HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH
-------o-------
BÁO CÁO TỔNG HỢP
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
KHOA HỌC CẤP BỘ
THUỘC CHƯƠNG TRÌNH KHOA HỌC TRỌNG ĐIỂM
GIAI ĐOẠN 2008 - 2010
GIẢI PHĨNG, ĐỔI MỚI, PHÁT TRIỂN
VÌ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
CƠ QUAN CHỦ TRÌ
: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ-HÀNH CHÍNH
QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI
: GS.TS. NGUYỄN VĂN HUN
PHĨ CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI: TS. VƯƠNG CƯỜNG
THƯ KÝ KHOA HỌC
: ThS. PHẠM THẾ LỰC
8547
HÀ NỘI 2010
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CNXH
Chủ nghĩa xã hội
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
CNTB
Chủ nghĩa tư bản
TBCN
Tư bản chủ nghĩa
CNH - HĐH
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CSXH
Chính sách xã hội
HDI
Chỉ số phát triển con người
KH&CN
Khoa học và công nghệ
GDP
Tổng thu nhập quốc dân
UNDP
Chương trình phát triển của Liên Hiệp Quốc
TFP
Năng xuất các yếu tố tổng hợp
BAN CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI
1
GS. TS. Nguyễn Văn Huyên
Học viện CT – HC QG Hồ Chí Minh
Chủ nhiệm đề tài
2
TS. Vương Cường
Vụ Quản lý khoa học,
Học viện CT – HC QG Hồ Chí Minh
Phó chủ nhiệm đề tài
3
ThS. Phạm Thế Lực
Viện Chính trị học,
Học viện CT – HC QG Hồ Chí Minh
Thư ký khoa học đề tài
DANH SÁCH CÁC CỘNG TÁC VIÊN CHÍNH CỦA ĐỀ TÀI
1
GS.TS. Trần Ngọc Hiên
Liên hiệp các hội Khoa học – Kỹ thuật Việt Nam
2
GS. Trần Nhâm
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia
3
GS.TS. Nguyễn Ngọc Long
Viện Triết học,
Học viện CT – HC QG Hồ Chí Minh
4
GS.TS. Phạm Tất Dong
Hội Khoa học Tâm lý
5
GS. Đỗ Huy
Viện Triết học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam
6
GS.TS. Phạm Ngọc Quang
Học viện CT – HC QG Hồ Chí Minh
7
PGS.TS. Phạm Văn Đức
Viện Triết học, Viện KHXH Việt Nam
8
PGS.TS. Ngô Quang Minh
Viện Kinh tế, Học viện CT-HC QG Hồ Chí Minh
9
PGS.TS. Phạm Duy Đức
Viện Văn hóa và phát triển,
Học viện CT-HC QG Hồ Chí Minh
10
PGS.TSKH. Lương Đình Hải
Viện Triết học, Viện KHXH Việt Nam
11
GS.TSKH. Phan Xuân Sơn
Viện Chính trị học,
Học viện CT – HC QG Hồ Chí Minh
12
TS. Ngơ Huy Đức
Viện Chính trị học,
Học viện CT-HC QG Hồ Chí Minh
13
TS. Lê Thanh ThậP
Viện Triết học, Viện KHXH Việt Nam
14
ThS. Mai Hoài Anh
Viện Quan hệ quốc tế,
Học viện CT-HC QG Hồ Chí Minh
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI PHÓNG, ĐỔI MỚI,
1
12
PHÁT TRIỂN
1.1. BẢN CHẤT, NỘI DUNG CỦA CÁC VẤN ĐỀ GIẢI PHÓNG, ĐỔI MỚI,
12
PHÁT TRIỂN VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CHÚNG
1.1.1.Bản chất, nội dung của các vấn đề giải phóng, đổi mới, phát triển
12
1.1.2.Mối quan hệ biện chứng giữa các vấn đề giải phóng, đổi mới, phát
22
triển
1.2. CÁC TIÊU CHÍ VỀ PHÁT TRIỂN
1.2.1. Một số nguyên tắc có tính phương pháp luận của việc xác định,
28
28
xem xét, đánh giá tiêu chí
1.2.2.Tiêu chí phát triển kinh tế, xã hội, văn hoá, con người ở một số
34
nước trên thế giới
1.2.3.Tham khảo và vận dụng các tiêu chí phát triển kinh tế, văn hoá, xã
41
hội, con người ở các nước cho sự phát triển ở Việt Nam
1.3. MƠ HÌNH PHÁT TRIỂN CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VÀ
47
NHỮNG KINH NGHIỆM CHO GIẢI PHĨNG, ĐỔI MỚI, PHÁT TRIỂN Ở
VIỆT NAM
1.3.1.Mơ hình phát triển của một số nước Bắc Âu
47
1.3.2.Cải tổ ở Liên Xơ và kinh nghiệm đối với q trình giải phóng, đổi
66
mới, phát triển vì CNXH ở Việt Nam
1.3.3.Kinh nghiệm cải cách, đổi mới, phát triển ở Mỹ và Anh
75
1.3.4.Kinh nghiệm cải cách, đổi mới ở Trung Quốc
88
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG CỦA Q TRÌNH GIẢI PHĨNG, ĐỔI
MỚI, PHÁT TRIỂN VÌ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
109
2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC GIẢI PHĨNG, ĐỔI MỚI,
109
PHÁT TRIỂN VÌ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
2.2. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ GIẢI PHÓNG, ĐỔI MỚI, PHÁT TRIỂN
115
VÌ CNXH THỜI GIAN QUA
2.2.1.Thực trạng giải phóng, đổi mới, phát triển trong lĩnh vực tư tưởng
116
2.2.2.Thực trạng giải phóng, đổi mới, phát triển trong lĩnh vực kinh tế
123
2.2.3. Thực trạng giải phóng, đổi mới, phát triển trong lĩnh vực chính trị
139
2.2.4. Giải phóng, đổi mới, phát triển trong lĩnh vực xã hội – con người.
155
2.3. NHỮNG CẢN TRỞ TRONG Q TRÌNH GIẢI PHĨNG, ĐỔI MỚI, PHÁT
168
TRIỂN VÌ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.3.1. Những cản trở chủ yếu trong nhận thức về chủ nghĩa xã hội
168
2.3.2.Những cản trở chủ yếu trong lĩnh vực kinh tế
173
2.3.3.Những cản trở chủ yếu trong lĩnh vực chính trị
177
2.3.4.Những cản trở chủ yếu trong lĩnh vực xã hội
183
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC GIẢI
189
PHÓNG, ĐỔI MỚI, PHÁT TRIỂN VÌ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
3.1. MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG CHỦ YẾU
3.1.1.Giải phóng, đổi mới, phát triển đảm bảo đúng hướng và đúng
189
189
bản chất của chủ nghĩa xã hội.
