Tải bản đầy đủ (.pdf) (280 trang)

Công trình nghiên cứu khoa học : Quá trình hình thành phát triển nghệ thuật cải lương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.6 MB, 280 trang )




1
LIÊN HIỆP CÁC HỘI KHOA HỌC VÀ KỸ THUẬT VIỆT NAM
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY VĂN HÓA DÂN TỘC











QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH
PHÁT TRIỂN NGHỆ THUẬT CẢI LƯƠNG


Chủ nhiệm đề tài: GS Hoàng Chương
Những người tham gia

-
GS – TS Nguyễn Thuyết Phong
- NSUT Hoàng Đạt
- NNC Nguyễn Thế Khoa
- NSUT – TS Bạch Tuyết
- NSUT – TS Đoàn Thị Tình





8978

HÀ NỘI 2011



2
LỜI NÓI ĐẦU

Cải lương là một loại hình nghệ thuật sân khấu truyền thống dân tộc,
tuy ra đời có muộn hơn so với Tuồng và Chèo, nhưng cũng đã có tuổi đời
gần 100 năm. Từ khi mới ra đời, Cải lương đã thu hút được những tinh
hoa của các nền nghệ thuật từ dân gian, đến nghệ thuật bác học như Hát
Bội (tuồng), Nghệ thuật nhà Chùa, ca nhạc Cung đình Huế…để
làm nên
một môn nghệ thuật mang bản sắc văn hoá phương Nam rồi nhanh chóng
lan toả ra cả nước và trở thành một bộ môn nghệ thuật được khán giả ưa
chuộng vào bậc nhất trong suốt thế kỷ 20 cho đến hôm nay. Nhiều vở cải
lương được các nghệ sĩ tài danh diễn xuất, thể hiện qua các thời kỳ, để lại
dấu ấn khó phai trong công chúng. Khắp nơi trong cả nước, từ
thành thị
đến nông thôn, nhân dân đều mến chuộng nghệ thuật Cải lương. Cải lương
cũng là môn nghệ thuật dân tộc đầu tiên được đi trình diễn ở Paris (Pháp)
từ nửa đầu TK 20. Ở miền Nam Việt Nam, tỉnh thành nào cũng có đoàn
Cải lương, riếng ở TP Hồ Chí Minh đã có lúc hàng chục đoàn Cải lương
trong đó có Cải lương tuồng cổ, thi nhau ra đời và biểu diễn hết s
ức sôi

động. Còn ở miền Bắc thì hầu hết các tỉnh Đồng bằng và TP lớn cũng đều
có đoàn cải lương chuyên nghiệp. Tuy vậy, trong tiến trình phát triển, cải
lương đã có những lúc thăng, trầm, đã có những cơn khủng hoảng về cả
nghệ thuật lẫn khán giả. Qua gần một thế kỷ, con thuyền cải lương đã biết
bao lần vượt qua sóng cả
gió to, để đến hôm nay được khẳng định là một
trong ba thể loại sân khấu ca kịch truyền thống mạnh nhất trong nền văn
hoá dân tộc Việt Nam. Nhưng cũng vào những năm cuối của TK 20, đầu
TK 21, Cải lương lại lâm vào cảnh khủng hoảng khán giả. Nguyên nhân
do tác động của cơ chế thị trường cũng như xu thế hội nhập văn hoá và sự
bùng nổ của các phươ
ng tiện thông tin và giải trí hiện đại làm cho các loại
hình nghệ thuật dân tộc, trong đó có cải lương bị thưa vắng khán giả. Dĩ
nhiên, về mặt chủ quan, cải lương trong những năm gần đây rất thiếu kịch



3
bản hay, diễn viên trẻ cũng thiếu sự đầu tư cho vai diễn như các bậc tiền
bối “học cho chết, diễn cho sống” Âm nhạc cũng không còn đậm nét bản
sắc cải lương như ngày xưa, bởi sự kết hợp giữa tây và ta một cách tuỳ
tiện. Mỹ thuật sân khấu cải lương cũng không phát triển ổn định, nhiều
đoàn thì phổ biế
n hiện tượng “đầu Ngô mình Sở”, làm cho bản sắc dân
tộc của Cải lương bị mờ dần và sự tôn kính và yêu thích nghệ thuật cải
lương cũng bị giảm sút trong lòng công chúng.
Về mặt nghiên cứu, tuy có nhiều sách báo nói về cải lương, nhưng
chưa có một công trình nghiên cứu nào phân tích thật đầy đủ bản sắc nghệ
thuật Cải lương, hoặc đánh giá thật chính xác thực trạng phát triển củ
a Cải

lương và cũng chưa có những tổng kết khoa học thật nghiêm túc để giúp
cho cải lương khắc phục những lệch lạc, những nhược điểm trong quá
trrình sáng tạo mà từ trước tới nay chỉ theo một phương châm chưa thật
đúng lắm về quy luật phát triển nghệ thuật dân tộc. Đó là câu đối:
Cải cách hát ca theo tiến bộ
Lương truyền tuồng tích sánh văn minh
Có nghĩa là cải tiến, cải cách nghệ thuật không bờ bến, không
nguyên tắc, mà chỉ chạy theo sự “tiến bộ” và văn minh của xã hội giống
như cải tiến khoa học kỹ thuật. Lý luận là kim chỉ nam cho thực tiễn phát
triển. Vì thế mà cần thiết phải có một công trình nghiên cứu khoa học toàn
diện về lịch sử phát triển nghệ thuật Cải lương để khẳng
định những mặt
tích cực, những giá trị đích thực của nghệ thuật cải lương đã hình thành
và phát triển trong gần 100 năm qua. Công trình sẽ giúp ích không chỉ cho
những người hoạt động thực tiễn (sáng tác, đạo diễn, biểu diễn) mà còn
giúp cho việc đào tạo bộ môn cải lương ở các trường nghệ thuật sân khấu
trong cả nước cũng như phục vụ cho đông đảo công chúng mu
ốn tìm hiểu
về bộ môn nghệ thuật đặc sắc này. Đó là mục tiêu phấn đấu của tập thể tác
giả trong công trình này và cuối cùng là mong đợi những ý kiến hay của
các nhà nghiên cứu để bổ khuyết cho công trình được hoàn thiện hơn.



4
CHƯƠNG I

1. NHỮNG TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH NGHỆ THUẬT
SÂN KHẤU CẢI LƯƠNG
1.1. Yếu tố kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội thúc đẩy sự ra đời

của nghệ thuật sân khấu Cải lương.
1.1.1. Về mặt kinh tế:
Vào đầu thế kỷ 20, nền kinh tế Việt Nam chủ yếu là nông nghiệp,
giai cấp nông dân vốn nghèo khổ, bị giai cấp địa chủ bóc lột thậm tệ, tầng
lớp tư bản dân tộc mới xuất hiện còn yếu ớt chư
a đủ hình thành một giai
cấp.
Sau Đại chiến thế giới lần thứ nhất, ruộng đất của bọn địa chủ ngày
càng nhiều. Ngoài những ruộng đất bị chiếm đoạt, người nông dân còn
phải nộp tô cho địa chủ, phú nông, nộp thuế cho bọn thống trị càng ngày
càng nặng thêm. Do đó, mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân với địa chủ và
thực dân ngày càng thêm sâu sắc.
1.1.2. Về mặt chính trị

