Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CƠ CẤU NGÀNH CÔNG NGHIỆP VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH CÔNG NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.57 KB, 23 trang )

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CƠ CẤU NGÀNH CÔNG NGHIỆP
VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH CÔNG
NGHIỆP
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ CƠ CẤU CÔNG NGHIỆP VÀ CHUYỂN DỊCH
CƠ CẤU NGÀNH CÔNG NGHIỆP
1. Cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Cơ cấu kinh tế
Cơ cấu kinh tế là mối quan hệ tỉ lệ giữa các bộ phận hợp thành một tổng thể kinh tế,
các bộ phận này có những mối liên hệ hữu cơ, những tác động qua lại cả về số lượng và
chất lượng, các quan hệ tỉ lệ được hình thành trong những điều kiện kinh tế - xã hội
nhất định, chúng luôn vận động và hướng vào những mục tiêu cụ thể
1
. Có thể nói trong
các vấn đề khác nhau của nhiệm vụ xây dựng đất nước, cơ cấu kinh tế là vấn đề then
chốt và có ý nghĩa quyết định nhất. Nó không chỉ thể hiện ở quan hệ tỷ lệ mà quan
trọng hơn là mối quan hệ tác động qua lại về nội dụng bên trong của hệ thống kinh tế,
thể hiện tính chất và trình độ phát triển hệ thống kinh tế của một quốc gia. Sự phát triển
của lực lượng sản xuất nhất định sẽ hình thành một cơ cấu kinh tế với tỷ lệ cân đối
tương ứng với các bộ phận. Tỷ lệ đó được thay đổi thường xuyên và tự giác theo quá
trình diễn biến khách quan của nhu cầu xã hội và khả năng đáp ứng nhu cầu đó. Vì vậy,
sự biến đổi của cơ cấu kinh tế luôn gắn liền với sự thay đổi không ngừng của lực lượng
sản xuất, nhu cầu tiêu dùng và đặc điểm chính trị, xã hội của từng thời kì. Sự vận động
và phát triển này là xu hướng phổ biến của mọi quốc gia. Song mối quan hệ giữa con
người với con người, con người với tự nhiên trong quá trình tái sản xuất mở rộng ở mỗi
giai đoạn lịch sử, mỗi quốc gia lại có sự khác nhau. Sự khác nhau đó bị chi phối bởi
quan hệ sản xuất, bởi các đặc trưng văn hoá xã hội, bởi các yếu tố lịch sử của mỗi dân
tộc. Do đó, các nước có thể có hình thái kinh tế-xã hội giống nhau, song lại vẫn có sự
khác nhau trong hình thành cơ cấu kinh tế, vì điều kiện kinh tế, xã hội và quan điểm
chiến lược mỗi nước khác nhau.
Cơ cấu kinh tế được phân tích theo hai phương diện:
Phương diện thứ nhất, mặt vật chất kĩ thuật của cơ cấu, bao gồm:


• Cơ cấu theo ngành nghề, lĩnh vực kinh tế phản ánh số lượng, vị trí, tỉ trọng các ngành,
lĩnh vực, bộ phận cấu thành nền kinh tế.
• Cơ cấu theo quy mô, trình độ kĩ thuật, công nghệ của các loại hình tổ chức sản xuất
phản ánh chất lượng các ngành, lĩnh vực, bộ phận cấu thành nền kinh tế
1 Giáo trình kế hoạch hóa phát triển kinh tế - xã hội
• Cơ cấu kinh tế theo vùng lãnh thổ phản ánh khả năng kết hợp, khai thác tài nguyên,
tiềm lực kinh tế-xã hội của các vùng phục vụ cho mục tiêu phát triển nền kinh tế quốc
dân thống nhất.
Phương diện thứ hai, xét về mặt kinh tế-xã hội, bao gồm:
• Cơ cấu theo các thành phần kinh tế phản ánh khả năng khai thác năng lực tổ chức sản
xuất kinh doanh của mọi thành viên xã hội.
• Cơ cấu kinh tế theo trình độ phát triển của quan hệ hàng hoá tiền tệ. Nó phản ánh khả
năng giải quyết mối quan hệ và sự tác động qua lại giữa các ngành, lĩnh vực và các bộ
phận hợp thành nền kinh tế quốc dân thống nhất.
