Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Skkn cau noi một số biện pháp giúp giáo viên chủ nhiệm thực hiện tốt vai trò “cầu nối” giữa gia đình, nhà trường và xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.72 KB, 10 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
MÔ TẢ SÁNG KIẾN
Mã số:…………………………………………………………………………….
Tên sáng kiến: Một số biện pháp giúp Giáo viên chủ nhiệm thực hiện tốt vai trị “cầu
nối” giữa gia đình, nhà trường và xã hội.
1. Lĩnh vực áp dụng: Giáo dục
2. Mơ tả bản chất sáng kiến
a) Tình trạng giải pháp đã biết
Trong thư gửi học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ
cộng hòa, Bác Hồ thiết tha căn dặn: “Non sơng Việt Nam có trở nên vẻ vang hay
khơng, dân tộc Việt Nam có được sánh vai với các cường quốc năm châu được hay
khơng, chính là nhờ một phần lớn ở cơng lao học tập của các cháu”. Như vậy Bác đã
khẳng định vai trò hết sức quan trọng của thế hệ trẻ trong việc xây dựng và phát triển
đất nước.
Dân gian ta có câu:
Uốn cây từ thuở cịn non,
Dạy con từ thuở con còn ngây thơ.
Ở lứa tuổi học sinh (HS) Tiểu học tâm hồn các em như tờ giấy trắng, các em ln
bị tác động bởi các yếu tố tích cực và tiêu cực, các em có nhiều suy nghĩ nhạy cảm,
năng động sáng tạo,…nhưng lại thiếu kinh nghiệm, hiểu biết cịn có hạn… dẫn tới sự
khó khăn khi lựa chọn các phương án ứng xử. Có thể thấy rất rõ, chưa bao giờ vị trí,
vai trị của người giáo viên chủ nhiệm (GVCN) lại quan trọng như hiện nay, đặc biệt là
vai trị “cầu nối” giữa gia đình, nhà trường và xã hội.
Thực tế ở trường Tiểu học cho thấy hầu hết giáo viên (GV) giảng dạy đều làm
công tác chủ nhiệm lớp (trừ GV chuyên). GV thường chú tâm vào công tác giảng dạy
kiến thức mà chưa thực sự tâm huyết với cơng tác chủ nhiệm, chưa tích cực tìm kiếm
những biện pháp sáng tạo, tích cực để nâng cao hiệu quả chủ nhiệm lớp. Tinh thần,
trách nhiệm của GV đối với HS chưa đầy đủ, chưa có sự phối hợp chặt chẽ với gia
đình, nhà trường và xã hội.



1


Xuất phát từ thực tế trên bản thân tôi nhận thấy cần phải tìm kiếm các biện pháp
giúp người giáo viên chủ nhiệm thực hiện tốt vai trò “cầu nối” giữa gia đình, nhà
trường và xã hội.
*Ưu điểm
- Ban giám hiệu (BGH) nhà trường luôn quan tâm tạo điệu kiện thuận lợi cho giáo
viên trong công tác giáo dục học sinh. Nhà trường tổ chức tốt các đợt bồi dưỡng cho
giáo viên về chuyên môn nghiệp vụ về công tác chủ nhiệm để từ đó giáo viên vận
dụng có hiệu quả những vấn đề đổi mới phương pháp vào dạy học và giáo dục học
sinh. Liên đội thường xuyên tổ chức các hoạt động ngoại khố cho học sinh.
- Trường có tổ chức họp phụ huynh học sinh định kì 3 lần/năm và có họp đột xuất để
triển khai văn bản chỉ đạo của cấp trên có liên quan đến đánh giá, xếp loại HS cuối
năm.
- Phối hợp với gia đình, GVCN nắm được những ưu điểm, hạn chế của HS từ đó có
những biện pháp giảng dạy và giáo dục thích hợp.
- Giáo viên có phẩm chất đạo đức tốt, có kiến thức đầy đủ về chính trị, xã hội, có trình
độ chun mơn và năng lực sư phạm vững vàng để giáo dục học sinh về kiến thức
cũng như các vấn đề xã hội khác và có nhận thức đúng đắn về vai trị, vị trí của
GVCN.
- Cha mẹ học sinh ngày càng quan tâm đến các em không chỉ về học tập mà cả  các
vấn đề khác như: Tạo điều kiện các em tham gia vào các buổi sinh hoạt ngoại khóa,
các buổi văn nghệ do nhà trường tổ chức, khuyến khích các em tham gia các trị chơi
dân gian, các hoạt động nhân đạo, từ thiện và tham gia đầy đủ các buổi họp phụ huynh
học sinh (PHHS) ở lớp,…
- Phối hợp với xã hội giúp GVCN nắm được hành vi ứng xử của HS trong giao tiếp,
hoạt động của các em ngồi phạm vi gia đình và nhà trường.
- Học sinh có ý thức tự giác tham gia tích cực các hoạt động do liên đội và nhà trường