3.1.2.Giải phóng, đổi mới, phát triển vì một xã hội hài hịa
192
3.1.3.Giải phóng, đổi mới, phát triển phải đảm bảo phát triển bền vững
196
3.2. CÁC GIẢI PHÁP TIẾP TỤC GIẢI PHÓNG, ĐỔI MỚI, PHÁT TRIỂN VÌ
201
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
3.2.1.Giải pháp giải phóng, đổi mới, phát triển trong lĩnh vực tư tưởng
201
3.2.2.Giải pháp giải phóng, đổi mới, phát triển trong lĩnh vực kinh tế
220
3.2.3.Giải pháp giải phóng, đổi mới, phát triển trong lĩnh vực chính trị
237
3.2.4. Giải phóng, đổi mới, phát triển nguồn lực xã hội - con người
257
KẾT LUẬN
271
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thế kỷ XX đã diễn ra với biết bao biến động, thăng trầm, với những
bước ngoặt to lớn của chủ nghĩa xã hội (CNXH) hiện thực: từ sự ra đời, phát
triển đến sự khủng hoảng và đổ vỡ. CNXH – một tượng đài xã hội tốt đẹp nhất
khắc sâu vào thế kỷ XX – đầu thế kỷ XXI như niềm kiêu hãnh của lồi người
tiến bộ. Tuy nhiên, sự sụp đổ và thối trào của CNXH hiện thực là một tổn thất
to lớn của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Trong q trình khủng
hoảng, đổ vỡ và thối trào đó, nhiều nước XHCN đã nỗ lực tiến hành cải tổ,
đổi mới, nhưng do nhiều nguyên nhân đã đi đến thất bại và kéo theo đó là sự
sụp đổ của nhiều nước khác. Một số nước XHCN khác kiên định lập trường
chủ nghĩa Mác – Lênin đã dũng cảm, sáng tạo, tìm cho mình con đường riêng,
vượt qua được khủng hoảng và đạt được những kết quả to lớn, được thế giới
thừa nhận, tạo niềm tin và triển vọng cho quá trình phát triển theo hướng
XHCN của nhiều nước trên thế giới. Việt Nam là một trong số những nước
như vậy.
Kiên trì mục tiêu XHCN, ở Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng, từ khi
thực hiện đường lối đổi mới đến nay, con đường đi lên CNXH ngày càng được
xác định rõ hơn. Quan niệm về CNXH đã được bổ sung, phát triển cùng với sự
phát triển của thực tiễn đất nước, của CNXH thế giới và của thời đại. Trong q
trình đó, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn về mọi mặt: kinh tế tăng
trưởng liên tục với mức khá cao, an ninh chính trị ổn định, đời sống vật chất của
nhân dân được cải thiện đáng kể, đời sống văn hóa tinh thần của người dân ngày
càng được nâng cao. Từ sự đổi mới này, nhiều bài học kinh nghiệm đã được
tổng kết để phục vụ cho những giai đoạn tiếp theo của quá trình đổi mới. Chính
điều này đã khẳng định sự đúng đắn của đường lối đổi mới, tạo ra động lực lớn
1
để tiếp tục đổi mới và phát triển, đồng thời củng cố niềm tin của nhân dân đối
với sự nghiệp xây dựng CNXH của Đảng và nhân dân ta.
Mặc dù đã giành được nhiều thành tựu to lớn trong sự nghiệp xây dựng
CNXH thời gian qua, song ở đó cũng cịn khơng ít những hạn chế cả về lý luận
lẫn thực tiễn; chúng đang tạo ra sức cản đối với sự phát triển của CNXH; thậm
chí cịn tạo ra những nguy cơ, thách thức trực tiếp đối với sự tồn vong của chế
độ. Nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn đòi hỏi phải tiếp tục lý giải một cách khoa
học để tạo cơ sở và động lực cho sự phát triển tiếp theo. Bao trùm lên tất cả
những vấn đề đó là các vấn đề về mối quan hệ giữa tăng trưởng tốc độ cao với
sự phát triển bền vững, liên tục của nền kinh tế; giữa phát triển kinh tế với tiến
bộ xã hội, giữ vững tính chất XHCN của nền kinh tế thị trường; giữa nắm bắt
thời cơ và ứng phó với thách thức trong hội nhập kinh tế thế giới; giữa phương
thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản cầm quyền trong hệ thống chính trị với việc
phát huy năng lực quản lý, điều hành của Nhà nước pháp quyền XHCN, v.v..
Bên cạnh đó, đời sống mn màu của thế giới hiện đại đang hình thành
những nhân tố mới tác động mạnh mẽ đến tất cả các nước, trong đó có cả các
nước XHCN như Việt Nam (dư âm sự sụp đổ của CNXH hiện thực ở Liên Xô
và Đông Âu, sự phát triển vũ bão của khoa học – cơng nghệ hiện đại, tồn cầu
hóa và sự hội nhập quốc tế, sự phát triển kinh tế tri thức). Thời cơ, thuận lợi
cho việc phát triển là rất lớn, nhưng khó khăn, thách thức và những nguy cơ
tiềm ẩn cũng nhiều. Làm thế nào để tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức; làm
gì để khắc phục những hạn chế, sai lầm và phát huy tối đa những thành quả đã
đạt được nhằm tỏ rõ bản chất ưu việt và sức sống của CNXH là vấn đề hết sức
khó khăn, đặc biệt khi CNTB vẫn đang cịn sức hấp dẫn của nó.
Việc nghiên cứu một cách hệ thống và sâu sắc về CNXH, tổng kết
những vấn đề lý luận và thực tiễn, từ đó rút ra những bài học có ý nghĩa
phương pháp luận cho việc tiếp tục công cuộc xây dựng CNXH ở Việt Nam
2
trong những thập niên tới một cách đúng đắn, hiệu quả là việc làm quan trọng
và cần thiết. Nó sẽ giúp chúng ta xác định được xu thế phát triển của đất nước
trong giai đoạn mới và khẳng định mãnh mẽ hơn nữa con đường đi lên CNXH
ở Việt Nam từ vấn đề về mơ hình và định hướng chung cho đến nội dung,
những nhiệm vụ và các giải pháp cụ thể cho từng lĩnh vực hoạt động.
Một nội dung đặc biệt quan trọng của sự nghiệp tiếp tục xây dựng
CNXH trong những thập niên đầu của thế kỷ XXI là, trên cơ sở những thành
tựu đã đạt được, chúng ta phải khẳng định những đặc điểm của CNXH Việt
Nam, dự báo triển vọng của CNXH Việt Nam, từ đó xác định phương hướng
và các giải pháp để giải phóng tối đa mọi nguồn lực đất nước, nguồn lực con
người và dân tộc, tiếp tục đổi mới các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội, đẩy nhanh và vững chắc sự phát triển đất nước, thực hiện mục tiêu XHCN
– dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
2. Tình hình nghiên cứu
Với hơn 90 năm tồn tại và phát triển, cùng với những thăng trầm, thành
công và thất bại, CNXH hiện thực là một đối tượng nghiên cứu trọng tâm của
khoa học xã hội và nhân văn. Ngày nay, những nghiên cứu về CNXH hiện thực
ngày càng nhiều với sự phong phú và đa dạng cả về nội dung cũng như cách
tiếp cận. Có những cơng trình nghiên cứu về CNXH để khẳng định rằng đó là
q trình tất yếu, khách quan, khẳng định tính ưu việt của CNXH so với
CNTB. Nhưng cũng có cơng trình nghiên cứu về CNXH như để phê phán,
xuyên tạc hoặc chống đối và phủ nhận chế độ XHCN.
