Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Tiểu luận triết học Phân tích thực chất cuộc cách mạng triết học Mác - Anghen và ý nghĩa lịch sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.6 KB, 35 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Triết học ra đời và phát triển cho đến nay đã có lịch sử gần 3000 năm.
Sự phát triển những tư tưởng triết học của nhân loại là một quá trình đấu
tranh phức tạp và không khoan nhượng. Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy
vật và chủ nghĩa duy tâm, và gắn với nó là cuộc đấu tranh giữa các phương
pháp nhận thức hiện thực – phương pháp biện chứng và phương pháp siêu
hình diễn ra một cách mạnh mẽ xuyên suốt chiều dài phát triển của lịch sử
triết học, làm nên cái “logic nội tại khách quan” của sự phát triển.
Triết học Mác là một hệ thống triết học khoa học và cách mạng, chính
vì vậy nó đã trở thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học của giai
cấp công nhân và nhân dân tiến bộ trong thời đại cách mạng mới. Triết học
Mác đã kế thừa những tinh hoa, từ đó đưa ra những nguyên lý khoa học giúp
con người nhân thức đúng và cải tạo thế giới.
Sự ra đời triết học Mác tạo nên sự biến đổi có ý nghĩa cách mạng
trong lịch sử phát triển triết học của nhân loại. C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế
thừa một cách có phê phán những thành tựu tư duy trước đó, sáng tạo nên
chủ nghĩa duy vật triết học triệt để, không điều hoà với chủ nghĩa duy tâm và
phép siêu hình. Để xây triết học duy vật biện chứng, Mác đã dựa trên nền
tảng của chủ nghĩa duy vật cũ và phép biện chứng duy tâm của Hêghen. Đó
là một cuộc cách mạng thật sự trong học thuyết về xã hội, một trong những
yếu tố chủ yếu của bước ngoặt cách mạng mà Mác và Ăngghen đã thực hiện
trong triết học. Vì vậy em nghiên cứu vấn đề “Chứng minh rằng sự ra đời
của Triết học Mác là một bước ngoặt trong lịch sử triết học. Giá trị lý luận
và thực tiễn đối với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay” cho bài tiểu
luận của mình.
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CHO SỰ RA ĐỜI CỦA
TRIẾT HỌC MÁC
1.1. Cở sở lý luận.
1.1.1. Vấn đề cơ bản của triết học.
Triết học là hệ thống những quan điểm chung về thế giới, nó xuất hiện


vào thời kỳ phát sinh và phát triển của xã hội chiếm hữu nô lệ ở thời cổ đại,
vào khoảng từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VI trước công nguyên với những thành
tựu rực rỡ trong các nền triết học cổ đại ở Trung Quốc, ấn Độ và Hy Lạp.
Trong gần 3000 năm tồn tại và phát triển, triết học có nhiều trường
phái và hệ thống khác nhau. Các hệ thống và trường phái đó phản ánh trình
độ phát triển về kinh tế – xã hội, chính trị và trình độ phát triển của các tri
thức khoa học tự nhiên của các nước. Lẽ đương nhiên, sự phản ánh đó tuỳ
thuộc vào lập trường của các giai cấp nhất định.
Khi nghiên cứu các hệ thống, các trường phái triết học, chủ nghĩa Mác
cho rằng, vấn đế quan trọng hàng đầu, “vấn đề cơ bản lớn” hay “vấn đề tối
cao” của triết học là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại, giữa tinh thần và
thế giới tự nhiên. Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt:
Thứ nhất, giữa vật chất và ý thức, cái nào có trước, cái nào có sau và
cái nào quyết định?
Thứ hai, ý thức của chúng ta có thể phản ánh trung thực thế giới khách
quan không? Hay nói một cách khác, con người có khả năng nhận thức thế
giới hay không?
Vấn đề quan hệ giữa tồn tại và tư duy hay giữa vật chất và ý thức là
vấn đề cơ bản trong tất cả vấn đề mà triết học tập trung giải quyết. Bởi vì,
một là, đó là vấn đề triết học rộng nhất, chung nhất; hai là, nếu không giải
quyết được vấn đề này thì không thể tiếp tục giải quyết các vấn đề khác,
những vấn đề ít chung hơn; ba là, giải quyết vấn đề này như thế nào sẽ quyết
định tính chất của thế giới quan của các nhà triết học. Và thế giới quan ấy là
cơ sở tạo ra phương hướng để xem xét và giải quyết tất cả những vấn đề còn
lại. Các học thuyết triết học được chia thành hai trào lưu cơ bản: duy vật hay
duy tâm, điều đó tuỳ thuộc vào việc giải quyết vấn đề cơ bản này.
Các hệ thống triết học thừa nhận tồn tại, tự nhiên, vật chất là cái có
trước; ý thức, tinh thần, tư duy là cái có sau, đó là chủ nghĩa duy vật. Còn
các hệ thống triết học coi ý thức là cái có trước, tồn tại là cái có sau là trào
lưu duy tâm. Việc xem xét và giải quyết vấn đề cơ bản của triết học là tiêu

chuẩn khoa học duy nhất để xác định các học thuyết triết học đã, đang và sẽ
tồn tại là thuộc trào lưu nào: duy tâm hay duy vật.
Các trào lưu cơ bản trong triết học – chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
duy tâm – luôn luôn đấu tranh với nhau. Cuộc đấu tranh giữa các trào lưu
triết học là biểu hiện về mặt tư tưởng của cuộc đấu tranh giai cấp và phản
ánh tồn tại xã hội của các giai cấp, các tầng lớp trong xã hội. Thông thường,
chủ nghĩa duy vật là biểu hiện về mặt triết học của hệ tư tưởng các giai cáp
và các tầng lớp tiến bộ, các lực lượng xã hội quan tâm đến sự phát triển xã
hội. Chủ nghĩa duy tâm là biểu hiện về mặt triết học của các giai cấp, các
nhóm xã hội bảo thủ, các đảng phái chính trị phản động, không quan tâm đến
sự phát triển xã hội. Các nhà duy vật với tư cách là các nhà tư tưởng của các
lực lượng xã hội tiến bộ thường lấy những thành tựu, kết quả của khoa học
tiến tiến mà thực tiễn làm cơ sở cho thế giới quan của mình. Còn các nhà
duy tâm luôn luôn gắn với tôn giáo, củng cố vị trí của tôn giáo bằng những
luận cứ triết học duy tâm.
Sự xuất hiện các giai cấp đối kháng và chế độ người bóc lột người,
việc tách lao động trí óc khỏi lao động chân tay là những nguyên nhân xã hội
làm cho chủ nghĩa duy tâm xuất hiện. Các đại biểu của các giai cấp bóc lột,
thống trị độc quyền hoạt động trí óc luôn mong muốn tạo ra ấn tượng rằng,
dường như lao động chân tay, hoạt động sản xuất vật chất của quần chúng
lao động là cái thứ yếu, cái phụ thuộc của lao động trí óc. Họ cho rằng lao
động trí óc đóng vai trò chủ yếu trong đời sống xã hội. Sự khẳng định này
của các tư tưởng gia của giai cấp phản động không tránh khỏi dẫn tới chủ
nghĩa duy tâm triết học, tới những mưu toan, luận chứng các hiện tượng tinh
thần là cái có trước, các hiện tượng vật chất là cái có sau.
1.1.2. Tư tưởng triết học của Hêghen và Phoi ơbắc – Hạt nhân lý
luận cho sự gia đời của triết học Mác xít.
- Hêghen: Triết học Hêghen là biểu hiện của sự phát triển đầy đủ nhất
và rực rỡ nhất của chủ nghĩa duy tâm cổ điển Đức. Hêghen là nhà tư tưởng
của giai cấp tư sản Đức, người thể hiện chính sách thoả hiệp về chính trị của