tổ chức.
*Hạn chế
- Trong thời đại mở cửa của nền kinh tế hiện nay, học sinh ln có xu hướng đua địi,
chưng diện ln bị những cạmbẫy trong xã hội lơi cuốn. Nó ảnh hưởng khơng ít đến
việc học tập của học sinh. Vì vậy khơng thể tách rời công tác giảng dạy với công tác
giáo dục thế hệ trẻ.

2


- Ở lứa tuổi HS lớp 2 các em đang trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách
nên một số em do chưa có được sự giáo dục tốt hoặc bị ảnh hưởng xấu từ môi trường
xung quanh nên nhiều em cịn nghịch, thích chơi nhiều hơn thích học, cịn vơ lễ với
người lớn, hoặc chưa thật thà, nhặt được của rơi nhưng không trả lại cho người mất,
chưa biết giúp đỡ mọi người xung quanh…
- Muốn giáo dục HS đạt hiệu quả thì GVCN phải phối hợp chặt chẽ với gia đình. Tuy
nhiên cịn một số khơng ít gia đình thiếu sự quan tâm, khốn trắng cho nhà trường,
một số PHHS đi làm ăn xa, HS phải ở nhà với ơng bà vì thế sự quan tâm chưa thực sự
sát sao nên việc làm “cầu nối” còn gặp nhiều khó khăn.
- Đấy là vấn đề nan giải đòi hỏi một người giáo viên cụ thể là bản thân tơi phải có biện
pháp thích hợp để từng bước giáo dục, uốn nắn các em thành người tốt, có ích cho xã
hội.
b) Nội dung giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến
*Mục đích của giải pháp
- Giúp PHHS nhận thức đúng đắn về vai trò, trách nhiệm của gia đình, biết quan tâm,
theo dõi, kiểm tra con em, động viên, khuyến khích, đáp ứng yêu cầu cho con em mình
về mặt học tập và rèn luyện.
- Xây dựng nề nếp lớp, ý thức học tập cho các em.
- Kết hợp chặt chẽ với BGH trường, TPT Đội, GV bộ môn, PHHS cùng các lực lượng
khác cùng tham gia giáo dục HS

- Nâng cao nhiệm vụ cơng tác, tìm ra biện pháp để thu hút HS học tập và rèn luyện, tạo
một “cầu nối” vững chắc giữa gia đình, nhà trường và xã hội góp phần nâng cao hiệu
quả dạy học và để trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp.
*Những điểm khác biệt
- Trong quan hệ với các lực lượng giáo dục khác trong và ngoài nhà trường,
GVCN là nhân vật trung tâm để hình thành, phát triển nhân cách cho HS và là “cầu
nối” giữa gia đình, nhà trường và xã hội. Chính vì thế GVCN có vai trò rất lớn trong
việc nâng cao chất lượng cũng như hình thành nhân cách cho học sinh. Vai trị của
giáo viên chủ nhiệm khi tham gia công tác giáo dục không chỉ là nắm được những
thông tin của lớp một cách đơn thuần như tên, tuổi, số lượng, hoàn cảnh gia đình của
học sinh, trình độ học sinh về năng lực, phẩm chất mà cịn phải có định hướng, tổ chức

