Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán bctc tại công ty tnhh kiểm toán và tư vấn tài chính ifc aca group

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (460.18 KB, 88 trang )

Chuyên đề thực tập chuyên ngành

GVHD: Th.S Bùi Thị Minh Hải

LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, BCTC đã được kiểm toán là đối tượng quan tâm của nhiều cấp quản
lý và những người sử dụng thơng tin khác. Trong kiểm tốn BCTC, thực trạng hoạt
động tài chính và hiệu quả nghiệp vụ là vấn đề rất rộng, khơng thể kiểm sốt tồn
bộ. Một mặt, người sử dụng thông tin chỉ quan tâm tới bản chất của thực trạng tài
chính và hiệu quả hoạt động. Chính vì vậy, những nhà quản lý và KTV buộc phải
lựa chọn nội dung trọng yếu đáp ứng được nhu cầu quản lý và đảm bảo chức năng
kiểm toán (xác minh và bày tỏ ý kiến). Mặt khác, yêu cầu đối với chất lượng cuộc
kiểm toán của những người quan tâm cũng ngày càng cao. Xuất phát từ thực tế này,
đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán đã trở thành một trong những nhân tố quan
trọng để có được một kế hoạch kiểm tốn khoa học và hiệu quả, từ đó thiết kế các
phương pháp kiểm tốn phù hợp, tiết kiệm chi phí và nâng cao chất lượng của cuộc
kiểm tốn.
Nhận thức được ý nghĩa đó của tính trọng yếu và rủi ro kiểm tốn trong kiểm
tốn BCTC, em đã chọn đề tài “Tìm hiểu quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro
kiểm tốn trong kiểm tốn BCTC tại Cơng ty TNHH Kiểm tốn và Tư vấn Tài chính
IFC-ACA Group” để hồn thiện chun đề của mình.
Mục đích của chun đề là nhằm bổ sung thêm kiến thức về thực tế áp dụng
quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm tốn BCTC tại một
trong những cơng ty kiểm tốn lớn của Việt Nam, từ đó cung cấp một cái nhìn đầy
đủ hơn về tồn cảnh quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm
toán BCTC.
Kết cấu của chuyên đề gồm 3 phần chính sau:
Chương 1: Đặc điểm đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm
tốn BCTC tại Cơng ty TNHH Kiểm tốn và Tư vấn Tài chính IFC-ACA Group
Chương 2: Thực trạng vận dụng quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro
kiểm tốn trong kiểm tốn BCTC tại Cơng ty TNHH Kiểm tốn và Tư vấn Tài


chính IFC-ACA Group đối với khách hàng

SV: Dương Thị Hồng Vân

Lớp: Kiểm toán 49A


Chuyên đề thực tập chuyên ngành

GVHD: Th.S Bùi Thị Minh Hải

Chương 3: Giải pháp hồn thiện quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro
kiểm toán trong kiểm toán BCTC tại Cơng ty TNHH Kiểm tốn và Tư vấn Tài
chính IFC-ACA Group
Em xin chân thành cám ơn cô giáo, Thạc sĩ Bùi Thị Minh Hải và các anh chị
KTV của Cơng ty tại văn phịng Chi nhánh Hải Phịng đã hướng dẫn và giúp đỡ
em hoàn thành chuyên đề này!

SV: Dương Thị Hồng Vân

Lớp: Kiểm toán 49A


Chuyên đề thực tập chuyên ngành

GVHD: Th.S Bùi Thị Minh Hải

CHƯƠNG 1
ĐẶC ĐIỂM ĐÁNH GIÁ TRỌNG YẾU VÀ RỦI RO KIỂM TỐN
TRONG KIỂM TỐN BCTC TẠI CƠNG TY TNHH KIỂM TỐN VÀ

TƯ VẤN TÀI CHÍNH IFC-ACA GROUP
1.1 Khái qt chung về trọng yếu và rủi ro trong kiểm toán BCTC
1.1.1 Trọng yếu và rủi ro kiểm toán
1.1.1.1 Trọng yếu và đánh giá trọng yếu trong kiểm tốn
Theo cách hiểu thơng thường, trọng yếu là một tính từ chỉ sự quan trọng, thiết
yếu. Một sự vật hay một địa danh đi kèm với trọng yếu đều mang ý nghĩa quan
trọng.
Trọng yếu cũng là một thuật ngữ quan trọng trong kế toán, kiểm toán. Nguyên
tắc trọng yếu là cần chú trọng đến những vấn đề mang tính cốt yếu, quyết định bản
chất và nội dung của sự vật, sự kiện kinh tế xã hội phát sinh. Chính vì vậy, khái
niệm trọng yếu được đề cập ở rất nhiều tài liệu trong nước cũng như quốc tế. Có thể
trích dẫn một số tài liệu sau:
Xét trên góc độ kế tốn, khái niệm trọng yếu được biểu hiện một cách rõ nét
nhất ở mục 09 Chuẩn mực Kế toán Việt Nam số 01 - nguyên tắc trọng yếu: “Thông
tin được coi là trọng yếu trong trường hợp nếu thiếu thơng tin hoặc thiếu tính chính
xác của thơng tin đó có thể làm sai lệch đáng kể báo cáo tài chính, làm ảnh hưởng
đến quyết định kinh tế của người sử dụng báo cáo tài chính. Tính trọng yếu phụ
thuộc vào độ lớn và tính chất của thơng tin hoặc các sai sót được đánh giá trong
hồn cảnh cụ thể. Tính trọng yếu của thơng tin phải được xem xét trên cả phương
diện định lượng và định tính”. Theo đó, ngun tắc này chỉ chú trọng đến những
vấn đề mang tính chất trọng yếu, quyết định bản chất và nội dung của sự vật mà
không quan tâm tới các yếu tố ít ảnh hưởng tới BCTC. Ngồi ra, ngun tắc này
cịn được vận dụng trong việc trình bày trên BCTC, đó là: “Từng khoản mục trọng
yếu phải được trình bày riêng biệt trong báo cáo tài chính. Các khoản mục khơng
trọng yếu thì khơng phải trình bày riêng rẽ mà được tập hợp vào những khoản mục
SV: Dương Thị Hồng Vân