Trên thế giới, có khơng ít cơng trình nghiên cứu về q trình hình thành,
phát triển cũng như những khó khăn, thách thức của CNXH hiện thực. Nhiều
cơng trình đề cập đến những thất bại trong công cuộc cải tổ của Liên Xô và các
nước Đơng Âu, phân tích những sai lầm và nguyên nhân dẫn để sự sụp đổ chế
độ XHCN ở các quốc gia này như để đưa ra những cảnh báo, khuyến cáo có ý
3
nghĩa tham khảo cho các nước XHCN còn lại trong q trình cải cách, đổi mới,
như: CNXH chuyển đổi mơ hình từ “truyền thống” sang “hiện đại” của
Chengeng; Hệ thống xã hội chủ nghĩa của Kornai János, Nxb Văn hóa Thông
tin, 2002; Các nền kinh tế chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch tập trung sang kinh tế
thị trường của Marie Lavigne, Nxb CTQG, 2002; Chủ nghĩa cộng sản: một dự
án mới của Robert Hue. Cũng có khơng ít các cơng trình nghiên cứu về những
thành cơng trong cải cách, đổi mới và phát triển trên con đường xây dựng
CNXH mang đặc sắc Trung Quốc, nhằm góp phần tìm hiểu và nghiên cứu
những vấn đề lý luận và thực tiễn đã và đang đặt ra ở Trung Quốc, từ đó góp
phần gợi mở những suy nghĩ về cơng cuộc đổi mới ở Việt Nam (Lịch sử, hiện
trạng, tương lai CNXH của Trương Khắc Lơi, Tự Lập Bình (Sách đã được dịch
sang Tiếng Việt), Nxb CTQG, H, 1997; Hai chủ nghĩa - một trăm năm của
Tiêu Phong, Nxb CTQG,H, 2004; Trung Quốc 25 năm cải cách-mở cửa của
Viện Nghiên cứu Trung Quốc, Nxb KHXH, 2004; Chủ nghĩa xã hội là gì, Xây dựng
chủ nghĩa xã hội như thế nào? (Bản chất của CNXH và con đường phát triển) của
Chu Thượng Văn, Chu Cẩm Úy, Trần Tích Hỷ, Nxb CTQG, 1999; Những thay đổi
của CNTB đương đại và ảnh hưởng tới Trung Quốc của Chân Bính Hỷ, Trần Đức
Chiêu, Ngụy Dân (được đăng trên Thông tấn xã VN, số 6/2003); Cải cách thể chế
chính trị ở Trung Quốc (1978 – 2003) của Đỗ Tiến Sâm (Chủ biên), Nxb KHXH,
2003; Trung Quốc cải cách, mở cửa – Những bài học kinh nghiệm của Nguyễn Văn
Hồng, Nxb Thế giới, 2003;…)
Ở Việt Nam trước đây, các nghiên cứu về CNXH nói chung và q trình
xây dựng CNXH ở Việt Nam nói riêng chủ yếu được nghiên cứu ở tầm lý luận,
nguyên lý, phương pháp luận tập trung chủ yếu dưới góc độ triết học, chủ
nghĩa xã hội khoa học, kinh tế chính trị học. Sau đó, vấn đề này cịn được mở
rộng nghiên cứu cả ở góc độ chính trị học, luật học, hành chính học, văn hóa
học,…thậm chí cịn mang tính liên ngành.
4
Bám sát quá trình xây dựng CNXH, đặc biệt là trong những giai đoạn
khó khăn, thách thức, giới lý luận nước ta đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về
CNXH và sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam, góp phần cung cấp những
cơ sở khoa học cho việc hoạch định chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước, đặc biệt là cho việc nhận thức về CNXH, về những điều
chỉnh đổi mới trong các lĩnh vực căn bản của quá trình chuyển đổi về kinh tế,
xã hội theo mơ hình mới.
Nghiên cứu về q trình đổi mới ở Việt Nam, hầu hết các cơng trình nhấn
mạnh rằng đổi mới tư duy chính là khởi đầu cho sự nghiệp đổi mới. Nếu khơng
có đổi mới về mặt tư duy lý luận, mà trước hết là tư duy kinh tế, thì sẽ khơng thể
có thành cơng như hiện nay. Đây là kinh nghiệm mà Việt Nam cần tiếp tục vận
dụng và phát huy trong giai đoạn mới của công cuộc xây dựng CNXH.
Bên cạnh đó, nhiều cơng trình cũng chỉ rõ, nhiều vấn đề về mặt tư
tưởng, lý luận chúng ta còn lúng túng, chưa nhận thức rõ, dẫn đến kìm hãm
quá trình đổi mới và phát triển đất nước như: hiểu vấn đề bóc lột như thế nào
cho đúng; bản chất, nội dung của kinh tế thị trường định hướng XHCN là gì;
vấn đề sở hữu và các thành phần kinh tế, vai trò của nhà nước trong nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN là gì? những yêu cầu, nội dung của nền kinh tế
độc lập, tự chủ trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế là thế nào; giải quyết
như thế nào cho hợp lý giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội,
giải quyết như thế nào về mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo và Nhà nước quản
lý,…Các cơng trình tiêu biểu đề cập đến vấn đề này là: Xây dựng CNXH ở Việt
Nam: Vấn đề nguồn gốc và động lực của Lê Hữu Tầng, Nxb KHXH, 1991;
Góp phần vào việc đổi mới nhận thức về CNXH của Phạm Như Cương, Lê Cao
Đoàn, Nxb KHXH, 1992; Những vấn đề lý luận về CNXH và con đường đi lên
CNXH ở Việt Nam do Nguyễn Duy Quý (chủ biên), Nxb CTQG, H, 1998; Mấy
vấn đề lý luận và thực tiễn trong sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam của
5
Nhị Lê, Nxb CTQG, 2001, Đổi mới để phát triển, Nxb CTQG, 2002; Tư duy lý
luận với sự nghiệp đổi mới của Trần Nhâm, Nxb CTQG, 2004; , …
Một số cơng trình đã tiến hành tổng kết thực tiễn q trình đổi mới theo
định hướng XHCN ở Việt Nam trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội, đánh giá những thành công cũng như những hạn chế trong thời kỳ đổi mới từ
1986 đến nay. Nhiều công trình thẳng thắn chỉ ra rằng, bên cạnh những thành tựu,
tiến bộ đã đạt được sau gần 25 năm đổi mới, nước ta vẫn còn nhiều yếu kém,
khuyết điểm làm cho q trình phát triển bị chậm lại. Đó là nền kinh tế phát triển
chưa bền vững, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp. Nhiều nguồn lực và
tiềm năng trong nước để phát triển kinh tế chưa được huy động và sử dụng tốt.