3


giáo dục, dạy học phù hợp điều kiện khả năng của từng học sinh cũng như thực hiện
tốt vai trò “cầu nối” của mình để HS có thể phát triển tồn diện về mọi mặt.
- Thơng qua các biện pháp đề ra trong sáng kiến này giúp giáo viên chủ nhiệm thực
hiện tốt vai trị “cầu nối” giữa gia đình, nhà trường và xã hội. Từ đó, tạo được mối liên
kết chặt chẽ trong việc giáo dục HS.
* Tính mới của giải pháp
- Sáng kiến này mới được vận dụng tại lớp 2 1 của trường trong năm học 20152016 và HKI năm học 2016-2017
- Trong các biện pháp này có vài điểm mới được vận dụng trong năm học 20152016 và HKI năm học 2016-2017, cụ thể như sau: Tìm hiểu ngun nhân, đặc điểm
tâm lí và tiến hành nắm chắc tư tưởng, tinh thần thái độ và kết quả học tập, rèn luyện
của học sinh, phối hợp với BGH, đồn thể và gia đình để giúp đỡ, cảm hóa học sinh
trong rèn luyện để trở thành người tốt cho xã hội trong đó nêu ra một số biện pháp
giúp người GVCN thực hiện tốt vai trò “cầu nối” giữa gia đình, nhà trường và xã hội
để giải quyết các nguyên nhân tồn tại, góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục.
- Cha mẹ  thường xuyên nắm  bắt  được  tình hình học tập, rèn luyện ở trường,
lớp của con; trên  cơ sở  đó  hỗ trợ con  em  phát  huy các điểm tốt hoặc kịp thời ngăn

chặn, điều chỉnh, sửa chữa  các điểm  hạn chế  trong học tập và rèn luyện.
- Thầy cơ giáo có thêm  hiểu  biết về học sinh, nhất là các em có hồn cảnh khó
khăn, từ đó có phương pháp  giáo dục phù hợp, tồn diện và có định hướng đúng để
quan  tâm giúp đỡ được  nhiều  hơn  đối với từng em  trong từng hoàn cảnh khác nhau.
- Cộng đồng nhận thấy vai trò trách nhiệm của mình, tích cực hỗ trợ tạo mơi
trường thuận lợi cho nhà trường , gia đình giúp đỡ các em học tập và rèn luyện.
*Mô tả chi tiết bản chất của giải pháp
- Điều tra khảo sát HS khi mới nhận lớp về: hồn cảnh gia đình, sự quan tâm của phụ
huynh, những HS chăm ngoan, những em cá biệt,…
- Tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lí cũng như khả năng học tập trên cơ sở bài khảo sát chất
lượng đầu năm, những ưu điểm, hạn chế của từng HS. Từ đó tìm ra ngun nhân dẫn
đến hạn chế của từng cá nhân.
- Sự hỗ trợ, kết hợp giáo dục của PHHS và các lực lượng XH
Trong quá trình tìm hiểu bản thân tôi nhận thấy một số em chưa ngoan, chưa thực sự
xứng đáng là cháu Bác Hồ kính yêu, một số phụ huynh ít quan tâm đến con em

4


mình,... Để giải quyết được mục đích u cầu của việc thực hiện vai trò “cầu nối” và
khắc phục những ngun nhân tồn tại đã nêu, tơi mạnh dạn tìm một số biện pháp giúp
người Giáo viên chủ nhiệm thực hiện tốt vai trị “cầu nối” giữa gia đình, nhà trường và
xã hội.
* Các biện pháp thực hiện
Phối hợp chặt chẽ 3 mơi trường giáo dục với vai trị là một “cầu nối” vững
chắc
* Với nhà trường
- Đối với tập thể HS một lớp học, khơng có một GV nào (kể cả Hiệu trưởng) lại có cơ
hội, có điều kiện thiết lập quan hệ thân thiện, tự nhiên như GVCN lớp. Vì vậy GVCN
vừa là một nhà sư phạm vừa là đại diện của Hiệu trưởng và tập thể HS sẽ tạo ra cơ hội,

