Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Chức năng của kinh tế đối ngoại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.39 KB, 20 trang )

LỜI NÓI ĐẦU

Hội nhập kinh tế là một xu thế tất yếu, khách quan trong quá trình
toàn cầu hóa kinh tế, có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự tăng trưởng
và phát triển kinh tế của mỗi quốc gia, đặc biệt là đối với các nước đang
phát triển như Việt Nam. Hội nhập kinh tế không những có mối liên hệ
chặt chẽ với tăng trưởng và phát triển kinh tế mà nó còn vừa là kết quả,
vừa là yếu tố cực kỳ quan trọng để thúc đẩy kinh tế - xã hội của đất nước
phát triển lên một trình độ mới.
Kinh tế đối ngoại là một lĩnh vực kinh tế trọng yếu của nền kinh tế,
nhất là trong thời đại toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Trong những năm qua, các lĩnh vực hoạt động của kinh tế đối ngoại đã
góp phần quan trọng cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam,
góp phần giải quyết công ăn việc làm, nâng cao thu nhập của các tầng lớp
nhân dân, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Nhận thức được vị trí, vai trò quan trọng của kinh tế đối ngoại, Đảng
và Nhà nước ta đã chủ trương thực hiện chính sách kinhh tế đối ngoại
rộng mở, phát huy các lợi thế của đất nước, chủ động hội nhập vào nền
kinh tế quốc tế và khu vực.
Trong chuyên đề này, nhóm chúng em xin tập trung đi sâu vào việc
nghiên cứu, tìm hiểu chủ đề là “ Chức năng của kinh tế đối ngoại ”. Với
các nguồn tư liệu hữu ích từ thư viện của Học Viện Hành Chính và các
phương tiện thông tin đại chúng cùng với sự hướng dẫn của giảng viên bộ
môn – thầy Đặng Đình Thanh, chúng em đã cố gắng để hoàn thành tốt
nhất bài tiểu luận này. Nhưng do nhận thức còn hạn chế nên có thể bài
tiểu luận của nhóm vẫn còn những thiếu sót, chúng em rất mong nhận
được những ý kiến đóng góp quý báu của thầy để bài tiểu luận của nhóm
em được hoàn thiện hơn. Chúng em xin chân thành cảm ơn!
1
I. KHÁI NIỆM VÀ CƠ SỞ CỦA KINH TẾ ĐỐI NGOẠI.
1. Khái niệm kinh tế đối ngoại.


Ngày nay, khi lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, phân công lao
động xã hội ngày càng mở rộng thì các mối quan hệ trên mọi lĩnh vực của
một quốc gia không chỉ dừng lại trọng phạm vi quốc gia đó mà vươn ra
phạm vi thế giới. Các mối quan hệ này về mặt kinh tế gọi là các mối quan
hệ kinh tế quốc tế. Quan hệ kinh tế quốc tế nhìn nhận từ giác độ một nền
kinh tế của một nước được gọi là quan hệ kinh tế đối ngoại.
Vậy kinh tế đối ngoại là gì?
Kinh tế đối ngoại là tổng thể các hoạt động, các quan hệ kinh tế,
tài chính, khoa học kỹ thuật và công nghệ của một nước với bên
ngoài; qua đó một nước tham gia vào phân công lao động quốc tế và
trao đổi mậu dịch quốc tế.
Lĩnh vực kinh tế đối ngoại được hình thành trên cơ sở sự phát triển
của các mối quan hệ kinh tế quốc tế. Các mối quan hệ kinh tế quốc tế thể
hiện nội dung bên trong và quyết định hình thức tồn tại cụ thể của các
hoạt động kinh tế đối ngoại, chúng đan kết với nhau hình thành lĩnh vực
kinh tế đối ngoại.
Phân công lao động quốc tế là quá trình tập trung việc sản xuất và
cung cấp một hoặc một số loại sản phẩm và dịch vụ vào một quốc gia
nhất định dựa trên những cơ sở ưu thế của quốc giia đó về điều kiên tự
nhiên, khoa học – công nghệ, lao động… để đáp ứng nhu cầu của các
quốc gia khác thông qua trao đổi quốc tế. Như vậy, kinh tế đối ngoại là
một bộ phận rất quan trọng của nền knh tế quốc dân, nó bao gồm nhiều
ngành kinh tế. Khi quốc gia thực hiện chính sách “ mở cửa ” kinh tế thì
hầu như toàn bộ các ngành, các lĩnh vực kinh tế đều tham gia vào hoạt
động kinh tế đối ngoại.
Kinh tế đối ngoại bao gồm nhiều lĩnh vực hoạt động của nền kinh tế
như thương mại quốc tế, đầu tư quốc tế, chuyển giao công nghệ quốc tế,
2
các dịch vụ có thu ngoại tệ như du lịch quốc tế, vận tai quốc tế, tài chính,
bảo hiểm…Ngày nay, cùng với sự phát triển của kinh tế thế giới, xu thế

