năng
riêng rẽ trong. Mỗi phòng, ban thực hiện một công việc nghiệp vụ cụ thể có
liên quan đến tất cả các sắc thuế như phòng kê khai kế toán thuế, phòng kiểm
tra ĐTNT…
Mô hình tổ chức theo đối tượng nộp thuế: ĐTNT được chia thành các
nhóm dựa trên quy mô hoạt động, hình thức sở hữu hoặc ngành kinh tế… mỗi
phòng, ban chịu trách nhiệm quản lý cung cấp những thông tin đầy đủ về từng
nhóm ĐTNT.
Để đảm bảo thực hiện tốt công tác quản lý thu thuế, đảm bảo nguồn thu
kịp thời cho NSNN và đảm bảo công bằng, bình đẳng trong xã hội mỗi nước
sẽ lựa chọn một mô hình cụ thể theo điều kiện kinh tế - xã hội. Có những
nước lựa chọn kiểu mô hình pha trộn giữa các kiểu trên.
2.1.2.2. Quản lý đối tượng nộp thuế
Đây là khâu đặc biệt quan trọng đối với công tác quản lý thuế
TNCN.Quản lý tốt ĐTNT sẽ đảm bảo phần lớn hiệu quả của công tác quản lý

thuế TNCN bởi chúng ta chưa biết chính xác ai là những đối tượng phải nộp
thuế trước khi kê khai thu nhập của họ. Do đó, cần giám sát thu nhập của tất
cả các đối tượng lao động, từ đó chúng ta có thể xác định được đối tượng nào
phải nộp thuế và nộp thuế bao nhiêu.
Cơ quan thuế phải tiến hành đăng ký ĐTNT.Phương thức đăng ký
ĐTNT thường được áp dụng là phương thức thủ công và quản lý bằng máy vi
tính. Tuy nhiên, phương thức quản lý bằng mạng vi tính thích hợp với công
tác quản lý thuế TNCN vì đối tượng nộp thuế TNCN ở đây nhiều và không
tập trung. Phương thức này thì cơ quan quản lý thuế cần phải tiến hành cấp
mã số thuế cho các đối tượng nộp thuế và cơ quan chi trả thu nhập thống nhất
trong phạm vi cả nước. Mỗi ĐTNT được gắn với một mã số thuế duy
nhất.Mọi thông tin cần thiết về ĐTNT được lưu trữ vào cơ sở dữ liệu với một
file riêng mà tên file là mã số của ĐTNT. Khi cần kiểm tra thông tin ĐTNT,
cơ quan quản lý thuế chỉ cần mở file theo mã số của đối tượng đó, nhờ đó mà
tránh được tình trạng bỏ sót các ĐTNT đồng thời cũng đảm bảo sự nhanh gọn
cho cơ quan thuế trong công tác quản lý thu thuế.
2.1.2.3. Quản lý kê khai nộp thuế
Có hai hình thức kê khai, đăng ký, nộp thuế TNCN:
Thông qua cơ quan ủy nhiệm thu hay cơ quan chi trả thu nhập tính thuế
cho các ĐTNT có thu nhập do đơn vị mình chi trả. Sau khi tính thuế và khấu
trừ thuế của ĐTNT, cơ quan chi trả thu nhập sẽ tiến hành khấu trừ phần thuế
phải nộp ra khỏi thu nhập trước thuế của ĐTNT để đem nộp NSNN. Cơ quan
chi trả thu nhập được hưởng một khoản tiền theo tỷ lệ trên số thuế thu được
và nộp vào NSNN.
ĐTNT sẽ trực tiếp kê khai thu nhập và tự tính mức thuế mình phải
nộp.Sau đó sẽ đến nộp tờ khai cho cơ quan thuế và tiến hành nộp thuế vào
NSNN. Cơ quan thuế sẽ có nhiệm vụ ghi lại tất cả các khoản thuế mà các
ĐTNT phải nộp để từ đó có thể giám sát và kiểm tra khi cần thiết. Đồng thời
đó cũng là cơ sở để đảm bảo sự minh bạch trong công tác thu nộp cả cho
ĐTNT và cơ quan thuế cũng như cơ quan ủy nhiệm thu thuế.