điều kiện giải quyết kịp thời, có hiệu quả cao trong tổ chức tác động giáo dục, tránh
được những mâu thuẩn, những hiểu lầm của các quan hệ trong và ngoài nhà trường,
trong và ngoài lớp chủ nhiệm. Vì vậy, GVCN thường xuyên báo cáo kế hoạch hoạt
động chủ nhiệm lớp theo định kỳ hoặc đột xuất (nếu có) với BGH nhằm đề xuất các
phương án giải quyết với sự suy nghĩ thấu đáo, cẩn trọng.
- Phản ánh những ý kiến, nguyện vọng của gia đình HS về sự đồng tình hay phản bác
đối với những chủ trương, quy định của trường trong các mặt hoạt động, giáo dục để
nhà trường có sự xem xét, giải đáp hoặc sửa đổi cho phù hợp với thực tế.
- Xây dựng thư viện riêng của lớp để giúp đỡ những học sinh thiếu sách giáo khoa học
tập. Cuối mỗi kỳ, cuối năm dùng toàn bộ số sách này cùng với việc huy động thêm số
sách không sử dụng nữa của mỗi học sinh để tặng cho nhà trường nhằm xây dựng
“Thư viện thân thiện”.
- Làm tốt công tác bảo vệ cảnh quan môi trường. Xây dựng và bảo vệ cơ sở vật chất
nhà trường. Thực hiện phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích
cực”.
* Phối hợp giữa GVCN và GV chuyên
Trong công tác chủ nhiệm việc kết hợp chặt chẽ với GV bộ môn là một cơng việc rất
quan trọng. Qua đây mới có được biện pháp giáo dục đồng bộ. Qua GV bộ môn,
GVCN nắm tình hình diễn biến của HS trong lớp trong từng tiết học, từng mơn học để
nhanh chóng đề ra biện pháp giáo dục và uốn nắn cho HS kịp thời.

5


- Trước buổi sinh hoạt lớp cuối tuần GVCN cần gặp GV bộ môn (Âm nhạc, Mĩ thuật,
Thể dục), TPT Đội để nắm tình hình học tập và rèn luyện của các em HS trong tuần.
Từ đó nắm thơng tin đầy đủ hơn, ngồi việc kiểm điểm lại thiếu sót của từng HS trong
tuần cũng cần động viên, khích lệ những HS tiến bộ và những HS tích cực, gương mẫu
đạt thành tích tốt trong tuần bằng nhiều hình thức như: tuyên dương trước lớp, trước
trường trong buổi sinh hoạt dưới cờ đầu tuần để làm tấm gương cho các HS khác noi

theo.
* Thơng qua hoạt động ngồi giờ lên lớp để giáo dục HS
- Chủ động nắm bắt kế hoạch hàng tháng của tổ chức Đoàn - Đội để xây dựng kế
hoạch riêng phù hợp với đặc điểm tình hình của lớp và động viên các em tích cực tham
gia.
- Trong các buổi sinh hoạt lớp, sinh hoạt tập thể, sinh hoạt Đội và các hoạt động khác
GVCN giáo dục cho HS có ý thức học tập, ý thức tập thể, biết lo cơng việc chung, hịa
đồng với mọi người. Qua đó giáo dục tinh thần đồn kết, nhân ái và giáo dục nội quy,
quy định của trường, đồng thời phát huy tinh thần sáng tạo, vượt khó cho các em.
* Với Phụ huynh học sinh
- Tăng cường sự hoạt động và có sự phối kết hợp giữa Ban đại diện cha mẹ học
sinh và nhà trường, nhằm nắm bắt kịp thời những thông tin về học tập, rèn luyện của
học sinh; đồng thời duy trì thơng báo giữa nhà trường và cha mẹ học sinh qua điện
thoại. Ban đại diện cha mẹ học sinh và các bậc phụ huynh có thể phối hợp cùng nhà
trường trong việc tổ chức các hoạt động ngoại khóa và các hoạt động ngoài nhà trường
cho học sinh; chăm lo xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy - học, động viên vật
chất (nếu có điều kiện và trên tinh thần tự nguyện), tinh thần đối với thầy và trò. Làm
tốt công tác phối hợp giáo dục, sẽ làm cho uy tín cũng như vai trị giáo dục của nhà
trường, gia đình và xã hội ngày càng tăng lên.
- Ngay từ buổi họp Phụ huynh học sinh đầu năm tôi tiến hành điều tra lí lịch học
sinh nắm được hồn cảnh cũng như cá tính của từng em và có biện pháp giáo dục các
em cho phù hợp đồng thời nêu rõ cho phụ huynh biết những quy định của lớp cũng
như trường đề ra, đề nghị cha mẹ học sinh phối hợp thực hiện nghiêm túc nhằm đạt
hiệu quả giáo dục như mong muốn.
- Tạo mối liên hệ gắn bó mật thiết với cha mẹ học sinh, trao đổi kịp thời với phụ
huynh học sinh các vấn đề có liên quan trong công tác giáo dục học sinh. Tuy nhiên