hội nhập mạnh mẽ vào kinh tế thế giới và khu vực thì quan hệ kinh tế đối
ngoại giữa các nước ngày càng được mở rộng và đa dạng.
2.Cơ sở của kinh tế đối ngoại .
Hoạt động kinh tế đối ngoại xuất hiện và phát triển dựa trên các cơ sở
sau:
Một là, Sự hình thành và phát triển của thị trường quốc tế. Hoạt động
kinh tế là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của con người và xã hội loài
người. Trong qúa trình phát triển của mình, nhu cầu của con người ngày
càng nảy sinh. Để thỏa mãn nhu cầu của mình, lao động sản xuất của con
người cũng ngày càng phát triển và sản phẩm lao động làm ra cũng ngày
càng dồi dào hơn và dư thừa hơn. Con người bắt đầu trao đổi sản phẩm
cho nhau, kinh tế hàng hóa ra đời và ngày càng phát triển, thị trường cũng
xuất hiện và ngày càng mở rộng. Sự ra đời các quốc gia độc lập dẫn đến
hình thành các thị trường độc lập thống nhất. Do sự khác nhau về điều
kiện tự nhiên, sự phát triển của sản xuất ở các quốc gia khác nhau nên
nhu cầu của thị trường một quốc gia không được thỏa mãn bởi sản xuất
trong nước đó. Điều này dẫn đến các quốc gia phải có mối quan hệ với
nhau mới có thể có đủ các điều kiện thỏa mãn nhu cầu của quốc gia mình.
Các quan hệ kinh tế quốc tế bắt đầu hình thành.
Ban đầu các mối quan hệ kinh tế giữa các quốc gia chủ yếu dựa trên
sự khác biệt về điều kiện tự nhiên. Các quốc gia cung cấp cho nhau các
nguyên liệu, những sản phẩm riêng biệt, đặc thù mà họ có được do các
điều kiện khoáng sản, khí hậu, đất đai mang lại. Về sau, do tác động của
quá trình phát triển lực lượng sản xuất và sự phân công lao động đã làm
nảy sinh những sự khác biệt về trình độ công nghệ, kỹ thuật, quản lý dẫn
đến có sự chênh lệch về năng suất lao động và giá thành sản phẩm làm
suất hiện những lợi thế mới cho mỗi quốc gia và các quốc gia đã tận dụng
3
lợi thế của mình để đẩy mạnh việc sản xuất và mua bán, trao đổi sản
phẩm và dịch vụ trên thị trường quốc tế. Các quan hệ kinh tế cũng diễn ra

ngày càng phong phú và đa dạng hơn.
Hai là, phân công lao động quốc tế là cơ sở của sự phát triển các mối
quan hệ kinh tế quốc tế. Phân công lao động quốc tế là qúa trình tập trung
việc sản xuất và cung cấp một hoặc một số loại sản phẩm và dịch vụ vào
một quốc gia nhất định dựa trên những ưu thế của quốc gia đó về điều
kiện tự nhiên, kinh tế, khoa học, công nghệ và xã hội để đáp ứng nhu cầu
của quốc gia khác thông qua trao đổi quốc tế.
Việc phân công lao động quốc tế dẫn đến việc chuyên môn hóa và
hợp tác hóa quốc tế trong từng quốc gia và giữa các quốc gia với nhau.
Việc chuyên môn hóa diễn ra theo các hướng chuyên môn hóa khác nhau:
giữa các ngành, theo tứng sản phẩm và theo dây chuyền công nghệ.
Trong lịch sử phân công lao động xã hội có các giai đoạn phát triển
sau:
Đại phân công lao động làn thứ nhất diễn ra khi chăn nuôi tách khỏi
trồng trọt. Đây cũng là mầm mống cho sự xuất hiện của trao đổi hàng hóa
và kinh tế hàng hóa.
Đại phân công lao động làn thứ hai diễn ra khi thủ công nghiệp tách
khỏi nông nghiêp trở thành một ngành độc lập. Thủ công nghiệp là mầm
mống của công nghiệp sau này. Với sự phân công này, trình độ chuyên
môn hóa sản xuất đã trở nên sâu sắc hơn cùng với sự xuất hiện của tiền tệ
đã làm thúc đẩy trao đổi hàng hóa và nền kinh tế hàng hóa phát triển hơn
nữa.
Đại phân công lao động lần thứ ba đánh dấu bởi sự xuất hiện của
thương nghiệp. Với sự hoạt động của thương nhân đã làm cho việc trao
đổi hàng hóa phát triển mạnh và vượt biên giới quốc gia. Mậu dịch quốc
tế ra đời và ngày càng phát triển mạnh mẽ.
4
Sự ra đời và phát triển của công nghệ thông tin và internet làm cho
các hoạt động của đời sống kinh tế - xã hội mang tính toàn cầu. Điều này
làm cho quan hệ kinh tế giữa các quốc gia ngày càng gắn kết với nhau và