Đầu năm 1905, phong trào Đông Du sang Nhật đầu tiên của Phan
Bội Châu, Tăng Bạt Hổ, kế đó là một số chí sĩ khác trong đó có Cường Để.
Năm 1907 Phan Bội Châu soạn ra bài văn “Ai cáo Nam Kỳ phụ lão” để
làm tài liệu vận động đồng bào Nam Kỳ. Phong trào Đông Du ra đời và
phát triển mạnh mẽ ở Nam Kỳ. Phong trào này được các thân hào, nhân sĩ
ở Tiền Giang hưởng ứng mạnh mẽ, con số du họ
c sinh cả nước ước chừng
200, riêng Nam Kỳ đã chiếm hơn 100.
Cùng với phong trào Đông du, ở miền Nam lúc bấy giờ còn nổi lên
nhiều phong trào khác như : « Hội kín Nam kỳ », « Nghĩa Hoa hội » ở
Tiền Giang, « Duy tân hội » ở Mỹ Tho…
Sau khi tiếp xúc với Phan Bội Châu, ở Hương Cảng, Trần Chánh
Chiếu đã đứng lên cổ động công khai ở Nam Kỳ một phong trào gọi là
« Cuộc Minh tân ». Ông đề ra những công việc phả
i làm theo gương Duy




5
Tân của Trung Quốc: Phát triển trường dạy học, phát triển công nghệ
trong nước, mở mang trường quân sự dạy thủy quân, lục quân.
Sau vụ đầu độc Hà thành tháng 6-1908, thực dân Pháp đàn áp trắng
trợn, phong trào Duy Tân bị tan rã. Nhưng Phan Bội Châu, Cường Để vẫn
tiếp tục hoạt động. Năm 1911, cuộc cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc
giành thắng lợi đã đem lại phấn khởi cho các nhà cách mạ
ng Việt Nam và
cho họ có điều kiện hoạt động dễ dàng hơn trên đất Trung Quốc. Năm
1912, Việt Nam Quang Phục Hội được thành lập tại Hương Cảng do
Cường Để làm Hội trưởng và Phan Bội Châu làm Tổng lý. Khi cuộc Đại
chiến thế giới lần thứ nhất sắp nổ ra, Cường Để qua Đức với Đỗ Văn Y và
Trương Duy Toản định dựa vào Đức đ
ánh Pháp nhưng cuộc vận động đó
không có kết quả.
Cũng trong thời kỳ Đại chiến thế giới lần thứ nhất, nhiều người yêu
nước Việt Nam cho rằng nhân lúc Pháp đang mắc đánh nhau với Đức ở
Châu Âu mà đứng lên đánh đuổi bọn thực dân thuộc địa đòi lại đất nước.
Đêm ngày 23 rạng 24-3-1913, đã có cuộc nổi dậy của Phan Xích Long
nhằ
m đánh chiếm Sài Gòn nhưng thất bại. Phan Xích Long chạy ra Phan
Thiết nhưng bị bắt ở đó. Đêm 14 rạng 15-2-1916 lại nổ ra cuộc đánh
khám lớn Sài Gòn với mục đích giải phóng những chính trị phạm trong đó
có Phan Xích Long. Nhưng cuộc nổi dậy này cũng bị dập tắt vì lực lượng
quá ô hợp và non yếu.
Những phong trào yêu nước do tầng lớp phong kiến tư sản hóa và
tầng l
ớp nông dân lãnh đạo đều lần lượt thất bại. Trước tình hình đó, một

số người yêu nước từng tham gia các phong trào Đông Du và Duy Tân đã
chuyển hướng qua Hoạt động cải cách về văn hóa xã hội.
1.1.3.Về văn hóa xã hội:
Từ năm 1865, trước khi chiếm trọn Nam Kỳ, thực dân Pháp đã cho
xuất bản Gia Định báo bằng chữ quốc ngữ. Tuy ban đầu là một thứ công
báo của chính quyền xâm lược, nhưng tờ Gia Định báo cũng góp phần



6
vào việc phổ biến chữ quốc ngữ ở Nam Kỳ. Năm 1868, xuất hiện Phan
Yên báo do Diệp Văn Cương làm chủ bút, nhưng sau bị đóng cửa vì
những bài có tính chất chính trị, công khai chỉ trích chính sách của thực
dân Pháp. Năm 1901, có tờ Nông Cổ Mín Đàm do Lương Khắc Minh rồi
Nguyễn Chánh Sắt làm chủ bút. Năm 1907 có tờ Lục Tỉnh Tân Văn do
Trần Chánh Chiếu làm chủ
bút. Năm 1916, tại Cần Thơ có tờ An Hà
nguyệt báo.
Về tiểu thuyết, năm 1887 xuất hiện cuốn truyện Thầy Lazaro phiền
của Nguyễn Trọng Quản. Khoảng 1910, đã có Hoàng Tố Anh hàm oan
của Trần Chánh Chiếu, Phan Yên ngoại sử Tiết phụ gian truân của
Trương Duy Toản. Năm 1912, Hồ Biểu Chánh viết tiểu thuyết Ai làm
được. Khoảng 1919 – 1920, Nguyễn Chánh Sắ
t lừng danh với tiểu thuyết
Nghĩa hiệp kỳ duyên tức Chăng-Cà-Mum.
Về xã hội, trong phong trào Duy Tân đã có chủ trương “di phong
dịch tục”, thay đổi phong tục cũ, giảm bớt nghi thức khi có đám tang,
chống hút thuốc phiện, cờ bạc, khuyến khích thể dục thể thao, bỏ mê tín dị
đoan và đề xướng nếp sống mới như tiếp khách thết đãi theo người Âu,
cắt tóc ng

ắn, bàn việc làm ăn tại nhà hàng …
Đời sống vật chất đã thay đổi, tất nhiên những nhu cầu về tinh thần
cũng thay đổi, đó cũng là một trong những nguyên nhân dẫn tới sự hình
thành một hình thức sân khấu mới phù hợp với xã hội và thời đại lúc bấy
giờ là nghệ thuật cải lương.
Đất Nam bộ ngoài văn hóa của người Việt, còn văn hóa của các tộc
ngườ
i Hoa, Khơme, Chăm Người Việt tiếp thu văn hoá của họ, để tạo
bản sắc văn hóa mới. Đồng thời, Nam Bộ cũng là vùng đất sớm tiếp xúc
với văn hóa phương Tây, là nơi chữ quốc ngữ phổ biến sớm nhất, báo chí
xuất hiện sớm nhất ở nước ta. Nhiều tác phẩm thơ, truyện xuất hiện lối nói
thơ Nam Bộ phát triển, cùng v
ới hò, vè, lý, dân ca Nam Bộ.




7
1.2. Sự ra đời của nghệ thuật sân khấu cải lương
Đầu thế kỷ XX, nhu cầu thưởng thức nghệ thuật của người dân trên
vùng đất mới ngày một tăng, những hình thức nghệ thuật dân tộc từ miền
Trong đưa vào kết hợp với những trò diễn xướng dân gian bản địa, nhưng
vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của nhân dân, h
ọ đòi hỏi phải có một hình
thức nghệ thuật mới hơn và nội dung gần gũi hơn với cuộc sống thường
nhật, và thoả mãn được nhu cầu nghe nhìn, nghe ca và xem diễn. Đó là
Đờn ca tài tử
1
.
Theo tài liệu của ông Trần Văn Khải thì có một ban nhạc tài tử ở

Mỹ Tho do ông Nguyễn Tống Triều lập ra, với Nguyễn Tống Triều sử
dụng đàn kìm, ông Bảy Vô kéo đàn cò, ông Chín Quán thủ cây đàn độc
huyền, ông Mười Lý thổi ống tiêu, cô Hai Nhiễu đàn tranh và cô Ba Đắc
hát. Mỗi tối thứ bảy ban nhạc này trình diễn tại Minh Tân khách sạn ở gần
nhà ga xe lửa Mỹ Tho. Người đế
n nghe loại nhạc tài tử này càng ngày
càng đông. Ông chủ rạp hát bóng Casino ở Mỹ Tho thấy khách sạn Minh
Tân sao đông khách quá, mới nghĩ đến việc đem ban nhạc này trình diễn
trước giờ chiếu phim. Bắt đầu từ đó mới có phụ diễn cổ nhạc trên sân
khấu hát chập. Ca nhạc cải lương bước lên sân khấu đầu tiên là sân khấu
Hát chập.
Cô Ba Đắc là một nữ danh ca hát « sa-lông » nổi tiếng qua lối hát
d
ậm thêm vài câu hài hước trong các bài « Đại lang dậm », « Bùi Kiệm
dậm », « Bùi Kiệm -Nguyệt Nga ». Lúc đầu chỉ ngồi trên bộ ván để hát.
Về sau mới đứng dậy vừa hát vừa ra bộ. Từ đó mới sinh ra hình thức Ca
ra bộ .
Từ Ca ra bộ rất đơn sơ tiến tới ca kịch, tức là vừa hát vừa diễn tả
lời ca với những động tác được tiếp thu từ Hát bội. Thời kỳ
đầu đa số diễn
viên đều từ sân khấu hát bội sang diễn cải lương, kể cả tuồng kịch cũng
như chuyển thể từ Hát bội.