6



khi trao đổi cùng phụ huynh về hạn chế của con em họ, GV nên chọn ưu điểm và khen
con em của họ trước khi cần trao đổi một điều gì đó, cách nói chuyện nên nhẹ nhàng,
tâm tình sẽ tạo được tâm lí thoải mái hơn trong cuộc trị chuyện đồng thời tránh được
tư tưởng “ngại gặp GV”.
- Sau mỗi tháng bình xét thi đua cá nhân tơi đều thường xuyên trao đổi với phụ
huynh về tình hình học tập của các em. Luôn tuyên truyền để phụ huynh quan tâm đến
con em mình. Khi nhà trường tổ chức họp phụ huynh tôi đã vận động được 100% phụ
huynh đi họp đầy đủ bằng cách thông báo trước 2-3 ngày để phụ huynh có thời

gian chuẩn bị và sắp xếp cơng việc hợp lí để đến dự họp. Đối với những trường
hợp vắng mặt, sau cuộc họp tôi mời riêng để gặp gỡ và trao đổi những vấn đề
chính của cuộc họp.
- Để đẩy mạnh công tác xã hội hóa giáo dục, GVCN phải thường xuyên phối hợp
với cha mẹ HS, với các đoàn thể trong và ngoài nhà trường. Các buổi họp cha mẹ HS
là điều kiện tốt nhất để GV và PHHS bàn bạc đề ra biện pháp giáo dục con em mình
tốt nhất. Từ đó xin ý kiến đóng góp của phụ huynh để GV có thêm những kinh nghiệm
mới. Thông qua buổi họp, phụ huynh cũng nắm được nội quy của trường và có trách
nhiệm nhắc nhở con em mình thực hiện tốt.
- Ngồi ra GV cùng với hội cha mẹ học sinh và tập thể học sinh trong lớp quyên
góp quà và tiền mặt để thăm hỏi gia đình những học sinh có hồn cảnh đặc biệt khó
khăn để giúp các em yên tâm học tập.
* Sự phối hợp với các lực lượng xã hội
- Tận dụng tiềm năng giáo dục trong trường và ngoài xã hội để đạt tới hiệu quả
trong việc thực hiện giáo dục là một nhiệm vụ đặc trưng của người GVCN lớp. Giải
quyết tốt nhiệm vụ này cũng chính là thực hiện xã hội hóa giáo dục, một trong những
giải pháp trọng yếu thực hiện chiến lược phát triển giáo dục của Đảng và Nhà nước ta
hiện nay bằng các biện pháp sau:
+ Quan tâm những trường hợp khó khăn cần giúp đỡ, tạo mọi điều kiện để HS
được đến trường.
+ Vận động các mạnh thường quân, các tổ chức xã hội trao quà và học bổng cho

những HS có hồn cảnh đặc biệt khó khăn.
+ Tổ chức các hoạt động vui chơi để HS tích cực tham gia nhằm giáo dục đạo
đức cho các em.