giai cấp tư sản với giai cấp phong kiến quý tộc Phổ. Quan điểm triết học của
ông là hệ thống duy tâm cổ điển cuối cùng, là trình độ cao nhất của sự phát
triển phép biện chứng duy tâm.
Hêghen là nhà duy tâm khách quan. Ông coi tinh thần thế giới là cái
có trước, vật chất với tính cách dường như là sự thể hiện, sự biểu hiện cụ thể
của tinh thần thế giới, là cái có sau; tinh thần là đấng sáng tạo ra vật chất.
Tinh thần thế giới – ý niệm tuyệt đối tồn tại vĩnh viễn và chứa đựng
dưới dạng tiềm năng tất cả mọi hiện tượng của tự nhiên và xã hội. Nó là
nguồn gốc và động lực của mọi hiện tượng tự nhiên và xã hội. Tinh thần thế
giới hay ý niêm tuyệt đối trong quá trình tự phát triển của nó diễn ra qua các
giai đoạn khác nhau, ngày càng thể hiện đầy đủ nội dung bên trong của nó.
Đầu tiên nó phát triển trong bản thân nó, sau đó nó thể hiện dưới hình thức
tự nhiên – thế giới vô cơ, hưu cơ và con người, tiếp nữa là thể hiện dứoi hình
thức nhà nước, nghệ thuật, tôn giáo và triết học. Theo hệ thống của Hêghen,
toàn bộ thế giới muôn màu, muôn vẻ là sản phẩm của sự phát triển tự nhiên
của ý niệm với tính cách là lực lượng sáng tạo, là tổng hoà của mọi hình thức
khác nhau của sự biểu hiện của ý niệm. Bởi vậy, học thuyết của Hêghen coi
tính thứ nhất là tinh thần, tính thứ hai là vạt chất. Đó cũng chính là sự thể
hiện riêng về mặt triết học những lời khưảng định của tôn giáo rằng Thượng
đế sáng tạo ra thế giới.
Có thể nói, trong việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, Hêghen
chỉ lặp lại những điều mà các nhà duy tâm trước đó đã nói. Song, cái mới
trong học thuyết của ông, chính là chỗ ông xem xét tinh thần thế giới, ý niệm
tuyệt đối là một quá trình tự phát triển không ngừng, và ông là một nhà triết
học hoàn chỉnh phép biện chứng duy tâm, phép biện chứng của ý niệm tuyệt
đối, tinh thần thế giới với tính cách là cơ sở đầu tiên và nguồn gốc của mọi
tồn tại.
Hêghen đã phê phán phép siêu hình thống trị lúc đó và ông đã lấy
phép biện chứng đem đối lập với nó.
Các yếu tố biện chứng duy tâm có trong các tác phẩm triết học duy

tâm trước Hêghen, nhưng phép biện chứng duy tâm với tính cách là phương
pháp ít nhiều hoàn chỉnh thì do Hêghen lập ra
Công lao của Hêghen so với những người tiền bối của ông là ở chỗ đã
phân tích một cách tổng hợp và biện chứng tất cả các phạm trù quan trọng
nhất của triết học và hình thành trên cơ sở duy tâm ba quy luật cơ bản của tư
duy: quy luật chuyển hoá từ lượng thành chất, quy luật thâm nhập lẫn nhau
của các mặt đối lập và quy luật phủ định của phủ định.
- Phoi ơbắc: là nhà triét học duy vật, đại biểu cho tâng lớp dân chủ
cấp tiến trong giai cấp tư sản Đức. Ông đấu tranh kiên quyết chống chủ
nghĩa duy tâm của Hêghen. Ông đã phê phán ý niệm tuyệt đối của Hêghen
cũng như chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo nói chung, khôi phục vị trí xứng
đáng của triết học duy vật.
Khi chống lại quan điểm duy tâm của Hêghen coi giới tự nhiên là “tồn
tại khác” của tinh thần, Phoi ơbắc đã chứng minh thế giới là vật chất, giới tự
nhiên tồn tại ngoài con người không phụ thuộc vào ý thức con người, là cơ
sở sinh sống của con người. Giới tự nhiên không do ai sáng tạo, nó tồn tại,
vận động nhờ những cơ sở bên trong nó.
Triết học của Phoi ơbắc mang tính chất nhân bản. Nó chống lại nhị
nguyên luận về sự tách rời giữa tinh thần và thể xác, ông coi ý thức tinh
thần, cũng là một thuộc tính đặc biệt của vật chất có tổ chức cao là óc người.
Từ đó cho phép khẳng định mối quan hệ khăng khít giữa tồn tại và tư duy.
Phoi ơbắc không chỉ chống lại chủ nghĩa duy tâm, mà với triết học
nhân bản của mình ông còn đấu tranh chống những quan điểm duy vật tầm
thường quy các hiện tượng tâm lý tinh thần về các quá trình lý hoá, không
thấy sự khác nhau về chất giữa chúng, chẳng hạn như coi óc tiết ra tư tưởng
cũng như gan tiết ra mật.
Mặt tích cực trong triết học nhân bản của Phoi ơbắc còn thể hiện ở chỗ
ông đấu tranh chống các quan niệm tôn giáo chính thống của đạo Thiên
chúa, đặc biệt quan niệm về Thượng đế. Trái với các quan niệm truyền thống
của tôn giáo và thần học cho rằng Thượng đế tạo ra con người, ông khẳng

định, chính con người sáng tạo ra Thượng đế. Khác với Hêghen nói đến sự
tha hoá của ý niệm tuyệt đối, Phoi ơbắc nói đến sự tha hoá của bản chất con
người vào Thượng đế. Ông lập luận rằng, bản chất tự nhiên của con người là
muốn hướng tới cái chân, cái thiện nghĩa là hướng tới nhứng cái gì đẹp nhất
trong một hình tượng đẹp nhất về con người, nhưng trong thực tế những cái
đó con người không đạt được nên gửi gắm tất cả ước muốn của mình vào
hình tượng Thượng đế. Từ đó Phoi ơbắc đã đi đến phủ nhận mọi thứ tôn giáo
và thần học về một vị Thượng đế siêu nhiên, đứng ngoài, sáng tạo ra con
người, chi phối cuộc sống con người.
Triết học của Phoi ơbắc cũng bộc lộ những hạn chế. Chẳng hạn, kho
ông đòi hỏi triết học mới – triết học nhân bản, phải gắn liền với tự nhiên
đồng thời đã đứng trên lập trường của chủ nghĩa tự nhiên để xem xét mọi
hiện tượng thuộc về con người và xã hội. Con người, theo quan niệm của
Phoi ơbắc là con người trừu tượng, phi xã hội mang những thuộc tính sinh
học bẩm sinh. Triết học nhân bản của Phoi ơbắc chứa đựng những yếu tố của
chủ nghĩa duy tâm. Ông nói rằng, bản tính con người là tình yêu, tôn giáo
cũng là một tình yêu. Do vậy, khi thay thế cho thứ tôn giáo tôn sùng một vị
thượng đế siêu nhiên cần xây dựng một thứ tôn giáo mới phù hợp với tình
yêu của con người. Ông cho rằng cần phải biến tình yêu thương giữa con
người thành mối quan hệ xã hội khác, thành lý tưởng xã hội. Trong điều kiện
của xã hội tư sản Đức bấy giờ, với sự phân chia và đối lập giai cấp thì chủ
nghĩa nhân đạo của Phoi ơbắc về tình yêu thương giữa con người trở thành
chủ nghĩa nhân đạo trừu tượng, duy tâm.
Trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm của Hêghen, Phoi
ơbắc đã không biết rút ra từ đó cái “hạt nhân hợp lý” mà đã vứt bỏ luôn cả
phép biện chứng của Hêghen.
Mặc dù có nhưng hạn chế, triết học của Hêghen và Phoi ơbắc có ý
nghĩa to tớn trong lịch sử triết học và trở thành một trong những nguồn gốc
lý luận quan trọng của triết học Mác
1.2. Cơ sở thực tiễn.