ảnh hưởng lẫn nhau hơn như một chỉnh thể thống nhất. Đây là giai đoạn
toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới.
Với sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội và phân công lao động
quốc tế hiện nay làm cho các quan hệ kinh tế quốc tế hiện đại cũng phát
triển rất phong phú và đa dạng. Tốc độ phát triển của thương mại quốc tế
ngày nay trên thế giới tăng nhanh hơn tốc độ của tổng sản phẩm quốc
dân. Rõ ràng lĩnh vực kinh tế đối ngoại phát triển luôn gắn liền với sự
phát triển của phân công lao động quốc tế.
II.CHỨC NĂNG CỦA KINH TẾ ĐỐI NGOẠI ĐỐI VỚI MỌI
QUỐC GIA.
Kinh tế đối ngoại đối với hoàn cảnh cụ thể của mỗi quốc gia có chức
năng, nhiệm vụ đặc thù riêng. Nhưng nhìn chung, kinh tế đối ngoại của
mọi quốc gia đều có các chức năng sau đây:
1. Kinh tế đối ngoại hỗ trợ khai thác hiệu quả lợi thế của các quốc
gia, góp phần đổi mới cơ cấu kinh tế và đạt được quy mô sản xuất tối
ưu.
* Lợi thế của các quốc gia thể hiện trên các mặt như:
- Vị trí địa lý: Các quốc gia nằm ở trung tâm các khu vực, đầu mối các
trục giao thông quốc tế có lợi thế trong phát triển kinh tế. Vị trí địa lý là
yếu tố trọng yếu của một quốc gia các khía cạnh chính là vị trí địa lý tự
nhiên, vị trí địa lý giao thông, vị trí địa lý quốc phòng. Vị trí địa lý, đặc
biệt là vị trí giao thông và vị trí quốc phòng có ý nghĩa xác định tầm quan
trọng của một quốc gia trong quan hệ với các nước khác và giữa các nước
khác với nhau, đặc biệt là giữa các cường quốc.
5
- Khí hậu: Yếu tố này rất có ý nghĩa đối với các ngành sản xuất phụ thuộc
nhiều vào điều kiện tự nhiên như sản xuất nông nghiệp. Cơ cấu, quy mô
và hiệu quả ngành chăn nuôi và trồng trọt được quyết định rất nhiều do
nhiệt độ, độ ẩm, chế độ thủy văn…
- Diện tích: Các quốc gia có diện tích đất đai rộng lớn thường có ưu thế

trong phát triển kinh tế. Diện tích lãnh thổ là yếu tố ảnh hưởng đến phát
triển kinh tế, diện tích càng lớn thì nhìn chung càng có điều kiện để phát
triển kinh tế.
- Nguồn tài nguyên: Sự phong phú, đa dạng về tài nguyên thiên nhiên
như tài nguyên rừng, biển, khoáng sản, là cơ sở để xây dựng và phát triển
nhiều ngành nghề của quốc gia. Tài nguyên thiên nhiên có ảnh hưởng
trọng yếu và lâu dài đối với một quốc gia. Tài nguyên thiên nhiên đã và
đang là trung tâm của những cuộc tranh giành, thậm chí xung đột giữa
các quốc gia đặc biệt là dầu mỏ, khí đốt; khoáng sản kim loại; nước và
những nguyên tố hiếm phục vụ kỹ thuật, quốc phòng. Do tầm quan trọng
của tài nguyên thiên nhiên vốn đang bị cạn kiệt mà nhiều lãnh thổ trước
đây vốn ít được quan tâm như Bắc Cực, Nam Cực gần đây đã trở thành
trung tâm chú ý của các quốc gia.
- Nguồn nhân lực: Trong nền kinh tế tri thức, trí tuệ của con người là yếu
tố quan trọng nhất. Quốc gia nào có lợi thế về mặt này sẽ là nước phát
triển.
Một quốc gia muốn phát triển thì cần phải có các nguồn lực của sự
phát triển kinh tế như: tài nguyên thiên nhiên, vốn, khoa học - công nghệ,
con người … Trong các nguồn lực đó thì nguồn lực con người là quan
trọng nhất, có tính chất quyết định trong sự tăng trưởng và phát triển kinh
tế của mọi quốc gia từ trước đến nay. Một nước cho dù có tài nguyên
thiên nhiên phong phú, máy móc kỹ thuật hiện đại nhưng không có những
con người có trình độ, có đủ khả năng khai thác các nguồn lực đó thì khó
có khả năng đạt được sự phát triển như mong muốn.
6
Số lượng dân số là nhân tố sản xuất cũng như cấu thành tầm quan
trọng của một quốc gia, các quốc gia đông dân đều gây được sự chú ý
trong quan hệ quốc tế như Trung Quốc, Ấn Độ. Nhiều nhà nghiên cứu
cho rằng dân số phải đạt đến một mức nhất định mới có thể đảm bảo cho
sự phát triển an toàn, bền vững của quốc gia.

Chất lượng và cấu trúc dân số: chất lượng dân số là nhân tố đảm bảo
cho số lượng nhân khẩu phát huy tác dụng. Chất lượng dân số là tố chất
công dân, trình độ giáo dục, tình trạng sức khỏe, nền tảng đạo đức, phong
tục tập quán, truyền thống văn hóa, quân sự và tinh thần dân tộc. Cấu
trúc dân số là các khía cạnh về giới tính, độ tuổi, thành phần dân tộc, tôn
giáo. Cấu trúc dân số hợp lý, thuần nhất sẽ tạo thuận lợi cho quốc gia phát
huy sức mạnh tổng hợp.
Khi quốc gia hội nhập kinh tế quốc tế và tham gia vào phân công lao
động, mỗi nước có thể khai thác tối đa lợi thế so sánh của mình để đạt
hiệu quả cao nhất trong mỗi ngành sản xuất, đồng thời cũng xây dựng
được những ngành kinh tế mũi nhọn, nâng cao năng suất, chất lượng sản
phẩm và hạ giá thành, tăng cường khả năng cạnh tranh trong nước cũng
như trên thế giới.
Quá trình này cũng giúp các quốc gia có thể thực hiện tái sản xuất mở
rộng theo chiều sâu, ứng dụng nhanh các thành tựu, tiến bộ khoa học -
công nghệ, thực hiện các phương án tối ưu về tổ chức sản xuất, đẩy nhanh
tốc độ tăng trưởng kinh tế. Thực tế cho thấy, các nước thực hiện công
nghiêp hóa đều sử dụng kinh tế đối ngoại như một công cụ hữu hiệu, lựa
chọn ngành kinh tế mũi nhọn, đẩy mạnh xuất khẩu, tăng thu ngoại tệ…
2. Kinh tế đối ngoại giúp các quốc gia giải quyết khó khăn và thiếu
hụt về các yếu tố sản xuất: vốn, lao động, tài nguyên, khoa học công
nghệ.
Thông qua hoạt động kinh tế đối ngoại, các nước thu được vốn, sử
dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, tạo việc làm, tăng thu nhập, nâng cao
7
đời sống nhân dân. Thông qua hợp tác, chuyên môn hóa, các quốc gia
tránh được những thiếu hụt trong qúa trình hoạt động kinh tế.
Kinh tế đối ngoại đã tạo ra những biến đổi về chất, mang lại cho nền
kinh tế thế giới những chuyển động tích cực không ngừng, có thể thấy rõ
điều này qua những điểm mốc dưới đây:

- Trước thế kỷ XIX, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ nhất cho
ra đời máy hơi nước và ứng dụng nó vào vận tải đường biển, đường bộ…
Đồng thời sự hình thành các công ty ủy thác tài chính, các công ty cổ
phần với quy mô nhỏ đã kích thích mậu dịch gia tăng mạnh mẽ.
- Cuối chiến tranh thế giới làn thứ hai, đồng Dollar Mỹ được sử dụng
nhiều trên thế giới; quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) được thành lập vào cuối
năm 1945, lấy USD làm đơn vị tiền tệ cơ bản đã thúc đẩy hoạt động
thương mại quốc tế và đầu tư trực tiếp nước ngoài gia tăng một cách
nhanh chóng. Các công ty xuyên quốc gia được thành lập nhằm tăng
cường khả năng cạnh tranh trên trường quốc tế.
- Toàn cầu hóa kinh tế lần thứ ba xuất hiện vào nửa cuối những năm 80
của thế kỷ XX, khi các nước đang phát triển điều chỉnh chính sách kinh
tế, mở cửa thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu và áp dụng nhiều biện pháp
thực hiện quá trình công nghiệp hóa. Các nước công nghiệp phát triển
cũng có những chiến lược nhất định, chạy đua giành vị trí tối ưu vì biến
động kinh tế thế giới buộc các nước phải khẩn trương điều chỉnh chiến
lược quốc gia cho phù hợp với biến động ấy.
Ngày nay quan hệ kinh tế quốc tế vẫn phát triển theo hướng đa dạng
hóa. Khoảng cách giữa các nươc giàu – nghèo còn quá xa và ngày càng
tăng lên, vì vậy mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại là để san lấp khoảng
cách này trong thời gian ngắn nhất. Một số nước nhỏ, nghèo nhưng có
những biến đổi nhanh chóng do lợi dụng các nguồn vốn, kỹ thuật cao của
nước ngoài và trở thành các nước công nghiệp mới như Đài Loan, Hồng
8
Kông, Hàn Quốc…Hiện nay, các nước trên thế giới đang tăng cường mở
rộng quan hệ hợp tác để học tập, rút kinh nghiệm và giúp đỡ lẫn nhau.
3. Kinh tế đối ngoại có chức năng cầu nối giữa kinh tế trong nước và
thế giới, giúp các nước có điều kiện tiếp xúc với văn minh nhân loại,
tăng cường hiểu biết và củng cố hòa bình.
Nhờ có kinh tế đối ngoại mà các quốc gia liên kết, gắn bó và ràng

buộc với nhau. Thông qua việc xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ, đầu
tư, hợp tác khoa học, xuất nhập khẩu lao động…nhân dân các nước có
điều kiện hiểu biết về truyền thống văn hóa của nhau. Tích cực và chủ
động tham gia vào phân công lao động quốc tế sẽ làm nền kinh tế mỗi
quốc gia trở thành một hệ thống mở, trở thành một bộ phận của kinh tế
thế giới.
Ngày nay kinh tế thế giới phát triển theo bốn trào lưu mà không có
nước nào nằm ngoài những trào lưu này cả:
- Quốc tế hóa mọi mặt nền kinh tế: thể hiện ở các mặt sau:
+ Quốc tế hóa sản xuất: phân công lao động quốc tế ngày nay dựa trên
lợi thế so sánh mỗi nước, nên hiện tượng các công ty ở mỗi nước xâm
nhập lẫn vào nhau để tạo thành những công ty xuyên quốc gia, công ty đa
quốc gia ngày càng trở nên phổ biến do những ưu việt của nó hơn hẳn
những công ty nhỏ hoạt động riêng lẻ, đơn độc trước đây. Chẳng hạn
hãng máy bay Boing có 650 công ty cùng hợp tác sản xuất ở trên 30 nước
khác nhau; hoặc công ty Samsung của Hàn Quốc đặt chi nhánh ở trên 60
nước để sản xuất nhiều loại sản phẩm.
+ Quốc tế hóa tiêu dùng: sản phẩm tiêu dùng có mặt trên thị trường ở
mỗi quốc gia hiện có xuất xứ từ nhiều nước trên thế giới.
+ Quốc tế hóa mậu dịch: Theo Qũy tiền tệ quốc tế (IMF), tổng khối
lượng hàng hóa và dịch vụ buôn bán trên thế giới khoảng 6.000 đến 6.500
tỉ USD/năm và gia tăng bình quân 4 đến 6%/năm.
9
- Tập đoàn hóa: Trong những năm 80 – 90 của thế kỷ XX nhiều tập đoàn
kinh tế lớn được hình thành với mong ước về một ngôi nhà chung thế
giới; các tập đoàn kinh tế bao gồm nhiều thành viên cùng ngành nghề (tập
đoàn kinh tế đơn ngành) hoặc những ngành nghề gần nhau hợp nhất lại
(tập đoàn kinh tế đa ngành) tạo thành một thể thống nhất nhằm tăng khả
năng cạnh tranh với các đối thủ khác trên thương trường.
- Kỹ thuật hóa: Cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại với công nghệ