Như vậy, dưới các góc độ khác nhau cơ cấu kinh tế được phân thành nhiều loại như
cơ cấu ngành, cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu vùng, cơ cấu đối ngoại, cơ cấu tích
lũy… Mỗi loại cơ cấu phản ánh những nét đặc trưng của các bộ phận và qua cách mà
chúng quan hệ với nhau trong quá trình phát triển nền kinh tế quốc dân. Trong đó, cơ
cấu ngành kinh tế là sự kết hợp giữa các ngành trong tổng thể nền kinh tế hoặc từng loại
hình sản xuất, từng xí nghiệp trong nội bộ ngành, thể hiện mối quan hệ hữu cơ và sự tác
động qua lại cả về số và chất lượng giữa các ngành với nhau. Nó có vai trò quan trọng
nhất phản ánh tập trung nhất trình độ phát triển của phân công lao động xã hội và trình
độ phát triển chung của lực lượng sản xuất, trực tiếp giải quyết mối quan hệ cung – cầu
trên thị trường, đảm bảo sự phát triển cân đối của nền kinh tế.
Liên Hợp Quốc đã thống nhất phân loại ngành theo ba khu vực: khu vực I – nông
nghiệp, khu vực II – công nghiệp và khu vực III – dịch vụ. Các ngành này có mối quan
hệ tác động qua lại, thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển trong quá trình hoạt động sản
xuất.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là quá trình biến đổi cơ cấu kinh tế từ dạng này sang

dạng khác phù hợp với sự phát triển của phân công lao động xã hội, sự phát triển của
lực lượng sản xuất và các nhu cầu phát triển khác của xã hội. Chuyển dịch cơ cấu kinh
tế mang tính khách quan thông qua những nhận thức chủ quan của con người. Những
tiêu chí cơ bản phản ánh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế vĩ mô bao gồm: tỷ trọng của
các phần tử cơ cấu của hệ thống (theo GDP, lao động) và các chỉ tiêu chất lượng (như
năng suất lao động, tiêu hao điện năng trên một đồng GDP, tỷ lệ hộ đói nghèo, tỷ lệ
người thất nghiệp…). Khi có sự tác động của con người, trong quá trình chuyển dịch
cơ cấu đã hình thành một số khái niệm:
Điều chỉnh cơ cấu là quá trình chuyển dịch cơ cấu trên cơ sở thay đổi một số mặt
một số yếu tố của cơ cấu, làm cho nó thích ứng với điều kiện khách quan từng thời kỳ,
không tạo ra sự thay đổi đột biến, tức thời. Theo định nghĩa này thì điều chỉnh cơ cấu
chỉ diễn ra sau một khoảng thời gian nhất định vì nó là một quá trình và sự phát triển
của các ngành phải dẫn đến sự thay đổi mối quan hệ tương đối ổn định vốn có của
chúng (ở thời điểm trước đó). Trên thực tế, sự thay đổi này là kết quả của quá trình:
Xuất hiện thêm một số ngành mới hay mất đi một số ngành đã có, tức là có sự thay đổi
về số lượng cũng như loại ngành trong nền kinh tế. Hay là sự tăng trưởng về quy mô
với nhịp độ khác nhau của các ngành dẫn đến thay đổi cơ cấu.
Cải tổ cơ cấu là quá trình chuyển dịch mang tính thay đổi về mặt bản chất so với
thực trạng cơ cấu ban đầu, nhanh chóng tạo ra sự đột biến.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế hiện nay, các chiến lược cơ cấu và việc điều
chỉnh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của mỗi quốc gia không chỉ thuần túy được nhìn
nhận dưới góc độ chuyển dịch ngành kinh tế trong phạm vi từng quốc gia mà còn phải
tính tới sự hoạt động của mạng lưới sản xuất đa quốc gia. Do đó, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế của một nước sẽ phụ thuộc nhiều vào khả năng cạnh tranh để có được chỗ đứng
vững chắc trên thị trường và sự linh hoạt để có thể ứng phó, thích nghi với những biến
động trên thị trường thế giới.