2.1.2.4. Quản lý quyết toán thuế, hoàn thuế
Việc quyết toán thuế cho ĐTNT là cần thiết.Việc này sẽ giúp cơ quan
thuế biết được tình hình thu nhập và nộp thuế của từng đối tượng, qua đó có
thể cung cấp cho các cơ quan khác, các nhà lập chính sách hoặc chính cơ
quan thuế cũng có thể sử dụng trong phân tích và đánh giá về chính sách thuế
khả năng nộp thuế của dân cư. Quyết toán thuế hàng năm cũng sẽ giúp cơ
quan thuế có thể phát hiện ra các trường hợp sai phạm thông qua so sánh mức
thu nhập nộp giữa các năm với nhau.
2.1.2.5. Thanh tra, kiểm tra thuế
Đây là nội dung quan trọng của công tác quản lý thuế TNCN. Thanh
tra, kiểm tra thuế TNCN được thực hiện bởi bộ phận cán bộ chuyên
ngành.Đối tượng thanh tra, kiểm tra thuế là các tổ chức kinh tế và cá nhân có
nghĩa vụ nộp thuế TNCN cho nhà nước và bao gồm cả các đơn vị thuộc
ngành thuế.Mục tiêu thanh tra, kiểm tra thuế TNCN là phát hiện và xử lý các
trường hợp sai phạm nhằm giảm bớt những tổn thất cho Nhà nước và đảm bảo
tính nghiêm minh của pháp luật. Đồng thời cũng qua quá trình thanh tra, kiểm
tra thuế cơ quan thuế có thể phát hiện những thiếu sót, bất cập trong văn bản
pháp luật thuế và quá trình tổ chức thực hiện, từ đó tìm ra những hướng giải
quyết nhằm hoàn thiện công tác quản lý thuế TNCN. Thanh tra, kiểm tra thuế
TNCN được thực hiện dưới các hình thức và phương pháp khác nhau.
Các hình thức thanh tra, kiểm tra xét theo thời gian tiến hành thanh tra, kiểm tra:
Hình thức thanh tra, kiểm tra thường xuyên được thực hiện mang tính
định kỳ, không phụ thuộc vào việc có xảy ra vụ việc hay không trong các
ĐTNT và cơ quan quản lý thuế.
Thanh tra, kiểm tra đột xuất là hình thức thanh tra, kiểm tra mang tính
bất thường và đối tượng tranh tra, kiểm tra không được biết.Hình thức này
được tiến hành khi có những vụ việc xảy ra từ phía các ĐTNT hoặc trong các
cơ quan thuế để có biện pháp xử lý.
Các hình thức thanh tra, kiểm tra xét theo phạm vi và nội dung gồm:
Thanh tra, kiểm tra toàn diện:Được tiến hành với tất cả các nội dung thanh

tra, kiểm tra, hoặc với tất cả đối tượng thanh tra, kiểm tra. Hình thức này thường
được áp dụng để phục vụ cho những nghiên cứu cải tiến lớn về hệ thống thuế.
Thanh tra, kiểm tra có trọng điểm: Được tiến hành chỉ với một số nội
dung, một số đối tượng. Người ta thường chọn ra các đối tượng điển hình và
tổ chức thanh tra, kiểm tra từ đó rút ra kết luận chung cho toàn hệ thống.
Trên thực tế, người ta cũng có thể kết hợp cả hai hình thức này trong
trường hợp cần thiết.
2.1.2.6 Thu nợ và cưỡng chế nợ thuế.
Công tác thu nợ và cưỡng chế nợ thuế thực hiện nhiệm vụ thu tiền nợ
thuế, tiền phạt đối với người nộp thuế thuộc phạm vi quản lý của mình. Thu
thập thông tin về người nộp thuế còn nợ tiền thuế, đề xuất biện pháp đôn đốc
thu nợ và cưỡng chế nợ thuế
2.1.2.7. Tuyên truyền hỗ trợ người nộp thuế
Ngoài những quy định trong văn bản pháp quy có được hoàn hảo hay
không thì sự thành công trong việc thực hiện các chính sách thuế còn phụ
thuộc rất lớn vào sự hiểu biết sâu sắc và ý thức chấp hành nghiêm túc của cán
bộ thuế cũng như NNT. Để nội dung của chính sách thuế đến với mọi người
dân trong xã hội, cơ quan thuế cần phải tiến hành công tác tuyên truyền, phổ
biến về chính sách thuế. Công tác này cần phải được thực hiện trước hết từ
cán bộ thuế, sau đó tới mọi người dân.