7


* Biết lắng nghe ý kiến từ các phía, chân thành với mọi quan hệ
Một vấn đề cũng rất quan trọng giúp tơi thực hiện tốt vai trị “cầu nối” của mình là
biết lắng nghe ý kiến từ mọi phía: BGH, GV bộ môn, PHHS, các GV khác cùng khối,
cùng trường, các tổ chức xã hội…để nắm chắc tình hình của lớp nhằm đưa ra những
biện pháp giáo dục phù hợp. Để thực hiện tốt công tác này tôi luôn lắng nghe, chia sẻ
một cách chân thành để biết HS của mình mạnh về mặt nào và cịn hạn chế, thiếu sót ở
những điểm nào để bản thân có thể đưa ra những hình thức giáo dục hiệu quả.
* Tạo uy tín với đồng nghiệp, hịa nhã, tránh nóng nảy
Là một GVCN tơi nhận thấy uy tín của một người GV là rất quan trọng không
những đối với đồng nghiệp mà với cả PHHS và các lực lượng xã hội khác. Uy tín ở
đây là nhiệt tình trong cơng việc, trong cách ứng xử với mọi người, cách giáo dục HS,
… VD: Khi lớp tơi có 1 em học sinh trong giờ Mĩ thuật có hay nghịch, khơng nghe lời
GV thì sau giờ dạy nghe GV phản ánh
+ Thứ nhất: ta không nên tỏ thái độ không vui mà ngược lại nên chia sẻ và cùng
GV Mĩ Thuật giáo dục HS đó tốt hơn.
+ Thứ hai: khi về lớp tơi sẽ tìm hiểu nguyên nhân tại sao em này lại nghịch, khơng
làm theo u cầu GV, sau đó sẽ giải thích cho HS hiểu tác hại của việc khơng chịu học
bằng những cử chỉ thân tình, nhẹ nhàng. Sau đó để em tự hứa sau này sẽ chăm ngoan,
không phiền lịng thầy cơ nữa.
* Khơng ngừng tự học, tự rèn
Lênin có câu “Học, học nữa, học mãi” đã gây ấn tượng sâu sắc trong lịng tơi. Là
một GVCN lớp tơi thấy bản thân phải không ngừng học hỏi, nâng cao tay nghề, trình
độ chun mơn nghiệp vụ, cách dìu dắt để tập thể lớp mình ngày càng tiến bộ về mọi

mặt. Học ở đây có thể thơng qua sách báo về Giáo dục như: tạp chí Thế giới trong ta,
tạp chí giáo dục, học trên mạng Internet, học hỏi kinh nghiệm từ đồng nghiệp, từ mọi
người xung quanh,… để bản thân ngày càng có nhiều kinh nghiệm hơn trong việc thực
hiện vai trị “cầu nối” của mình.
* Từ những kinh nghiệm tích lũy được trong cơng tác chủ nhiệm, bản thân tôi
rút ra những điều “không nên” dưới dây khi GVCN thực hiện vai trị “cầu nối”
giữa gia đình, nhà trường và xã hội.
+ Mất lòng tin đối với mọi quan hệ

8


GVCN lớp có thành cơng hay khơng khi thiết lập được những mối quan hệ tốt,
khơng nên làm mất lịng tin của bạn bè đồng nghiệp hay PHHS. GV cần phải tạo được
sự yên tâm, sự tin tưởng tuyệt đối của mọi người dành cho mình, khi gặp bất cứ vấn đề
gì khó khăn, nan giả cần trao đổi, phân tích, bàn bạc để cùng nhau tìm ra biện pháp
thích hợp thì cơng tác chủ nhiệm mới có thể diễn ra sn sẻ và thành cơng
+ Phê bình, khiển trách HS trước đông người
Trẻ em rất nhạy cảm, các em rất dễ bị tổn thương, nhất là khi GV khiển trách, phê
bình trước đơng người vì làm như vậy sẽ làm ảnh hưởng tâm lí các em, các em sẽ sợ bị
bạn trêu chọc, mặc cảm với những lỗi lầm của mình. Vì thế là một GVCN lớp tơi sẽ
gọi riêng em đó để nhắc nhở, phân tích, giảng giải cho em hiểu và nhận ra sai lầm của
mình để tìm cách sửa chữa.
+ Thiên vị
Mỗi một HS khi lên lớp đều mong muốn GV quan tâm mình, hướng dẫn cho mình.
Tất nhiên GV khơng phải khơng có những HS mình u thích, nhưng GV khơng nên
thể hiện ra các hành vi thiên vị mà cần chú ý thể hiện sự công bằng với tất cả HS, biết
cách quan tâm và khen ngợi chúng thích hợp như vậy mới tạo được hứng thú học tập
cho HS.
c) Khả năng áp dụng của giải pháp