1
Xem chương II – Âm nhạc cải lương



8

Theo các tài liệu của ông Trần Văn Khải, Ba Vân, Vương Hồng
Sển… thì Ca ra bộ phát khởi từ Vũng Liêm (Vĩnh Long) nhà thầy Phó
Mười Hai Tống Hữu Định từ năm 1916. Tống Hữu Định người làng Long
Châu, làm phó tổng Bình Long, từng tham gia phong trào Duy Tân, mượn
lý do trùng tu văn miếu Vĩnh Long (nơi có thờ Võ Trường Toản, Phan
Thanh Giản và Nguyễn Thông) để phát động cuộc dựng bia với thân hào
nhân sĩ địa phương. Tính ham mê
đờn ca, chiều chiều ông thường cho mời
những người yêu thích nhạc tài tử đến nhà chơi như các ông Nguyễn
Thành Điển, đốc học Lê Ninh Thiệp, trưởng tòa Trần Chí Giang, kinh lịch
Trần Quang Quờn, giáo sư Nguyễn Văn Hanh, nhạc sĩ Trần Văn Diện tức
Năm Diện, Ba Phương, Hai Giỏi, Hai Nghị, Trần Văn Thiệt (chủ rạp hát
Cầu Lầu), Lê Văn Hiến (tức Hai Hiến ch
ủ gánh xiệc Thái Anh Tinh, gánh
xiệc này đã có xen kẽ các tiết mục ca tài tử).
Cũng theo ông Trần Văn Khải thì ông Phó Mười Hai có sáng kiến
đem bài Tứ đại oán Bùi Kiệm mê sắc Nguyệt Nga ra phân vai, người ca
đoạn Bùi Ông, kẻ ca đoạn Bùi Kiệm, người ca đoạn Nguyệt Nga, đối đáp
nhau vừa ca vừa ra bộ. Do nội dung bài ca có kịch tính lại được người
biễu diễn khá linh hoạt nên l
ớp ca dễ được hoan nghênh, và ngày càng
được phổ biến rộng rãi.
Như vậy, Tứ đại oán là một tác phẩm tiêu biểu của điệu thức Nam
bộ, nó là bài bản chủ chốt của Ca cải lương. Tứ đại oán đã chiếm lĩnh vị
trí chủ chốt của âm nhạc cải lương. Sau này bản Vọng cổ Dạ cổ hoài lang
ra đời (1917), nó đã trở thành “bản nh
ạc vua” của cải lương Nam bộ.
Cũng như những loại hình nghệ thuật sân khấu dân tộc khác như
Chèo, Tuồng, Bài chòi, nghệ thuật Cải lương cũng phát triển từ diễn
xướng và âm nhạc dân gian, từ diễn xướng dân gian đến đờn ca tài tử rồi

ca ra bộ tức là ca theo lối kể chuyện, lấy lời ca làm lời để kể cho khán
thính giả nghe, kể hết thân phận người này sang nguời khác. N
ội dung của
Ca ra bộ thường lấy tích trong các truyện thơ Việt Nam hoặc một số



9
truyện Tàu được phổ biến trong dân gian Ca ra bộ ra đời lúc này là hình
thức trình diễn của sân khấu đơn sơ, là gạch nối của quá trình chuyền dần
từ hình thái âm nhạc đơn thuần sang sân khấu diễn xuất. Từ những lớp
ngắn tiến lên vở dài có phân vai, thay phiên nhau nhiều người ca, người
thì ca vai này, người ca vai khác, có thêm yếu tố diễn xuất. Ca ra bộ bắt
đầu trở thành tiết mục sân khấu, nhưng ch
ưa thành vở diễn hoàn chỉnh. Từ
chỗ chỉ ngồi trên bộ ván mà hát, sau đó bước xuống đất vừa hát, vừa làm
điệu bộ rồi trở thành tiết mục. Ca ra bộ đã trải qua quá trình diễn xướng từ
đơn giản đến phức tạp. Khi có tiết mục thì đòi hỏi phải có sân khấu diễn
xuất.
Thế là Ca ra bộ có mặt ở các địa điểm sân khấu l
ần lượt diễn ở sàn
diễn này sang sàn diễn khác và đến năm 1917, sau 10 năm phát triển từ
diễn xướng dân gian, đàn ca tài tử đến Ca ra bộ rồi tiến dần thành vở diễn
cải lương. Vở cải lương Lục Vân Tiên của Trương Duy Toản ra đời vào
thời điểm này nhưng vẫn chưa có bài ca chủ đạo.
Cũng thời điểm này (1917) Bản vọng cổ
Dạ cổ hoài lang của Cao
Văn Lầu ra đời đánh dấu một bước ngoặt mới của nghệ thuật Cải lương.
Bản vọng cổ lúc đầu được sáng tác với âm điệu rất đơn sơ mộc mạc
nhưng thể hiện được tâm tư tình cảm của một lớp người thời đại đó, đồng

thời nêu lên được tính độc đ
áo của một loại hình mới về nghệ thuật âm
nhạc được phát triển dựa trên những âm điệu cổ truyền. Dạ cổ hoài lang
đã làm nền tảng cho ca nhạc Cải lương cho đến hôm nay, mặc dù nó đã
biến đổi rất nhiều.
Lối đờn ca trên sân khấu được công chúng hoan nghênh nhiệt liệt.
Cho đến năm 1912 hình thức đờn ca có diễn vẫn tiếp tục phát triển mặ
c dù
cách bài trí sân khấu còn đơn sơ. Cái màn bạc chiếu phim được dùng làm
bối cảnh, kê một bộ ván, trên bộ ván có để một cái bàn chưn cheo. Hai
bên sân khấu có để cây kiểng, xem rậm đám và khán giả có cảm giác đứng
trước một cái phòng khách hạng trung lưu. Cách bài trí này tuy đơn giản



10
nhưng nó gợi cho các nhà dàn cảnh cải lương mai hậu những ý niệm về
việc trang hoàng sân khấu.”
2

Về sự hình thành sân khấu cải lương, nhà nghiên cứu Vương Hồng
Sển cho rằng, cải lương ra đời do bốn cơ hội:
- Hát bội hoài, hát bội mãi, cũng chán tai thét hóa nhàm;
- Năm 1918, giặc trời Tây, gọi Đệ nhứt Thế chiến (1914 – 1918), đã
về khuya, bỗng Tây thắng trận ngang, cho nên mừng quá, toàn quyền
Albert Sarraut nới tay nhắm mắt cho phép bọn trí thức bày ra một cuộc hát
trước lấy tiền dâng mẫu quốc hằ
n vết thương chiến tranh, sau nhất cử
lưỡng tiện, bọn này bày chỉnh đốn biến Hát bội ra một nghệ thuật “canh
tân, cải lương” khác.