thông tin và ngành sinh học phát triển từ giữa những năm 70 đã có ảnh
hưởng to lớn đến nền kinh tế thế giới, khiến cho lực lượng sản xuất ngày
nay trở thành lực lượng sản xuất quốc tế có khả năng đáp ứng mọi nhu
cầu của thế giới. Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại đã đẩy
nhanh quá trình luôn chuyển vốn (bình quân khoảng 1.500 đến 1.600 tỉ
USD/ngày), số lượng mặt hàng cũng gia tăng theo đà phát triển của khoa
học kỹ thuật càng đòi hỏi quá trình mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế ở các
nước phải tiến hành nhanh, mạnh và có chất lượng.
- Thị trường hóa: Theo những phân tích của Ngân hàng thế giới, hiện
nay hầu hết các nước trên thế giới thực hành kinh tế thị trường, dùng vốn
và tài chính quốc tế để sản xuất tại nước sở tại theo phân công lao động
quốc tế và hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
Hiện nay có nhiều vấn đề tác động đến tổng thể nền kinh tế thế giới
và ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia, nhưng trong
phạm vi một quốc gia không đủ khả năng giải quyết mà phải có sự hợp
sức của nhiều nước, của cộng đồng thế giới mới giải quyết được.
III. CHỨC NĂNG CỦA KINH TẾ ĐỐI NGOẠI ĐỐI VỚI VIỆT
NAM.
Kinh tế đối ngoại đối với Việt Nam có những chức năng, nhiệm vụ
đặc biệt như sau:
1. Tạo vốn và giải quyết việc làm.
10
Trong xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá với qui mô và tốc độ ngày
càng lớn đã tạo ra một nền kinh tế sôi động mà ở đó tính phụ thuộc giữa
các nước, các quốc gia ngày càng tăng. Cùng với sự phát triển nhanh
chóng của khoa học công nghệ và cách mạng khoa học công nghệ và cách
mạng thông tin đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình đổi mới cơ cấu kinh tế tạo
nên sự dịch chuyển vốn giữa các quốc gia. Đặc biệt là nhu cầu vốn đầu tư
để Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá của các nước phát triển rất lớn. Mặt
khác ở các nước phát triển dồi dào vốn và công nghệ, họ muốn tìm kiếm

những nơi thuận lợi, chi phí thấp để hạ giá thành sản phẩm và chiếm lĩnh
thị trường tiêu thụ. Chính điều đó đã tạo nên một sự thu hút mạnh mẽ vốn
đầu tư nước ngoài và đặc biệt phổ biến nhất vẫn là hình thức đầu tư trực
tiếp nước ngoài.
Một trong những nhiệm vụ hàng đầu của nước ta là tạo vốn đầu tư để
phát triển xã hội và giải quyết việc làm. Với số dân đông và chủ yếu làm
nông nghiệp trên một diện tích đất nông nghiệp hạn chế đang ngày càng
bị thu hẹp bởi quá trình đô thị hóa thì vấn đề việc làm là vấn đề nan giải.
Thêm vào đó, cơ cấu dân số trẻ, mỗi năm có một số lượng lớn thanh niên
bổ sung vào lực lượng lao động và số lao động thất nghiệp theo mùa vụ
đòi hỏi cần có những giải pháp cần thiết nhằm tạo việc làm cho người lao
động. Thu hút vốn và tạo vốn cũng là một nhiệm vụ quan trọng. Cùng với
hoạt động đầu tư nước ngoài thì các hoạt động kinh tế đối ngoại khác
cũng hướng vào việc tạo vốn và giải quyết việc làm cho nền kinh tế.
Việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài góp phần khắc phục tình trạng
thiếu vốn của các doanh nghiệp đồng thời giải quyết việc làm cho người
lao động, tạo điều kiện nâng cao mức sống của người dân. Thực hiện quá
trình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam
được bổ sung thêm vốn cho sản xuất – kinh doanh dưới nhiều hình thức,
thông qua những hợp đồng hợp tác kinh doanh hoặc hợp đồng liên doanh.
11
Theo báo cáo của Bộ kế hoạch và đầu tư: Khu vực FDI đã tạo việc
làm trực tiếp cho trên 800.000 lao động (chưa kể số lao động gián tiếp
hoặc các dịch vụ khác có liên quan). Mức lương bình quân là 75-80
USD/tháng/người – cao hơn mức bình quân chung của các doanh nghiệp
trong nước (tính đến tháng 9/2005).
Theo điều tra của công ty NiKei Shimbun (Nhật Bản) tại Việt Nam
thì tiền lương của một lao động tại các công ty có vốn đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam là 1.266 USD/người/năm (năm 2005) so với mức lương
bình quân ở Trung Quốc là 1.992 USD/người/năm và Thái Lan là 2.792