Thất thốt, lãng phí trong quản lý kinh tế còn rất nghiêm trọng. Cuộc vận động
xây dựng, chỉnh đốn Đảng và cải cách hành chính trong hệ thống chính quyền
chưa đạt yêu cầu đề ra, tình trạng quan liêu, tham nhũng chưa có dấu hiệu suy
giảm, gây ra nhiều điểm nóng chính trị-xã hội. Nhiều nơi quyền tự do, dân chủ
của nhân dân còn bị vi phạm, việc thực hiện luật pháp, kỷ cương không nghiêm.
Nhiều vấn đề xã hội bức xúc chậm hoặc chưa được giải quyết tốt,…Từ việc phân
tích những khuyết điểm, hạn chế, các cơng trình này đã rút ra ra những bài học
kinh nghiệm cũng như nêu lên những gợi ý cho việc hồn thiện hơn nữa đường
lối, chủ trương, chính sách và cách thức triển khai trong tổ chức thực tiễn, nhằm
góp phần đẩy mạnh sự phát triển của đất nước. Các cơng trình đề cập đến vấn đề
này có thể kể đến: Những vấn đề lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở
Việt Nam của Nguyễn Duy Quý, Nxb CTQG, 1998; Đổi mới bước phát triển tất
yếu đi lên CNXH ở Việt Nam của Nguyễn Khánh, Nxb CTQG, 1999; Về CNXH
và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam của Nguyễn Đức Bình (chủ biên), Nxb
CTQG, 2003; Chủ nghĩa xã hội: Từ lý luận đến thực tiễn. Những bài học kinh
nghiệm chủ yếu do Lê Hữu Tầng (Chủ biên), Nxb CTQG, H, 2003; Việt Nam 20
năm đổi mới của Nxb Chính trị Quốc gia, 2007;…
6
Một số cơng trình đề cập đến những nhân tố đang tác động đến công
cuộc đổi mới ở nước ta và đang tạo ra những thời cơ cũng như thách thức to
lớn đối với sự phát triển của đất nước như: sự phát triển của kinh tế tri thức;
cuộc cách mạng khoa học – cơng nghệ hiện đại, q trình tồn cầu hóa, q trình
hội nhập khu vực và thế giới, sự khủng hoảng kinh tế ở khu vực và một số nước
trên thế giới,…Từ đó, các cơng trình chỉ ra những mâu thuẫn trong quá trình
phát triển cũng như đưa ra những dự báo về xu hướng vận động của CNXH ở
Việt Nam. Chẳng hạn như cuốn: Về mâu thuẫn cơ bản, mâu thuẫn chủ yếu và
cách giải quyết trên con đường phát triển đất nước theo định hướng XHCN của
Phạm Ngọc Quang, Nxb CTQG, H, 2001; Tác động nhiều mặt của tồn cầu hóa
đến cơng cuộc phát triển của nước ta, Hội đồng lý luận Trung ương, H, 2002;
Động lực phát triển kinh tế - xã hội – văn hóa của Việt Nam (Việt Nam có thể
trở thành con rồng của châu Á) của Hà Chuyên, Nxb Thống Kê, 2002; Quy luật
xã hội với sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta hiện nay của Hồ Văn Thông, Hồ
Ngọc Minh, Nxb CTQG, 2003; Kinh tế tri thức, thời cơ và thách thức đối với sự
phát triển của Việt Nam do Đặng Hữu (Chủ biên), Nxb CTQG, H, 2004; Về
triển vọng của CNXH trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI của Nguyễn An Ninh,
Nxb CTQG, 2006; CNCS ngày nay, những nét mới từ thực tiễn Mỹ, Tây Âu,
Nhật Bản của Đỗ Lộc Diệp, Nxb KHXH, 2002;…
Trong khuôn khổ hợp tác giữa hai nước, Đảng Cộng sản Việt Nam và
Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo lý luận, trong đó
có sự trao đổi những vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng CNXH ở hai nước,
từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm tham khảo cho cho mỗi nước trong quá
trình xây dựng CNXH, như Hội thảo “CNXH và kinh tế thị trường – Kinh
nghiệm của Trung Quốc, kinh nghiệm của Việt Nam”; "Xây dựng Đảng cầm
quyền - kinh nghiệm của Việt Nam - kinh nghiệm của Trung Quốc"; "Phát triển
7
khoa học, hài hòa giữa kinh tế - xã hội trong xây dựng chủ nghĩa xã hội - Lý
luận và thực tiễn",…
Ngồi các cơng trình lớn như đã nêu, các nội dung trên cịn được đề cập ở
những khía cạnh khác nhau trên các tạp chí khoa học như: Nguyễn Đức Bình,
Tiếp tục một cách kiên định và sáng tạo con đường XHCN, T/c Lý luận chính
trị, số 1/2007; Trần Hữu Tiến, Giữ vững định hướng XHCN trong công cuộc đổi
mới, T/c Cộng sản, số 8 (4/2006); Tiếp tục phát triển con đường XHCN ở Việt
Nam, T/c Cộng sản, số 6 (3/2006); Nguyễn Đức Bình, Về nhận thức, bổ sung,
phát triển các luận điểm trong CNXH khoa học, T/c Lý luận chính trị, số
3/2007; Hồng Chí Bảo, Một số luận đề về định hướng XHCN và đổi mới hệ
thống chính trị ở Việt Nam, T/c Lý luận chính trị, số 5/2006; Nguyễn Văn Sáu,
Nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, T/c Lý luận chính
trị, số 5/2006; Phạm Ngọc Quang, Công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay:
Nhìn từ giác độ của mâu thuẫn trong quá trình phát triển, T/c Triết học; Năm
bài học lớn từ thực tiễn đổi mới, Tô Huy Rứa, báo Nhân dân ngày 22/6/2006; Lê
Hữu Nghĩa, Đại hội X của Đảng với nhận thức về con đường đi lên CNXH ở
nước ta, báo Nhân dân ngày 29/6/2006; Nguyễn Trọng Phúc, Một số kinh
nghiệm xây dựng CNXH trong những năm đổi mới, T/c Lịch sử Đảng, số
12/2006; Hồng Chí Bảo, Những đặc điểm của con đường đi lên CNXH ở Việt
Nam, T/c Lý luận chính trị, số 1/2002 và CNXH đổi mới để phát triển trong bối
cảnh thế giới đương đại ở hai thập kỷ đầu thế kỷ XXI, T/c Khoa học Chính trị,
số 6/2005; v.v..