Để thành công trong tuyên truyên, phổ biến thuế TNCN thì các cơ quan
thuế có thể sử dụng các phương thức như thông qua các lớp tập huấn, phương
tiện thông tin đại chúng, phát hành các ấn phẩm, tờ rơi, áp phích, tổ chức các
buổi đối thoại, các cuộc thi tìm hiểu về thuế TNCN…
Đối với cán bộ thuế việc tập huấn nghiệp vụ về một chính sách thuế
nào đó cho các cán bộ ngành thuế, nhất là cán bộ cơ sở thường được tiến hành
ngay sau khi Nhà nước ban hành một chính sách thuế mới hoặc sửa đổi, bổ
sung một chính sách thuế đã có. Qua đó, cán bộ thuế có thể nắm chắc được
chính sách thuế từ mục đích, ý nghĩa đến nội dung cụ thể, đủ khả năng chuyên
môn và làm tròn nhiệm vụ như một tuyên truyền viên giỏi về thuế.

Đối với mọi người dân trong xã hội ĐTNT là người trực tiếp tính số thuế
phải nộp vào NSNN, do đó phải có một kiến thức cơ bản để hiểu được các quy
định của các luật thuế. Cơ chế tự khai, tự nộp đòi hỏi sự tự giác cao, ý thức
tuân thủ pháp luật của ĐTNT. Do vây, công tác tuyên truyền phổ biến về nghĩa
vụ thuế và nội dung của chính sách thuế đến mọi tầng lớp dân cư cần phải được
tiến hành đều đặn, thường xuyên, luôn đổi mới và nâng cao hiệu quả.
2.1.3. Đặc điểm của công tác quản lý thu thuế TNCN
Đối với công tác quản lý thu thuế thì trước hết chúng ta cần phải xây
dựng Bộ máy quản lý thuế TNCN. Một đội ngũ cán bộ thuế chuyên trách
được đào tạo chuyên sâu trong công tác quản lý thu thuế TNCN là điều cần
thiết nếu như chúng ta muốn thực hiện tốt công tác quản lý thuế TNCN. Đội
ngũ này cần phải tổ chức lại một cách thống nhất, đồng bộ và có khoa học.
Nếu làm được điều này thì chúng ta sẽ vừa tiết kiệm được chi phí cho công
tác quản lý thu thuế đồng thời vẫn đảm bảo thực hiện tốt công tác thu thuế.
Công tác quản lý thuế TNCN đặc biệt quan trọng ở khâu quản lý thu
nhập của các ĐTNT. Chính vì vậy, chúng ta cần phải giám sát thu nhập của
tất cả các đối tượng lao động. Để từ đó chúng ta có thể xác định được đối
tượng nào phải nộp thuế và nộp thuế là bao nhiêu. Muốn thực hiện tốt điều
này thì chúng ta cần phải có chế độ giám sát các khoản thu nhập một cách
chặt chẽ như phải mở sổ sách kế toán, chứng từ và các khoản chi trả thu nhập
cần phải được làm sáng tỏ trong sổ sách kế toán. Khi đó cơ quan thuế sẽ dễ
dàng hơn nhiều trong việc xác định cũng như kiểm tra thu nhập của người lao
động. Đồng thời để tạo thuận lợi cho công tác giám sát kiểm tra các ĐTNT thì
cơ quan thuế cần phải tiến hành cấp MST cho các ĐTNT và cơ quan chi trả
thu nhập. Sau khi cấp MST thì cơ quan thuế có thể giám sát các đối tượng qua
MST của họ, nhờ đó mà tránh được tình trạng thiếu sót các ĐTNT đồng thời
cũng đảm bảo sự nhanh gọn cho cơ quan thuế trong công tác quản lý thu thuế.