USD/người/năm. Tiền lương của một nhân viên văn phòng cấp quản lý
trung gian ở Việt Nam là 7.897 USD/người/năm, Trung Quốc là 8.653
USD/người/năm và ở Thái Lan là 14.474 USD/người/năm.
Viện trợ phát triển chính thức của các đối tác song phương và đa
phương giúp Việt Nam xây dựng cơ sở hạ tầng, thực hiện các chương
trình xoa đói giảm nghèo… góp phần rút ngắn khoảng cách lạc hậu giữa
Việt Nam với các nước khác trên thế giới và khu vực.
2. Góp phần đổi mới cơ cấu kinh tế.
Xuất phát từ nền kinh tế với tỷ trọng nông nghiệp là chủ yếu, nước ta
cần đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa. Kinh tế đối ngoại
có tác động mạnh đến cơ cấu kinh tế vì nó tạo ra những ngành công
nghiệp mũi nhọn như dầu khí, dệt may, da giày…Nền kinh tế hoạt động
có hiệu quả hơn và khai thác hợp lý nguồn tài nguyên hơn khi ứng dụng
khoa học – công nghệ hiện đại vào sản xuất.
Không thể không nêu vai trò nổi bật của kinh tế đối ngoại, đặc biệt là
vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài trong việc tăng nhanh năng lực sản
xuất và chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong thời kỳ công nghiệp hóa, hình
thành ra những ngành mũi nhọn, trong đó có nhiều ngành hướng tiêu thụ
sản phẩm ra thị trường ngoài nước. Nhờ đầu tư trực tiếp nước ngoài,
chiến lược công nghiệp hóa trên cơ sở lợi thế so sánh, tuy chưa được định
12
hướng một cách thật sự rõ ràng nhưng đang được triển khai một cách có
hiệu quả.
Ngành công nghiệp dệt, may, giầy dép thông qua các hình thức kinh
tế đối ngoại đã lớn mạnh vượt trội, sử dụng nhiều lao động, đạt suất đầu
tư cho mỗi lao động thấp, triển khai đầu tư nhanh, đóng góp kim ngạch
xuất khẩu lớn.
Trong nông nghiệp đã hình thành những vùng tập trung lớn như sản
xuất lúa, gạo, cao su, cà phê, chè. Chính việc hơn 80% đầu tư nước ngoài
tập trung tại các vùng tam giác phát triển đã biến các khu vực lãnh thổ

này trở thành các vùng động lực. Kinh tế đối ngoại đã liên kết liên doanh
sản xuất kinh doanh giữa nông thôn và thành thị, phá bỏ tính tự cấp tự
túc, khép kín trong nền kinh tế, thúc đẩy phân công lao động và sản xuất
hàng hóa phát triển.
Có thể nói rằng toàn bộ quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế, hình
thành các ngành kinh tế mũi nhọn làm động lực cho công nghiệp hóa của
đất nước đều bn đi liền với đổi mới công nghệ mà chủ yếu bằng con
đường nhập khẩu và chuyển giao công nghệ từ nước ngoài. Tuy những
công nghệ nhập khẩu và chuyển giao chưa phải là tiên tiến nhất nhưng
phù hợp với khả năng tài chính và trình độ tiếp nhận công nghệ mới trước
mắt ở nước ta, đã góp phần nâng cao đáng kể trình độ công nghệ lạc hậu
hiện nay.
Nhiều ngành và lĩnh vực sản xuất gần như đã được đầu tư đổi mới
toàn bộ công nghệ và thiết bị để gia công, chế biến hàng xuất khẩu, đáp
ứng các yêu cầu rất cao về chất lượng sản phẩm tại các nước phát triển và
kkhu vực. Nhờ vậy trong cơ cấu xuất khẩu tỷ trọng sản phẩm công
nghiệp chế biến của nước ta đã liên tục tăng đáng kể và rõ rệt. Tất cả
những lĩnh vực mới như điện tử, tin học, viễn thông, khai thác dầu khí,
hàng không…được đầu tư công nghệ, thiết bị hiện đại ngay từ đầu đã
13
phát huy hiệu quả làm tăng rất nhanh nhịp độ phát triển và tỷ trọng của
chúng trong tăng trưởng kinh tế đất nước.
Một khía cạnh nữa là thông qua hợp tác và trao đổi quốc tế những
công nghệ mới về đào tạo tri thức khoa học và nguồn nhân lực cũng được
chuyển giao vào nước ta. Trước hết nhờ các nguồn tài trờ ODA, một
lượng khá lớn cán bộ khoa học, cán bộ quản lý và chuyên môn của nước
ta được đưa sang các nước tiên tiến đào tạo lại và nắm bắt một số công
nghệ mới. Mặt khác nhờ đầu tư trực tiếp tại các xí nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài, cán bộ và công nhân của nước ta cũng được đào tạo huấn
luyện để làm chủ công nghệ và thiết bị nhập khẩu để có đủ năng lực khai