Cơ sở lý thuyết của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Lý thuyết các giai đoạn phát triển kinh tế của Rostow
Rostow cho rằng quá trình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia được chia thành 5 giai
đoạn và ứng với mỗi một giai đoạn là một dạng cơ cấu ngành kinh tế đặc trưng thể hiện

bản chất phát triển của giai đoạn ấy. Cụ thể:
Giai đoạn 1: Xã hội truyền thống. Đặc trưng cơ bản của giai đoạn này là nền kinh tế
thống trị bởi sản xuất nông nghiệp với năng suất lao động thấp do sản xuất chủ yếu
bằng công cụ thủ công, tích lũy gần như là con số 0. Cơ cấu ngành kinh tế trong thời kỳ
này là cơ cấu nông nghiệp thuần túy.
Giai đoạn 2: Chuẩn bị cất cánh. Đây được coi là thời kỳ quá độ giữa xã hội truyền
thống và sự cất cánh với nội dung cơ bản là chuẩn bị những điều kiện tiên quyết để cất
cánh: những hiểu biết khoa học – kỹ thuật đã bắt đầu được áp dụng vào sản xuất trong
cả nông nghiệp và công nghiệp; Giáo dục được mở rộng và có những cải tiến phù hợp
với những yêu cầu mới của sự phát triển; Nhu cầu đầu tư tăng lên đã thúc đẩy sự hoạt
động của ngân hàng và sự ra đời của các tổ chức huy động vốn. Tuy vậy tất cả các hoạt
động này chưa vượt qua được phạm vi giới hạn của một nền kinh tế truyền thống, năng
suất thấp. Cơ cấu ngành là cơ cấu nông – công nghiệp.
Giai đoạn 3: Cất cánh. Là giai đoạn trung tâm trong sự phân tích các giai đoạn phát
triển của Rostow, thể hiện một đất nước bước vào giai đoạn phát triển hiện đại và ổn
định. Những yếu tố cơ bản đảm bảo cho sự cất cánh là huy động được nguồn vốn đầu
tư cần thiết, tỷ lệ tiết kiệm tăng, khoa học – kỹ thuật tác động mạnh vào nông nghiệp và
công nghiệp. Công nghiệp giữ vai trò đầu tàu, có tốc độ tăng trưởng nhanh, đem lại lợi
nhuận lớn. Cơ cấu ngành kinh tế đã là công nghiệp – nông nghiệp – dịch vụ.
Giai đoạn 4: Trưởng thành. Đặc trưng cơ bản của giai đoạn này là tỷ lệ đầu tư tăng
liên tục, lên tới 20% thu nhập quốc dân thuần túy; khoa học – kỹ thuật mới được áp
dụng trên toàn bộ các mặt hoạt động kinh tế. Nhiều ngành công nghiệp mới, hiện đại
phát triển, nông nghiệp được cơ giới hóa, nhu cầu xuất nhập khẩu tăng mạnh, sự phát
triển kinh tế trong nước hòa đồng vào thị trường quốc tế. Cơ cấu ngành kinh tế là công
nghiệp – dịch vụ - nông nghiệp.
Giai đoạn 5: Tiêu dùng cao. Cơ cấu lao động đã thay đổi theo hướng tăng tỷ lệ dân
cư đô thị và lao động có tay nghề, có trình độ chuyên môn cao. Cơ cấu ngành có dạng
dịch vụ - công nghiệp.
Có thể nói đứng trên góc độ mối quan hệ giữa sự chuyển dịch cơ cấu với quá trình
phát triển thì Rostow đã chỉ ra một sự lựa chọn hợp lý về dạng cơ cấu ngành tương ứng

với mỗi giai đoạn phát triển nhất định của mỗi quốc gia. Theo lý thuyết này hầu hết các
nước đang phát triển và đang trong quá trình công nghiệp hóa nằm ở trong khoảng giai
đoạn 2 và 3. Về mặt cơ cấu kinh tế, phải bắt đầu hình thành được những ngành công
nghiệp chế biến có khả năng thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế tăng trưởng. Ngoài ra, sự
chuyển tiếp từ giai đoạn 2 sang giai đoạn 3 đi kèm với sự thay đổi của những ngành chủ
lực, đóng vai trò đầu tàu. Do đó Rostow đã nhấn mạnh tới nhân tố mang tính quyết định
của sự cất cánh là kỹ thuật mới được áp dụng, mà kỹ thuật mới thì bao giờ cũng được
áp dụng vào ngành công nghiệp cụ thể. Ông đã gọi ngành công nghiệp cụ thể giữ vai trò
đầu tàu này là ngành chủ đạo. Có nghĩa là, trong chính sách cơ cấu, cần xét đến trật tự
ưu tiên phát triển những ngành, lĩnh vực có khả năng đảm trách vai trò đầu tàu kinh tế
trong mỗi giai đoạn phát triển khác nhau.