Lớp: Kiểm toán 49A



Chuyên đề thực tập chuyên ngành

GVHD: Th.S Bùi Thị Minh Hải

có cùng tính chất hoặc chức năng” (Mục 21 Chuẩn mực Kế tốn Việt Nam số 21).
Ví dụ, các tài sản riêng lẻ có cùng tính chất và chức năng sẽ được tập hợp vào một
khoản mục, kể cả khi giá trị của khoản mục là rất lớn.
Trong lĩnh vực kiểm toán, khái niệm trọng yếu được đề cập:
Theo Bản cơng bố về Chuẩn mực Kiểm tốn số 47 (SAS 47): “Kiểm toán viên
nên xem xét rủi ro kiểm toán và vấn đề trọng yếu trong khi lập kế hoạch kiểm toán
và thiết kế các thủ tục kiểm toán cũng như khi đưa ra kết luận kiểm toán” (Tr.96, Lý
thuyết kiểm tốn -NXB Tài chính, Hà Nội 2008).
Chuẩn mực Kiểm tốn Việt Nam số 320 “Tính trọng yếu trong kiểm toán”
cũng định nghĩa về trọng yếu như sau: “Trọng yếu là thuật ngữ dùng để thể hiện
tầm quan trọng của một thơng tin (một số liệu kế tốn) trong Báo cáo tài chính.
Thơng tin được coi là trọng yếu có nghĩa là nếu thiếu thơng tin đó hoặc thiếu tính
chính xác của thơng tin đó sẽ ảnh hưởng đến các quyết định của người sử dụng
BCTC. Mức trọng yếu là một ngưỡng, một điểm chia cắt chứ không phải là nội
dung của thơng tin cần phải có. Tính trọng yếu của thông tin phải xem xét cả trên
phương diện định lượng và định tính”.
Theo văn bản chỉ đạo kiểm tốn quốc tế số 25 (IAG 25) về trọng yếu do Liên
đồn Kế tốn quốc tế (IFAC) soạn thảo và cơng bố thì: “Trọng yếu là khái niệm chỉ
tầm cỡ, bản chất của sai phạm (kể cả bỏ sót) thơng tin tài chính hoặc đơn lẻ hoặc
từng nhóm, mà trong bối cảnh cụ thể nếu dựa vào thông tin này để xét đốn thì sẽ
khơng chính xác hoặc là sẽ rút ra kết luận sai lầm”.
Theo Chuẩn mực Kiểm toán Quốc tế số 320 (ISA 320) “Tính trọng yếu trong
kiểm tốn”: “Thơng tin là trọng yếu nếu việc bỏ sót hoặc sai sót của thơng tin đó có
thể ảnh hưởng đến quyết định kinh tế của người sử dụng Báo cáo tài chính. Tính
trọng yếu phụ thuộc vào mức độ quan trọng của các khoản mục hay sai sót được
đánh giá theo bối cảnh cụ thể tạo ra việc bỏ sót hoặc sai sót đó. Vì thế, tính trọng

yếu là một ngưỡng hoặc một điểm định tính cơ bản mà một thơng tin hữu ích cần
phải có”.

SV: Dương Thị Hồng Vân

Lớp: Kiểm toán 49A


Chuyên đề thực tập chuyên ngành

GVHD: Th.S Bùi Thị Minh Hải

Như vậy, trọng yếu, xét trong quan hệ với nội dung kiểm toán, là khái niệm
chung chỉ rõ tầm cỡ và tính hệ trọng của phần nội dung cơ bản của kiểm tốn, có
ảnh hưởng tới tính đúng đắn của việc nhận thức đánh giá đối tượng kiểm toán và
việc sử dụng thơng tin đã đánh giá đó để ra các quyết định quản lý.
Nói đến trọng yếu là ta đang đề cập đến “mức trọng yếu” và “tính trọng yếu”.
Như đã biết, mức trọng yếu là một ngưỡng, một điểm chia cắt chứ không phải là nội
dung của thông tin cần phải có (VSA 320). Đó là mức sai lệch tối đa có thể chấp
nhận được của thơng tin trên BCTC. Vượt qua mức sai lệch này sẽ làm người đọc
BCTC hiểu khơng đúng về tình hình tài chính của đơn vị được kiểm toán. Mức
trọng yếu phụ thuộc vào tầm quan trọng và tính chất của thơng tin hoặc sai sót được
đánh giá trong hồn cảnh cụ thể. Tùy vào đặc điểm kinh doanh của từng khách thể
kiểm toán, KTV sẽ xác định mức trọng yếu theo các tiêu thức khác nhau. Việc xác
định đúng và phù hợp phụ thuộc rất nhiều vào xét đoán nghề nghiệp của KTV. Khi
mức trọng yếu càng thấp thì phạm vi cơng việc càng nhiều, khi đó khả năng khơng
phát hiện sai sót là thấp.
Tính trọng yếu của thơng tin phải được xem xét cả trên hai phương diện: Quy
mô hay tầm cỡ (mặt lượng) và vị trí hay tính hệ trọng (mặt chất) của phần nội dung
cơ bản:

 Về quy mô
Các kiểm tốn và kế tốn viên ln mong muốn có được hướng dẫn cụ thể về
việc xác định mặt lượng của trọng yếu. Quy mô này của đối tượng kiểm toán được
xét chủ yếu trong quan hệ giữa mức độ ảnh hưởng của các khoản mục, các nghiệp
vụ đến kết luận kiểm tốn từ đó tới việc ra quyết định của người sử dụng thơng tin
đã được kiểm tốn.
Khi nhắc tới quy mô, người ta thường liên tưởng đến ngay một con số tuyệt
đối cụ thể. Nhưng đặt trong mối tương quan giữa trị giá từng khoản mục với giá trị
tổng (tổng Tài sản, tổng Nguồn vốn, Doanh thu…) thì từng khách thể kiểm tốn có
quy mơ kinh doanh khác nhau sẽ không thể dùng một con số tuyệt đối làm chuẩn.
Ví dụ: khoản mục có giá trị là 60.000.000 VNĐ có thể là trọng yếu với cơng ty này

SV: Dương Thị Hồng Vân

Lớp: Kiểm toán 49A


Chuyên đề thực tập chuyên ngành

GVHD: Th.S Bùi Thị Minh Hải

nhưng lại là quá nhỏ với công ty khác. Do vậy, khi xem xét đến yếu tố quy mô của
khoản mục và nghiệp vụ, KTV phải quan tâm đến cả “quy mô tuyệt đối” và “quy
mô tương đối” để đánh giá tính trọng yếu một cách đầy đủ và chính xác nhất.
Quy mô tuyệt đối là con số thể hiện mức quan trọng mà khơng cần cân nhắc
thêm bất kì một yếu tố nào khác. Tuy nhiên, trong kiểm toán, KTV khó có thể ấn
định một con số cụ thể về tầm cỡ cho những điểm cốt yếu của nội dung kiểm tốn,
đặc biệt khi có yếu tố tiềm ẩn và khách thể kiểm tốn thì đa dạng cùng với các
nghiệp vụ phong phú, phức tạp.
Quy mô tương đối là mối quan hệ tương quan giữa đối tượng cần đánh giá với