Các cơng trình trên từ các khía cạnh riêng đã góp phần hình thành nên một
hệ thống các quan điểm lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt
Nam, chỉ ra được những thành tựu về kinh tế - xã hội qua gần 25 năm đổi mới và
những vấn đề đặt ra, đồng thời cũng đã làm rõ được những hạn chế, thách thức
mà Việt Nam đang gặp phải và cần tiếp tục hoàn thiện để vững bước tiến lên.
8
Nhiều cơng trình đã nêu được vấn đề, chỉ ra được những hạn chế mà
nước ta gặp phải trong quá trình đổi mới, nhưng chưa chỉ rõ các giải pháp cần
tiến hành để khắc phục những hạn chế đó. Nhiều cơng trình luận giải về
CNXH thường đưa ra những dự báo về tương lai CNXH ở Việt Nam, nhưng
còn chung chung hoặc mang tính kinh viện, giáo điều với những lý lẽ thiếu
thuyết phục. Các nghiên cứu cũng chưa trình bày có hệ thống những giá trị đặc
thù của CNXH Việt Nam, đặc biệt là những mâu thuẫn mà Việt Nam cần giải
quyết để thúc đẩy xã hội phát triển. Những vấn đề cốt tử cho phát triển như:
Động lực phát triển xã hội? Các nguồn lực phát triển xã hội? Những gì cản trở
các nguồn lực và động lực? Những tác nhân nào kìm hãm sự vận động và phát
triển? Giải phóng và đổi mới cái gì? Đổi mới và giải phóng ra sao để phát triển?
Cách làm như thế nào để có hiệu quả cao?, v.v.. Đây là những vấn đề mà sự
nghiên cứu của chúng ta chưa thấy hết tầm quan trọng, chưa đặt trọng tâm đúng
mức, nhiều lúc cịn được trình bày lầm lẫn dẫn đến những cách hiểu không
thống nhất trong nhận thức, dẫn đến lúng túng trong hành động.
Hơn lúc nào hết, khi mà sự nghiệp xây dựng CNXH Việt Nam với tinh
thần đổi mới đang giành được những thành tựu to lớn, triển vọng phát triển đất
nước đang được mở ra, việc tiếp tục nghiên cứu đúng đắn và sâu sắc những vấn
đề về động lực, nguồn lực, tiềm năng sức sống đất nước, dân tộc, từ đó tìm cách
giải phóng các nguồn lực, đổi mới cách phát huy nguồn lực, tạo ra thế và lực tối
đa cho sự phát triển đất nước là nhiệm vụ quan trọng và hết sức có ý nghĩa hiện
nay ở nước ta.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Xây dựng phương hướng và giải pháp để giải phóng mọi nguồn lực của
đất nước, đổi mới đồng bộ kinh tế-chính trị-văn hóa-xã hội, phát triển đất nước
theo định hướng XHCN.
4. Cơ sở lý luận, phương pháp luận và cách tiếp cận đề tài
9
- Với tính chất, đặc điểm và mục đích nêu trên, đề tài được thực hiện
trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
Đảng Cộng sản Việt Nam về CNXH và xây dựng CNXH.
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử là phương
pháp luận tiếp cận xuyên suốt quá trình triển khai đề tài.
- Đề tài tiếp cận từ phương pháp hệ thống và liên ngành với nhân lõi là
lý thuyết phát triển hiện đại
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể:
- Phương pháp lịch sử- logic, phân tích - tổng hợp, khái quát hóa và dự
báo cho phép đi sâu phân tích các hiện tượng, các q trình, cấu trúc của các
bộ phận khác nhau của CNXH, từ đó rút ra những vấn đề mang tính bản chất
nhất và dự báo xu hướng vận động của CNXH Việt Nam đầu thế kỷ XXI.
- Phương pháp so sánh làm rõ các tính chất, quy mơ, cơ cấu, mơ hình
CNXH khác nhau…, từ đó rút ra những đặc điểm chung, phổ biến và đặc thù,
tìm kiếm những giá trị tham khảo cho việc nghiên cứu vấn đề xây dựng CNXH
ở Việt Nam.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ cung cấp một cách tương đối hệ thống
những vấn đề cơ bản nhất về CNXH, làm sáng tỏ hơn cơ sở lý luận và điều
kiện thực tiễn cho sự phát triển CNXH Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI;
đưa ra những nội dung cốt yếu về nội lực và động lực phát triển xã hội, khai
thác, sử dụng, huy động và phát huy các nguồn lực con người và xã hội cho sự
phát triển CNXH; những vấn đề về tiếp tục đổi mới để phát triển CNXH trong
những thập niên đầu thế kỷ XXI.
Từ những kết quả nghiên cứu, đề tài mạnh dạn đề xuất những kiến nghị
có giá trị tham khảo cho Đảng và Nhà nước trong quá trình hoạch định chủ
trương, đường lối, chính sách xây dựng CNXH Việt Nam hiện nay.
10
Kết quả nghiên cứu của đề tài cũng là tài liệu tham khảo có giá trị cho việc
nghiên cứu, giảng dạy các mơn lý luận chính trị Học viện Chính trị - Hành chính
Quốc gia Hồ Chí Minh.
6. Nội dung nghiên cứu
Đề tài được kết cầu thành 3 Chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về giải phóng, đổi mới, phát triển.
Chương 2. Thực trạng của q trình giải phóng, đổi mới, phát triển vì chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Chương 3. Phương hướng và giải pháp tiếp tục giải phóng, đổi mới, phát triển
vì chủ nghĩa xã hội.
11
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI PHÓNG, ĐỔI MỚI,
PHÁT TRIỂN
1.1. BẢN CHẤT, NỘI DUNG CỦA CÁC VẤN ĐỀ GIẢI PHÓNG, ĐỔI MỚI,
PHÁT TRIỂN VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CHÚNG
Giải phóng, đổi mới, phát triển là những vấn đề có tính quy luật trong q
trình tồn tại và vận động tự nhiên của tất cả các sự vật, hiện tượng trong giới tự
nhiên, xã hội và tư duy con người. Mặc dù đây là ba vấn đề khác nhau nhưng
giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau, thậm chí cịn
có rất nhiều điểm tương đồng. Chính vì vậy, nhiều khi việc giải thích về thuật
ngữ này cần phải dựa vào nội hàm của thuật ngữ kia. Trong phạm vi nghiên
cứu của đề tài này, vấn đề giải phóng, đổi mới, phát triển chỉ được đề cập đến
như là bản chất vốn có của mọi sự vận động và phát triển trong lĩnh vực xã hội.
1.1.1. Bản chất, nội dung của các vấn đề giải phóng, đổi mới, phát triển
1.1.1.1. Phạm trù giải phóng
Từ nguyên giải phóng (liberation) bản thân nó mang gốc nghĩa “Tự do” –
nghĩa là cái chỉ sự vật, hiện tượng trong trạng thái tự do, không bị một sự ràng
buộc, đè nén, kìm chế nào. Với tư cách là hành động, giải phóng là việc làm
cho trạng thái mất tự do, sự tù túng, ràng buộc, đè nén, bị kiềm chế được giải
thoát. Đây là hiện tượng, hành động diễn ra một cách phổ biến trong tự nhiên,
xã hội và tư duy con người.