Mô hình kinh tế nhị nguyên
Athur Lewis là người đầu tiên đưa ra mô hình này. Ông đã đưa ra giả thuyết nền
kinh tế song song tồn tại hai khu vực với hai nhóm ngành. Khu vực kinh tế truyền
thống, chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, khu vực này có đặc trưng là rất trì trệ, năng
suất lao động rất thấp và tình trạng dư thừa lao động. Do ruộng đất có hạn và trình độ
lao động cũng như áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ ngày một tăng, nên trong nông
nghiệp số lượng lao động giảm nhưng vẫn tăng sản xuất. Bộ phận lao động dư thừa này
có nhu cầu việc làm rất lớn, sẵn sàng di chuyển đến khu vực khác có việc làm và thu
nhập cao hơn hiện tại. Khu vực thứ hai là khu vực công nghiệp hiện đại, khu vực này có
năng suất lao động cao, tích lũy lớn, tạo ra khả năng tự phát triển không phụ thuộc vào
trình độ chung của nền kinh tế hiện tại.
Do lao động dư thừa nên việc chuyển một phần lao động thặng dư từ khu vực nông
nghiệp sang khu vực công nghiệp không gây ảnh hưởng gì đến sản lượng nông nghiệp.
Bên cạnh đó, năng suất lao động cao và tiền công cao hơn nên khu vực công nghiệp thu
hút lao động dư thừa từ khu vực nông nghiệp chuyển sang, và do lao động trong khu
vực nông nghiệp quá dư thừa và tiền công thấp hơn nên các ông chủ công nghiệp có thể
thuê mướn nhiều nhân công mà không phải tăng thêm tiền công, lợi nhuận của các ông
chủ ngày càng tăng; giả định rằng toàn bộ lợi nhuận sẽ được đem tái đầu tư thì nguồn
tích lũy để mở rộng sản xuất trong khu vực công nghiệp ngày càng tăng lên.

Như vậy, có thể rút ra từ lý thuyết này một nhận định là để thúc đẩy sự phát triển,
các quốc gia đang phát triển cần phải mở rộng khu vực công nghiệp hiện đại bằng mọi
giá mà không quan tâm đến khu vực truyền thống. Sự tăng trưởng của khu vực công
nghiệp tự nó sẽ thu hút hút hết lượng lao động dư thừa trong nông nghiệp chuyển sang
và từ trạng thái nhị nguyên, nền kinh tế sẽ chuyển sang một nền kinh tế công nghiệp
phát triển.
Lý thuyết nhị nguyên của Lewis tiếp tục được nhiều kinh tế gia nổi tiếng (như G.
Ranis, J Fei, Harris) khác tiếp tục nghiên cứu và phân tích. Luận cứ của họ xuất phát từ
khả năng phát triển và tiếp nhận lao động của khu vực công nghiệp hiện đại. Khu vực
này có nhiều khả năng lựa chọn công nghệ sản xuất, trong đó có công nghệ sử dụng
nhiều lao động nên về nguyên tắc có thể thu hút hết lượng lao động dư thừa của khu
vực công nghiệp. Nhưng việc di chuyển lao động được giả định là do chênh lệch về thu
nhập giữa lao động của hai khu vực kinh tế trên quyết định (các tác giả giả định rằng
thu nhập của lao động công nghiệp tối thiểu cao hơn 30% so với lao động trong khu
vực nông nghiệp). Như vậy, khu vực công nghiệp chỉ có thể thu hút lao động nông
nghiệp khi có sự dư thừa lao động nông nghiệp và chênh lệch tiền công giữa hai khu
vực đủ lớn. Nhưng khi nguồn lao động nông nghiệp dư thừa ngày càng cạn dần thì khả
năng duy trì sự chênh lệch về tiền lương này sẽ ngày một khó khăn. Ðến khi đó, việc
tiếp tục di chuyển lao động nông nghiệp sang công nghiệp sẽ làm giảm sản lượng nông
nghiệp và làm cho giá cả nông sản tăng lên, và kéo theo đó là mức tăng tiền công tương
ứng trong khu vực công nghiệp. Sự tăng lương của khu vực công nghiệp này đặt ra giới
hạn về mức cầu tăng thêm đối với lao động của khu vực này. Như thế, về mặt kỹ thuật,
mặc dù khu vực công nghiệp có thể thu hút không hạn chế lượng lao động dư thừa từ
khu vực nông nghiệp chuyển sang thì về mặt thu nhập và độ co giãn cung cầu thì khả
năng tiếp nhận lao động từ khu vực nông nghiệp của khu vực công nghiệp là có hạn.