thác hiệu quả nhất các dự án đầu tư.
Thông qua hai quá trình này mặt bằng tri thức khoa học công nghệ
của nguồn nhân lực của nước ta đã được nâng lên rất nhiều. Đầu tư nước
ngoài đã góp phần kích thích tính tự giác nắm bắt kiến thức hiện đại của
lớp lao động trẻ.
3. Khai thác hiệu quả mọi nguồn lực làm cho dân giàu nước mạnh.
Việt Nam là một quốc gia có điều kiện tự nhiên thuận lợi với nguồn tài
nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng. Tuy đây là nguồn lợi lớn
nhưng không dễ biến thành thu nhập cho quốc gia nếu không có vốn, có
khoa học – công nghệ hiện đại. Vì vậy, nhờ có kinh tế đối ngoại mà tiềm
năng của nước ta mới được khai thác hiệu quả.
Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường, vốn là loại hàng hóa đặc biệt
không chỉ là nguồn lực quan trọng đối với các nước phát triển, mà còn là
yếu tố cấp thiết đối với hầu hết các quốc gia đang phát triển và kém phát
triển.
Ngay khi thực hiện đường lối đổi mới, mở cửa nền kinh tế Nhà nước
đã ban hành luật đầu tư trực tiếp nước ngoài và được áp dụng từ cuối năm
1987. Với vai trò là một nguồn vốn bổ sung quan trọng trong sự nghiệp
công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Việc thu hút nguồn vốn FDI đã
14
trở thành một bộ phận quan trọng, mũi nhọn trong hoạt động kinh tế đối
ngoại ở Việt Nam, là tiền đề cần thiết để phát triển kinh tế xã hội, đẩy lùi
nguy cơ tụt hậu. Trong thực tế, khu vực có vốn FDI đã ngày càng trở
thành một bộ phận cấu thành hữu cơ của toàn bộ nền kinh tế nước ta. Sự
thành bại của khu vực này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ nền kinh tế.
Cụ thể FDI là nguồn bổ sung cho nguồn vốn đầu tư phát triển trong nước;
nâng cao trình độ công nghệ của đất nước thông qua việc chuyển giao
công nghệ ; tiếp nhận kinh nghiệm, trình độ quản lý tiên tiến của nước
ngoài ; tạo công ăn việc làm, nâng cao trình độ kỹ năng lao động và thu
nhập cho người lao động; phát triển thị trường trong nước, tạo điều kiện

mạnh mẽ để thâm nhập thị trường thế giới góp phần cải thiện cán cân
thanh toán quốc tế và thâm hụt ngân sách nhà nước.
Đối với Việt Nam, ODA có tầm quan trọng đặc biệt, giúp chúng ta
giải quyết tình trạng cơ sở hạ tầng lạc hậu, và phân bố không đồng đều,
xoá bớt sự cách biệt về phát triển kinh tế giữa các vùng lãnh thổ trong cả
nước, giữa thành thị và nông thôn góp phần đẩy nhanh quá trình công
nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Nghị quyết đại hội VII của Đảng đã
khẳng định : ” Tranh thủ thu hút nguồn tài trợ chính thức (ODA) đa
phương và song phương, tậo trung chủ yếu cho việc xây dựng kết cấu hạ
tầng kinh tế và xã hội, nâng cao trình độ khoa học, công nghệ và quản lý,
đồng thời dành một phần tín dụng đầu tư cho các ngành nông, lâm, ngư
nghiệp, sản xuất hàng tiêu dùng. Ưu tiên dành viện trợ không hoàn lại
cho những vùng chậm phát triển…”.
Ví dụ đối với Kon Tum là một tỉnh miền núi, nền kinh tế cơ bản vẫn
là thuần nông; hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội yếu kém và thiếu
đồng bộ, thiếu sự liên kết vùng. Trình độ học vấn thấp, chất lượng nguồn
nhân lực và sự nhận thức, hiểu biết, tiếp thu, lĩnh hội, nắm bắt kiến thức kinh
tế hàng hóa của nhân dân còn hạn chế; tỷ lệ hộ nghèo cao, đời sống kinh
tế của đồng bào dân tộc thiểu số gặp nhiều khó khăn. Do đó, vốn trở
15
thành nhân tố có tính cấp thiết, vừa có ý nghĩa lâu dài để phát triển kinh
tế, văn hóa, xã hội; xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, xây dựng
nông thôn mới, tăng năng lực thực hiện nền kinh tế, thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, tạo ra việc làm, nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần của nhân dân, cũng như thực hiện chính sách dân tộc, giảm nghèo
bền vững và công bằng xã hội.
Thực hành tốt các hình thức kinh tế đối ngoại không những làm tăng
thêm lượng ngoại tệ thu vào mà việc tiếp thu và ứng dụng mạnh mẽ khoa
học kỹ thuật thế giới còn là đòn bẩy kích thích tăng trưởng kinh tế quốc
gia.