một số gốc. Số gốc thường khác nhau trong mỗi tình huống và thường là các chỉ
tiêu quan trọng trên báo cáo tài chính. Chẳng hạn với BCKQHĐKD, đó là thu nhập
rịng hoặc bình qn thu nhập của mấy năm gần đây (phần đơng kiểm tốn viên
đồng ý rằng nếu tổng hợp các sai phạm mà có tỉ lệ nhỏ hơn 5% so với giá trị thu
nhập rịng thì được coi là không trọng yếu, nhưng nếu lớn hơn 10% thì chắc chắn
trọng yếu) hay doanh thu…; với Bảng cân đối kế tốn, số gốc có thể là tổng tài sản
ngắn hạn hay tổng tài sản; với Báo cáo lưu chuyển tiền tệ, số gốc có thể là doanh
thu thuần…
KTV cần xem xét tới khả năng có nhiều sai sót là tương đối nhỏ nhưng khi
tổng hợp lại có ảnh hưởng trọng yếu đến BCTC như: một sai sót trong thủ tục hạch
tốn cuối tháng có thể trở thành một sai sót trọng yếu, tiềm tàng nếu như sai sót đó
cứ tiếp tục tái diễn vào mỗi tháng. Nói cách khác, khi xem xét về quy mơ của tính
trọng yếu, ngồi quy mơ tuyệt đối và quy mơ tương đối, KTV cũng phải cân nhắc
đến sự ảnh hưởng lũy kế của đối tượng xem xét. Bởi lẽ, có nhiều sai phạm khi xem
xét chúng một cách riêng lẻ thì chúng không trọng yếu do quy mô nhỏ, nhưng nếu
cộng dồn các sai phạm đó thì sẽ phát hiện thấy sự liên quan và tính hệ thống của sai
phạm. Khi đó chúng là trọng yếu.
Quy mơ của tính trọng yếu cịn tùy thuộc vào từng cuộc kiểm tốn có đối
tượng và mục tiêu khác nhau, chẳng hạn, kiểm toán tài chính hay kiểm tốn hoạt
động với chức năng xác minh hay tư vấn… Và tùy thuộc vào khách thể kiểm toán

SV: Dương Thị Hồng Vân

Lớp: Kiểm toán 49A


Chuyên đề thực tập chuyên ngành

GVHD: Th.S Bùi Thị Minh Hải


cũng như phạm vi đối tượng sử dụng BCTC. Phần lớn người sử dụng BCTC sẽ dựa
trên BCTC để ra quyết định. Do đó, theo lý thuyết, KTV cần phải hiểu biết về khả
năng của họ và các quyết định có thể sẽ được lập. Chẳng hạn, nếu KTV biết là hợp
đồng mua bán của đơn vị sẽ dựa vào các BCTC thì số lượng mà KTV cho là trọng
yếu sẽ nhỏ hơn đối với cuộc kiểm toán tương tự ở nơi khác. Tuy nhiên, trên thực tế,
KTV khó biết ai là người sử dụng BCTC và quyết định nào sẽ được thực hiện.
Thật vậy, đối với KTV, việc xác định tính trọng yếu qua quy mơ là khơng dễ
dàng. Do khơng có một chuẩn chung trong cách xây dựng một con số định lượng cụ
thể cho mọi trường hợp nên các cơng ty kiểm tốn sẽ xây dựng cho mình một cách
xác định riêng. Dễ dàng nhận thấy, quy mơ tương đối có nhiều ưu điểm so với quy
mơ tuyệt đối do nó thích hợp với mọi loại hình công ty và thay đổi dựa vào tỉ lệ
phần trăm mà các công ty lấy trên từng khoản mục khác nhau, thích hợp cho việc
ước lượng mức trọng yếu cho các khoản mục và cho toàn bộ BCTC của đơn vị
được kiểm tốn. Các cơng ty kiểm tốn quốc tế và cơng ty kiểm tốn lớn ở Việt
Nam đã xây dựng và sử dụng phương pháp này một cách khá hiệu quả.
 Về tính chất
Khái niệm trọng yếu gắn với tính hệ trọng của vấn đề. Một yếu tố định tính
quan trọng mà KTV cần xem xét đó là bản chất của khoản mục hoặc vấn đề đang
được đánh giá. Liên quan đến vấn đề này, tất cả các hoạt động, khoản mục được
xem là trọng yếu thường bao gồm:
Thứ nhất, các khoản mục, hoạt động có gian lận hoặc chứa đựng khả năng gian
lận
Việc nhận định các nghiệp vụ có gian lận hoặc chứa khả năng gian lận là điều rất
cần thiết vì nó sẽ giúp cho việc đánh giá tính trọng yếu của KTV dễ dàng hơn.
Song, khơng phải lúc nào các nhận định của KTV về các khoản mục, nghiệp vụ này
cũng chính xác. Nó phụ thuộc rất nhiều vào xét đoán nghề nghiệp và kinh nghiệm
của KTV. Sau đây là các trường hợp chứa khả năng xảy ra gian lận cao:

SV: Dương Thị Hồng Vân


Lớp: Kiểm toán 49A


Chuyên đề thực tập chuyên ngành

GVHD: Th.S Bùi Thị Minh Hải

- Các hoạt động đấu thầu và giao thầu, giao dịch khơng hợp pháp: Các hoạt
động này nhiều khi có sự móc nối giữa bên trong và bên ngồi để đem lại lợi ích
cho một vài cá nhân.
- Các hoạt động thanh lí tài sản: Tài sản khi thanh lí có thể đã khấu hao hết hoặc
chưa. Trong nhiều trường hợp, tài sản còn sử dụng tốt nhưng vẫn đem đi thanh lí
với giá rẻ do có sự thơng đồng giữa những người tham gia việc thanh lí.
- Các hoạt động về tiền mặt: Tiền mặt là khoản mục rất dễ xảy ra gian lận do đặc
điểm gọn nhẹ, dễ di chuyển và cất trữ của nó.
- Các hoạt động mua bán và thanh toán: Các hoạt động này hay có sự thơng đồng,
móc nối giữa một số cá nhân tham gia nhằm kiếm lời.
- Các hoạt động bất thường: Đây là các nghiệp vụ xảy ra khơng thường xun,
khó dự tính trước, nhưng khi xảy ra có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến kết quả
chung của toàn doanh nghiệp. Kế tốn thường chưa có kinh nghiệm trong việc ghi
chép các nghiệp vụ này.
- Các hoạt động phân chia quyền lợi: Các hoạt động này liên quan đến lợi ích cá
nhân nên rất dễ xảy ra gian lận do ai cũng muốn thu lợi nhiều nhất về mình.
- Các hoạt động cố ý bỏ ngoài sổ sách: Đây là nghiệp vụ biểu hiện hành vi gian
lận, làm cho BCTC không đầy đủ và chính xác.
- Các hoạt động xảy ra vào cuối kì quyết tốn, hoặc thuộc loại hoạt động mới
phát sinh: Thơng thường vào cuối kì quyết tốn, để làm “đẹp” sổ sách hay điều
chỉnh thừa thiếu, kế toán thường đưa thêm một số bút toán điều chỉnh. Do đó các
nghiệp vụ xảy ra vào thời điểm này thường trọng yếu. Đối với các nghiệp vụ mới
phát sinh, KTV thường đặt ra nghi vấn về lí do phát sinh và cách kế tốn xử lí có

đúng với chế độ hiện hành hay khơng.
- Các khoản mục, chứng từ có sửa chữa: Việc sửa chữa có thể vì ghi sai hay cố ý
thay đổi thơng tin vì một số lí do nào đó. Khi đó, KTV cần phải chú ý đến sự bất
thường này.