Đề tài này là cơ sở để giáo viên nghiên cứu và thực hiện tại lớp chủ nhiệm bước
đầu có hiệu quả khả quan. Vì vậy đề tài có khả năng ứng dụng và triển khai cho tất cả
GVCN mọi trường Tiểu học cùng thực hiện và từng lúc bổ sung để giúp GVCN thực
hiện vai trò “cầu nối” đạt hiệu quả cao hơn.
d) Hiệu quả, lợi ích thu được do áp dụng giải pháp
Trong quá trình nghiên cứu và áp dụng trong năm học 2015-2016 và HKI năm học
2016-2017 bản thân tôi nhận thấy bản thân đã thực sự thực hiện được vai trò “cầu nối”
giữa gia đình, nhà trường và xã hội. Cụ thể: bản thân đã dẫn dắt lớp chủ nhiệm ngày
càng tiến bộ về học tập và nề nếp, các em ngày càng chăm ngoan, khơng cịn trường
hợp HS nghịch phá hay trộm cắp … Ngược lại các em biết giúp đỡ bạn bè, lễ phép với
người lớn, biết chấp hành tốt nội quy của trường, thực hiện đầy đủ 5 nhiệm vụ của
người HS. Đồng thời bản thân còn tạo được sự tin tưởng và hỗ trợ nhiệt tình của BGH
và PHHS cũng như các lực lượng xã hội khác trong việc thực hiện xã hội hóa giáo dục
góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục vào đào tạo HS.

9


Sau gần hai năm áp dụng đề tài tại lớp chủ nhiệm tôi thu được kết quả như sau:
+ Bản thân đã dẫn dắt lớp chủ nhiệm ngày càng tiến bộ về học tập và nề nếp, các
em ngày càng chăm ngoan, khơng cịn trường hợp HS nghịch phá hay trộm cắp …
Ngược lại các em biết giúp đỡ bạn bè, lễ phép với người lớn, biết chấp hành tốt nội
quy của trường, thực hiện đầy đủ 5 nhiệm vụ của người HS.
+ Bản thân còn tạo được sự tin tưởng và hỗ trợ nhiệt tình của BGH và PHHS
cũng như các lực lượng xã hội khác trong việc giáo dục HS góp phần nâng cao hiệu
quả giáo dục vào đào tạo HS.
+ Ngồi ra cơng tác vận động thực hiện xã hội hóa giáo dục ngày càng được tăng
cường góp phần giúp đỡ kịp thời những HS có hồn cảnh khó khăn và vận động khen
thưởng cho các em.
Tóm lại là một giáo viên chủ nhiệm lớp tôi nhận thấy giáo viên chủ nhiệm cũng

như người làm vườn, trồng cây, tuy khơng đúng hồn tồn nhưng hoạt động của giáo
viên chủ nhiệm gần như người trồng cây, chăm sóc, vun trồng cây giống. Người làm
việc không thể cầm ngọn cây kéo lên mà phải chăm sóc, tạo điều kiện cho hạt giống
nảy mầm. Cho nên tôi luôn tâm niệm dạy dỗ giáo dục cho các em trở thành những con
người hữu ích cho xã hội để xứng đáng với những hình ảnh đẹp mà xã hội ban tặng
như đồng chí Phạm Văn Đồng đã nói: “Nghề dạy học là nghề cao quý nhất trong tất
cả các nghề cao quý vì nó sáng tạo ra những con người sáng tạo”.
3. Tài liệu kèm theo gồm:
Không

10



×