Theo mục tiêu của đề tài này, khái niệm giải phóng chỉ được lý giải làm
rõ và vận dụng để giải quyết các vấn đề trong lĩnh vực xã hội. Trong phạm vi
của lĩnh vực xã hội, khái niệm giải phóng thường được hiểu với những nội
dung chủ yếu sau:
12
- Giải phóng xã hội với tư cách là một đối tượng duy nhất, là làm cho xã
hội thoát khỏi ách áp bức và bóc lột, con người được tự do; thí dụ: giải phóng
đất nước; giải phóng giai cấp, giải phóng con người, v.v..
- Làm cho thốt khỏi những ràng buộc, những sự cản trở đối với một sự
vật, một q trình, thí dụ: thốt khỏi những quy định, phong tục, tập quán phong
kiến, lạc hậu, kìm nén ý chí vươn lên, làm thui chột tài năng sáng tạo, v.v..
- Giải phóng các cơ chế khơng phù hợp để hoạt động sản xuất, hoạt động
chính trị-xã hội thuận lợi hơn, có hiệu quả hơn, v.v..
Trong các khía cạnh cụ thể của đời sống xã hội, giải phóng cịn có các
nghĩa như: giải thốt (affranchissement), tháo gỡ một tình trạng khó khăn
(emancipation), hoặc phóng thích (delivrance). Thí dụ, trong đời sống chính trị
- xã hội, chúng ta ln bắt gặp những thuật ngữ trong phạm trù giải phóng như:
phóng thích tù nhân, giải thốt con tin; trong đời sống tín ngưỡng, tôn giáo ta
bắt gặp tư tưởng về hành vi phóng sinh cho con vật, , v.v..Sự giải thốt tinh
thần là một mục đích cao đẹp trong đời sống xã hội, đặc biệt là trong các tôn
giáo, trong các lý thuyết phát triển con người.
Khái niệm giải phóng trong lĩnh vực xã hội mang nhiều ý nghĩa khác nhau.
Trước hết, ta hiểu đây là động thái, hành vi làm cho một chủ thể, một chế độ xã
hội được vượt ra khỏi một trạng thái cũ để phát triển trong một trạng thái mới.
Chúng ta thường nói đến giải phóng dân tộc, tức là làm cho một dân tộc nào đó
thốt khỏi một chế độ xã hội bị kìm kẹp để người dân trở nên tự do; giải phóng
lực lượng sản xuất tức là phá bỏ những rào cản về quan hệ sản xuất, về cơ cấu,
tổ chức, v.v.. để mọi tiềm năng, mọi nguồn lực kinh tế được bung ra, lực lượng
sản xuất được phát triển. Nói đến giải phóng xã hội, điều quan trọng với nghĩa
tiến bộ, có thể nói đến giải phóng năng lượng con người, tức là làm cho những
năng lượng tiềm tàng trong con người được phát huy một cách mạnh mẽ; v.v..
13
Trong phạm vi và mục đích nghiên cứu của đề tài này, phạm trù giải
phóng được hiểu một cách tồn diện cả bề rộng và chiều sâu của nó, nó khơng
chỉ được hiểu đó là giải phóng xã hội và con người khỏi áp bức, bóc lột của
thực dân, phong kiến, của chế độ xã hội cũ; nó cũng khơng chỉ với nghĩa là
“làm cho thoát khỏi những ràng buộc bất hợp lý” và “phá hết mọi cản trở để
thực hiện mục đích” của chủ thể xã hội; mà điều quan trọng hơn, hiểu giải
phóng là việc tìm ra những cách thức để gợi mở, tìm ra những điều kiện để
phát huy một cách tích cực nhất, hiệu quả nhất những nguồn lực, những tiềm
năng vốn có trong xã hội và trong con người, nhằm thúc đẩy xã hội không
ngừng tiến lên.
Nói một cách cơ đọng và trực tiếp nhất, giải phóng trong lĩnh vực xã hội
là việc phá bỏ những rào cản, những khó khăn, những cản trở, những điều kiện
bất lợi cho sự phát triển của một chủ thể hay một tổ chức, một cơ chế, một thiết
chế chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,... để mở đường, tạo động lực cho sự phát
triển mọi tiềm năng vốn có bên trong, kể cả cộng lực bên ngồi của các chủ
thể, tổ chức, cơ chế, thiết chế đó.
1.1.1.2. Phạm trù đổi mới
Đổi mới (innovation) cũng có nhiều nghĩa và nhiều cấp độ khác nhau.
Theo nghĩa thông thường, đổi mới là thay đổi hoặc làm cho thay đổi sự vật,
hiện tượng, quá trình theo hướng tốt hơn, tiến bộ hơn so với trước; là thay đổi
cho khác hẳn với trước, tiến bộ hơn, khắc phục tình trạng lạc hậu, trì trệ và
đáp ứng yêu cầu của sự phát triển1. Thực chất của đổi mới là tạo ra sự thay đổi
căn bản cho phù hợp với những điều kiện, hoàn cảnh mới, làm cho thích nghi
với những điều kiện, hồn cảnh mới để tiếp tục tồn tại và phát triển. Trong đời
sống, “đổi mới” là thay cách nghĩ, cách làm cũ lạc hậu, lỗi thời, khơng đáp ứng
1
Hồng Phê (Chủ biên): Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng – Trung tâm từ điển, 2002, tr. 337
14
được nhu cầu phát triển, bằng cách nghĩ, cách làm khác, tiến bộ hơn, hợp với
quy luật của sự phát triển.
Trong thực tế, không nên hiểu đơn giản, đổi mới là nghĩ khác, làm khác
cái cũ. Trong một cái cũ có những yếu tố đã lạc hậu, song cũng cịn những yếu
tố đáp ứng cái mới. Sự phủ định hoàn toàn cái cũ và chạy theo cái hoàn toàn
mới sẽ rơi vào máy móc, cực đoan, siêu hình. Cũng khơng nên nghĩ đơn giản
theo một hướng khác rằng đổi mới là nghĩ ngược lại, làm ngược lại cái đã và
đang diễn ra. Cái đã và đang diễn ra bao giờ cũng chứa đựng trong nó yếu tố
cũ và mới, chúng cần được hồn thiện hơn nữa chứ khơng phải tất cả đều đã
sai, đã trở thành vô nghĩa. Quan niệm cho rằng đổi mới là làm ngược hẳn, là
quay 180 độ đối với cái cũ, với quá khứ và hiện tại đều thuộc loại tư duy cực
đoan. Bởi trong cái cũ, quá khứ bao giờ cũng bao chứa cái tích cực cần được
kế thừa, nhiều cái của hiện tại cần được tiếp tục kế thừa, phát huy để làm giàu,
làm mạnh cho cái đương đại.