1.2.1. Điều kiện kinh tế - xã hội.
1.2.1.1. Sự củng cố và phát triển của phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa trong điều kiện cách mạng công nghiệp.
Vào những năm 40 của thế kỷ XIX do tác động của cuộc cách mạng
trong công nghiệp làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ. Phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được củng cố vững chắc và trở thành xu thế
phát triển của nền sản xuất xã hội. Nước Anh đã hoàn thành cuộc cách mạng
công nghiệp và trở thành cường quốc công nghiệp. Ở Pháp, cuộc cách mạng
công nghiệp đang đi vào giai đoạn hoàn thành.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất làm cho quan hệ sản xuất tư bản
được củng cố tạo ra cơ sở kinh tế để cho xã hội tư bản phát triển kèm theo đó
mâu thuẫn xã hội càng thêm gay gắt và bộc lộ ngày càng rõ rệt; sự phân hóa
giàu nghèo tăng lên, bất công xã hội tăng. Những xung đột giữa giai cấp vô
sản với tư sản đã phát triển thành những cuộc đấu tranh giai cấp.
1.2.1.2. Sự xuất hiện của giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử
Giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ra đời và lớn lên cùng với sự hình
thành và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Khi chế độ tư
bản chủ nghĩa được xác lập, giai cấp tư sản trở thành giai cấp thống trị xã
hội, giai cấp vô sản trở thành bị trị thì mâu thuẫn giữa vô sản với tư sản vốn
mang tính đối kháng phát triển trở thành những cuộc đấu tranh giai cấp.
Cuộc khởi nghĩa của thợ dệt ở thành phố Liông (Pháp) năm 1831 tuy bị đàn
áp nhưng lại bùng nổ tiếp vào năm 1834. Ở Anh có phong trào Hiến chương
vào cuối những năm 30 của thế kỷ XIX, là phong trào cách mạng to lớn có
tính chất quần chúng và có hình thức chính trị. Nước Đức nổi lên phong trào
đấu tranh của thợ dệt ở Xilêdi đã mang tính giai cấp.
Trong hoàn cảnh lịch sử đó, giai cấp tư sản không còn đóng vai trò là
giai cấp cách mạng. Ở Anh, Pháp giai cấp tư sản tuy nắm quyền thống trị, lại
hoảng sợ trước cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản nên không còn là vị trí
tiên phong trong quá trình cải tạo dân chủ như trước. Còn giai cấp tư sản
Đức đang lớn lên trong lòng xã hội phong kiến, vốn đã khiếp sợ bạo lực cách

mạng khi nhìn vào tấm gương Cách mạng tư sản Pháp 1789, nay lại thêm sợ
hãi trước sự phát triển của phong trào công nhân Đức. Vì vậy, giai cấp vô
sản xuất hiện trên vũ đài lịch sử với sứ mệnh xoá bỏ xã hội tư bản và trở
thành lực lượng tiên phong trong cuộc đấu tranh cho nền dân chủ và tiến bộ
xã hội.
Như vậy, thực tiễn xã hội, nhất là thực tiễn của phong trào đấu tranh
của giai cấp vô sản đòi hỏi phải được soi sáng bởi một hệ thống lý luận, một
học thuyết triết học mới. Học thuyết đó phải xuất hiện để định hướng phong
trào đấu tranh nhanh chóng đạt được thắng lợi.
Sự xuất hiện của giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử và phong trào đấu
tranh của họ đã tạo ra nguồn tư liệu quý báu về thực tiễn xã hội để Các Mác
và Ph. Ăngghen khái quát xây dựng những quan điểm triết học.
1.2.2. Tiền đề khoa học tự nhiên
Giữa triết học với khoa học nói chung và khoa học tự nhiên nói riêng
có mối quan hệ khăng khít. Sự phát triển của tư duy triết học phải dựa trên
cơ sở tri thức do các khoa học cụ thể đem lại. Vì thế, mỗi khi trong khoa học
có những phát minh mang tính chất vạch thời đại thì tạo ra sự thay đổi của
triết học.
Trong những năm đầu của thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên phát triển
mạnh với nhiều phát minh quan trọng: Định luật bảo toàn biến hóa năng
lượng, Thuyết tế bào, thuyết tiến hóa. Những phát minh khoa học đó đã vạch
ra mối liên hệ thống nhất giữa những sự vật, giữa các hình thức vận động
khác nhau trong tính thống nhất vật chất của thế giới, vạch ra tính biện
chứng của sự vận động và phát triển. Đồng thời đã làm bộc lộ rõ tính hạn chế
và sự bất lực của phương pháp tư duy siêu hình và của tư tưởng biện chứng
cổ đại cũng như phép biện chứng của Hêghen. Từ đó đặt ra một yêu cầu
trong tư duy nhân loại cần phải xây dựng một phương pháp tư duy mới thật
sự khoa học. Với những phát minh của mình, khoa học đã cung cấp những
tri thức để Các Mác và Ph.Ăng ghen khái quát xây dựng phép biện chứng
duy vật.

Như vậy, triết học Mác ra đời như một tất yếu lịch sử không những vì
đời sống thực tiễn mà còn vì những tiền đề lý luận, xã hội và khoa học mà
nhân loại đã tạo ra.
1.3. Triết học Mác ra đời là một tất yếu mang tính lịch sử.
Rõ ràng những cuộc đấu tranh giai cấp ở các nước tư bản chủ nghĩa
tiên tiến ở châu Âu những năm 30-40 của thế kỷ XIX là nhân tố khách quan
chứng tỏ rằng đã có những tiền đề xã hội- giai cấp và những điều kiện để
xuất hiện chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; là
chứng cứ để nói rằng nhu cầu xã hội đã chín muồi đề xuất hiện một thế giới
quan triết học mới – triết học mácxít.
Những tư tưởng xã hội trực tiếp xuất hiện trước chủ nghĩa Mác và
biểu hiện rõ ràng nhất và kinh tế chính trị cổ điển Anh, chủ nghĩa xã hội
không tưởng pháp, triết học cổ điển Đức. Trong những học thuyết ấy chứa
đựng những giá trị về mặt lịch sử. Đó là, lý luận giá trị lao động của Smith
và Ricardo, là những dự đoán thiên tài của Xanh ximông và Phuriee về một
số đặc điểm của xã hội xã hội chủ nghĩa tương lai và sự phê phán của các
ông đối với xã hội tư bản. Đó là phép biện chứng duy tâm của Hêghen và
kiến giải duy vật về vấn đề cơ bản của Triết học trong các tác phẩm của
Phoiơbắc. Những học thuyết đó là những đỉnh cao của sự phát triển tư tưởng
lý luận xã hội loài người trong thời kỳ trước Mác. Sự phát triển hơn nữa về
kinh tế chính trị học, lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học và triết học chỉ có
thể có được với sự ra đời của phép biện chứng duy vật. Song, rõ ràng những
thành tựu đã đạt tới của nhân loại lại là những tiền đề lý luận tất yếu về mặt
lịch sử và là nguồn gốc của chủ nghĩa Mác nói chung, của triết học mácxít
nói riêng.
Đồng thời khi nhân loại đã đạt tời những đỉnh cao trong khoa học tự
nhiên. Các nhà khoa học tự nhiên như R.Maye (Đức), P.P Giulơ (Anh),
E.Kh. Lenxơ (Nga), L.A.Cônđinh (Đan Mạch) đã xác định sự thật về chuyển
hoá năng lượng. R.Maye và P.P Giulơ đã nên lên thành định luật bảo toàn và
chuyển hoá năng lượng, đã chứng minh sự phát triển của vật chất là một quá