Cơ cấu kinh tế theo lý thuyết cân đối liên ngành
Mô hình đưa ra giả thuyết về phát triển tất cả các ngành hay phát triển cân đối giữa
các ngành và nội bộ từng ngành. Những người ủng hộ quan điểm phát triển cân đối đều
cho rằng phải phát triển đồng đều ở tất cả mọi ngành kinh tế quốc dân để nhanh chóng
công nghiệp hóa và chuyển dịch cơ cấu. Luận cứ của họ như sau:

* Trong quá trình phát triển, tất cả các ngành có liên quan mật thiết với nhau, "đầu
ra" của ngành này là "đầu vào" của ngành kia và như vậy, sự phát triển đồng đều và cân
đối chính là đòi hỏi sự cân bằng cung cầu trong sản xuất.
* Sự phát triển cân đối giữa các ngành như thế giúp tránh được các ảnh hưởng tiêu
cực của thị trường thế giới và hạn chế được mức độ phụ thuộc vào các nền kinh tế
khác, qua đó tiết kiệm được nguồn ngoại tệ.
* Một nền kinh tế dựa trên cơ cấu cân đối giữa tất cả các ngành là nền tảng vững
chắc đảm bảo sự độc lập chính trị của các nước đang phát triển.
Lý thuyết này khi đưa ra được các quốc gia đang phát triển đi theo con đường công
nghiệp hóa hướng nội (công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu) rất ưa chuộng. Tuy nhiên,
khi được áp dụng thực tế đã bộc lộ những yếu điểm như: Việc phát triển một cơ cấu
kinh tế cân đối và hoàn chỉnh đã đẩy các nền kinh tế đến chỗ khép kín và tách biệt với
thế giới bên ngoài, điều này đi ngược lại với xu thế quốc tế hóa và toàn cần hóa, không
tận dụng được những lợi ích tích cực từ môi trường bên ngoài đem lại. Các nền kinh tế
đang phát triển không đủ nguồn lực về nhân tài, vật lực để có thể thực hiện được những
mục tiêu cơ cấu đặt ra.
Lý thuyết phát triển ngành không cân đối hay “cực tăng trưởng”
Nội dung của lý thuyết cho rằng: Một vùng không có sự phát triển đồng đều ở mọi
điểm trên lãnh thổ của nó theo cùng một thời gian, mà có xu hướng phát triển mạnh ở
một số điểm nào đó. Trong khi đó ở một số nơi khác chậm phát triển hơn hoặc bị trì trệ.
Các điểm phát triển mạnh và nhanh này thường có ưu thế, lợi thế so với toàn vùng và
được gọi là các cực tăng trưởng. Do đó, một cực tăng trưởng là một tập hợp các ngành
có khả năng tạo ra động lực tăng trưởng cho nền kinh tế vùng lãnh thổ (chủ yếu là công
nghiệp – dịch vụ). Thực chất đây là quá trình tập trung hóa lãnh thổ mà ở đó cực tăng
trưởng là điểm có lợi thế nhờ vị trí địa lý thuận lợi, có kết cấu hạ tầng phát triển, thu hút
được nhiều đầu tư. Vì vậy, lý thuyết chỉ ra không thể và không nhất thiết đảm bảo tăng
trưởng bền vững bằng cách duy trì cơ cấu cân đối liên ngành đối với mọi quốc gia mà
có thể phát triển nền kinh tế không cân đối, tập trung vào các ngành có điều kiện về
nguồn lực. Từ đó tập trung vào một số ngành có khả năng nguồn lực trong nước và
thuận tiện trong thu hút nguồn lực bên ngoài. Hay tạo ra “cực tăng trưởng” với các

ngành có tác dụng đầu tàu, ứng dụng để chọn một số ngành mũi nhọn, tạo sự lan tỏa
trong toàn nền kinh tế. Bởi những lý do như:
* Việc phát triển không cân đối sẽ tạo ra kích thích đầu tư. Nếu cung bằng cầu trong
tất cả các ngành thì sẽ triệt tiêu động lực đầu tư nâng cao năng lực sản xuất. Ðể phát
triển được, cần phải tập trung đầu tư vào một số ngành nhất định, tạo ra một "cú hích"
thúc đẩy và có tác dụng lôi kéo đầu tư trong các ngành khác theo kiểu lý thuyết số nhân,
từ đó kéo theo sự phát triển của nền kinh tế.
