Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Trình bày phân tích cách giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu có yếu tố nước ngoài theo quy định của việt nam theo pháp luật hiện hành (năm viết 2023)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (81.87 KB, 12 trang )

BÀI TẬP MÔN TƯ PHÁP QUỐC TẾ
CÂU 1: Anh chị hãy trình bày và phân tích cách giải quyết xung đột pháp luật về
quyền sở hữu có yếu tố nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam và điều
ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên?
BÀI LÀM
CÂU 1:
 Khái niệm về quan hệ sở hữu tài sản có yếu tố nước ngoài
Quyền sở hữu trong tư pháp quốc tế là quyền sở hữu có yếu tố nước ngoài, là
tổng hợp các quyền năng của các chủ thể được pháp luật thừa nhận trong quá trình
chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản. Theo điều 663 BLDS (Bộ Luật Dân Sự)
2015 thì ́u tớ nước ngoài trong quan hệ sở hữu tư pháp quốc tế Việt Nam được
thể hiện ở những điểm sau: Có ít nhất một trong các bên tham gia quan hệ sở hữu
là cá nhân, pháp nhân nước ngoài; Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam,
pháp nhân Việt Nam nhưng việc xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan
hệ sở hữu đó xảy ra tại nước ngồi; Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam,
pháp nhân Việt Nam nhưng đối tượng của quan hệ sở hữu đó ở nước ngoài.
 Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng xung đột pháp luật:
Hiện tượng xung đột pháp luật về quyền sở hữu nói trên có thể xuất phát từ
những nguyên nhân sau đây.Trên thực tế, mỗi nước có điều kiện cơ sở hạ tầng
khác nhau, bởi vậy pháp luật của các nước được xây dựng trên các nền tảng đó
cũng có sự khác nhau. Các điều kiện khác nhau về chính trị, kinh tế – xã hội phong
tục tập quán, truyền thống lịch sử thậm chí là sự khác nhau về đặc điểm thể chất,
tâm lý của công dân cũng dẫn đến sự khác nhau trong các quy định pháp luật cùng
điều chỉnh một vấn đề.
 Giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu trong tư pháp quốc tế của các
nước trên thế giới
Về vấn đề giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu trong tư pháp quốc tế,
nhiều nước trên thế giới đã áp dụng các nguyên tắc giải quyết sau:


Thứ nhất, áp dụng nguyên tắc luật nơi có tài sản tức là tài sản thực tế đang ở đâu


sẽ áp dụng pháp luật của nước đó. Pháp luật nơi có tài sản cịn được áp dụng để
xác định quyền sở hữu đối với tài sản đang trên đường vận chuyển: tài sản quá
cảnh quốc gia. Hệ thuộc luật nơi có tài sản cịn được áp dụng người thủ đắc trung
thực: người chiếm hữu vật ngay tình: Việc bảo hộ người chiếm hữu vật ngay tình
trước u cầu địi lại tài sản của chủ sở hữu pháp luật đã quy định rõ nước áp dụng:
luật nơi có tài sản vào thời điểm thủ đắc hoặc luật nơi có tài sản đang tranh chấp.
Thứ hai là không những quy định nội dung quyền sở hữu mà còn ấn định cả điều
kiện phát sinh, chấm dứt chuyển dịch quyền sở hữu cụ thế trong các đạo luật quốc
gia. Tuy nhiên, vẫn có một số trường hợp ngoại lệ liên quan đến tàu bay, tàu biển,
tài sản pháp nhân, tài sản trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ.
Phương pháp giải quyết xung đột về quyền sở hữu trên thế giới hiện đang sử
dụng là phương pháp căn cứ vào các điều luật thực chất để trực tiếp giải quyết vấn
đề hoặc nếu không có điều luật thực chất thì sử dụng phương pháp xung đột - áp
dụng các điều luật xung đột để chỉ dẫn đến hệ thống pháp luật của nước sẽ được áp
dụng.


Giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu trong tư pháp quốc tế tại
Việt Nam

Nguyên tắc giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu có yếu tố nước ngoài
tại Việt Nam cũng tương tự với nguyên tắc giải quyết của hầu hết các quốc gia trên
thế giới đó là áp dụng hệ thuộc luật nơi có tài sản. Cụ thể, Điều 677 và Điều 678
quy định như sau:
Điều 677. Phân loại tài sản
Việc phân loại tài sản là động sản, bất động sản được xác định theo pháp luật của
nước nơi có tài sản.
Điều 678. Quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản
1. Việc xác lập, thực hiện, thay đổi, chấm dứt quyền sở hữu và quyền khác đối với
tài sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có tài sản, trừ trường hợp quy

định tại khoản 2 Điều này.


2. Quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản là động sản trên đường vận chuyển
được xác định theo pháp luật của nước nơi động sản được chuyển đến, trừ trường
hợp có thỏa thuận khác.
Quy định tại khoản 2 Điều 678 thực chất là một quy định khá có lợi Việt Nam
vì thực trạng hiện nay, nước ta là một nước nhập siêu (nhập khẩu nhiều hơn xuất
khẩu).
Nguyên tắc luật nơi có tài sản cũng được pháp luật Việt Nam áp dụng định
danh tài sản theo Điều 677 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì việc phân biệt tài sản là
động sản hoặc bất động sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có tài sản.
Theo quy định pháp luật Việt Nam, bất động sản: đất, nhà ở, cơng trình gắn liền
với đất đai; tài sản gắn liền với đất; tài sản trong lòng đất. Phân biệt bất động sản
hoặc động sản: không căn cứ vào giá trị tài sản mà căn cứ vào tính chất cơ học của
tài sản, di chuyển hay không di chuyển.
Các trường hợp ngoại lệ liên quan đến tàu bay, tàu biển, tàu hàng không dân
dụng, khi xảy ra xung đột pháp luật về quyền sở hữu được xác định theo quy định
tại Luật Hàng không dân dụng 2006 sửa đổi, bổ sung năm 2014 như sau:
Điều 4. Nguyên tắc áp dụng pháp luật khi có xung đột pháp luật
1. Pháp luật của quốc gia đăng ký quốc tịch tàu bay được áp dụng đối với quan hệ
xã hội phát sinh trong tàu bay đang bay và áp dụng để xác định các quyền đối với
tàu bay.
2. Pháp luật của quốc gia nơi ký kết hợp đồng liên quan đến các quyền đối với tàu
bay được áp dụng để xác định hình thức của hợp đồng.
Ngồi ra trong hệ thuộc luật nơi có tài sản cũng khơng được áp dụng để điều chỉnh
quan hệ sở hữu phát sinh trong một số lĩnh vực như:
Các quan hệ về tài sản của pháp nhân nước ngồi khi pháp nhân đó giải thể: trường
hợp này phải áp dụng theo pháp luật của nước pháp nhân mang quốc tịch.
Quan hệ về tài sản liên quan đến tài sản của quốc gia đang ở nước ngoài.

Các quan hệ về sở hữu đối với các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ thì quyền
tác giả, quyền sở hữu cơng nghiệp mang tính lãnh thổ;


Các quan hệ tài sản liên quan đến đối tượng của các đạo luật quốc hữu hoá áp dụng
theo đạo luật quốc hữu hoá: xuất phát từ quyền định đoạt tài sản của quốc gia
mình.
 Phương pháp giải quyết các xung đột pháp luật
Phương pháp giải quyết xung đột pháp luật là cách thức giải quyết vấn đề khi
có tình huống hai hay nhiều hệ thống pháp luật của các nước khác nhau cùng có
thể được áp dụng để điều chỉnh một quan hệ tư pháp quốc tế. Để giải quyết thực tế
hết sức phức tạp này, mỗi phương pháp cần thiết phải có các cơng cụ nhất định, và
các cơng cụ của luật pháp chính là các quy phạm pháp luật. Như vậy có nghĩa là
các phương pháp điều chỉnh khác nhau sẽ sử dụng các loại quy phạm pháp luật
không giống nhau. Căn cứ vào các quy định của pháp luật cũng như thực tiễn thì
xung đột pháp luật sẽ được giải quyết bằng các phương pháp sau:
Phương pháp xung đột: Cơ quan có thẩm quyền giải quyết phải chọn pháp luật của
nước này hay nước kia liên đới tới các yếu tố nước ngoài để xác định quyền và
nghĩa vụ giữa các bên đương sự. Công việc tiến hành lựa chọn hệ thống pháp luật
nước nào dựa trên những quy phạm xung đột. Quy phạm xung đột về quan hệ sở
hữu tài sản là quy phạm ấn định luật pháp nước nào cần áp dụng để giải quyết quan
hệ sở hữu tài sản có yếu tố nước ngoài trong một tình huống thực tế.
Phương pháp thực chất: Phương pháp thực chất là phương pháp dùng quy phạm
thực chất, trực tiếp điều chỉnh quan hệ mà không cần qua bất kì một khâu trung
gian nào, điều này có nghĩa là nó trực tiếp phân định quyền và nghĩa vụ rõ ràng
giữa các bên tham gia. Pháp luật điều chỉnh quan hệ sở hữu có yếu tố nước ngoài
bằng quy phạm thực chất, tức là quy định người nước ngoài có quyền sở hữu
những loại tài sản gì, cho phép họ sử dụng quyền (chiếm hữu, sử dụng, định đoạt)
đối với tài sản ra sao. Giải quyết xung đột pháp luật về sở hữu có yếu tố nước
ngồi.

 Quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam trong việc giải quyết xung đột
pháp luật về quan hệ sở hữu có yếu tố nước ngồi.
Xung đợt pháp ḷt về quan hệ sở hữu tài sản có yếu tố nước ngoài Việt Nam cũng
như các nước trên thế giới đều sử dụng phương pháp xung đột và phương pháp
thực chất dựa trên các quy phạm xung đột và quy phạm thực chất.


Quy phạm xung đột
Xét dưới khía cạnh về xung đột pháp luật thì điều chỉnh quan hệ sở hữu có yếu
tố nước ngoài có nhiều điểm khác, không giống như điều chỉnh quan hệ sở hữu
không có yếu tố nước ngoài. Như đã phân tích ở trên, đa số các nước hiện nay đều
thống nhất áp dụng nguyên tắc chung để giải quyết quan hệ sở hữu có yếu tố nước
ngoài (như là tài sản đó có là đối tượng của quyền sở hữu hay không, xác định các
quyền tài sản, xác định sự phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền sở hữu,…) đó là
việc áp dụng pháp luật nơi có tài sản. Luật nơi có tài sản (Lex rei sitae) được hiểu
là vật (tài sản) hiện đang tồn tại ở nước nào thì luật của nước đó áp dụng đối với tài
sản đó.
Bộ luật dân sự Việt Nam cũng dựa trên nguyên tắc chung này để giải quyết
xung đột về quan hệ sở hữu tại sản, quy định cụ thể tại khoản 1 Điều 678 BLDS
Việt Nam năm 2015: “Việc xác lập,thực hiện, thay đổi, chấm dứt quyền sở hữu và
quyền khác đối với tài sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có tài sản,
trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này”.
Như vậy, không phụ thuộc vào đối tượng của quan hệ sở hữu là động sản hay
bất động sản, quyền sở hữu và các quyền tài sản khác sẽ do luật nơi có tài sản điều
chỉnh. Xét về mặt lý luận, Điều 678 BLDS 2015 điều chỉnh quan hệ sở hữu tài sản
có yếu tố nước ngoài bằng phương pháp xung đột, lấy hệ thuộc luật nơi có vật làm
căn cứ phát sinh quyền sở hữu tài sản, cũng như nội dung quyền sở hữu tài sản có
yếu tố nước ngoài. Đương nhiên, trong trường hợp tài sản – đối tượng của quyền
sở hữu – có tại Việt Nam, thì việc xác định quyền sở hữu đối với tài sản đó phải
tuân theo pháp luật Việt Nam, không phụ thuộc vào yếu tố quốc tịch, nơi cư trú của

chủ sở hữu.
Để giải quyết vấn đề xung đột pháp luật về quyền sở hữu đối với tài sản là bất
động sản, pháp luật của hầu hết các quốc gia đều ghi nhận nguyên tắc áp dụng luật
của nước nơi có tài sản. Tuy nhiên, vấn đề nảy sinh đó là nếu đối với cùng một tài
sản mà quốc gia này cho là động sản nhưng quốc gia khác lại quy định là bất động
sản thì sẽ giải quyết như thế nào? Hai khái niệm “động sản” và “bất động sản”
chưa được hiểu một cách thống nhất trong hệ thống pháp luật hiện nay của thế
giới. Từ đây phát sinh quy phạm xung đột pháp luật trong vấn đề định danh tài sản.
Việc xác định tài sản là động sản hay bất động sản là tiền đề cho việc giải quyết