Công tác quản lý thuế TNCN không chỉ dừng lại ở việc thu thuế đầy
đủ đúng như qui định, nó còn cần phải phát hiện ra những bất cập, thiếu sót
trong qui định về nội dung luật thuế cũng như những qui định trong công tác

quản lý kê khai nộp thuế. Trong quá trình thực hiện quản lý thuế, cơ quan sẽ
dễ dàng tìm ra những sai sót trong quá trình lập chính sách, đồng thời cũng sẽ
dễ tìm ra những cách thức phương pháp quản lý thuế tốt nhất, thuận tiện nhất,
đơn giản nhất và tất nhiên đảm bảo được yêu cầu thu đủ và kịp thời số thu vào
NSNN.Từ đó cơ quan thuế có thể kiến nghị lên cấp trên xem xét để có thể
hoàn thiện tốt hơn Luật thuế TNCN và công tác tổ chức quản lý thuế TNCN.
2.1.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý thu thuế TNCN
Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý thuế TNCN. Mỗi
nhân tố đều có thể ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực tới công tác này tùy theo
tính chất và trạng thái của nhân tố đó.Nhiệm vụ của các cơ quan chức năng
trong bộ máy nhà nước là phải tìm cách hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực
cũng như phát huy những ảnh hưởng tích cực nhằm hoàn thiện công tác quản
lý thuế TNCN. Các nhân tố ảnh hưởng chủ yếu đó là:
Quan điểm của những người lãnh đạo nhà nước
Để đảm bảo cho pháp luật thuế được thực hiện một cách triệt để, tập trung
đúng, đủ, kịp thời nguồn thu vào NSNN chịu ảnh hưởng không nhỏ bởi quan
điểm của đội ngũ cán bộ lãnh đạo trong công tác quản lý thuế. Quan điểm của
đội ngũ cán bộ lãnh đạo có ảnh hưởng trước hết tới các chính sách thuế TNCN,
sau là tới quá trình tổ chức thực hiện và các công việc khác thuộc phạm vi quản
lý. Một hệ thống chính sách thuế và cơ cấu thuế suất hợp lý nhưng tổ chức và cơ
chế quản lý thu thuế kém sẽ không đạt được hiệu quả cao. Các cấp lãnh đạo cần
phải có biện pháp phù hợp, nhanh chóng đáp ứng yêu cầu về công tác quản lý
thu thuế, tạo được niềm tin cho ĐTNT, đảm bảo nguồn thu cho ngân sách vững
chắc, ổn định.
Quan điểm của lãnh đạo ảnh hưởng đến việc phân bổ nguồn thu, công
tác tổ chức bộ máy nhân sự, trang bị cơ sở vật chất, kế hoạch triển khai công
tác thu. Người lãnh đạo phải biết phân công giao việc một cách hợp lý, khoa
học nhằm thực thi công việc một cách tốt nhất. Như vậy, người lãnh đạo
không chỉ phải có cách nhìn bao quát công việc, mà còn phải biết phân quyền,
ủy quyền một cách hợp lý cho cấp dưới, cho những người thực thi nhằm khai

thác các ý tưởng sáng tạo mới của tập thể cán bộ trong quản lý, tạo điều kiện
để cho mọi cán bộ đều có cơ hội thăng tiến, phát huy khả năng làm việc cũng
như học tập để nâng cao kiến thức và trau dồi kỹ năng quản lý thu thuế. Theo
đó là các chế độ thưởng đột xuất, thường xuyên đối với cán bộ thuế nói chung
và cán bộ thuế có thành tích xuất sắc trong công tác quản lý thu thuế nói
riêng. Đồng thời có những biện pháp xử lý nghiêm những cán bộ vi phạm quy
chế làm việc, có hành vi tham ô, nhận hối lộ.
Khai thác các yếu tố tâm lý giữ vai trò rất quan trọng trong công tác
quản lý thu thuế. Cán bộ lãnh đạo phải thực sự song hành cùng cán bộ thuế.
Sự công tâm, tâm lý trong công tác chỉ đạo, quản lý tác động tích cực rất lớn
đến tính tự giác và thái độ làm việc của cán bộ thuế.