* Trong mỗi giai đoạn phát triển, vai trò "cực tăng trưởng" của các ngành trong nền
kinh tế là không giống nhau. Vì vậy, cần tập trung những nguồn lực vốn đã khan hiếm
cho một số lĩnh vực cụ thể trong một thời điểm nhất định.
* Do trong thời kỳ đầu của quá trình công nghiệp hóa, các nước đang phát triển rất
thiếu các nguồn lực sản xuất và không có khả năng phát triển cùng một lúc đồng bộ tất
cả các ngành hiện đại. Vì thế, phát triển không cân đối gần như là một sự lựa chọn bắt
buộc.
Như vậy, vấn đề phát triển một cơ cấu không cân đối và mở cửa ra bên ngoài của lý
thuyết này là chấp nhận sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế, mà thường thì các
quốc gia chậm phát triển chịu nhiều thiệt thòi hơn cho nên lúc đầu lý thuyết này không
được các nước đang phát triển theo mô hình công nghiệp hóa hướng nội và phát triển
cân đối mặn mà cho lắm nhưng càng về sau thì lý thuyết này càng được thừa nhận rộng
rãi, nhất là từ sau sự thành công của các nước công nghiệp hóa mới (NICs). Từ thập
niên 1980 trở lại đây, lý thuyết này đã được nhiều nước đang phát triển áp dụng với mô
hình công nghiệp hóa mở cửa và hướng ngoại.
2. Cơ cấu công nghiệp và chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp
Cơ cấu công nghiệp
CCCN là tổng hợp những ngành công nghiệp hợp thành hệ thống công nghiệp và
mối quan hệ tỷ lệ biểu hiện của mối liên hệ sản xuất giữa các ngành qua mối tác động
qua lại biện chứng với nhau, trong những không gian và thời gian nhất định, trong
những điều kiện kinh tế xã hội nhất định cả về mặt định lượng và định tính, cả về số
lượng và chất lượng cũng như phương thức mà chúng hợp thành. CCCN được xem xét
theo các mặt chủ yếu sau:

Cơ cấu ngành kinh tế - kỹ thuật: là tổng hợp các ngành và mối liên hệ kinh tế - kỹ
thuật giữa các ngành trong tổng thể CCCN.
Cơ cấu thành phần kinh tế trong công nghiệp nói lên mối quan hệ giữa các thành
phần, có ý nghĩa rất lớn đến việc quyết định trật tự phát triển công nghiệp cả về sự hình
thành lẫn chuyển dịch CCCN.
Cơ cấu vùng lãnh thổ: xét CCCN theo sự phân bố về không gian và vùng lãnh thổ.
Nó thể hiện sự phân bố lực lượng sản xuất, sự phân công lao động trên các vùng lãnh
thổ khác nhau và mối quan hệ giữa các vùng lãnh thổ này trong toàn ngành công
nghiệp.
Phân loại cơ cấu công nghiệp
2.2.1. Cơ cấu công nghiệp phân theo ngành kinh tế
Theo phân ngành của Tổng cục thống kê, ngành công nghiệp được phân ra thành 3
ngành cấp 1 sau:
- Công nghiệp khai thác
- Công nghiệp chế biến
- Sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước
Trong đó:
Nhóm ngành công nghiêp khai thác bao gồm:
- Khai thác than
- Khai thác quặng kim loại
- Khai thác dầu thô và khí tự nhiên
- Khai thác đá và mỏ khác
Nhóm ngành công nghiệp chế biến bao gồm:
- Chế biến nông lâm, thủy sản
- Sản xuất sản phẩm hóa chất, dầu mỏ

×