SV: Dương Thị Hồng Vân

Lớp: Kiểm toán 49A


Chuyên đề thực tập chuyên ngành

GVHD: Th.S Bùi Thị Minh Hải

Thứ hai, các nghiệp vụ, khoản mục có sai sót hệ trọng
KTV cần phải quan tâm những sai phạm không chủ ý do trình độ, năng lực
của kế tốn nhưng hệ trọng, ảnh hưởng lớn tới kết quả trên BCTC.
- Các khoản mục, hoạt động phát hiện có sai sót ở quy mơ lớn hoặc có chênh
lệch lớn với các kì trước hoặc giữa các nguồn thơng tin có liên quan với nhau.
- Các hoạt động vi phạm nguyên tắc kế tốn và pháp lí nói chung
- Các hoạt động, khoản mục có sai sót lặp lại nhiều lần. Đây chính là sự ảnh
hưởng lũy kế của đối tượng xem xét
- Các khoản mục, hoạt động có ảnh hưởng nghiêm trọng đến kì sau
- Các khoản mục, hoạt động là đầu mối hoặc gây hậu quả liên quan đến nhiều
khoản mục, hoạt động khác của DN
- Các sai sót có ảnh hưởng đến xu hướng lợi nhuận của DN, làm kết quả kinh
doanh chuyển từ lãi sang lỗ hoặc ngược lại
- Sự mơ tả khơng đúng đắn, chính xác về chính sách kế tốn của đơn vị làm cho
người sử dụng BCTC hiểu không đúng về bản chất thông tin…
Tất cả khoản mục, hoạt động thuộc về bản chất của đối tượng kiểm toán đều

liên quan trực tiếp tới việc KTV nhận thức đúng đối tượng và đưa ra ý kiến kiểm
tốn. Do đó, để đảm bảo ngun tắc thận trọng, KTV không thể bỏ qua khoản mục
hay nghiệp vụ đó.
Như vậy, khái niệm trọng yếu đã đặt ra yêu cầu xác định nội dung kiểm toán
cho KTV với nguyên tắc là khơng được bỏ sót các khoản mục hay hoạt động nào có
quy mơ lớn và có tính chất hệ trọng. Vi phạm nguyên tắc này sẽ tạo ra rủi ro kiểm
tốn.
Việc đánh giá trọng yếu có ý nghĩa rất quan trọng trong kiểm toán. Việc đánh
giá trọng yếu được KTV tiến hành thông qua xác định mức trọng yếu kiểm toán.
Mức trọng yếu càng nhỏ tức là đối tượng đánh giá càng quan trọng, càng có ảnh
hưởng lớn. Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, KTV xác định mức trọng yếu
để làm tiêu chuẩn xác định ngưỡng sai sót trọng yếu, từ đó xác định được quy mơ
và lựa chọn các thủ tục kiểm tốn phù hợp. Chuẩn mực Kiểm toán Quốc tế số 320

SV: Dương Thị Hồng Vân

Lớp: Kiểm toán 49A


Chuyên đề thực tập chuyên ngành

GVHD: Th.S Bùi Thị Minh Hải

(ISA 320) quy định: “Khi lập kế hoạch kiểm toán, chuyên gia kiểm toán phải cân
nhắc xem những nhân tố có thể làm phát sinh những sai sót trọng yếu trong báo cáo
tài chính. Đánh giá của chuyên gia kiểm toán về mức độ trọng yếu, liên quan đến
các số dư tái khoản cụ thể và các loại nghiệp vụ giúp họ xác định được khoản mục
nào cần kiểm tra và nên sử dụng phương pháp chọn mẫu hay áp dụng các thủ tục
phẩn tích. Điều này giúp cho chuyên gia kiểm toán lựa chọn những thủ tục kiểm
toán; kết hợp những thủ tục kiểm tốn đó lại với nhau có thể sẽ giảm được rủi ro

kiểm tốn tới được mức độ có thể chấp nhận được”. Trong giai đoạn thực hiện kiểm
toán, dựa vào mức trọng yếu đã được thiết lập và quan hệ của nó với rủi ro kiểm
toán, KTV sẽ lựa chọn và thực hiện các thủ tục kiểm tốn thích hợp nhằm đảm bảo
phát hiện được tất cả những sai phạm mang tính chất trọng yếu. Nếu phát sinh
những yếu tố cho thấy rằng ước lượng ban đầu về mức trọng yếu là chưa phù hợp,
KTV sẽ tiến hành điều chỉnh lại mức trọng yếu cho phù hợp với thực tế. Trong giai
đoạn kết thúc kiểm toán, mức trọng yếu được xác định ở trên là cơ sở để KTV đưa
ra đánh giá của mình về thông tin trên BCTC. Những sai phạm được cho là trọng
yếu sẽ được KTV kiến nghị với khách hàng để tiến hành điều chỉnh. Nếu khách
hàng không chấp nhận điều chỉnh thì tùy thuộc vào tính trọng yếu của sai phạm,
KTV sẽ đưa ra ý kiến chấp nhận từng phần, ngoại trừ hay bác bỏ trong BCKT.
1.1.1.2 Rủi ro và đánh giá rủi ro kiểm toán
Theo Từ điển Tiếng Việt (Nhà xuất bản Văn hóa Thơng tin - 2001), rủi ro là
khái niệm chỉ khả năng xuất hiện một sự kiện không tốt hay một hậu quả không
lường trước được. Đây là sự sai lệch giữa dự kiến và thực tế xảy ra. Mỗi lĩnh vực,
ngành nghề đều mang trong mình rủi ro đặc trưng riêng như: rủi ro đầu tư, rủi ro hối
đối… và kiểm tốn cũng khơng nằm ngồi quy luật đó.
Trong kiểm tốn BCTC, rủi ro kiểm toán là một thuật ngữ gắn liền với trách
nhiệm của KTV. Để hạn chế tối đa rủi ro kinh doanh của mình, các cơng ty kiểm
tốn cần phải hiểu rõ và quản lý rủi ro một cách hiệu quả nhất.
Theo Văn bản chỉ đạo Kiểm toán Quốc tế số 25 (IAG 25) về “Trọng yếu và rủi
ro kiểm toán” do Liên đồn Kế tốn quốc tế (IFAC) soạn thảo và ban hành: “Rủi ro