trình vô tận của sự chuyển biến những hình thức vận động của chúng. Các
nhà sinh vật học người Đức như Svan và Slâyđen đã đưa ra lý luận tế bào,
chứng minh rằng các tế bào là cơ sở của kết cấu và sự phát triển của tất cả
các cơ thể động vật và thực vật, và do vậy tìm ra bản chất sự phát triển của
cơ thể động vật, thực vật đều là sự phát triển bằng sự hình thành tế bào. Nhà
khoa học người Anh là Đácuyn cũng đã phát hiện là lý luận duy vật về
nguồn gốc và sự phát triển của các loài thực vật và động vật. Chính định luật
bảo toàn và chuyển hoá năng lượng, lý luận tế bào, học thuyết về sự xuất
hiện và phát triển các loài là tiền đề về mặt khoa học tự nhiên của chủ nghĩa
duy vật biện chứng.
Chủ nghĩa Mác ra đời trong bối cảnh ấy và nó là sản phẩm mang tính
quy luật của khoa học và triết học mà nhân loại đã đạt tới, nó được hình
thành như là kết quả của các phát hiện của Mác và Ăngghen về những quy
luật chung nhất của sự phát triển thế giới. Chủ nghĩa Mác do C.Mác và
Ph.Ăngghen sáng lập là một học thuyết thống nhất, hoàn chỉnh, gồm ba bộ
phận cấu thành: triết học mácxít, kinh tế chính trị học mácxít và chủ nghĩa
xã hội khoa học.
CHƯƠNG II
SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC VÀ Ý NGHĨA
2.1. Sự ra đời của triết học Mác, Lê-nin bảo vệ và phát triển.
2.1.1. Giai đoạn chuyển biến tư tưởng của CácMác và Ph.Ăng
ghen từ chủ nghĩa duy tâm và dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy
vật và cộng sản chủ nghĩa
2.1.1.1. Sự chuyển biến tư tưởng của Các Mác
Các Mác (5/5/1818 - 14/3/1883) sinh trưởng trong một gia đình trí
thức (bố là luật sư) ở thành phố Tơrevơ, tỉnh Ranh, một vùng có nhiều ảnh
hưởng của cách mạng tư sản Pháp và đạo Kitô là tôn giáo độc tôn.
Những ảnh hưởng tốt của giáo dục gia đình, nhà trường và các quan hệ xã
hội khác đã giúp Các Mác hình thành tinh thần nhân đạo và xu hướng yêu tự
do. Phẩm chất đó không ngừng được bồi dưỡng và đã trở thành định hướng

cho cuộc đời sinh viên và đưa Các Mác tới chủ nghĩa dân chủ cách mạng.
Cũng vì thế, trong tình hình lúc đó, triết học Hêghen với tinh thần biện
chứng cách mạng của nó được Các Mác xem là chân lý. Trong thời gian học
ở khoa Luật trường Đại học Tổng hợp Béc lin (1836 - 1841) ông say mê
nghiên cứu triết học, nhằm giải đáp vấn đề giải phóng con người, thực hiện
dân chủ, vươn tới tự do. Năm 1837 Các Mác tập trung nghiên cứu triết học
Hêghen và tham gia nhóm “Hêghen trẻ”.
Sau khi nhận bằng tiến sỹ triết học (8/1841), Các Mác chuẩn bị vào
giảng dạy triết học ở trường đại học và dự định xuất bản một tạp chí với tên
gọi “Tư liệu của chủ nghĩa vô thần”. Nhưng dự định đó không được thực
hiện vì nhà nước phong kiến Phổ thực hiện chính sách đàn áp những người
dân chủ cách mạng. Ông và một số người theo phái “Hêghen trẻ” đã chuyển
sang hoạt động chính trị đấu tranh chống lại chủ nghĩa chuyên chế Phổ giành
lại quyền tự do dân chủ; đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong tư tưởng của
ông. Như vậy lúc này, trong tư tưởng của Các Mác có sự mâu thuẫn giữa thế
giới quan duy tâm với tinh thần dân chủ cách mạng và vô thần. Mâu thuẫn
bước đầu được giải quyết khi Các Mác làm việc ở báo Sông Ranh, ở đây lúc
đầu là cộng tác viên sau trở thành linh hồn của tờ báo và ông đã làm cho nó
trở thành cơ quan ngôn luận của phái dân chủ cách mạng.
Thực tiễn đấu tranh báo chí đã làm cho tư tưởng dân chủ cách mạng ở
Các Mác có nội dung rõ ràng hơn, đó là đấu tranh cho lợi ích của quần chúng
lao động. Lúc này tư tưởng cộng sản chủ nghĩa chưa được hình thành, ông
đấu tranh bảo vệ “quần chúng nghèo khổ bất hạnh” dưới tinh thần nhân đạo.
Với tinh thần nhân đạo, ông tập trung phê phán các chính sách của nhà nước
Phổ, nhà nước đó chỉ là “cơ quan đại diện đẳng cấp của những lợi ích cá
nhân”. Trong quá trình phê phán đó Các Mác đã nhận thấy hoạt động của
nhà nước không phải là hiện thân của tinh thần tuyệt đối như Hêghen đã
chứng minh.
Như vậy, qua thực tiễn, nguyện vọng muốn cắt nghĩa hiện thực, xác
lập lý tưởng tự do trong thực tế đã giúp Các Mác hình thành khuynh hướng