xung đột về quyền sở hữu có yếu tố nước ngoài. Pháp luật của đa số các nước và
các điều ước quốc tế thường ghi nhận luật nơi có tài sản là hệ thuộc để giải quyết
xung đột về định danh tài sản. Việt Nam cũng khơng nằm ngồi số đó, Điều 677
Bợ ḷt dân sự Việt Nam 2015 cũng quy định như sau: “Việc phân biệt tài sản là
động sản hoặc bất động sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có tải sản”.
Theo quy định tại Khoản 2 điều 678 của Bộ luật dân sự 2015 thì “quyền sở hữu
và quyền khác đối vớ tài sản là động sản trên đường vận chuyển được xác định
theo pháp luật của nước nơi có động sản được chuyển đến, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác”. Như vậy, pháp luật Việt Nam áp dụng hệ thuộc luật của nước do các
bên thỏa thuận lựa chọn, chỉ khi không có sự thỏa thuận thì mới áp dụng hệ thuộc
luật nơi có tài sản được chuyển đến. Có thể nói, việc lựa chọn hệ thuộc luật nơi có
tài sản được chuyển đến là quy định khá đặc thù của Bộ luật dân sự Việt Nam. Sở
dĩ, có nhận xét như vậy là vì có nhiều nước trên thế giới sử dụng hệ thuộc luật nơi
có động sản được chuyển đi, hay còn gọi là luật nước người bán. Lý do để các
nước lựa chọn hệ thuộc luật nơi có động sản được chuyển đi là bởi vì hầu hết các
nước này đều là những nước có nền kinh tế cũng như việc xuất khẩu hàng hóa ra
nước ngoài phát triển, khi quy định như thế, các nước này đã tính đến lợi ích mà họ
có thể có được trong quan hệ hợp đồng. Còn đối với Việt Nam, tính cho đến thời
điểm này và sẽ là một thời gian dài nữa trong tương lại vẫn là một nước có tỷ lệ

nhập khẩu cao hơn tỷ lệ xuất khẩu nên giá trị hàng hóa tới Việt Nam sẽ lớn hơn giá
trị hàng hóa từ Việt Nam đi, vì thế nếu quy định lựa chọn luật nước người bán để
áp dụng sẽ gây nhiều bất lợi cho cá nhân, cơ quan tổ chức trong nước.
Nếu các bên không thỏa thuận chọn pháp luật áp dụng thì pháp luật của nước
nơi có tài sản được chuyển đến sẽ được áp dụng. Ở đây điều luật đã không xây
dựng theo hướng áp dụng luật nơi có tài sản là hệ thuộc luật điển hình điều chỉnh
các quan hệ sở hữu đối với tài sản. Bởi nếu áp dụng hệ thuộc luật nơi có tài sản thì
cơ quan có thẩm quyền rât khó khăn trong việc xác định vị trí tồn tại của tài sản
nhất là khi đó là tài sản di động. Kể cả trong trường hợp xác định được địa điểm
tồn tại của tài sản thì hệ thuộc luật nơi có tài sản cũng sẽ tạo sự thiếu ổn định cho
việc điều chỉnh quan hệ, vì ngay cả các bên tham gia quan hệ cũng như cơ quan có
thẩm quyền sẽ rất bị động, xa lạ với vị trí đó , với pháp luật nước đó. Do vậy, thay
vì hệ thuộc luật nước nơi có tài sản thì hệ thuộc luật của nước nơi có tài sản chuyển
đến sẽ được áp dụng để giải quyết vấn đề sở hữu đối với tài sản là động sản trên
đường vận chuyển.