- Ban đầu hát cà rỡn chơi, pha tiếng Tây vào tiếng ta, giễu đời, kiêu
ngạo: Vân Tiên đui, Bùi Kiệm dê, kế đó ca bài Hành vân tâm sự của Từ
Hải: “Mật yêng hùng, giống Triệu Thường Sơn”, xen giọng ái quốc vào
điển cũ, sau đó càng biến hóa nữa, biế
n hóa mãi, để rồi Cải lương nảy
sinh một cách bất ngờ, và bắt đầu từ năm nào, nay cũng không một ai
dám chắc.
- Cơ hội hiếm có và một bất ngờ khác rất may cho tiền đồ và văn
hóa nước nhà là miền Nam lớp đó đã có sáng trí, nhơn dịp toàn quyền
Albert Sarraut nới tay cho phép lập hội lập gánh hát, vì năm 1918, bên
Pháp giặc đã dứt, ông Albert Sarraut muốn để cho dân bản xứ lảng quên
việc nước và không làm quốc sự, bèn cho dân tha hồ hát xướng, thừa dịp
đó dân trong Nam bèn trau dồi nghề đờn ca và đưa tài tử salon lên sân
khấu….
Trong cuốn « Nghệ thuật Cải lương » Trương Bỉnh Tòng có nêu lên
vai trò của ông Trương Duy Toản đối với nguồn gốc ra đời của sân khấu
Cải lương. Trong đó ông căn cứ vào tư liệu của ký giả Bằng Giang kể về
hoạt động của Trươ
ng Duy Toản trong lĩnh vực sân khấu. Nhà nghiên cứu


2
Vương Hồng Sển - Hồi ký 50 năm mê hát. Cơ sở Phạm Quang Khai xuất bản, Sài Gòn, 1968 (Tr22)



11
Trương Bỉnh Tòng khẳng định: “Sau khi bị giải lao về Sài Gòn (1913) và
bị an trí tại Phong Điền (Cần Thơ), ông (tức Trương Duy Toản) cho ra đời
tác phẩm Ca ra bộ đầu tiên mang tên Bùi Kiệm – Kiều Nguyệt Nga vào

khoảng 1914 – 1915. Vì Cần Thơ lúc đó chưa có rạp chiếu bóng, chưa có
sân khấu, nên Ca ra bộ Bùi Kiệm – Nguyệt Nga chỉ được biết đến nhiểu ở
Mỹ Tho, Sa Đéc và Sài Gòn, những nơ
i có sẵn sàn diễn.
Ca ra bộ đầu tiên của ông, có thể coi như cuộc khởi công nhằm thực
hiện ý đồ xây dựng sân khấu mới, điều mà ông ôm ấp từ lâu, nhất là trong
những năm tháng bôn ba ở nước ngoài…
Khác với một số người cùng thời, đã dựa vào Hát bội để gọi là « cải
cách Hát bội », ông Trương Duy Toản mạnh dạn chủ trương, dựa vào cái
gốc ca nhạc dân tộc, t
ừ đó dựng lên một sân khấu, kế thừa những cái hay
của sân khấu truyền thống (hát bội), đồng thời tiếp thu những tinh hoa của
sân khấu thế giới.Về phương pháp sáng tác, khi cho ra đời Ca ra bộ Bùi
Kiệm – Kiều Nguyệt Nga, là ông đã nghĩ đến vở hát tương lai Lục Vân
Tiên. Ý thức dân tộc của ông đã được khẳng định qua việc chọn đề tài để
sáng tác. Và khi đi vào thực hi
ện, ông cũng đã tính đến những bước sáng
tạo, nâng dần từ thấp lên cao…đó là quá trình chuyển tiếp từ hình thái âm
nhạc, chuyển sang hình thái biểu diễn sân khấu của Hát chập, rồi sau đó
chuyển dần đến hát cải lương
3
.
« Hát cải lương đã trở thành một động lực mạnh mẽ thúc đẩy sân
khấu Nam Kỳ tiến lên, thầy Năm Tú không mong gì giữ độc quyền được
nữa. Trừ ở Sai Gòn – Chợ Lớn, các gánh Hát bội không chạm trán nổi với
Hát cải lương. Nhiều diễn viên Hát bội bỏ nghề, sang sân khấu mới. Ngay
ở Sài Gòn, lắm khi đang diễn hát bội, khán giả yêu cầu ca cải lương và
diễn viên c
ũng phải chiều lòng ca. Nhiều ban hát như “Phước tường” sống
bằng cách Hát bội có pha Cải lương.



3
[Trương Bỉnh Tòng – Nghệ thuật Cải lương: những trang sử”. Viện Sân khấu, H, 1997, tr40 – 41].




12
Vào khoảng năm 1920 – 1921 Hát cải lương đã trở thành một bộ
môn sân khấu vững vàng.( Vũ Đào : Sơ khảo lịch sử Cải lương)
Cùng quan điểm này với ông Trương Bỉnh Tòng, Vũ Đào, hai tác
giả Trần Minh Tiên và Lê Minh Chánh cũng cho rằng : « Vở tuồng Kim
Vân Kiều (diễn liên tiếp 3 đêm tại rạp cinéma – théâtre của thầy Năm Tú,
sau này đổi tên là Vĩnh Lợi, ngày nay là rạp Tiề
n Giang ở đường Lý Công
Uẩn, Sài Gòn) của ông Trương Duy Toản là vở diễn đầu tiên của sân khấu
Cải lương Nam Bộ. Các nhân vật trong tuồng được soạn giả phân vai như
sau :
- Cô Hai Cúc (gánh xiếc thầy Thận ) đóng Vương Thúy Kiều,
- Cô Ba Đắc vai Thúy Vân
- Cô Năm Thoàn vai Hoạn Thư… »
4

Còn theo giáo sư Nguyễn Thuyết Phong thì « Cải lương được hình
thành ở Nam bộ, nó bắt chước Hát bội và chịu ảnh hưởng của Hát bội ». Ý
kiến này cũng trùng hợp với nhạc sư Nguyễn Vĩnh Bảo và cố nhạc sĩ Lưu
Hữu Phước.
Sự biến chuyển của ca nhạc tài tử sang sân khấu Cải lương ngoài
yếu tố nội lực hát bội còn một yếu t

ố khác nữa là tầng lớp trí thức và tư
sản dân tộc Nam Bộ. Tầng lớp này đã góp phần xúc tác cho nghệ thuật cải
lương hình thành và phát triển trong giai đoạn đầu.
Họ hỗ trợ cho nghệ nhân Hát chập càng ngày càng phát triển, từ
một vài bài ca, cho đến lúc nhiều bài ca kết nối lại thành một vở diễn
tương đối hoàn chỉnh, và vở Cải lương đầu tiên ra đời là vở Lục Vân Tiên.
Qua việc khảo cứu những tài liệu trên, chúng tôi cho rằng cải lương
bắt đầu có sự manh nha vào đầu thế kỷ XX từ những trò diễn xướng dân
gian, bắt đầu bằng những hình thức nói kể, kể chuyện bằng thơ kết hợp


4
[Trần Minh Tiên và Lê Minh Chánh - Sự ra đời của sân khấu cải lương. Tạp chí Sân khấu TPHCM số
363 ngày 24/12/1997, tr4 +5
]




13
với nhạc tài tử. Sau đó Ca ra bộ ra đời trong nhóm đờn ca tài tử của ông
Nguyễn Hữu Định và đặc biệt là sự xuất hiện của bản Dạ cổ hoài lang
của Cao Văn Lầu đã đánh dấu bước trưởng thành của đờn ca tài tử và đờn
ca tài tử phát triển mạnh mẽ để cuối cùng hình thành nên một bộ môn
nghệ thuật sân khấu mới – ngh
ệ thuật Cải lương.