duy vật, nhận thấy mặt hạn chế của quan điểm duy tâm. Lúc này tinh thần
dân chủ cách mạng sâu sắc đã không dung hợp với triết học duy tâm tư biện.
Vì thế sau khi báo Sông Ranh bị cấm (1843), Các Mác đặt cho mình nhiệm
vụ duyệt lại một cách có phê phán quan niệm duy tâm của Hêghen trước hết
về xã hội và nhà nước. Ông đã viết tác phẩm “góp phần phê phán triết học
pháp quyền của Hêghen” để phê phán chủ nghĩa duy tâm của Hêghen. Trong
khi thực hiện phê phán ông nồng nhiệt tiếp nhận quan điểm duy vật của triết
học Phoi Ơ Bắc. Song với tinh thần phê phán ông đã thấy những mặt hạn
chế, nhất là việc xa rời những vấn đề chính trị nóng hổi của Phoi Ơ Bắc. Sự
phê phán sâu rộng triết học Hêghen, việc khái quát kinh nghiệm lịch sử cùng
với ảnh hưởng quan điểm duy vật và nhân văn của triết học Phoi Ơ Bắc đã
tăng cường mạnh mẽ xu hướng duy vật trong quan điểm triết học của Các
Mác.
Cuối tháng 10 - 1843, Các Mác sang Pari. ở đây, không khí chính trị
sôi sục và tiếp xúc với các đại biểu của giai cấp vô sản đã dẫn đến bước
chuyển biến dứt khoát quan điểm của ông sang chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa cộng sản. Trong bài báo “lời nói đầu của cuốn sách góp phần phê phán
triết học pháp quyền của Hêghen”, Các Mác đã phân tích một cách sâu sắc
theo quan điểm duy vật ý nghĩa và hạn chế của cuộc cách mạng tư sản chỉ là
“cuộc cách mạng bộ phận”; đồng thời ông khẳng định, chỉ có cuộc cách
mạng do giai cấp vô sản thực hiện mới là “cuộc cách mạng triệt để”. Các
Mác nêu rõ: “Giống như triết học thấy giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của
mình, giai cấp vô sản cũng thấy triết học là vũ khí tinh thần của mình”. Với
bài báo này và một số bài báo khác đăng trong tạp chí Niên giám Đức - Pháp
năm 1844 đánh dấu bước hoàn thành quá trình chuyển biến lập trường, quan
điểm của Các Mác.
2.1.1.2. Sự chuyển biến tư tưởng của Ph.Ăngghen
Ph.Ăngghen sinh ngày 28-11-1820, trong một gia đình chủ xưởng sợi
ở tỉnh Ranh. Khi còn là học sinh trung học đã có thái độ căm ghét sự chuyên
quyền và độc đoán của bọn quan lại phong kiến. Việc nghiên cứu triết học

trong thời gian ở Béc lin, khi làm nghĩa vụ quân sự đã hướng ông đi vào con
đường khoa học. Song, chỉ thời gian gần hai năm sống ở Manchestơ (Anh)
từ mùa thu 1842 khi nghiên cứu đời sống kinh tế và chính trị nước Anh, nhất
là việc trực tiếp tham gia phong trào công nhân mới dẫn đến bước chuyển
căn bản trong thế giới quan của ông sang chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
cộng sản.
Năm 1844 trên tạp chí Niên giám Đức - Pháp, Ph.Ăngghen đăng một
số bài báo: "Bản thảo góp phần phê phán kinh tế - chính trị học", "Tình cảnh
giai cấp công nhân Anh". Các tác phẩm đó cho thấy ở Ăngghen, quá trình
chuyển từ chủ nghĩa duy tâm và dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa cộng sản đã hoàn thành. Quá trình này diễn ra độc
lập với Các Mác. Trong các bài báo này, ông đã đứng trên lập trường của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa cộng sản để phê phán kinh tế
chính trị học của A.Xmit và Đ.Ricacdo.
2.1.2. Giai đoạn hình thành những nguyên lý triết học duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử
Sự nhất trí về quan điểm và lập trường đã dễn đến tình bạn vĩ đại giữa
Các Mác và Ph.Ăngghen, gắn liền tên tuổi của hai ông với sự ra đời và phát
triển một thế giới quan cách mạng của giai cấp vô sản.
Thời gian từ năm 1844 đến năm 1848 là quá trình hai ông từng bước
xây dựng những nguyên lý triết học của mình.
Năm 1844 qua tác phẩm "Bản thảo kinh tế - triết học" Các Mác tiếp
tục phê phán triết học duy tâm của Hêghen, đồng thời cũng vạch ra mặt tích
cực của nó là phép biện chứng. Các Mác thông qua phân tích sự tha hóa của
lao động đã cắt nghĩa: Sở hữu tư nhân trong xã hội tư bản trở thành nguyên
nhân của sự tha hóa của lao động và của con người, biến sức lao động trở
thành hàng hóa. Các Mác chỉ rõ: Muốn khắc phục sự tha hóa ấy phải xóa bỏ
chế độ chiếm hữu tư nhân. Việc giải phóng người công nhân khỏi sự tha hóa
là sự giải phóng con người nói chung.
Trong tác phẩm này Các Mác đã luận chứng cho tính tất yếu của chủ

nghĩa cộng sản trong sự phát triển của xã hội. Mặc dù luận chứng này chưa
chín muồi về mặt lý luận, song đã cho phép phân biệt quan niệm của Các
Mác về chủ nghĩa cộng sản với những quan niệm của chủ nghĩa bình quân
vốn có của các môn phái chủ nghĩa cộng sản không tưởng. Theo Các Mác,
chủ nghĩa cộng sản dựa trên sự phát triển cao của nền sản xuất xã hội là nấc
thang lịch sử cao hơn chủ nghĩa tư bản.
Trong tác phẩm "Gia đình thần thánh" do Các Mác và Ph. Ăngghen
viết chung năm 1845 đã nêu rõ sự phê phán của hai ông đối với "phái
Hêghen trẻ" đứng đầu là anh em nhà Bauơ về quan điểm lịch sử. Hai ông đã
trình bày một số nguyên lý cơ bản của triết học duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử như: Quan điểm về vai trò của sản xuất vật chất đối với xã hội,
v.v.
Năm 1845 - 1846, Các Mác và Ph. Ăngghen viết chung tác phẩm "Hệ tư
tưởng Đức". Thông qua việc phê phán các trào lưu triết học đương thời ở
nước Đức hai ông đã trình bày quan niệm duy vật lịch sử một cách hệ thống.
Nội dung của tác phẩm đã trình bày rõ những quan điểm với tư cách là luận
điểm xuất phát như: "Tiền đề đầu tiên của toàn bộ lịch sử nhân loại dĩ nhiên
là sự tồn tại của những cá nhân con người sống, đó là những con người hiện
thực mà sản xuất vật chất là hành vi lịch sử đầu tiên của họ" và quan điểm:
"Quan điểm duy vật lịch sử khi xem xét lịch sử xã hội phải xuất phát từ con
người". Trong tác phẩm này cũng đã trình bày rõ hệ thống quy luật vận động
và phát triển của xã hội loài người.
Trong thời gian này Các Mác viết tác phẩm: "Luận cương về
Phoiơbắc" (8/1845) nêu rõ quan điểm xuyên suốt đó là: vai trò quyết định
của thực tiễn đối với đời sống xã hội. Đồng thời cũng đưa ra quan điểm về
bản chất của con người: "Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là
tổng hòa của các quan hệ xã hội".
Với tác phẩm "Luận cương về Phoiơbắc" và nhất là tác phẩm “Hệ tư
tưởng Đức” quan niệm duy vật lịch sử đã hình thành. Quan niệm đó tạo cơ
sở lý luận khoa học vững chắc cho sự phát triển tư tưởng cộng sản chủ