SV: Dương Thị Hồng Vân

Lớp: Kiểm toán 49A


Chuyên đề thực tập chuyên ngành


GVHD: Th.S Bùi Thị Minh Hải

kiểm toán là những rủi ro mà kiểm toán viên có thể mắc phải khi đưa ra nhận xét
khơng xác đáng về các thơng tin tài chính và đó là sai sót nghiêm trọng.”
Theo Chuẩn mực Kiểm tốn Quốc tế số 400 (ISA 400) và Chuẩn mực Kiểm
toán Việt Nam số 400: “Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ” (VSA 400), rủi ro
kiểm toán được định nghĩa như sau: “Rủi ro kiểm toán là rủi ro do kiểm tốn viên
và cơng ty kiểm tốn đưa ra ý kiến nhận xét khơng thích hợp khi báo cáo tài chính
đã được kiểm tốn cịn có những sai sót trọng yếu”.
Tóm lại, rủi ro kiểm toán là khả năng mà KTV đưa ra ý kiến khơng xác đáng
về tính trung thực và hợp lý của BCTC đã được kiểm toán trong khi BCTC đó cịn
chứa đựng những sai sót trọng yếu. Trên thực tế, ngay cả khi KTV lập được kế
hoạch kiểm tốn một cách chu tồn nhất thì rủi ro kiểm tốn vẫn tồn tại dù muốn
hay khơng, bởi đó là những rủi ro thuộc về bản chất hoạt động của các lĩnh vực,
ngành nghề. Vì vậy, KTV chỉ có thể kỳ vọng vào một mức độ rủi ro có thể chấp
nhận được nhằm bảo đảm khơng cịn các sai sót trọng yếu trên BCTC. Khái niệm
rủi ro kiểm tốn mong muốn được sử dụng thay cho khái niệm rủi ro kiểm toán,
được xác định trong giai đoạn lập kế hoạch nhằm giới hạn trách nhiệm của KTV và
công ty kiểm toán. Rủi ro kiểm toán bắt nguồn từ các sai lệch tiềm ẩn trên BCTC
mà HTKSNB cũng như các thử nghiệm cơ bản của KTV trong quá trình kiểm tốn
khơng thể phát hiện được.
Cũng như tính trọng yếu, việc đánh giá rủi ro kiểm tốn có vai trị rất quan
trọng trong kiểm toán BCTC. Theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400 về
“Đánh giá rủi ro và kiểm sốt nội bộ” thì “Đánh giá rủi ro kiểm tốn là việc kiểm
tốn viên và cơng ty kiểm tốn xác định mức độ rủi ro kiểm tốn có thể xảy ra là
cao hay thấp, bao gồm đánh giá rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát và rủi ro phát
hiện” và “Rủi ro kiểm toán được xác định trước khi lập kế hoạch kiểm toán và trước
khi thực hiện kiểm toán”. Như vậy, rủi ro kiểm toán chủ yếu được KTV xác định
trong giai đoạn thứ nhất của cuộc kiểm toán. Việc xác định rủi ro kiểm toán sẽ giúp
KTV xây dựng kế hoạch trong bố trí nhân sự, thời gian cho cuộc kiểm toán và thiết

kế các thủ tục kiểm tốn thích hợp cho các khoản mục trên BCTC. Từ đó, khơng chỉ

SV: Dương Thị Hồng Vân

Lớp: Kiểm tốn 49A


Chuyên đề thực tập chuyên ngành

GVHD: Th.S Bùi Thị Minh Hải

ảnh hưởng đến mục tiêu đảm bảo chất lượng cho cuộc kiểm tốn mà cịn liên quan
tới vấn đề chi phí của cuộc kiểm tốn. Với những mức rủi ro được xác định và đánh
giá một cách đúng đắn thì các thủ tục sẽ được thiết kế đúng hướng, vừa đảm bảo
chất lượng, vừa tiết kiệm thời gian, công sức và chi phí kiểm tốn.
Do đối tượng kiểm tốn là những thơng tin đã được kiểm sốt qua nhiều giai
đoạn bằng các bộ máy kiểm soát khác nhau nên rủi ro kiểm toán cũng được xác
định tương ứng với từng loại đối tượng kiểm tốn, đó là: Rủi ro tiềm tàng, rủi ro
kiểm soát, rủi ro phát hiện.
- Rủi ro tiềm tàng (Inherent risk – IR)
Rủi ro tiềm tàng là khả năng tồn tại các sai phạm trọng yếu trong BCTC mà
khơng tính đến bất kì hoạt động kiểm tốn nào kể cả kiểm soát nội bộ. Rủi ro tiềm
tàng tồn tại một cách khách quan, xuất phát từ đặc điểm kinh doanh của các lĩnh
vực, ngành nghề, dù có hay khơng hệ thống kiểm sốt nội bộ.
Theo Văn bản chỉ đạo Kiểm toán Quốc tế số 25 (IAG 25) - “Trọng yếu và
rủi ro kiểm toán”: “Rủi ro tiềm tàng là những yếu điểm của số dư tài khoản hoặc
của loại nghiệp vụ đối với những sai sót có thể nghiêm trọng, những sai sót này
hoặc đơn lẻ hoặc có thể kết hợp với các sai sót ở các số dư, các nghiệp vụ khác. Rủi
ro tiềm tàng nằm trong chức năng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, trong
bản chất của số dư tài khoản hoặc loại nghiệp vụ”.

Theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400 (VSA 400) - “Đánh giá rủi ro
và kiểm soát nội bộ”: “Rủi ro tiềm tàng là rủi ro tiềm ẩn, vốn có của từng nghiệp
vụ, khoản mục trong BCTC khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp, cho dù có hay khơng có
hệ thống kiểm sốt nội bộ”.
Tóm lại, rủi ro tiềm tàng hay rủi ro cố hữu là khả năng tồn tại các sai phạm
trọng yếu trong bản thân đối tượng kiểm tốn. KTV khơng tạo ra cũng như khơng
kiểm sốt được mà chỉ có thể đánh giá. Mức độ rủi ro cao hay thấp sẽ phụ thuộc vào
các yếu tố gồm: bản chất kinh doanh của khách hàng, tính trung thực của BGĐ, kết
quả các lần kiểm toán trước, các nghiệp vụ khơng thường xun, các ước tính kế
tốn, số dư tài khoản. Vì thế, để đánh giá rủi ro tiềm tàng một cách chính xác nhất,