14
2. NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG PHÁT TRIỂN CỦA
NGHỆ THUẬT SÂN KHẤU CẢI LƯƠNG

2.1. Giai đoạn trước cách mạng: Cải lương tiếp tục được định
hình và nhanh chóng lan chuyển ra cả nước.
2.1.1. Giai đoạn Cải lương định hình
Khác với Chèo, Tuồng ngay bản thân tên gọi Cải lương đã có hàm
ý đổi mới. Quan điểm đổi mới được thể hiện bằng tuyên ngôn “cải cách
hát ca theo tiến bộ, lương truyền tuồng tích sánh văn minh”.
Còn danh từ Cải lương, theo Trần Quang H
ải có lẽ rút từ câu: “Cải
biến kỳ sự, Sử ích tự thiên lương” có nghĩa là đổi những gì cũ còn lại ra
thành những gì mới mà hay. Danh từ cải lương được xuất hiện đầu tiên
trên bảng hiệu ở gánh Tân Thinh của ông Trương Văn Thông, vào năm
1920. Sân khấu được trang hoàng đẹp đẽ, có màn nhung, có tranh cảnh và
hát bài La madelon bằng tiếng Việt trước khi kéo màn.” Còn giải nghĩa
theo Từ đ
iển Hán – Việt, thì Cải lương có nghĩa là thay đổi, cải tiến.
Theo chúng tôi giải nghĩa như thế là chưa rõ, chưa đủ, vì dựa trên
cái cũ gì để thay đổi, cải tiến ? mà như phần trên đã trình bày, cải lương ra
đời từ nhạc nhà chùa, từ đờn ca tài tử và tiếp thu nghệ thuật hát bội (tuồng)
để Ca ra bộ diễn những lớp ngắn rồi bước lên sân khấu gỗ diễn nhữ
ng vở
dài.
Vở diễn đầu tiên của cải lương phải kể đến là Lục Vân Tiên của
Trương Duy Toản. Vở này chia làm nhiều màn, hồi theo truyện cùng tên
của cụ Đồ Chiểu, diễn ở đâu cũng đông khách. Tiếp theo, năm 1918, vở
cải lương Kim Vân Kiều của ông lại xuất hiện ở Mỹ Tho.
Sau sự thành công của gánh hát Năm Tú với hai vở di

ễn Lục Vân
Tiên và Kim Vân Kiều, các gánh hát khác ào ạt xuất hiện. Ở Sài Gòn có
Văn Hí ban của ông Huỳnh Kim Vui với vở hát Triệu Trinh Nương, kỳ



15
duyên phổ; ở Long Xuyên có Sĩ Đồng Ban; ở Vĩnh Long có Kì Lân ban; ở
Sóc Trăng có Tân Phước Nam của ông Trần Văn Minh với những vở Chu
Mãi Thần ly thê, Bá Di –Thúc Tề…
Trong giai đoạn đầu này, các gánh hát đều do những hào phú, công
tử đứng ra thành lập. Sau này, các nghệ sĩ có uy tín mới đứng ra lập gánh
hát, như gánh Đồng Nữ ban của cô Ba Viện, Phước Chung ban của Phước
Cương Các nghệ sĩ lúc đó như Năm Phỉ
, Phùng Há, Năm Châu, Ba Vân
v.v… sau này đều trở thành những cây đại thụ của sân khấu Cải lương.
Trong những năm đầu thế kỉ XX, Cải lương vừa tiếp tục định hình
vừa phát triển nhanh chóng, và đã trở thành một kịch chủng sân khấu
chuyên nghiệp có kịch bản, có tác giả. Các gánh Cải lương đầu tiên xuất
hiện ở Mỹ Tho, đồng bằng sông Cửu Long, rồi lần lượt các tỉnh Nam Bộ

và Sài Gòn đều có, đến năm 1919 Cải lương Nam Kỳ ra bắc, trước hết là
ở Hà Nội, được các nghệ sỹ miền Bắc tiếp thu và học tập. Từ đó đến nay,
qua một thế kỷ phát triển, Cải lương đã thu được nhiều thành tựu rực rỡ,
và ngày càng khẳng định vai trò của mình trong cái nôi sân khấu dân tộc
Việt Nam.
Cải lương ra đời và phát triển chịu ảnh hưởng nhi
ều nghệ thuật Hát
bội (Tuồng) và chịu ảnh hưởng cả nghệ thuật Triều Châu, Quảng Đông –
Trung Quốc, thậm chí ảnh hưởng cả sân khấu Pháp, như nhận định của tác

giả Lê Duy Hạnh: “Ngay từ lúc mới ra đời, Cải lương chịu ảnh hưởng có
tính chất quyết định của hai dòng sân khấu: sân khấu truyền thống của
Việt Nam và sân khấu kịch hiện đại c
ủa Pháp ».
Sự tiếp nhận nhiều phong cách sân khấu Đông, Tây làm cho kịch
bản cải lương có cấu trúc mở của tuồng, lại khép chặt theo kiểu Aristốt.
Trang trí và biểu diễn theo phong cách tả thực.




16
2.1.2. Giai đoạn từ 1917 - 1930: Cải lương phát triển mạnh ở
miền Nam và bắt đầu tiến ra miền Bắc.
Trong sách Lịch sử thủ đô Hà Nội do ông Trần Huy Liệu chủ biên
có viết: “Từ 1920 trở đi, nghệ thuật Cải lương đã phát triển mạnh mẽ ở
trong Nam, nhiều gánh hát Cải lương đã ra biểu diễn ở Hà Nội như
:
An Lạc ban, Phúc Lộc ban, Tân Lập ban, Hồng Nhật, Cao Tàng
Châu, Tân Thịnh, Phước Cương, Phùng Phi, Nhạn Trắng, Năm Châu,
Phước Tường v.v…”
5

Cùng với quan điểm này, ông Trần Việt Ngữ cho rằng: “Cải lương
nảy sinh ở miền Nam và giữa năm 1919 theo chân gánh xiếc Sáu Súng ra
Bắc, giới thiệu lần đầu Tứ đại “Đàn bà hay ghen”, hình thức Ca ra bộ với
bản Tứ đại (cảnh) đã “oán hóa”. Cả Nam xuân Tô Huệ, Phú lục Kim
Kiều, do hai người ca luân phiên làm điệu bộ minh họa. Một nă
m sau thấy
Phước Hội ban, rồi năm tiếp là Tân thành ban. Mấy gánh nhỏ diễn ở đình,

ở bãi, loại ca kịch kim thời những Hạnh Nguyên cống Hồ, Tiết Cương tế
tảo, Hoàng Phi Hổ đầu Chu,… do nghệ nhân hát bội nam Trung bộ chia
nhau đóng vai, ca những bản Huế nhưng thiên về Hát bội. Hai gánh này
khi về Nam để lại Hà Nội mấy nghệ nhân Tư Cao, Tư Hối… Tư Cao hoạt
động cho cải lương Hà Nội tới tận những năm 50”
6
.
“Đầu năm 1923, nhóm sinh viên Nam Kỳ công diễn vở Tối độc phụ
nhân tâm (do Nguyễn Văn Tệ viết). Đây là vở đầu tiên thuộc loại kịch pha
ca . Họ còn biểu diễn vở Bội phu quả báo ghi là của Bùi Công Bính và rất
được bà con hâm mộ.”
“Giữa năm 1923, cô An na Nguyễn Thị Chung tức Hai Chung người
Nam Bộ lập gánh Tân Lập ban ở Hà Nội, nhưng lại vào diễn ở Huế.”


5
Trần Huy Liệu chủ biên – Lịch sử thủ đô Hà Nội. Nxb Sử học, Viện Sử học, 1960, tr147.
6
Trần Việt Ngữ - Sự hình thành bộ môn cải lương trên đất Bắc. Tạp chí Nghiên cứu nghệ thuật số 5,
1992, tr67.