nghĩa. Tuy vậy trong hệ tư tưởng Đức, học thuyết về chủ nghĩa cộng sản
được hai ông trình bày như là một hệ quả trực tiếp của quan niệm duy vật
lịch sử cho nên chủ nghĩa cộng sản chưa được diễn đạt thành luận điểm cụ
thể. Song, một điều quan trọng là Các Mác và Ăngghen đã xây dựng phương
pháp tiếp cận khoa học để nhận thức chủ nghĩa cộng sản.
Năm 1847, Các Mác viết tác phẩm: "Sự khốn cùng của triết học". Ở
đây ông trình bày tiếp các nguyên lý của triết học, chủ nghĩa cộng sản khoa
học và trình bày các luận điểm để viết tác phẩm tư bản.
Năm 1848, Các Mác và Ph.Ăngghen viết tác phẩm “Tuyên ngôn cộng
sản” là văn kiện có tính chất cương lĩnh đầu tiên của chủ nghĩa Mác, của
phong trào cộng sản thế giới. Trong đó trình bày một cách triệt để thế giới
quan mới, chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Với tác phẩm Tuyên ngôn cộng sản, triết học Mác và chủ nghĩa Mác nói
chung đã hình thành và sẽ được Các Mác và Ph.Ăngghen tiếp tục bổ sung
phát triển trong thời gian sau.
2.1.3. Giai đoạn Các Mác và Ph.Ăngghen bổ sung và phát triển lý
luận triết học
Từ sau “Tuyên ngôn cộng sản”, học thuyết triết học Mác tiếp tục được
phát triển trong sự gắn bó hơn nữa với thực tiễn cách mạng vô sản mà hai
ông là lãnh tụ. Bằng hoạt động của mình, hai ông đã đưa phong trào cách
mạng của giai cấp vô sản từ tự phát thành phong trào tự giác; chính qua đó,
học thuyết triết học của hai ông không ngừng được phát triển.
Các Mác đã tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của phong trào đấu tranh cách
mạng để khái quát tìm ra những kết luận, qua đó bổ sung và phát triển lý
luận. Điều đó được biểu hiện qua nội dung của một số tác phẩm như: "Đấu
tranh giai cấp ở Pháp", "Nội chiến ở Pháp", "Phê phán cương lĩnh Gôta".
Đặc biệt qua bộ Tư bản, ông đã trình bày những tất yếu phát triển của nền
sản xuất xã hội, lịch sử thay thế các hình thái kinh tế xã hội v.v.
Trong khi đó, Ăngghen đã khái quát các thành tựu khoa học để viết các tác
phẩm như: “Chống Đuyrinh”, “ Biện chứng của tự nhiên”, “ Nguồn gốc của

gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước”v.v Trong các tác phẩm đó,
ngoài việc phê phán các quan điểm triết học duy tâm, siêu hình và duy vật
tầm thường, ông đã trình bày học thuyết triết học Mác dưới dạng hệ thống lý
luận hoàn thiện hơn.
2.1.4. Giai đoạn Lênin bảo vệ và phát triển triết học Mác
Chủ nghĩa Mác và triết học Mác sau khi trở thành hệ thống lý luận
hoàn chỉnh nó đã trực tiếp đi vào đời sống xã hội, trở thành vũ khí lý luận
của giai cấp vô sản. Vì thế, nội dung của nó được lan truyền nhanh chóng ở
các quốc gia thuộc châu Âu, trong đó có nước Nga. Nhưng sau khi Các Mác
và Ph.Ăngghen mất, phong trào cộng sản thế giới có nguy cơ bị những người
của phái chủ nghĩa xã hội dân chủ chi phối. Những người này tuyên truyền
những luận điểm để bác bỏ những giá trị của chủ nghĩa Mác nói chung và
triết học Mác nói riêng. Tình hình đó cũng diễn ra ở nước Nga trong thời
cuối của thế kỷ XIX và những năm đầu của thế kỷ XX.
Những năm cuối thế kỷ XIX bước sang thế kỷ XX trong khoa học tự
nhiên có những phát minh mới, nhất là việc tìm ra điện tử và cấu tạo của
nguyên tử làm đảo lộn căn bản quan niệm vật lý học cổ điển, dẫn tới "cuộc
khủng khoảng vật lý". Lợi dụng tình hình đó, chủ nghĩa duy tâm, trong đó có
chủ nghĩa Makhơ (duy tâm chủ quan) công kích chủ nghĩa duy vật của Mác.
Nước Nga sau khi cuộc cách mạng 1905-1907 thất bại, những người theo
chủ nghĩa Makhơ tăng cường hoạt động lý luận, họ viện cớ "bảo vệ chủ
nghĩa Mác" để xuyên tạc triết học Mác.
Do vậy, Lênin đã viết hàng loạt các tác phẩm như: "Những người bạn
dân là thế nào" và "Nội dung kinh tế của chủ nghĩa dân túy", "Sự phê phán
trong cuốn sách của ông Xtơruve", để vạch trần bản chất phản cách mạng
của bọn dân tuý Nga và phê phán những luận điểm duy tâm chủ quan về lịch
sử của họ. Trong cuộc đấu tranh đó, Lênin đã bảo vệ chủ nghĩa Mác và còn
làm phong phú thêm quan điểm duy vật lịch sử, nhất là lý luận về hình thái
kinh tế xã hội.
Năm 1900 Lênin viết tác phẩm: “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh

nghiệm phê phán” để vạch rõ quan điểm duy tâm, siêu hình của những người
theo chủ nghĩa Ma Khơ và chỉ rõ tác hại của nó đến phong trào cách mạng ở
Nga. Trong tác phẩm, Lênin đã bổ sung và phát triển chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử dựa trên sự phân tích, khái quát những
thành tựu khoa học mới nhất. Lênin xây dựng định nghĩa vật chất với tính
cách là phạm trù triết học, đồng thời còn làm rõ thêm nhiều vấn đề về lý luận
nhận thức mác xít.
Năm 1914-1915, Lênin nghiên cứu nhiều tác phẩm triết học, đặc biệt
quan tâm nghiên cứu về phép biện chứng của Hêghen để làm phong phú
thêm phép biện chứng duy vật, nhất là lý luận về sự thống nhất và đấu tranh
giữa hai mặt đối lập. Thông qua đó, Lênin chuẩn bị lý luận cho cuộc cách
mạng 1917. Tinh thần sáng tạo của tư duy biện chứng đã giúp cho Lênin có
những đóng góp quan trọng vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác về triết
học như: vấn đề về nhà nước nước, bạo lực cách mạng, chuyên chính vô sản,
lý luận về đảng kiểu mới. Lênin đã là tấm gương mẫu mực trong việc bảo vệ
và phát triển triết học Mác. Với tinh thần biện chứng duy vật, xem chân lý là
cụ thể, có khi Lênin đã phải thay đổi một cách căn bản đối với một quan
điểm nào đó của mình về chủ nghĩa xã hội, không chấp nhận mọi thứ biểu
hiện của chủ nghĩa giáo điều. Chính vì vậy mà một giai đoạn mới trong sự
phát triển của chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng đã gắn liền
với tên tuổi của Lênin và từ đó triết học Mác mang tên triết học Mác - Lênin.
2.2. Thực chất của cuộc cách mạng trong triết học do Các Mác và
Ph.Ăngghen thực hiện
Sự ra đời triết học Mác tạo nên sự biến đổi có ý nghĩa cách mạng
trong lịch sử triết học Mác.
Triết học Mác đã tạo ra hình thức phát triển cao của chủ nghĩa duy vật
là chủ nghĩa duy vật biện chứng và hình thức phát triển cao của phép biện
chứng là phép biện chứng duy vật. Triết học Mác thực sự khắc phục được sự
tách rời thế giới quan duy vật và phép biện chứng trong lịch sử phát triển của
triết học. Cố nhiên, trong chủ nghĩa duy vật trước Mác đã chứa đựng không