Đổi mới cũng là hướng và vươn đến cái mới. Cái mới mà ta cần quan niệm
đúng, cần vươn tới, là cái thích hợp với yêu cầu của cuộc sống, của thời đại, phù
hợp với thành quả của khoa học, kỹ thuật hiện đại. Cái mới mà ta mong muốn
thường khác với cái cũ, thậm chí đi ngược với cái cũ, và biểu hiện rõ nhất là tiến
bộ hơn cái cũ, giúp ta khắc phục được mọi sự cản trở của cái cũ trên con đường
phát triển.
Đổi mới cũng gần gũi với cải tiến – làm cho cái cũ hòa nhập được với thời
đại. Cái mới vẫn kết bạn thân thiết với cái cũ tích cực giàu chất khoa học và nhân
văn. Về mặt khoa học, cái mới là sự phủ định cái cũ, nhưng suy cho cùng, cái mới
cũng là con đẻ của cái cũ, nó lớn lên trong lịng cái cũ. Do đó, cái mới có tính ưu
việt đặc biệt nhưng khơng phải khơng cịn sự dằn vặt, trăn trở; cái mới cũng có
một dịng đời phức tạp khi nó đang chung sống cùng với thế giới cái cũ.
15
Cái mới ra đời không hẳn sẽ mãi mãi mới. Theo quy luật, cái mới vừa xuất
hiện rồi sẽ lại trở thành cũ khi nó bị thực tiễn vượt qua hoặc bị những sáng tạo
trong tương lai phủ định. Đó là lẽ thường tình, là quy luật của sự phát triển và
cũng là kết quả tất yếu, tự nhiên của sự tự vận động trong bản thân cái mới2.
Đổi mới tuy không phải là cách mạng xã hội, nhưng là q trình mang
tính cách mạng, có ý nghĩa cách mạng, nhằm tạo ra những bước nhảy vọt trong
sự phát triển. Trong thực tiễn vận động của đời sống xã hội, nhiều khi người ta
thường đưa cái mới vào để cái cũ có những thay đổi mà ta gọi là canh tân
(innovation). Canh tân là thuật ngữ hay được dùng trong các chương trình giáo
dục và nghệ thuật. Việc canh tân nếu mang ý nghĩa như một việc cần làm lại và
tính chất thay cái cũ có phần triệt để hơn thì được dùng bằng thuật ngữ cách
tân (renovation). Làm lại một phương pháp, làm lại một mốt quần áo,...nhiều
khi được coi là một cách tân. Nếu như thay cái cũ hồn tồn để xây dựng cái
mới, triệt để hơn cơng việc cách tân, người ta gọi là cải cách (reform) như cải
cách giáo dục, cải cách tôn giáo, cải cách ruộng đất, cải cách hành chính. Nói
đến cải cách là nói đến việc thay đổi cơ bản một trạng thái, một đối tượng, làm
cho chúng có sự biến đổi phù hợp với yêu cầu khách quan của quá trình phát
triển, làm cho nó tốt hơn theo nhu cầu của con người. Với ý nghĩa đó, khái
niệm đổi mới khơng hồn toàn đồng nhất với khái niệm cải cách. Tuy cải cách
cũng tạo nên sự thay đổi về chất nhất định trong đời sống xã hội, nhưng chỉ tạo
nên những biến đổi riêng lẻ, bộ phận. Còn đổi mới, bản thân nó đã hàm chứa
những nội dung của cải cách. Thí dụ cải cách hành chính là một trong những
nội dung của quá trình đổi mới ở nước ta. Nhưng đổi mới không phải là sự
thay đổi riêng lẻ, bộ phận như cải cách mà là sự thay đổi có tính tồn diện, dẫn
đến sự thay đổi mơ hình phát triển.
2
Xem thêm: />
16
Về căn bản, cho đến nay có hai cách thức chính thường được cân nhắc đến
trong cải cách, đó là: cải cách theo kiểu đột ngột (big-bang reform) hoặc cải
cách theo kiểu từ từ (piecemal reform). Trong thực tế, các cuộc cải cách thường
nằm đâu đó giữa hai cực này. Đối với các cải cách có phạm vi rộng lớn và các
tương tác phức tạp, cải cách từ từ thường được đánh giá cao vì nhiều lí do trong
đó có lý do cơ bản là chúng ta không thể lường hết các kênh tác động và hệ quả
dài hạn của cải cách do sự hữu hạn của thông tin và lý tính, và từ đó, cần đảm
bảo khả năng điều chỉnh kịp thời khi cải cách từ từ. Trong những điều kiện nhất
định, tuy nhiên, kiểu cải cách từ từ lại dễ bị bóp chết bởi các nhóm hưởng lợi từ
cơ chế cũ, hoặc do các sức ép chính trị khác, tức cải cách từ từ không nắm bắt
được thời cơ, và có thể khơng vượt qua được những cản trở căn bản nhất. Theo
nghĩa nào đó, Việt Nam đã áp dụng cải cách kiểu đột ngột trong một số lĩnh vực
và cải cách từ từ trong một số lĩnh vực khác, đặc biệt là trong các cải cách có
tính chính trị và xã hội.
Qua sự phân tích trên, có thể thấy, canh tân, cách tân và cải cách đều là
những nội dung quan trọng của đổi mới khi hiểu đổi mới theo nghĩa rộng, nghĩa
là mang tính tổng thể và trên một quy mô lớn. Canh tân, cách tân, cải cách
thường đề cập đến đổi mới các lĩnh vực cụ thể và trong một phạm vi hẹp hơn.
Trước đây ở Liên Xơ, người ta tháo dỡ tồn bộ thể chế cơ cấu chính trị và
kinh tế của CNXH đang có những khuyết tật nhất định nhằm đạt tới một cái gì đó
mới hơn. Cách tháo ra làm lại từ đầu đó là sự cải tổ (Perestroika – xây dựng lại).
Ở Việt Nam, từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), vấn đề đổi mới
đã được đặt ra một cách chính thức. Thuật ngữ này khơng hồn tồn trùng khít
lên các thuật ngữ kể trên nên chúng ta thường khơng dịch ra tiếng nước ngồi
với một từ gần giống mà vẫn giữ nguyên tiếng Việt của nó là DOI MOI. Trong
đổi mới, sự bảo tồn cái cũ hợp lý, bổ sung cái mới có chọn lọc, trình tự, bước
17
đi có sự tính tốn. Đổi mới là ngun tắc sống còn để phát triển, nhưng đổi
mới phải thận trọng, khéo léo, có chiến lược chiến thuật tiến hành.