17
“Sau đó, Hai Chung rủ thêm hai đào Hai Hường, Năm Phát và các
kép Năm Thanh, Hải Tùng, Năm Mại, Bảy Lão, Sáu Súng, Tư Cao, Sáu
Cò, Năm Siêu…. Cùng ra diễn ở rạp Tonkinoise (phố Hàng Quạt) với
những vở cải lương Nam kỳ: Lục Vân Tiên, Bèo nước duyên mây, Trần
Thế Mỹ bất nhân tiễn thê, Thay hồn đổi xác… Nhưng chỉ sau một thời
gian, vì không có rạp diễn, thuê thì đắt, diễn chia phần trăm thì quá thiệt

thòi, nên đành ph
ải để gánh tan rã.”
7

Cuối năm 1926, nhóm sinh viên Nam kỳ lại kết hợp với nghệ nhân
Tư Hối diễn vở Trang Tử cổ bồn của Nguyễn Đăng Phong. Đến tháng 7
năm 1927, một nhóm các bà, các cô lại tổ chức diễn lại vở Trang Tử cổ
bồn tại rạp Cải lương hí viện ở Hà Nội để lấy tiền giúp dân bị lụt ở Thái
Bình. Vở diễn
đề cao cương thường đạo lý nhằm phê phán người vợ của
Trang Tử là Điền Thị, chồng chết chưa xanh cỏ đã mê say Sở Vương Tôn
(học trò của Trang Tử), lấy chồng khác. Trang Tử cổ bồn diễn được hai
tối thì bị khá nhiều người cực lực phản đối, bởi họ cho rằng không nên
đưa phụ nữ lên sân khấu hát Cải lương, họ cho rằng nh
ư thế là tự do quá
trớn, vượt lễ giáo của dân tộc.
Cùng năm 1927, gánh Nghĩa Hiệp ban ra Bắc với những vở tuồng Tàu
như Lã Bố - Điêu Thuyền, Tra án Quách Hòe… Ban hát này diễn ở
Quảng Lạc, Chuông Vàng phố Hàng Bạc một thời gian dài, rất đông khán
giả. Có thể nói, các rạp Quảng Lạc, Sán Nhiên Đài ở Hà Nội thời kì này
đêm đêm diễn xen cả Tuồng, Chèo kèm theo cả Cải l
ương, hoặc đêm
trước diễn tuồng , chèo, đêm sau diễn Cải lương, dần dà diễn vở chèo có
dậm bài hát cải lương. Đây có lẽ là những năm cực thịnh của nghệ thuật
cải lương trên miền Bắc. Hai rạp Hiệp Thành và Quảng Lạc lúc này trở
thành hai trung tâm biểu diễn Cải lương của thủ đô. Trong quá trình hành


7
GS Hà Văn Cầu – Cải lương Bắc một thực thể nghệ thuật. Tư liệu Viện Sân khấu

– Điện ảnh, tr 15.



18
nghề, một cách rất tự nhiên, các diễn viên đã được hòa nhập các thủ pháp
diễn xuất của Tuồng, Chèo cổ vào Cải lương.
Nghệ thuật Cải lương lúc này trở thành món ăn tinh thần của người Hà
Nội. Mấy chủ rạp ở Hà Nội thấy rõ tác dụng của Cải lương Nam Kỳ khi
hai gánh Phước Lập ban và Nghĩa Hiệp ban được khán giả nhiệt liệt hoan
nghênh, họ
bèn chuyển sang diễn toàn Cải lương, không tổ chức biểu diễn
Chèo, Tuồng nữa. Một số cô đào nổi tiếng như Đào Đính, Đào Liên là
danh ca Tuồng cổ cũng chuyển sang hát Cải lương Nam kỳ. Hiện tượng
này cũng giống như Hát bội ở Bình Định, vì bị Cải lương lôi cuốn khán
giả nên một số nghệ sĩ hát bội đã chuyển hoá nghệ thuật Tu
ồng truyền
thống sang Tuồng Xuân nữ, còn gọi là Tuồng Cải lương”. Ở miền Bắc,
thời kỳ 1930 – 1940 cũng ra đời Chèo cải lương để giành lại khán giả.
Năm 1930, gánh Nghĩa Hiệp ban tan rã vì công ty Quảng Lạc lũng
đoạn, rạp Quảng Lạc và Sán Nhiên Đài bỏ hẳn Tuồng, Chèo đổi tên thành
Cải lương Quảng Lạc và Cải lương Hiệp Thành. Đào kép của Hiệp Thành
lúc đó g
ồm có: Tư Bố, Tam Xuân, Bảy Phượng, Vũ Đào, Phan Ninh,
Minh Ngọc…
Những tiết mục của Hiệp Thành chủ yếu là phóng tác từ những tiểu
thuyết của Khái Hưng, Nhất Linh và chuyển thể từ những tích Tuồng cổ
như: Thôi Tử thí Tề quân, Tam khí Chu Du, Tra án Bàng Quý phi v.v
Nhìn chung, thời kì này Cải lương trên miền Bắc thường biểu diễn
ba loại tuồng khác nhau: tuồng xã hội, tuồng lịch sử, dã s

ử và tuồng Tàu.
Các gánh lớn như Tân Thịnh, Tập Ích ban,Văn Hí ban, Tái Đồng ban,
Phước Cương, Huỳnh Kì, Trần Đắc… đã gây tiếng vang lớn trên các sân
khấu từ Nam ra Bắc. Nhều vở Cải lương được trình diễn do các soạn giả
có tài năng sáng tác, như: Trương Duy Toản, Nguyễn Thành Châu, Huỳnh
Thủ v.v….




19

2.1.3. Giai đoạn từ 1930 – 1945: Cải lương phát triển mạnh mẽ và
bắt đầu hình thành hai xu hướng ở hai miền Nam, Bắc.
Vào thời điểm này, sân khấu Tuồng, Chèo không còn đủ sức hấp
dẫn nữa, miền Bắc đã xuất hiện Chèo văn minh, còn gọi là Chèo Cải
lương. Kịch nói thì mới du nhập từ Pháp vào nên lại càng bỡ ngỡ. Cho
nên, Cải lương đã nhanh chóng chiếm vị
trí chủ đạo trên sân khấu toàn
quốc. Ở hai thành phố lớn Sài Gòn và Hà Nội, nhân dân đều có nhu cầu
xem hát Cải lương. Những vở Cải lương như Giọt máu chung tình, Giá trị
danh dự (phỏng theo kịch Le Cid của Pháp), Tiếng nói trái tim, Đầu xanh
có tội, Tứ đổ tường, Trà hoa nữ (phỏng theo La damme au caméleas của
Pháp)… làm nức lòng người Hà Nội.
Giai đoạn này Cải lương còn đi vào khai thác các truyện Trung
Quốc hợp với Cải l
ương mà Tuồng (Hát bội) đã diễn như: Tam Quốc,
Thủy hử, Đông Chu liệt quốc… cụ thể là: Tam khí Chu Du, Lã Bố hí Điêu
Thuyền, Tiết Giao đoạt ngọc… Bao Công tra án Quách Hòe, Xử án Bàng
Quí Phi, Mạnh Lệ Quân v.v…

Bên cạnh đó, những bài hát nước ngoài được dịch sang tiếng Việt
như “Pouet Puoet” được sử dụng trong vở Tuồng Tiếng nói trái tim, hoặc
bản Tango mysterieux trong vở Đ
óa hoa rừng. Đặc biệt trong thời gian
này chúng ta thấy hàng loạt vở cải lương vay mượn kho tàng văn học thế
giới, nhưng không để nguyên xi, mà có thể mượn cốt truyện, mượn đề tài
rồi phóng tác, đặt tên cho hợp với sự thưởng thức của khán giả. Đó là các
vở diễn phóng tác những tác phẩm văn học Pháp, Anh, Nga đã được Cải
lương hóa, như: Giá trị danh dự ( từ Le cid
của Corneille), “Túy hoa
vương nữ” (marie Tudor của Victor Hugo), “Tơ vương đến thác” còn có
tên gọi Trà hoa nữ (phóng tác từ La Dame aux Camélias của Alexandre
Dumas), vở Rômeo và Juliette của Sêchxpia, vở Những kẻ phạm pháp của