SV: Dương Thị Hồng Vân

Lớp: Kiểm toán 49A


Chuyên đề thực tập chuyên ngành

GVHD: Th.S Bùi Thị Minh Hải

KTV phải xem xét tới các yếu tố kể trên. Rủi ro tiềm tàng có quan hệ tỷ lệ thuận với
số lượng bằng chứng kiểm toán mà KTV cần thu thập, cụ thể rủi ro tiềm tàng càng
cao thì số lượng bằng chứng cần thu thập càng nhiều và ngược lại.
- Rủi ro kiểm soát (Control Risk - CR)
Rủi ro kiểm soát là khả năng xảy ra các sai phạm trọng yếu do HTKSNB của
khách hàng không hoạt động hoặc hoạt động không hiệu quả nên đã không phát
hiện và ngăn chặn các sai phạm này.
Theo Chuẩn mực Kiểm toán quốc tế số 25 (ISA 25) - “Trọng yếu và rủi ro
kiểm toán”: “Rủi ro kiểm soát là rủi ro do xác định sai, có thể xảy ra với một số dư
tài khoản hoặc nghiệp vụ. Những sai sót này xảy ra đơn lẻ hoặc có thể kết hợp với

các sai sót của các số dư, nghiệp vụ khác mà hệ thống kiểm sốt nội bộ khơng ngăn
chặn hoặc phát hiện kịp thời. Rủi ro kiểm sốt ln xuất hiện và khó tránh khỏi
những hạn chế có tính bản chất của bất cứ một hệ thống kiểm soát nội bộ nào.”
Theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400 (VSA 400) - “ Đánh giá rủi ro
và hệ thống kiểm soát nội bộ”: “Rủi ro kiểm soát là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu
trong từng khoản mục, nghiệp vụ trong BCTC khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp mà hệ
thống kiểm sốt nội bộ khơng ngăn ngừa hoặc không phát hiện, sửa chữa kịp thời.”
Như vậy, rủi ro kiểm soát được KTV đánh giá đối với từng khoản mục trên
BCTC thơng qua việc tìm hiểu HTKSNB của khách hành đối với khoản mục này.
Rủi ro kiểm soát sẽ ln xuất hiện và khó tránh khỏi do hạn chế cố hữu của bất kì
HTKSNB nào. Cũng như rủi ro tiềm tàng, KTV không tạo ra và cũng không thể
kiểm soát chúng. Hoạt động của HTKSNB của khách hàng càng hiệu quả thì rủi ro
kiểm sốt càng thấp và ngược lại. KTV càng hiểu biết đầy đủ về HTKSNB của
khách hàng thì đánh giá của KTV về rủi ro kiểm sốt càng chính xác. Rủi ro kiểm
sốt và rủi ro tiềm tàng đều xuất phát từ khách thể kiểm toán và cùng chiều với
nhau – tỷ lệ thuận với bằng chứng kiểm toán, nên hai loại rủi ro này thường được
KTV đánh giá đồng thời.
- Rủi ro phát hiện (Detection Risk – DR)

SV: Dương Thị Hồng Vân

Lớp: Kiểm toán 49A


Chuyên đề thực tập chuyên ngành

GVHD: Th.S Bùi Thị Minh Hải

Rủi ro phát hiện là khả năng xảy ra các sai sót hoặc gian lận mà khơng được
ngăn chặn hay phát hiện bởi hệ thống kiểm soát nội bộ và cunhx khơng được KTV

phát hiện trong q trình kiểm tốn.
Theo Chuẩn mực Kiểm toán quốc tế số 25 (ISA 25) - “Trọng yếu và rủi ro
kiểm toán”: “Rủi ro phát hiện là rủi ro mà KTV không phát hiện ra các sai sót trong
số dư các tài khoản và các loại nghiệp vụ. Những sai sót này có thể xảy ra đơn lẻ
hoặc két hợp với các sai sót trong số dư, nghiệp vụ khác. Mức độ rủi ro phát hiện
có mối liên hệ trực tiếp với phương pháp kiểm toán của KTV”.
Theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400 (VSA 400) - “Đánh giá rủi ro
và kiểm soát nội bộ”: “Rủi ro phát hiện là rủi ro các sai sót trọng yếu trong từng
khoản mục, nghiệp vụ trên báo cáo tài chính khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp mà
trong q trình kiểm tốn KTV khơng phát hiện được”.
Tóm lại, rủi ro phát hiện là khả năng BCTC cịn chứa đựng sai phạm trọng
yếu mà KTV khơng thể phát hiện được. Khác với hai loại rủi ro trên, rủi ro phát
hiện không xuất phát từ khách thể kiểm tốn mà có ngun nhân trực tiếp từ nội
dung, thời gian, phạm vi của các thử nghiệm do KTV thực hiện, tức là KTV có khả
năng tạo ra và kiểm soát được loại rủi ro này. Nếu KTV tăng cường các thủ tục
kiểm tra chi tiết trên các số dư tài khoản, nghiệp vụ, mở rộng phạm vi kiểm tra hoặc
tăng quy mơ mẫu của các thử nghiệm thì rủi ro phát hiện sẽ giảm xuống và ngược
lại. Tuy nhiên, khi KTV lựa chọn và áp dụng các phương pháp kiểm tốn khơng
phù hợp, hoặc áp dụng sai, giải thích sai hay nhận định sai kết quả kiểm tốn thì rủi
ro phát hiện vẫn sẽ xảy ra cho dù KTV đã thực hiện kiểm tra 100% số dư các tài
khoản và loại nghiệp vụ. Rủi ro phát hiện tỷ lệ thuận với rủi ro kiểm toán và tỷ lệ
nghịch với số lượng bằng chứng kiểm toán KTV thu thập được.
- Mối liên hệ giữa các loại rủi ro kiểm toán
Mối quan hệ giữa rủi ro kiểm toán và các bộ phận cấu thành được thể hiện
thơng qua mơ hình:
AR=IR*CR*DR

SV: Dương Thị Hồng Vân

Lớp: Kiểm toán 49A



Chuyên đề thực tập chuyên ngành

GVHD: Th.S Bùi Thị Minh Hải

Trên thực tế, mơ hình trên ít được sử dụng. Liên quan đến việc đánh giá rủi ro,
KTV thường tiến hành xác định mức rủi ro phát hiện dựa trên mức rủi ro kiểm toán
mong muốn đã được xác định và việc đánh giá rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm sốt
trong giai đoạn lập kế hoạch theo cơng thức:
DR=AR/(IR*CR)
Mơ hình này cho thấy mối liên hệ chặt chẽ giữa các loại rủi ro kiểm toán. Cụ
thể mối quan hệ này được biểu hiện như sau:
Bảng 1.1: Ma trận rủi ro phát hiện

Đánh giá của KTV về rủi ro kiểm sốt
Cao

Trung bình

Thấp

Đánh giá của

Cao

Thấp nhất

Thấp


Trung bình

KTV về rủi ro

Trung bình

Thấp

Trung bình

Cao

Thấp

Trung bình

Cao

Cao nhất

tiềm tàng

(Nguồn: Chuẩn mực Kiểm tốn Việt Nam số 400 – phụ lục số 01: “Mối liên hệ
giữa các loại rủi ro”)
1.1.1.3 Mối quan hệ giữa trọng yếu và rủi ro kiểm toán
Theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 320 (VSA 320): “Trong một cuộc
kiểm toán, mức trọng yếu và rủi ro kiểm tốn có mối quan hệ tỉ lệ nghịch với nhau,
mức trọng yếu càng cao thì rủi ro kiểm tốn càng thấp. KTV phải cân nhắc tới mối
quan hệ này khi xác định nội dung, lịch trình và phạm vi của các thủ tục kiểm tốn
một cách thích hợp”.

Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, nếu KTV xác định mức trọng yếu là
thấp thì rủi ro kiểm tốn sẽ tăng lên. Khi đó, để làm giảm mức độ rủi ro, KTV có
thể tiến hành các cách sau:
- Mở rộng hoặc thực hiện thêm các thử nghiệm kiểm soát nhằm giảm mức độ
rủi ro kiểm soát đã được đánh giá ban đầu.
- Mở rộng quy mô lấy mẫu hay lựa chọn các thủ tục kiểm toán hiệu quả hơn
nhằm giảm rủi ro phát hiện.

SV: Dương Thị Hồng Vân

Lớp: Kiểm toán 49A


Chuyên đề thực tập chuyên ngành

GVHD: Th.S Bùi Thị Minh Hải

Trong q trình thực hiện kiểm tốn, nếu KTV phát hiện ra rằng mức trọng
yếu phải thấp hơn, dẫn đến rủi ro kiểm tốn sẽ tăng lên, khi đó, KTV cần tăng
cường phạm vi kiểm toán, lựa chọn các phương pháp kiểm toán hiệu quả hơn nhằm
giảm rủi ro phát hiện xuống mức có thể chấp nhận được, từ đó đưa mức rủi ro kiểm
toán về đúng mức dự kiến ban đầu.
Trong giai đoạn kết thúc kiểm toán, trọng yếu và rủi ro có quan hệ tới việc đưa
ra kết luận kiểm toán. Nếu KTV kết luận rằng tổng hợp các sai phạm là trọng yếu,
thì hoặc KTV phải tiến hành các thủ tục kiểm toán bổ sung hoặc yêu cầu BGĐ
khách hàng điều chỉnh lại BCTC nhằm giảm bớt rủi ro kiểm tốn. Nếu BCĐ khơng
chấp nhận điều chỉnh và kết quả thực hiện các thủ tục bổ sung vẫn như trên thì KTV
phải xem xét nhằm đưa ra ý kiến kiểm tốn phù hợp. Bên cạnh đó, nếu rủi ro phát
hiện trong giai đoạn này ở mức cao thì KTV sẽ đưa ra ý kiến chấp nhận từng phần,
ngoại trừ hay bác bỏ.

1.1.2 Vai trò của đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán
BCTC
Đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm tốn có vai trị quan trọng trong bất kì cuộc
kiểm tốn nào. Đây là một thủ tục bắt buộc cần phải thực hiện trước khi tiến hành
kiểm toán. Hơn thế nữa, trọng yếu và rủi ro cịn đóng vai trị xun suốt trong tồn
bộ cuộc kiểm tốn. Trong q trình đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm tốn, KTV sẽ
có sự hiểu biết về khách hàng trên nhiều phương diện.Từ đó, KTV mỗi phần hành
sẽ tự xác định cho mình chương trình kiểm tốn cụ thể đối với phần hành đó.
Trưởng nhóm kiểm toán sẽ xem xét lại và phê chuẩn các thủ tục cụ thể nhằm giúp
cuộc kiểm toán đạt được hiệu quả cao nhất với mức chi phí hợp lý. Mục đích của
việc đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm tốn là giúp KTV xác định nội dung, lịch
trình và phạm vi của các thủ tục kiểm toán sẽ được áp dụng trong giai đoạn thực
hiện kiểm toán và đưa ra kết luận kiểm toán.
1.2 Vận dụng đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán BCTC
tại Cơng ty TNHH Kiểm tốn và Tư vấn tài chính IFC-ACA Group

SV: Dương Thị Hồng Vân

Lớp: Kiểm tốn 49A


Chuyên đề thực tập chuyên ngành

GVHD: Th.S Bùi Thị Minh Hải

1.2.1 Quy trình đánh giá trọng yếu trong kiểm tốn BCTC tại Cơng ty IFCACA Group
Vấn đề trọng yếu có vai trị rất quan trọng trong mỗi cuộc kiểm tốn. Đánh giá
tính trọng yếu là một cơng cụ kiểm tốn hữu hiệu giúp KTV có thể xác định cụ thể
số bằng chứng cần thu thập, từ đó có kế hoạch hợp lí về cách thức và phạm vi áp
dụng các thủ tục kiểm toán, đảm bảo cuộc kiểm toán đạt được cả tính hiệu quả và

tính kinh tế.Vì vậy, việc xây dựng quy trình đánh giá tính trọng yếu là một trong
những công việc đặc biệt cần thiết đối với kiểm tốn mà Cơng ty rất quan tâm. Thực
tế hiện nay khơng có chuẩn mực nghề nghiệp nào quy định hay hướng dẫn cụ thể về
việc đánh giá tính trọng yếu trong kiểm tốn. Do vậy, nhiều cơng ty kiểm toán lớn
và các tổ chức nghề nghiệp đã đưa ra các chính sách nhằm hỗ trợ các KTV thiết lập
mức trọng yếu cho từng cuộc kiểm toán, và IFC-ACA Group cũng đã xây dựng cho
mình một quy trình đánh giá trọng yếu gồm 4 bước sau:

Ước lượng ban đầu về mức
trọng yếu của BCTC

Phân bổ ước lượng ban đầu về
mức trọng yếu cho các khoản
mục trên BCTC

Ước lượng tổng các sai phạm
đối với từng khoản mục

So sánh sai sót tổng hợp với
ước tính ban đầu về trọng yếu
Sơ đồ 1.1: Mơ hình đánh giá trọng yếu tại Cơng ty
(Nguồn: Sổ tay hướng dẫn tiếp cận kiểm tốn của Cơng ty IFC-ACA Group)
SV: Dương Thị Hồng Vân