ít những luận điểm riêng biệt thể hiện tinh thần biện chứng; song, do sự hạn
chế của điều kiện xã hội và trình độ phát triển của khoa học nên tính siêu
hình vẫn là một nhược điểm chung của nó. Do vậy, quan điểm duy vật của
những học thuyết đó thường thiếu triệt để. Đây là điểm yếu để chủ nghĩa duy
tâm lợi dụng tiến hành đấu tranh chống lại. Còn phép biện chứng lại được
phát triển trong cái vỏ bọc duy tâm thần bí tiêu biểu trong triết học của
Hêghen. Cho nên, nội dung của phép biện chứng chưa phản ánh đúng thế
giới hiện thực. Các Mác và Ph.Ăngghen đã cải tạo chủ nghĩa duy vật cũ,
khắc phục hạn chế siêu hình; cải tạo phép biện chứng, giải thoát khỏi cái vỏ
duy tâm. Từ đó khái quát xây dựng một học thuyết triết học mới - chủ nghĩa
duy vật biện chứng.
Trước triết học Mác, có một số học thuyết triết học bàn đến vấn đề xã
hội; song, do hạn chế về thế giới quan hoặc phương pháp luận nên các học
thuyết đó mới chỉ nghiên cứu hoặc lĩnh vực này hoặc lĩnh vực kia mà chưa
nghiên cứu toàn diện mọi mặt của xã hội. Do vậy không thể nào tìm ra được
quy luật phát triển chung của xã hội loài người. Các Mác và Ph.Ăngghen đã
vận dụng những lý luận của duy vật biện chứng để nghiên cứu lĩnh vực xã
hội, tìm ra các quy luật phát triển chung của xã hội loài người và tiến trình
phát triển tất yếu tự nhiên của nó. Từ đó xây dựng, sáng lập ra chủ nghĩa duy
vật lịch sử với tính cách là bộ phận của triết học Mác. Chủ nghĩa duy vật lịch
sử là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học. Đó là một cuộc cách mạng
thực sự trong triết học. Từ khi chủ nghĩa duy vật lịch sử ra đời đã loại bỏ
được cơ sở tồn tại cuối cùng của chủ nghĩa duy tâm.
Những học thuyết triết học trước triết học Mác thường mới dừng lại ở
việc giải thích thế giới, cho nên họ chưa đề cập đến vai trò của hoạt động
thực tiễn đối với lý luận, lý luận thường tách rời với thực tiễn. Do vậy,
không tránh khỏi tình trạng rơi vào quan điểm duy tâm về xã hội. Ngay cả ở
trong triết học Phoiơbắc tuy coi vấn đề con người là trung tâm thế nhưng đây
chỉ mới là con người thuần túy về mặt sinh vật, chưa phải con người với tính
cách là chủ thể hoạt động cải tạo thế giới. Còn triết học Mác đã xác định rõ:

Nhiệm vụ của mình không chỉ dừng lại ở giải thích thế giới mà chủ yếu là
tìm ra các phương tiện, các biện pháp để cải tạo thế giới bằng cách mạng.
Triết học Mác thường lấy hoạt động thực tiễn cải tạo xã hội, cải tạo thế giới
của con người là điểm xuất phát và thông qua quá trình hoạt động thực tiễn
để hoàn thiện hệ thống lý luận của mình. Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử
triết học, triết học Mác đã tạo ra được sự gắn kết chặt chẽ giữa lý luận với
thực tiễn. Lý luận xuất phát từ thực tiễn, chịu sự quyết định của thực tiễn;
khi ra đời, lý luận định hướng hoạt động thực tiễn. Vì thế, so với các học
thuyết triết học khác thì triết học Mác luôn luôn được bổ sung và hoàn thiện.
2.3. Vận dụng và phát triển triết học Mác - Lênin trong điều kiện
thế giới hiện nay
Đặc điểm của thời đại hiện nay là sự tương tác giữa hai quá trình cách
mạng - cách mạng khoa học công nghệ và cách mạng xã hội, đã tạo nên sự
biến đổi rất năng động của đời sống xã hội. Trong điều kiện đó, quá trình tạo
ra những tiền đề của chủ nghĩa xã hội diễn ra trong các nước tư bản phát
triển được đẩy mạnh như một xu hướng khách quan. Sự ra đời của công ty
cổ phần từ cuối thế kỷ trước đã được Các Mác xem là "hình thái quá độ từ
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa" sang "phương thức sản xuất tập
thể". Song, hiện thực khách quan đó đã vượt khỏi giới hạn nhận thức chật
hẹp của chủ nghĩa giáo điều tồn tại trong một số người. Tính biện chứng của
sự tiến hóa xã hội diễn ra trong những mâu thuẫn và thông qua các mâu
thuẫn của chủ nghĩa tư bản cũng là một trong những nguồn gốc nảy sinh
những khuynh hướng sai lầm khác nhau, thậm chí đi tới "xét lại" trong
phong trào cộng sản và công nhân thế giới. Điều này đã được Lênin phân
tích, chỉ rõ: Do không nắm vững phép biện chứng duy vật, có những cá nhân
hay nhóm người luôn phóng đại khi thì đặc điểm này, khi thì đặc điểm nọ
của sự phát triển tư bản chủ nghĩa; khi thì "bài học" này, khi thì "bài học" nọ
của sự phát triển ấy, thành lý thuyết phiến diện, thành một hệ thống sách
lược phiến diện.
Sự khủng khoảng của chủ nghĩa xã hội làm cho yêu cầu phát triển triết

học Mác - Lênin càng trở nên cấp bách. Thực tiễn cuộc đấu tranh bảo vệ
thành quả mà chủ nghĩa xã hội đã giành được, nhất là cuộc đấu tranh bảo vệ
đưa sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội vượt qua thách thức to lớn hiện
nay và tiếp tục tiến lên, đòi hỏi các Đảng cộng sản phải nắm vững lý luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và triết học Mác - Lênin nói riêng.
Trước hết phải thấm nhuần thế giới quan duy vật và phép biện chứng khoa
học của nó.
Hiện nay ở các nước do Đảng cộng sản nắm quyền lãnh đạo đang thực
hiện quá trình đổi mới đã tạo ra một số thành công và gặp không ít thất bại.
Cả sự thành công và thất bại đó đều đòi hỏi phải kiên quyết đấu tranh chống
chủ nghĩa xét lại, khắc phục bệnh giáo điều trong việc vận dụng lý luận. Phải
biết tổng kết những thành tựu của khoa học hiện đại, khái quát sự phát triển
của lịch sử xã hội, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn qua công cuộc đổi mới để
bổ sung, hoàn thiện triết học Mác - Lênin. Chúng ta không thể đổi mới thành
công nếu xa rời lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin, rơi vào chủ nghĩa xét
lại.
Như vậy, phát triển lý luận triết học Mác - Lênin và đổi mới chủ nghĩa
xã hội trong thực tiễn là một quá trình thống nhất, bởi vì "Thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin".
2.4. Ý nghĩa của cuộc cách mạng trong triết học do Các Mác và
Ph.Ăngghen thực hiện.
2.4.1. Đối với sự phát triển chung của thế giới.
Nhờ sự ra đời của triết học Mác mà vai trò xã hội cũng như vị trí của
triết học trong hệ thống tri thức khoa học và đối tượng triết học có thay đổi
căn bản.
Khi ra đời triết học Mác đã trở thành thế giới quan khoa học của giai
cấp vô sản, giai cấp vô sản có cơ sở lý luận khoa học để nhận thức thực tiễn
xã hội; từ đó định ra được đường lối chiến lược và đề ra những biện pháp
đấu tranh cải biến xã hội có hiệu quả. Sự kết hợp giữa lý luận triết học Mác
với phong trào vô sản đã tạo nên bước chuyển biến về chất của phong trào từ