20
Phixemxki, mô tả thời đại Pie đại đế cũng đã chuyển thành vở Cải lương
Đầu xanh có tội diễn năm 1931. Một số truyện của văn sĩ Việt cũng được
đưa lên sân khấu như “Lan và Điệp” phỏng theo tiểu thuyết “Tắt lửa lòng”
của nhà văn Nguyễn Công Hoan, “Bùn lầy nước đọng” phỏng theo tác
phẩm “Tắt đèn” củ
a Ngô Tất Tố. Đến năm 1941, gánh Cải lương Tố Như
ra đời với vở Mạc Tuyết Lan diễn ở Nam bộ và giữa năm 1942, gánh hát
Liên Hiệp Ban ra đời ở Hải Phòng với sự góp mặt của các nghệ sĩ Ái
Liên, Lan Phương, Thanh Hảo, Mộng Long, Vân Trung… đã dựng diễn
những vở diễn như: Lương tâm áo rách, Con theo ai, Sắc giết người…
những kịch mục này đượ
c khán giả Hải Phòng nhiệt liệt đón nhận.
Sang năm 1943, gánh hát Anh Đệ ra đời với sự góp mặt của các

nghệ sĩ Phan Ninh, Sáu Đệ, Lan Phương v.v… với sự trình diễn của các
vở Kim Vân Kiều, Dưới mái Tây Hiên… nhưng gánh này hoạt động chẳng
được bao lâu phải giải tán, có lẽ vì không cạnh tranh nổi với các gánh
mạnh ở Hà Nội.
Như vậy, giai đoạn này cải lương ở miề
n Bắc phát triển rất nhanh,
nhiều gánh được thành lập như: Nhật Tân Ban, Quốc Hoa, Tố Như, Ái
Liên, Đức Huy, Nam Hồng…. Cải lương đã trở thành một bộ môn sân
khấu rất mạnh trên miền Bắc, được đông đảo người xem yêu thích.
Cũng trong giai đoạn 1930 – 1945 Ở Nam Bộ - cải nôi của Cải
lương, nhiều gánh hát cải lương tiếp tục ra đời. Theo thống kê của các nhà
nghiên cứu thì thờ
i kỳ này có tới trên 50 gánh hát cải lương trên cả nước,
như: Tân Thinh, Tập Ích ban, Văn Hý ban, Tái Đồng Ban, Phước Cương,
Huỳnh Kỳ, Trần Đắc… Các gánh hát này gây tiếng vang suốt từ Nam ra
Bắc và cả ở nước ngoài. Từ năm 1931, khán giả Pari đã được thưởng thức
tài nghệ của nữ nghệ sĩ Năm Phỉ qua vở Xử án Bàng Quý phi. Báo chí
Pháp đã từng khen: “Tôi thấy ở trường đấu xảo thuộ
c địa có một nữ nghệ



21
sĩ Việt Nam mà nghệ thuật không thua bất kì một nữ nghệ sĩ nào của ta”
8
.
Thời kỳ này, các gánh hát An Lạc ban, Phước Cương, Năm Phỉ, Phụng
Hảo, Thanh Tùng, Kim Thoa…. đã ra Bắc biểu diễn và được khán giả
nhiệt liệt hoan nghênh.
Nhưng cùng với lúc này là sự khủng hoảng về kinh tế của toàn vùng Đông

Dương, và miền Nam Việt Nam cũng nằm trong tình trạng chung này.
Đứng trước tình hình ấy, Cải lương phải tự tìm hướng đi cho mình, nhiều
gánh hát chuyển sang hát tuồng Phật, tuồng Tiên để c
ầm cự sống. Cho đến
năm 1934, Cải lương miền Nam lại tiếp tục phát triển và khuynh hướng
Cải lương tuồng xã hội và Cải lương tuồng lịch sử dân tộc. Đến năm 1936,
vở cải lương Đời cô Lựu của Trần Hữu Trang ra đời. Đây là một trong
những vở hay nhất của sân khấu Cải lương trong giai đoạn này.
Đời cô Lựu là mộ
t vở Cải lương đặc sắc, nó đã thể hiện được một
số mặt mâu thuẫn của xã hội, mâu thuẫn giữa nhân dân thuộc địa và đế
quốc thực dân, đồng thời lên án bọn địa chủ cấu kết với tư sản mại bản
thực dân cướp nước, bóc lột dã man và tước quyền sống của người nông
dân. Vở diễn có giá trị phê phán xã hội thực dân khá cao. Vì v
ậy mà từ khi
ra đời, Đời cô Lựu luôn được công chúng từ Nam chí Bắc nhiệt liệt đón
nhận. Đời cô Lựu còn chứng tỏ Cải lương đã nắm bắt được thời cuộc, sớm
tìm ra nội dung của cuộc sống đương thời để phản ánh bằng một hình thức
nghệ thuật vừa dân tộc, vừa hiện đại.
Mãi về sau này vở Cải lương
Đời cô Lựu vẫn là kịch mục chủ chốt
của các Đoàn cải lương khắp trong Nam ngoài Bắc. Vào những năm 60,
Đời cô Lựu được dựng trên sân khấu Cải lương Hải Phòng và đã chiếm
được cảm tình người xem với một dàn diễn viên tươi trẻ và giọng hát hay
đầy xuân sắc.
Sang năm 1944, Lê Hoài Nở lại viết vở Vó ngựa truy phong cho
Đoàn Việt kịch Năm Châu. Vở di
ễn vừa ra mắt khán giả đã được người



8
Hoàng Như Mai – Trần Hữu Trang: soạn giả ca kịch cải lương. Nxb TPHCM, 1982, tr10.



22
hâm mộ và báo chí khen ngợi, có báo còn bình luận: “Từ khi vở này ra
đời, thì vở Tứ đổ tường phải đi vào lịch sử”.
9
Vó ngựa truy phong thông
qua sự diễn xuất của các nghệ sĩ nổi tiếng như: Ba Vân (vai Dũng nghiền),
Phùng Há (vai bà Thảo), Năm Châu (vai Quốc say), Thanh Loan (vai cô
gái)… đã làm mưa làm gió trên sân khấu Cải lương khắp Trung, Nam,
Bắc hàng chục năm trời.
Thời kì này cải lương có những vở mang tính chất hiện thực phê
phán khá sâu sắc như: Đời cô Lựu (Tư Trang), Đóa hoa rừng (Năm Châu),
Trên dốc lý tưởng (Sỹ Ti
ến), Giòng máu thanh niên (Đào Mộng Long), Tô
Ánh Nguyệt, Vó ngựa truy phong v.v… Các gánh hát miền Nam như An
Lạc ban, Phước Cương, Năm Phỉ, Phụng Hảo, Thanh Tùng, Kim
Thoa…lần lượt ra Bắc biểu diễn và được khán giả mến mộ.
2.2. Giai đoạn từ 1945 – 1954: Cải lương tiếp tục phát triển ở hai
miền Nam, Bắc.
Do tình hình gay gắt của cuộc kháng chiến chống Pháp, các diễn
viên Cải lương người thì ch
ạy vào thành tiếp tục sự nghiệp ca hát, người
thì bỏ nghề đi làm thuê kiếm sống bằng đủ thứ nghề, số còn lại đi theo
kháng chiến hoạt động không chuyên nghiệp. Các đoàn Cải lương trên
miền Bắc hoạt động ở các vùng du kích liên khu III mất dần biểu diễn,
một số Đoàn Cải lương Bắc chạy về Thái Bình, Ninh Bình, và quy tụ về

Thanh Hoá để rồi hình thành liên đoàn Cải l
ương khu 4.
Giữa năm 1954, Hiệp định Geneve ra đời chấm dứt cuộc chiến
tranh Việt Nam – Pháp, lãnh thổ Việt Nam bị phân chia thành hai miền
Nam, Bắc từ giới tuyến 17 kéo dài 20 năm (1954 – 1975).
2.2.1. Cải lương ở miền Nam
Thời gian đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp Cải lương vẫn do
dân gian tự phát. Do chiến tranh, các gánh hát giải tán, một loạt các diễn