Lớp: Kiểm toán 49A


Chuyên đề thực tập chuyên ngành

GVHD: Th.S Bùi Thị Minh Hải


Ở đây, các bước của quy trình đã được thực hiện theo phương pháp từ trên
xuống dưới đối với việc phân bổ trọng yếu tức là KTV bắt đầu từ việc ước lượng
mức trọng yếu cho toàn bộ BCTC, sau đó KTV tiến hành phân bổ ước lượng này
cho các khoản mục, nghiệp vụ. Trong đó, 2 bước đầu tiên được thực hiện trong giai
đoạn lập kế hoạch kiểm toán (xác định phạm vi của các khảo sát); 2 bước cịn lại
được thực hiện trong q trình thực hiện cuộc kiểm toán để đánh giá các kết quả thu
được.
Bước 1: Ước lượng ban đầu về mức trọng yếu
Mức trọng yếu ban đầu sẽ được KTV ước lượng trong giai đoạn lập kế hoạch
kiểm tốn, thơng qua việc xác định MPP – Materiality for planning purpose – là
mức độ trọng yếu về số lượng trên phương diện toàn bộ BCTC. Đây là căn cứ đầu
tiên để KTV tiến hành thiết kế các thủ tục kiểm toán nhằm đảm bảo rằng rủi ro
trong việc không phát hiện được các sai phạm trọng yếu được giảm thấp đến mức
có thể chấp nhận được. Do việc xác định mức độ trọng yếu rất quan trọng, không
chỉ ảnh hưởng đến chất lượng của cuộc kiểm tốn mà cịn liên quan tới chi phí cuộc
kiểm tốn, nên thường do thành viên trong BGĐ hoặc nhóm trưởng thực hiện. Sau
đó, nhóm kiểm tốn sẽ tiến hành cơng việc theo mức trọng yếu đã được xây dựng
này. Tại Công ty, căn cứ để xác định mức trọng yếu là LNTT, doanh thu, tổng TS
hoặc VCSH. Trên thực tế, trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, KTV sẽ khơng
thể dự tính hết được các trường hợp có thể xảy ra trong quá trình thực hiện và kết
thúc kiểm tốn nên mức MPP có thể thay đổi trong suốt giai đoạn thực hiện kiểm
tốn. Khi đó, mọi sự thay đổi đều phải trình bày trên giấy tờ làm việc của KTV.
MPP được lựa chọn dựa trên những yếu tố được đánh giá là có thể có gây rủi
ro trọng yếu và phụ thuộc vào tỷ lệ (%) đối với yếu tố đó. Thơng thường, những yếu
tố này được sắp xếp theo thứ tự rủi ro kiểm toán tiềm ẩn giảm dần như sau:

SV: Dương Thị Hồng Vân

Lớp: Kiểm toán 49A



Chuyên đề thực tập chuyên ngành

GVHD: Th.S Bùi Thị Minh Hải

Bảng 1.2: Các cơ sở để đánh giá mức trọng yếu
Yếu tố

Nhỏ nhất

Lớn nhất

5%

10%

0.5%

1%

Lợi nhuận gộp

1%

2%

VCSH

1%


5%

0.25%

0.5%

LNTT
Doanh thu

Tổng TS

(Nguồn: Sổ tay hướng dẫn tiếp cận kiểm tốn của Cơng ty IFC-ACA Group)
Thực tế, chỉ tiêu LNTT thường được cho là có ảnh hưởng nhất, nên thường
được xem xét ưu tiên khi xác định MPP. Trong trường hợp không thể xác định trên
lợi nhuận thì KTV phải xác định yếu tố ảnh hưởng trọng yếu tiếp theo và phải có
lập luận xác đáng cho lựa chọn của mình cụ thể trên giấy tờ làm việc. Thơng
thường, khi khách hàng có một trong các dấu hiệu sau thì KTV cần sử dụng chỉ tiêu
khác ngồi LNTT:
- DN hoạt động khơng có lãi
- Khách hàng có ít hoặc khơng có hoạt động kinh doanh
- Chỉ tiêu LNTT không phản ánh đúng quy mô của DN
- Kết quả hoạt động kinh doanh của khách hàng dao động mạnh
Tuy nhiên, tùy vào thực tế mà việc sử dụng chỉ tiêu nào là phụ thuộc vào xét
đoán nghề nghiệp của thành viên BGĐ và trưởng nhóm kiểm tốn chứ khơng nhất
thiết các chỉ tiêu phải được sử dụng như trên. Dù đã xác định được chỉ tiêu là cơ sở
để xây dựng mức độ trọng yếu thì khi có bất kỳ nghiệp vụ, hay khoản mục bất
thường nào xảy ra có thể làm cho cơ sở tính tốn đó khơng cịn phù hợp, KTV vẫn
cần phải điều chỉnh nhằm phản ánh đúng quy mô, bản chất của khách thể kiểm tốn.
Sau khi có được cơ sở để xác định mức độ trọng yếu, trưởng nhóm kiểm tốn

sẽ tiến hành tính tốn mức độ trọng yếu dựa trên cơ sở đó, từ đó sơ bộ đánh giá mức
độ trọng yếu cho khách hàng. Căn cứ vào mức độ trọng yếu được đưa ra đó, thành
viên BGĐ sẽ quyết định thời gian và các thủ tục kiểm toán cần thực hiện:

SV: Dương Thị Hồng Vân

Lớp: Kiểm toán 49A


Chuyên đề thực tập chuyên ngành

GVHD: Th.S Bùi Thị Minh Hải

- Nếu khách thể có quy mơ lớn, mức trọng yếu thấp thì thời gian kiểm tốn có
thể là từ 15 – 20 ngày, và KTV phải thực hiện đầy đủ các loại thủ tục kiểm toán.
- Nếu khách thể có quy mơ cũng như mức trọng yếu được đánh giá ở mức trung
bình thì thời gian kiểm tốn là 7 – 8 ngày và KTV có thể bỏ bớt một số thủ tục kiểm
tốn khơng bắt buộc.
- Nếu khách thể kiểm tốn có quy mơ nhỏ, mức trọng yếu cao thì thời gian
kiểm tốn trong khoảng 3 – 4 ngày và KTV sẽ chỉ thực hiện những thủ tục kiểm
toán cần thiết nhất.
Bước 2: Phân bổ ước lượng ban đầu về mức trọng yếu cho các tài khoản, khoản
mục trên BCTC
Khi thực hiện kiểm toán, KTV sẽ áp dụng các thủ tục kiểm tốn theo chương
trình để phát hiện ra các sai sót. Tuy nhiên, các thủ tục kiểm tốn chỉ có thể được
KTV xây dựng chi tiết cho từng khoản mục, tài khoản chứ không thể xây dựng chi
tiết và áp dụng cho toàn bộ BCTC. Mặt khác, mức trọng yếu mà KTV xác định ở
bước 1 là cho toàn bộ BCTC. Do vậy, KTV phải tiến hành phân bổ mức ước lượng
ban đầu đó cho từng khoản mục trên BCTC, tức là xác định SMT (Significan
misstatement threshold). Mức độ trọng yếu này chính là cơ sở để KTV thiết lập các

thủ tục kiểm tốn thích hợp liên quan đến mục tiêu kiểm tốn, ước tính quy mơ mẫu
khi sử dụng phương pháp chọn mẫu nhằm kiểm tra nghiệp vụ, đánh giá ảnh hưởng
của sai phạm đến mục tiêu kiểm tốn. Tại Cơng ty, mức trọng yếu khơng được phân
bổ riêng biệt cho từng khoản mục mà giá trị phân bổ được áp dụng chung cho tất cả
các khoản mục trên BCTC theo công thức:
SMT = 75% * MPP
SMT là ngưỡng, là con số tuyệt đối để đánh giá mức độ sai phạm của các
khoản mục trên BCTC. Do sai phạm của từng khoản mục là tổng sai phạm của các
bút tốn liên quan tới khoản mục đó nên KTV cũng xây dựng một ngưỡng đánh giá
trọng yếu là ADPT (Audit diffirence posting threshold) được xác định đồng nhất
cho tất cả các bút tốn theo cơng thức:
ADPT = 5% * MPP

SV: Dương Thị Hồng Vân

Lớp: Kiểm toán 49A



×