trình độ tự phát lên tự giác. Triết học Mác còn là vũ khí tư tưởng để đấu
tranh chống lại hệ tư tưởng tư sản, chủ nghĩa xét lại, cơ hội và chủ nghĩa
giáo điều, góp phần quan trọng tạo ra sự thống nhất của phong trào đấu tranh
của giai cấp vô sản.
Triết học Mác cũng đã chấm dứt tham vọng ở nhiều triết học coi triết
học là "khoa học của mọi khoa học" đứng trên mọi khoa học, Các Mác và
Ph.Ăngghen đã xây dựng lý luận triết học của mình trên cơ sở khái quát các
thành tựu của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Đến lượt mình, triết học
Mác ra đời đã trở thành thế giới quan khoa học và phương pháp luận chung
định hướng sự phát triển của các khoa học và phương pháp luận chung định
hướng sự phát triển của các khoa học. Sự phát triển của khoa học ngày càng
chứng tỏ sự cần thiết phải có tư duy biện chứng duy vật và ngược lại, phải
phát triển lý luận triết học Mác dựa trên những thành tựu của khoa học hiện
đại. Như vậy, triết học Mác đã phân định rõ ranh giới giữa triết học với các
khoa học khác và thiết lập được mối quan hệ chặt chẽ giữa chúng, cũng như
xác định rõ đối tượng nghiên cứu của triết học là tìm ra quy luật vận động,
phát triển chung nhát của tự nhiên, xã hội và tư duy.
2.4.2. Đối với công cuộc đổi mới ở Việt Nam.
Trong hàng loạt nhân tố tạo nên sự thành công của quá trình đổi mới
tư duy lý luận ở Việt Nam, triết học Mác - Lênin có vai trò đặc biệt quan
trọng vì trong điều kiện hiện nay, triết học Mác - Lênin vẫn giữ được tính
khoa học và đúng đắn, vẫn giữ nguyên giá trị định hướng cho những người
cách mạng; nó giúp cho Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam nhận thức
đúng các vấn đề của thời đại có liên quan chặt chẽ đến đổi mới tư duy lý
luận; đồng thời, là cơ sở lý luận và phương pháp để tư duy đúng đắn về con
đường phát triển của cách mạng Việt Nam. Trên cơ sở đó, tác giả nhấn mạnh
rằng, nắm vững các vấn đề cơ bản của triết học mácxít và không ngừng hoàn
thiện phương pháp tư duy có ý nghĩa vô cùng to lớn trong đổi mới nhận
thức, đổi mới tư duy lý luận.
Qua hai thập kỷ đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa,

Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã giành được những thành
tựu rất quan trọng. Các thành tựu của Đảng và dân tộc đã giành được trong
lĩnh vực vật chất và văn hoá tinh thần là kết quả của trí tuệ, sức sáng tạo, tinh
thần lao động cần cù, thông minh và lòng dũng cảm của con người, dân tộc
Việt Nam.
Vào cuối những năm 70 đầu những năm 80 của thế kỷ XX, sau khi đã hoàn
thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc, đất nước nằm trong thế bị bao vây, cấm
vận của các lực lượng thù địch; sản xuất xã hội chậm phát triển, đời sống
nhân dân rất khó khăn, đây đó đã manh nha xuất hiện dấu hiệu của cuộc
khủng hoảng toàn diện. Lúc đó, tình hình chính trị thế giới có biến động dữ
dội - sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu, sự thoái trào
của phong trào cách mạng thế giới đã tạo nên một cơn "động đất chính trị".
Dư chấn của nó, nếu không được ngăn chặn, có thể làm cho mọi thành quả
của cách mạng Việt Nam tiêu tan, giống như ở phần đông các nước trong hệ
thống xã hội chủ nghĩa thế giới. Trong bối cảnh vận mệnh của dân tộc đứng
trước tình thế hiểm nghèo, thành quả của cách mạng bị đe doạ, Đảng ta đã thể
hiện trách nhiệm to lớn của mình trước lịch sử, trung thành với lý tưởng cách
mạng, nêu cao khí phách độc lập sáng tạo, tin tưởng tuyệt đối vào chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào sức mạnh vĩ đại của nhân dân, chủ
động tiến hành đổi mới nhận thức và tư duy, trước hết là trong lĩnh vực kinh tế.
Đến nay, công cuộc đổi mới đất nước đã trải qua 20 năm. Trong quá trình
đó, Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng định hướng chính trị, toàn dân là
đội quân chủ lực của sự nghiệp đổi mới toàn diện về kinh tế, chính trị, văn
hoá, khoa học, giáo dục Kết quả của công cuộc đổi mới đã đưa lại cho dân
tộc ta một xu thế mới, một lực mới để cùng cộng đồng quốc tế bước vào thế
kỷ XXI, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh”. Trong hàng loạt các nhân tố tạo nên sự thành công của đổi
mới tư duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam có vai trò đặc biệt quan
trọng của triết học Mác - Lênin.
Nguyên tắc bất di, bất dịch trong sự nghiệp đổi mới đất nước nói

chung và đổi mới tư duy lý luận nói riêng ở nước ta là giữ vững độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh được
xác định là nền tảng tư tưởng của Đảng, của dân tộc, là nguyên tắc và
phương pháp luận của sự nghiệp đổi mới. Các nguyên tắc thế giới quan và
phương pháp luận trong học thuyết mácxít, trong hệ thống quan điểm, tư
tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được các lãnh tụ của Đảng, các nhà
khoa học, các nhà lý luận nhận thức lại và lựa chọn để vận dụng sáng tạo vào
điều kiện mới. Điều đó được thể hiện ở các nội dung :
Một là: Những người có trọng trách trong đổi mới tư duy lý luận của
Đảng, của dân tộc đã nhận thức đúng đắn giá trị đích thực của chủ nghĩa
Mác - Lênin nói chung và học thuyết triết học Mác - Lênin nói riêng đối với
sự nghiệp đổi mới đất nước. Đó là bước đi đầu tiên để có sự đổi mới tư duy
lý luận một cách đúng đắn, cách mạng và khoa học. Thực tế của một số nước
xã hội chủ nghĩa trước đây, chẳng hạn như Liên Xô và các nước Đông Âu,
cho thấy sai lầm từ việc lựa chọn, xác định bước đi trong quá trình cải cách,
cải tổ đã đưa cách mạng đến thất bại, chế độ xã hội chủ nghĩa bị sụp đổ.
Những người cộng sản ưu tú của Việt Nam cùng các nhà lý luận của
Đảng đã rất cẩn trọng rà soát, nghiên cứu và nhận thức lại hệ thống quan
điểm lý luận của các nhà kinh điển về triết học, về kinh tế – chính trị học
cũng như về chủ nghĩa xã hội khoa học và đối chiếu nó với tình hình thực tế
đang diễn ra trên thế giới và trong nước. Một số công trình nghiên cứu đã
cho thấy rằng, có một số nội dung cụ thể, chi tiết trong học thuyết có thể đã
bị lịch sử vượt qua; còn tuyệt đại bộ phận, đặc biệt các nguyên tắc, nguyên lý
cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, nhất là
học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, học thuyết giá trị thặng dư, các nguyên
lý, nguyên tắc xây dựng chủ nghĩa xã hội vẫn giữ được tính khoa học và
đúng đắn, vẫn giữ nguyên giá trị định hướng cho những người cách mạng
trong sự nghiệp đấu tranh chống lại trật tự xã hội cũ và xây dựng xã hội mới.
Những người Việt Nam có tư duy lý luận rất tán thành với những nhận định
khách quan, nghiêm túc của một số học giả nổi tiếng trên thế giới về triết học

Mác. Có thể lấy cách đánh giá khách quan, trung thực của Giáo sư J.Đêriđa

×