Ngoài ngoại lệ liên quan đến tài sản đang trên đường vận chuyển, pháp luật
Việt Nam hiện hành còn quy định riêng về pháp luật áp dụng với quyền sở hữu và
quyền khác đối với tàu bay, tàu biển. Bộ luật Dân sự năm 2005 đã quy định rõ
ngoại lệ này tại khoản 4 Điều 766. Nhưng quy định này đã được lược bỏ, không
cần nhắc lại hay dẫn chiếu thêm trong Bộ luật Dân sự năm 2015 vì đã điều chỉnh
tại văn bản pháp luật chuyên ngành. Cụ thể, theo khoản 1 Điều 3 Bộ luật Hàng hải
Việt Nam năm 2015 thì: “Trường hợp quan hệ pháp luật liên quan đến quyền sở
hữu tài sản trên tàu biển (…) các vụ việc xảy ra trên tàu biển khi tàu đang ở vùng
biển quốc tế thì áp dụng pháp luật của quốc gia mà tàu biển mang cờ quốc tịch”;
khoản 1 Điều 4 Luật Hàng không dân dụng Việt Nam năm 2006 (sửa đổi năm
2014) quy định: “Pháp luật của quốc gia đăng ký quốc tịch tàu bay được áp dụng
đối với quan hệ xã hội phát sinh trong tàu bay đang bay và áp dụng để xác định các
quyền đối với tàu bay”. Như vậy, đối với quyền sở hữu tài sản trên tàu biển sẽ theo

pháp luật của quốc gia mà tàu biển mang cờ quốc tịch, còn quyền sở hữu và quyền
khác đối với tàu bay cũng như quan hệ về quyền sở hữu phát sinh trong tàu bay sẽ
theo pháp luật của quốc gia nơi đăng ký tàu bay. Sự cắt bỏ này được đánh giá là
điều hợp lý “vừa không trùng lặp, vừa đảm bảo sự thống nhất trong tồn bộ bộ luật
và vì vậy sự cắt bỏ này hồn tồn khơng ảnh hưởng đến việc điều chỉnh quan hệ
phát sinh”
Như vậy, đối với quan hệ sở hữu và quan hệ tài sản trong lĩnh vực hàng không
dân dụng và hàng hải quốc tế hệ thuộc luật của nước nơi có tài sản không áp dụng
mà thay vào đó là hệ thuộc luật quốc kỳ (lex banderae) hoặc luật nơi đăng kí (lex
libri).
Quy phạm thực chất
Nếu chỉ giải quyết xung đột pháp luật về quan hệ sở hữu dưới khía cạnh quy
phạm xung đột thì sẽ không đầy đủ, không toàn diện. Hiệu quả của cơ chế điều
chỉnh pháp luật là ở tính khả thi của các quy phạm pháp luật, trong đó quy phạm
thực chất đóng vai trò quan trọng. Trên cơ sở đó, việc phân tích về cơ sở pháp lý
và việc đảm bảo quyền sở hữu tại Việt Nam đối với người nước ngoài và người
Việt Nam định cư ở nước ngoài là rất cần thiết.
Bộ luật dân sự 2015 là đạo luật quan trọng, cụ thể hóa quyền dân sự cơ bản nói
chung và quyền sở hữu nói riêng. Đối với quyền sở hữu có yếu tố nước ngoài, Bộ


luật dân sự điều chỉnh một cách trực tiếp cũng như gián tiếp thông qua các quy
định sau đây:
Nguyên tắc xác định pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước
ngồi
Điều 664 Bộ luật dân sự 2015 quy định về nguyên tắc xác định pháp luật áp
dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài như sau:
“1. Pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi được xác
định theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên
hoặc luật Việt Nam.

Trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành
viên hoặc luật Việt Nam có quy định các bên có quyền lựa chọn thì pháp luật áp
dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi được xác định theo lựa chọn của
các bên.
Trường hợp không xác định được pháp luật áp dụng theo quy định tại khoản 1 và
khoản 2 Điều này thì pháp luật áp dụng là pháp luật của nước có mối liên hệ gắn
bó nhất với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi đó.”
Theo đó nguyên tắc xác định pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu
tố nước ngồi theo Bộ luật dân sự năm 2015 được xác định như sau: trước hết các
bên cần áp dụng Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc Luật Việt Nam.
Trong trường hợp Điều ước quốc tế hoặc luật Việt Nam quy định các bên có quyền
lựa chọn thì pháp luật được áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi
được xác định theo lựa chọn của các bên hoặc các bên có thể lựa chọn áp dụng tập
quán quốc tế nếu hậu quả của việc áp dụng không trái với các nguyên tắc cơ bản
của pháp luật Việt Nam. Trường hợp không xác định pháp luật áp dụng trong các
trường hợp trên thì áp dụng pháp luật có mối liên hệ gắn bó nhất với quan hệ đó.
Việc xác định nước có quan hệ gắn bó với hợp đồng được quy định tại khoản 2
điều 683 Bộ luật dân sự 2015:
“2. Pháp luật của nước sau đây được coi là pháp luật của nước có mối liên hệ
gắn bó nhất với hợp đồng:


a) Pháp luật của nước nơi người bán cư trú nếu là cá nhân hoặc nơi thành lập
nếu là pháp nhân đối với hợp đồng mua bán hàng hóa;
b) Pháp luật của nước nơi người cung cấp dịch vụ cư trú nếu là cá nhân hoặc
nơi thành lập nếu là pháp nhân đối với hợp đồng dịch vụ;
c) Pháp luật của nước nơi người nhận quyền cư trú nếu là cá nhân hoặc nơi
thành lập nếu là pháp nhân đối với hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng hoặc
chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ;
d) Pháp luật của nước nơi người lao động thường xuyên thực hiện công việc

đối với hợp đồng lao động. Nếu người lao động thường xuyên thực hiện công việc
tại nhiều nước khác nhau hoặc không xác định được nơi người lao động thường
xuyên thực hiện cơng việc thì pháp luật của nước có mối liên hệ gắn bó nhất với
hợp đồng lao động là pháp luật của nước nơi người sử dụng lao động cư trú đối với
cá nhân hoặc thành lập đối với pháp nhân;
đ) Pháp luật của nước nơi người tiêu dùng cư trú đối với hợp đồng tiêu dùng.”
Những quy định về các trường hợp khơng áp dụng pháp luật nước ngồi
Liên quan đến vấn đề này, Điều 670 Bộ luật dân sự 2015 quy định:
“1. Pháp luật nước ngoài được dẫn chiếu đến không được áp dụng trong trường
hợp sau đây:
a) Hậu quả của việc áp dụng pháp luật nước ngoài trái với các nguyên tắc cơ
bản của pháp luật Việt Nam;
b) Nội dung của pháp luật nước ngồi khơng xác định được mặc dù đã áp dụng
các biện pháp cần thiết theo quy định của pháp luật tố tụng.”
Bên cạnh đó Bộ luật dân sự 2015 cũng quy định rõ tại khoản 2 Điều 670 về
việc không áp dụng pháp luật nước ngoài trong các trường hợp nêu trên như sau
“Trường hợp pháp luật nước ngồi khơng được áp dụng theo quy định tại khoản 1
Điều này thì pháp luật Việt Nam được áp dụng”. Quy định này nhằm tăng khả
năng áp dụng pháp luật Việt Nam cho cơ quan có thẩm quyền giải quyết các quan
hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.


Quy định về việc áp dụng pháp luật nước ngoài, áp dụng pháp luật của nước có
nhiều hệ thống pháp luật:
Khoản 3 Điều 4 Nghị định số 138/2006/NĐ-CP ngày 15/11/2006 quy định chi
tiết thi hành các quy định của Bộ luật Dân sự 2005 về quan hệ dân sự có yếu tố
nước ngồi có nội dung “Trong trường hợp việc lựa chọn hoặc viện dẫn áp dụng
pháp luật của nước có nhiều hệ thống pháp luật khác nhau, thì đương sự có quyền
yêu cầu áp dụng hệ thống pháp luật có mối quan hệ gắn bó nhất với đương sự về
quyền và nghĩa vụ công dân.” Với các nước liên bang hoặc tại một số quốc gia như