Một sự kiện trọng đại đối với người dân Việt Nam diễn ra vào năm
2008 đó là vào lúc 5 giờ 16 phút (giờ Hà Nội) ngày 19/04/2008, vệ tinh
Vinasat-1( vệ tinh đầu tiên của Việt Nam) được phóng lên quỹ đạo địa
tĩnh. Kể từ giờ phút này người dân Việt Nam đã chính thức khẳng định
chủ quyền của mình trên quỹ đạo không gian.
Mặt khác việc phóng thành công vệ tinh Vinasat-1 của Việt Nam lên
quỹ đạo như dự kiến, một lần nữa chứng minh rằng: mở rộng hoạt động
kinh tế đối ngoại, cùng với khoa học kỹ thuật thế giới được ứng dụng
rộng rãi, sẽ mang lại nhiều lợi ích cho các bên tham gia và cho cả thế
giới. Đặc biệt đối với Việt Nam, việc chủ động mở rộng quan hệ kinh tế
với các nước trên thế giới là tăng khả năng áp dụng thành tựu khoa học
kỹ thuật thế giới vào mục tiêu xây dựng xã hội Việt Nam giàu mạnh và
thịnh vượng.
Với thành công này, thủ tướng Nguyến Tấn Dũng nói: “ Vinasat-1 là
cầu nối truyền thông quan trọng và hợp tác quốc tế của Việt Nam với các
quốc gia trong khu vực và trên toàn thế giới” Vinasat-1 đặt trên quỹ đạo
132
0
Đông “ đã thể hiện chủ quyền quốc gia Việt Nam trong không gian,
góp phần nâng cao hình ảnh Việt Nam trên trường quốc tế ”
IV. KẾT LUẬN.
16
Kinh tế đối ngoại ngày càng trở thành một bộ phận trọng yếu của
nền kinh tế quốc dân, nhất là trong thời đại toàn cầu hóa và hội nhập
kinh tế quốc tế hiện nay. Có thể khái quát chức năng của kinh tế đối
ngoại qua các mặt sau đây:
Góp phần nối liền sản xuất và trao đổi trong nước với sản xuất và trao
đổi quốc tế; nối liền thị trường trong nước và thị trường thế giới và khu
vực.
Hoạt động kinh tế đối ngoại góp phần thu hút vốn đầu tư trực tiếp

(FDI) và vốn viện trợ chính thức từ các chính phủ và tổ chức tiền tệ quốc
tế (ODA); thu hút khoa học, kỹ thuật, công nghệ khai thác và ứng dụng
những kinh nghiệm xây dựng và quản lý nền kinh tế hiện đại vào nước ta.
Góp phần tích luỹ vốn thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước đưa đất nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu lên nước
công nghiệp tiên tiến hiện đại.
Góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo ra nhiều công ăn việc làm,
giảm tỷ lệ thất nghiệp, tăng thu nhập, ổn định và cải thiện đời sống nhân
dân theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh
Những chức năng của kinh tế đối ngoại chỉ đạt được khi hoạt động
kinh tế đối ngoại vượt qua được những thách thức của toàn cầu hoá và
giữ đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhận thức được vị trí, vai trò quan trọng của kinh tế đối ngoại, Đảng
và Nhà nước ta đã chủ trương thực hiện chính sách kinh tế đối ngoại rộng
mở, phát huy các lợi thế của đất nước, chủ động hội nhập vào nền kinh tế
thế giới và khu vực. Trong thực tiễn ngày càng có nhiều ngành kinh tế
quốc dân, nhiều thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động kinh tế đối
ngoại, làm cho hoạt động kinh tế đối ngoại Việt Nam ngày càng sôi động,
phong phú, đa dạng và mang lại ngày càng nhiều lợi ích cho quốc gia,
nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế và khu vực.
17
.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo Trình QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRÊN CÁC LĨNH VỰC KINH
TẾ - HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH
2. KINH TẾ ĐỐI NGOẠI – NHỮNG NGUYÊN LÝ VÀ VẬN DỤNG
TẠI VIỆT NAM, Hà Thị Ngọc Oanh – 2007.
3. KINH TẾ ĐỐI NGOẠI VIỆT NAM, PGS.TS Nguyễn Văn Trình –
2006.

4. QUAN HỆ KINH TẾ QUỐC TẾ - GS.TS.Võ Thanh Thu.
18
BỐ CỤC
LỜI NÓI ĐẦU
I. KHÁI NIỆM VÀ CƠ SỞ CỦA KINH TẾ ĐỐI NGOẠI.
1. Khái niệm kinh tế đối ngoại.
2.Cơ sở của kinh tế đối ngoại .
II.CHỨC NĂNG CỦA KINH TẾ ĐỐI NGOẠI ĐỐI VỚI MỌI QUỐC
GIA.
1. Kinh tế đối ngoại hỗ trợ khai thác hiệu quả lợi thế của các quốc gia,
góp phần đổi mới cơ cấu kinh tế và đạt được quy mô sản xuất tối ưu.
2. Kinh tế đối ngoại giúp các quốc gia giải quyết khó khăn và thiếu hụt về
các yếu tố sản xuất: vốn, lao động, tài nguyên, khoa học công nghệ.
3. Kinh tế đối ngoại có chức năng cầu nối giữa kinh tế trong nước và thế
giới, giúp các nước có điều kiện tiếp xúc với văn minh nhân loại, tăng
cường hiểu biết và củng cố hòa bình.
III. CHỨC NĂNG CỦA KINH TẾ ĐỐI NGOẠI ĐỐI VỚI VIỆT NAM.
1. Tạo vốn và giải quyết việc làm.
2. Góp phần đổi mới cơ cấu kinh tế.
3. Khai thác hiệu quả mọi nguồn lực làm cho dân giàu nước mạnh.
IV. KẾT LUẬN.
19
DANH SÁCH CÁC THÀNH VIÊN TRONG NHÓM:
1. Quách Ngọc Đoàn ( Nhóm trưởng)
2. Đinh Trung Đức.
3. Hà Văn Hải.
4. Nguyễn Đình Thảo.
5. Ma A Chinh.
6. Sengamphon Kongphavong.
7. Vi Thị Chuyên.

8. Bùi Thị Mị.
20

×