Quan điểm của lãnh đạo ảnh hưởng đến các biện pháp xử lý đối với các
ĐTNT tìm cách trốn thuế, dây dưa, chây ì trong việc thực hiện nghĩa vụ kê
khai, nộp thuế và hợp tác với cơ quan thuế. Đối với những đối tượng có hành
vi gian lận thuế, trốn thuế cần có những hình thức xử phạt thích đáng, đảm
bảo tính công bằng, làm cho mọi người tin tưởng vào pháp luật, tích cực đấu
tranh chống các hành vi vi phạm.
Cơ sở vật chất của ngành thuế
Nhân tố này có ảnh hưởng mạnh mẽ tới công tác quản lý thuế
TNCN.Những quy định trong chính sách về diện thu thuế (rộng hay hẹp),
phương thức kê khai, nộp thuế, quyết toán thuế…phụ thuộc rất nhiều vào khả
năng đáp ứng của ngành thuế.Khả năng này lại phụ thuộc rất lớn vào cơ sở
vật chất của ngành thuế. Cũng như vậy, một hệ thống thu thuế được kết nối
bằng mạng nội bộ sẽ là một nhân tố rất hữu ích cho cơ quan thuế trong việc
quản lý thu thuế hiệu quả, chính xác, kịp thời và tiết kiệm chi phí.Việc xây
dựng mạng thông tin nội bộ để quản lý cơ sở dữ liệu sẽ đòi hỏi những chi phí
bước đầu tương đối lớn, nhưng xét về dài hạn thì điều này sẽ tiết kiệm chi phí
hơn rất nhiều so với việc quản lý dữ liệu theo kiểu thủ công.
Trình độ và phẩm chất đạo đức đội ngũ lãnh đạo cán bộ thuế
Trình độ đội ngũ cán bộ thuế có vai trò rất quan trọng trong công tác

quản lý thuế, đặc biệt là thuế TNCN.Nhân tố này tác động vào tất cả các khâu
của công tác quản lý thuế TNCN, từ ban hành chính sách, tổ chức thực hiện
chính sách tới thanh tra, kiểm tra thuế và tổ chức bộ máy quản lý thuế.
Để ban hành chính sách đúng đắn, đáp ứng được yêu cầu của những
thay đổi kinh tế xã hội và đảm bảo được những mục tiêu của công tác quản lý
thuế TNCN thì đội ngũ cán bộ thuế ở tầm hoạch địch chính sách cần phải có
trình độ cao về vấn đề thực tế cũng như lý thuyết liên quan đến thuế, kinh tế
vĩ mô và quản lý nhà nước… và phẩm chất đạo đức tốt, tâm huyết với công
việc.Nếu nhà hoạch định chính sách có trình độ thấp và phẩm chất đạo đức
kém sẽ đưa ra các chính sách chứa đựng nhiều sai sót không chỉ ảnh hưởng
tiêu cực tới công tác quản lý thuế TNCN mà tới cả hệ thống thuế.
Quá trình thực hiện chính sách thuế cũng phụ thuộc rất nhiều vào trình
độ và phẩm chất của đội ngũ cán bộ thuế. Nhân tố này ảnh hưởng rất lớn tới
hiệu quả hoạt động của công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức thuế cũng
như quản lý thu thuế. Một đội ngũ có trình độ và phẩm chất đạo đức tốt mới
có đủ khả năng làm một tuyên truyền viên giỏi và nhiệt huyết về thuế, đồng
thời không phạm phải sai lầm trong quá trình thực hiện các nghiệp vụ cụ thể
về tính thuế, quyết toán thuế,… cũng như không có các hành vi tiêu cực thông
đồng với ĐTNT khai man thuế hay cố tình tính sai tiền thuế phải nộp. Ngược
lại, đội ngũ cán bộ thuế thiếu trình độ chuyên môn và phẩm chất đạo đức sẽ
tạo nên những sai sót trong quá trình quản lý, làm giảm hiệu quả công tác
quản lý thu thuế.
Công tác thanh tra, kiểm tra thuế càng cần một đội ngũ có trình độ cao
về phẩm chất đạo đức tốt đủ khả năng phát hiện những sai phạm và giữ thái
độ công minh, chính trực trong quá trình thanh tra, kiểm tra.Nhờ đó thanh tra,
kiểm tra mới đạt hiệu quả mong muốn.
Đội ngũ lãnh đạo làm công tác tổ chức thiết lập nên bộ máy quản lý

×