Trung Quốc có những vùng lãnh thổ có hệ thống pháp luật riêng (Hồng Cơng, Ma
Cao…) thì khi dẫn chiếu đến pháp luật những nước này gặp vướng mắc.Việc cho
phép đương sự được tự lựa chọn hệ thống pháp luật áp dụng trong trường hợp này
có thể dẫn đến tình trạng lẩn tránh pháp luật. Vì vậy, Bộ luật dân sự 2015 đã quy
định lại việc áp dụng pháp luật của nước có nhiều hệ thống pháp luật theo hướng
tôn trọng quy định về xác định hệ thống pháp luật cụ thể tại quốc gia nước ngồi
đó, cụ thể Điều 668 BLDS 2015 quy định như sau: “Trường hợp pháp luật của
nước có nhiều hệ thống pháp luật được dẫn chiếu đến thì pháp luật áp dụng được
xác định theo nguyên tắc do pháp luật nước đó quy định”.
 Một số điểm mới của Bộ luật dân sự năm 2015 so với bộ luật dân sự năm
2005
Điểm mới trong Bộ luật dân sự 2015: Khoản 2 của Điều 766 Bộ luật dân sự
2005 được tách thành một điều khoản riêng nhằm phân loại tài sản rõ ràng hơn.
Bởi để có thể áp dụng được hệ thuộc luật nơi có tài sản trước hết cần phải phân
biệt được tài sản đó là bất động sản hay động sản sau đó định nội dung pháp luật
về việc xác lập, thực hiện, thay đổi, chấm dứt quyền sở hữu và quyền khác đối với
tài sản.
Bên cạnh đó Bộ luật dân sự 2015 đã lược bỏ quy định “Quyền sở hữu đối với máy
bay dân dụng và tàu biển tại Việt Nam phải tuân theo pháp luật Việt Nam”. Bởi
máy bay tuy là một loại tài sản đặc biệt nhưng việc quy định phân loại tài sản là
động sản, bất động sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có tài sản được
ưu tiên áp dụng nhằm thống nhất, phù hợp với pháp luật quốc tế. Quy định này
không đặt ra trường hợp ngoại lệ, có tính phân biệt, tránh xung đột với pháp luật
nướcngồi dẫn đến việc khơng có căn cứ giải quyết. Quy định về phân loại tài sản,


quy định về quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản theo quy định Bộ luật dân
sự 2015 như sau: Điều 677 Bộ luật dân sự 2015: Phân loại tài sản “Việc phân loại
tài sản là động sản, bất động sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có tài
sản.”

Điều 678 Bộ luật dân sự 2015: Quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản
“1. Việc xác lập, thực hiện, thay đổi, chấm dứt quyền sở hữu và quyền khác đối
với tài sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có tài sản, trừ trường hợp
quy định tại khoản 2 Điều này.
Quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản là động sản trên đường vận chuyển
được xác định theo pháp luật của nước nơi động sản được chuyển đến, trừ trường
hợp có thỏa thuận khác.” Các quyền đối với tài sản bao gồm:
Quyền sở hữu: là quyền của chủ sở hữu, bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử
dụng, và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của luật.
Quyền khác đối với tài sản: là quyền của chủ thể trực tiếp nắm giữ, chi phối tài
sản thuộc quyền sở hữu của chủ thể khác, bao gồm:
Quyền đối với bất động sản liền kề
Quyền hưởng dụng
Quyền bề mặt
Như vậy bên cạnh có sự sắp xếp để làm rõ việc áp dụng pháp luật hệ thuộc luật
nước nơi có tài sản thì Bộ luật dân sự 2015 có bổ sung về quyền khác đối với tài
sản mà trước đây Bộ luật dân sự 2005 chưa có quy định điều chỉnh.
Có thể nói, BLDS 2015 trên cơ sở kế thừa các quy định của BLDS 2005, tiếp
tục khẳng định giá trị ưu tiên áp dụng của Điều ước quốc tế so với Phần 5 BLDS
2015 và các luật khác có liên quan của Việt Nam khi có sự quy định khác nhau về
pháp luật áp dụng đối với cùng một vấn đề. Đồng thời cũng quy định cụ thể rõ ràng
hơn Điều ước quốc tế về nội dung được áp dụng ưu tiên với Điều ước quốc tế về
xung đột.
Phương pháp xung đột và phương pháp thực chất là hai phương pháp quan
trọng để giải quyết xung đột pháp luật. Quy phạm xung đột luôn mang tính chất


dẫn chiếu, nó dẫn chiếu đến một hệ thống pháp luật cụ thể và các quy phạm thực
chất trong hệ thống pháp luật đó được áp dụng để giải quyết quan hệ pháp luật phát
sinh. Đó chính là tính chất song hành giữa quy phạm xung đột và quy phạm thực

chất trong việc điều chỉnh pháp luật. Pháp luật Việt Nam bằng việc kết hợp giữa
phương pháp xung đột và phương pháp thực chất, những xung đột về quan hệ sở
hữu tài sản có yếu tố nước ngoài được giải quyết thỏa đáng.



×