Tính tồn diện của đổi mới ở Việt Nam thể hiện ở chỗ, từ đổi mới kinh tế
là chủ yếu làm tiền đề cho những đổi mới chính trị, văn hóa, xã hội; từ đổi mới
đường lối đến chính sách; từ chính sách đối nội đến chính sách đối ngoại; từ đổi
mới tư duy, nhận thức, tư tưởng đến đổi mới hoạt động thực tiễn. Trong tiến
trình đổi mới, phải đảm bảo sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung
tâm, xây dựng chỉnh đốn Đảng là then chốt với khơng ngừng nâng cao văn hóa –
nền tảng tinh thần của xã hội. Tạo nên sự phát triển đồng bộ của ba lĩnh vực trên
chính là điều kiện quyết định đảm bảo cho sự phát triển toàn diện và bền vững
của đất nước.
1.1.1.3. Phạm trù phát triển
Phát triển (Development) là khái niệm có nhiều hàm nghĩa gần gũi với
các khái niệm giải phóng và đổi mới. Phát triển có nội dung rất phong phú:
Đó là trạng thái vận động, tiến triển theo chiều hướng tăng lên, là sự thay
đổi của sự vật, hiện tượng từ bậc thấp lên bậc cao. Phát triển có nghĩa trái
ngược với trạng thái khơng mang lại một chất lượng mới hay một kết quả mới
tốt hơn.
Phát triển cũng được hiểu là kết quả của q trình giải phóng hay đổi mới;
cịn giải phóng, đổi mới được hiểu là phương thức hành động, là công cụ,
phương tiện để đạt kết quả do phát triển mang lại. Phát triển ở đây được hiểu
với nghĩa là mục tiêu của sự giải phóng hay đổi mới.
Cũng có khi nói đến phát triển là nói đến sự thốt khỏi cái cũ, vượt ra
khỏi khn khổ nào đó để tiến triển tốt hơn. Ở đây, khái niệm phát triển đồng
nghĩa với khái niệm giải phóng và nó cũng là một trong những nội dung của
đổi mới.
18
Từ phương diện hành động, phát triển cũng có nghĩa là làm cho một sự
vật, một hiện tượng nào đó hoàn thiện hơn, đúng đắn hơn so với cơ sở hình
thành ban đầu của nó. Nhận thức của con người không ngừng được bổ sung,
phát triển để phản ánh đúng thế giới khách quan, phù hợp với hoạt động thực
tiễn và đáp ứng nhu cầu cải tạo xã hội của con người. Để lý luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin ngày càng tràn đầy sức sống, những người cộng sản phải không
ngừng bổ sung, phát triển và vận dụng sáng tạo vào sự nghiệp xây dựng
CNXH. Sự nghiệp xây dựng CNXH cũng là một q trình phát triển kinh tế,
văn hóa, xã hội, làm cho xã hội ngày một tiến bộ, văn minh, giàu có, con người
phát triển tồn diện.
Từ phân tích trên ta thấy, phát triển vừa được hiểu là công cụ, phương
tiện, vừa được hiểu là mục đích của quá trình đổi mới hiểu theo nghĩa rộng.
Khi xác định phát triển là cơng cụ, phương tiện thì người ta thường nhấn mạnh
vào các lĩnh vực hay vấn đề cụ thể; cịn khi phát triển được xác định là mục
đích thì nó địi hỏi tính tồn diện chứ khơng phải tập trung vào những vấn đề
hay lĩnh vực cụ thể nào.
Phát triển trong đề tài này khơng chỉ có nghĩa là cơng cụ, phương tiện,
cũng khơng chỉ là mục đích, mà điều quan trong hơn là hành động. Các chủ thể
xây dựng, phát triển xã hội phải chủ động, sáng tạo, tạo điều kiện cho các nhân
tố của xã hội, con người, kinh tế, văn hóa được phát huy cao độ, tạo ra tổng lực
thúc đẩy xã hội tiến lên.
Từ chiến tranh thế giới thứ hai, vấn đề phát triển được nhiều người quan
tâm, hơn nữa, nó dần dần trở thành công cụ hoạch định và quản lý rất nhiều
lĩnh vực trong xã hội, trở thành mục tiêu của sự tiến triển xã hội.
Tổng kết những bước gập gềnh, quanh co mà lồi người vừa trải qua
trong thế kỷ XX, có thể rút ra một số kết luận cực kỳ quan trọng là không thể
19
chỉ dừng lại ở mơ hình tăng trưởng mà phải chuyển sang mơ hình phát triển,
khắc phục dần những quan niệm về tăng trưởng kinh tế đơn thuần, chuyển
sang tăng tiến toàn diện trong toàn bộ hệ thống quan hệ xã hội và cấu trúc xã
hội trực tiếp phục vụ con người.
Tăng trưởng kinh tế là tăng GDP và sản phẩm bình quân trên đầu người
từ năm này qua năm khác. Còn phát triển là một khái niệm rộng hơn dùng để
chỉ sự tiến triển của xã hội, bao gồm cả việc gia tăng về sản lượng kinh tế, cơ
cấu kinh tế lẫn việc nâng cao mức sống toàn dân, trình độ phát triển văn hóa,
phát triển con người, làm cho xã hội chuyển lên những trình độ cao mới.
Có quan điểm cho rằng những yếu tố văn hóa: những di sản văn hóa truyền
thống, lối sống, đạo đức, văn học, nghệ thuật v.v.. khơng trực tiếp đóng góp vào
sự phát triển. Do vậy, những thiết chế và chính sách xã hội-văn hóa làm nền
tảng cho tăng trưởng kinh tế bị bỏ qua. Hậu quả là một số nước đã có sự giảm
sút nghiêm trọng về đạo đức, lối sống, nhân phẩm, tình người, dẫn đến nguy cơ
làm đảo lộn về mặt đời sống tinh thần cộng đồng. Thiếu sót của quan điểm nói
trên là coi tăng trưởng kinh tế tự nó sẽ giải quyết tất cả các vấn đề văn hóa, xã
hội và mơi trường. Chính vì vậy mà xuất hiện các mơ hình sau đây3:
1. Tăng trưởng thất nghiệp: Tăng trưởng nhưng không làm cho tổng việc
làm của xã hội tăng lên, thậm chí làm tăng thất nghiệp, nghĩa là nguồn lực con
người không được sử dụng hợp lý;
2. Tăng trưởng tàn nhẫn (hoặc tăng trưởng thô bạo): tăng trưởng kinh tế
nhưng phân hóa giàu nghèo ngày càng sâu sắc;
3. Tăng trưởng câm: tăng trưởng kinh tế nhưng đời sống xã hội khơng
được cải thiện, khơng có tiến bộ, đa số dân chúng khơng có quyền làm chủ;
4. Tăng trưởng mất gốc: kinh tế tăng trưởng nhưng suy thối về văn hóa
đạo đức, các giá trị văn hóa truyền thống bị phá vỡ;
3
Nguyễn Trọng Chuẩn, Iu.K.Pletnicốp, Vận mệnh lịch sử của chủ nghĩa xã hội, NXb Khoa học xã hội, 2009, tr.215
20