9
Trần Việt Ngữ - Ba Vân trên sân khấu cải lương. Nxb Văn hóa Hà Nội, 1986, tr97.



23
viên tên tuổi như: Tám Danh, Ba Du, Thanh Loan, Thanh Hương… ra
vùng giải phóng để nhập vào các lực lượng kháng chiến, tiếp tục sự
nghiệp của mình bằng con đường cách mạng, số còn lại về Sài Gòn thành
lập các đoàn hát tư nhân và đi lưu diễn ở các tỉnh. Lúc này Sài Gòn trở
thành trung tâm kinh tế và văn hoá của miền Nam và là nơi Cải lương
hoạt động sôi nổi trở lại, nhiều đoàn hát ra đời như: Gánh hát củ
a cô Năm
Phỉ, Gánh Phụng Hảo, Gánh Hoa Sen của nghệ sĩ Bảy Cao, nhóm Năm
Châu (gồm các nghệ sĩ Năm Châu, Ba Vân, Năm Nở, Tư Út, Phùng Há,
Ngọc Sương, Kim Cúc, Kim Lan) với gánh hát Con tằm v.v…
Sân khấu Cải lương Sài Gòn lúc này lộ rõ mấy xu hướng: loại tuồng
Tàu thì không gánh nào tranh nổi khách với Đoàn Phụng Hảo: loại tuồng
võ hiệp phải kể đến gánh Mộng Vân; loại tuồng tây và xã hội thì khó ai
sánh bì gánh Năm Châu còn mấy gánh khác thì diễn tuồ

ng Tiên , tuồng
Phật nhưng đi dần vào bế tắc.
Đến năm 1950, cùng với phong trào chỉ trích Cải lương ở miền Bắc
thì ở vùng giải phóng của Nam bộ có nơi ra lệnh cấm Cải lương, không
được sử dụng vọng cổ trong các vở Cải lương. Vì cho rằng yếu đuối sẽ
làm mềm tinh thần chiến đấu của quân dân
Đầu năm 1951, Nam Bộ phê bình: “Công tác văn hóa ở Nam bộ

nhiều sai lầm, căn bản là không rõ hệ thống tình cảm hiện có trong nhân
dân”. Tiếp đó là Hội nghị văn nghệ toàn Nam bộ quyết định: “Đi sâu vào
tình cảm dân tộc, tận dụng các hình thức văn nghệ xưa và nay”. Và đến
cuối năm, chi hội Văn nghệ Nam bộ tổ chức một hội nghị tranh luận về
vấn đề của nghệ thuật Cải lương, nhiề
u ý kiến tranh luận tại hội nghị trái
ngược nhau, nhưng cuối cùng cũng đi đến kết luận: “Cải lương vẫn có tác
dụng phục vụ kháng chiến, và quyết nghị trong buổi liên hoan bế mạc sẽ
diễn Cải lương, mời các đồng chí lãnh đạo Đảng và chính quyền cấp lãnh
đạo Nam bộ đến xem. Anh em phân công Ngọc Cung xây dựng một vở



24
Cải lương ngắn để biểu diễn. Ngay trong buổi sáng, anh viết xong vở Nợ
nước tình nhà.”
10

Vở chỉ có một màn, kể chuyện chàng trai họ Trần đang học hành lo
thi cử thì giặc đến. Bạn tới rủ tòng quân, chàng còn ngần ngại, vợ ra
khuyên chồng lên đường, chàng còn bịn rịn gia đình thì ông bố ra khuyên
con noi theo truyền thống anh hùng của cha ông mà lên đường đánh giặc.

Buổi biểu diễn rất thành công. Sau buổi biểu diễn, các đồng chí lãnh đạo
Đảng và chính quyền Nam Bộ quyết định cho phục hồi lại hình thứ
c ca
nhạc sân khấu Cải lương, để phục vụ kháng chiến. Từ đó, Cải lương mới
được định hướng để phục vụ nhân dân. Các đoàn Cải lương tăng lên gấp
bội. Chỉ trong thời gian ngắn, ở khu giải phóng Bạc Liêu có tới 9 đoàn,
khu 7 có các nhóm Bích Lâm, Ngô Y Linh, Nguyễn Phương v.v…
Trong điều kiện ở vùng tạm chiến, Cải lương có đất phát triển.
Nhưng vì đi
ều kiện chiến tranh và để ca ngợi lòng yêu nước, chống giặc
ngoại xâm, đoàn kết quân dân… cho nên hầu hết những vở Cải lương ra
đời trong thời gian này là những vở ngắn, như các vở: Huyết lệ thù do Chi
Lăng phóng tác từ hí khúc Trung Quốc (tác giả được giải Văn nghệ Cửu
Long năm 1953), Vẹn tình cá nước của Ngọc Cung (1952), Chung sức
diệt thù của Thanh Nha (1953), Bạch mao nữ c
ủa Trương Bỉnh Tòng,
Lâm Ân, Phan Vũ phóng tác theo hí khúc Trung Quốc, Người mặt cháy
(tức Vệ quốc chiến) của Nguyễn Phương phóng tác theo “Tính cách Nga”
của A.Tôn - xtôi…
Vở diễn Người mặt cháy do Đoàn Việt Kịch Năm Châu dựng năm
1955 với sự góp mặt của các nghệ sĩ: Tám Vân (vai người mặt cháy), Kim
Cúc (vai cô người yêu), Hai Nữ (vai bà mẹ)… được khán giả ở Sài Gòn
và một số quận, huyện Bình Chánh, Bà Chiểu, Gò V
ấp khen ngợi, tán
thưởng.


10
Hoài Anh – Ba nghệ sĩ cải lương cách mạng. Tạp chí Sân khấu, số 75, tháng 12/1986, tr44.




25
Đặc biệt, vào thời gian này xuất hiện vở cải lương Hai bó rơm của
Ngọc Cung (tác giả được Giải văn nghệ Cửu Long năm 1951) ca ngợi tình
đoàn kết quân dân. Hai bó rơm đã được diễn đến năm 1958 và được khán
giả miền Nam nhiệt liệt đón nhận.
Cải lương lúc đó với lực lượng diễn viên lần đầu lên sân khấu, như

Can Trường, Nguyễn Ngọc Bạch, Tường Trân, Phi Nga… đã diễn hết
mình. Cải lương trở thành nguồn động viên tinh thần to lớn đối với bộ đội
và nhân dân Nam bộ.
2.2.2. Cải lương ở miền Bắc
Ở miền Bắc xuất hiện những vở diễn thể hiện hình tượng người lính
như Lá cờ giải phóng của Ngọc Văn do gánh hát cải lương Nhật tân ban
bi
ểu diễn năm 1946. Cùng thời gian này Sĩ Tiến vừa chấp bút vừa dàn
dựng và tham gia biểu diễn tiết mục cải lương dưới hình thức hoạt cảnh
Xuân chiến khu, trong đó có bóng dáng anh chiến sĩ. Sang năm 1947,
Ngọc Văn lại viết thêm kịch bản 10 năm ngoài chiến trận, gánh Nhật Tân
ban trình diễn ở nhiều nơi thuộc vùng liên khu III như Đồng quan chợ Tía,
Phú Xuyên.
Rất tiếc là trong th
ời kì này, do nhận thức sai về sự tồn tại của
Tuồng, Chèo, Cải lương, nhiều cán bộ địa phương đã ngộ nhận, ấu trĩ,
thậm chí rất cực đoan đối với sân khấu Cải Lương.
Trong cuộc họp về nghệ thuật sân khấu tổ chức năm 1950 tại Việt
Bắc đã có nhiều ý kiến cho rằng “Cải lương là một ngh
ệ thuật “quái gở”,
lai căng, sản sinh ra một thời đại múa may, quay cuồng trên sân khấu

nhằm đáp ứng nhu cầu giải trí cho một tầng lớp người cuồng vọng, không
biết mình sẽ đi đến đâu, không biết mình đương nghĩ gì, đương cảm xúc
thế nào… » (Trích tham luận của nhà thơ, nhà viết kịch Đoàn Phú Tứ).
Một số ý kiến lên tiếng bác lại ý kiến này như trong tham luận của nh
ạc sĩ
Lưu Hữu Phước, ông bày tỏ thẳng thắn: “Tôi bênh vực cải lương vì anh

×