Tải bản đầy đủ (.pdf) (274 trang)

Hoàn thiện pháp luật về các hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị trường ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.48 MB, 274 trang )





BỘ TƯ PHÁP
VIỆN KHOA HỌC PHÁP LÝ










BÁO CÁO PHÚC TRÌNH
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP BỘ


HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CÁC HÌNH THỨC SỞ HỮU
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở NƯỚC TA




Chủ nhiệm: PGS.TS Dương Đăng Huệ
Phó CN: TS Nguyễn Viết Tý
Thư ký: TS Trần Thị Thơ










7534
22/10/2009



HÀ NỘI - 2008


2


DANH SÁCH BAN CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI VÀ CỘNG TÁC VIÊN

BAN CHỦ NHỊÊM

1. PGS.TS Dương Đăng Huệ, Chủ nhiệm đề tài
2. TS Nguyễn Viết Tý, Phó Chủ nhiệm
3. TS Trần Thị Thơ, Thư ký đề tài

CỘNG TÁC VIÊN

1. PGS. TS Nguyễn Như Phát - Viện Nhà nước và Pháp luật
2. TS Hoàng Thị Thuý Hằng - Vụ Pháp luật dân sự, kinh tế - Bộ Tư pháp

3. TS Nguyễn Văn Cừ - Trường Đại học Luật Hà Nội
4. TS Phùng Trung Tậ
p - Trường Đại học Luật Hà Nội
5. TS Phạm Công Lạc - Trường Đại học Luật Hà Nội
6. TS Nguyễn Huy Anh - Vụ III - Văn phòng Chính phủ
7. ThS Nguyễn Văn Cương - Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp
8. ThS Nguyễn Chi Lan - Vụ Pháp luật dân sự, kinh tế - Bộ Tư pháp
9. Cử nhân Nguyễn Thị Mai - Vụ Pháp luật dân sự, kinh tế - Bộ Tư pháp
10. Cử nhân Cao Đăng Vinh - Vụ Pháp luật dân sự, kinh tế - Bộ Tư pháp
11. Cử nhân Nguyễn Thị Chính - Vụ Pháp luật quốc tế - Bộ Tư pháp


























3

MỤC LỤC
A. SỰ CẦN THIẾT NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
I. Tính cấp thiết của đề tài
II. Mục tiêu, phương pháp và phạm vi nghiên cứu
B. NHỮNG KẾT QUẢ CHÍNH


Chương 1

1. Những vấn đề lý luận chung về sở hữu và pháp luật về sở
hữu
11
1.1. Bản chất, vai trò của sở hữu trong đời sống kinh tế - xã hội 11
1.1.1. Bản chất của sở hữu 11
1.1.2. Các hình thức sở hữu và nguyên nhân của việc thay thế các hình
thức sở hữu trong xã hội
14
1.1.3. Vai trò của sở hữu trong đời sống kinh tế - xã hội 18
1.2. Pháp luật về sở hữ
u 18
1.2.1. Sở hữu và quyền sở hữu 18
1.2.2. Quyền sở hữu và các loại vật quyền khác 21
1.2.3. Điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ sở hữu ở một số nước

trên thế giới và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam
22

Chương 2
Thùc tr¹ng ph¸p luËt vÒ së h÷u ë ViÖt Nam

2.1. Vai trò chủ đạo của Bộ luật Dân sự năm 2005 trong việc điều
chỉnh pháp luật về
sở hữu ở Việt Nam
40
2.1.1. Bộ luật Dân sự năm 2005 - nguồn cơ bản của pháp luật về sở
hữu ở Việt Nam
40
2.1.2. Những điểm mới của Bộ luật Dân sự năm 2005 về sở hữu so
với Bộ luật Dân sự năm 1995
41
2.2. Thực trạng điều chỉnh pháp luật đối với các hình thức sở hữu

Việt Nam
50
2.2.1. Các hình thức sở hữu ở Việt Nam 50
2.2.2. Thực trạng điều chỉnh pháp luật đối với sở hữu nhà nước 51
2.2.3. Thực trạng điều chỉnh pháp luật đối với sở hữu tập thể 60
2.2.4. Thực trạng điều chỉnh pháp luật đối với sở hữu tư nhân 64
2.2.5. Thực trạng điều chỉnh pháp luật
đối với sở hữu chung 66

Chương 3
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về sở hữu
trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam


3.1. Một số hạn chế của việc điều chỉnh pháp luật đối với sở hữu ở
Việt Nam
70
3.1.1. Việc xác định hình thức sở hữu chưa hợp lý 70
3.1.2. Tên gọi của hình thứ
c sở hữu nhà nước chưa nhất quán 70
3.1.3. Tên gọi của hình thức sở hữu tập thể chưa đúng với bản chất
của nó
70


4

3.1.4. Quyền sở hữu của người nước ngoài còn bị hạn chế 70
3.1.5. Nội hàm một số khái niệm khoa học liên quan đến quyền sở
hữu chưa được làm rõ
71
3.1.6. Cơ chế thực thi quyền sở hữu chưa được xác lập đầy đủ 71
3.2. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về sở hữu 72
3.2.1. Không nên đề cao tính chất chính trị trong xây dựng pháp luật
về sở hữu
72
3.2.2. Hoàn thiện chế định quyền sở hữu trong Bộ luật Dân sự đi đôi
với việc quan tâm hơn nữa việc hoàn thiện các luật chuyên
ngành có liên quan đến sở hữu
73
3.2.3. Kết hợp việc hoàn thiện các quy định về quyền sở hữu với việc
hoàn thiện cơ chế thực hiện quyền sở hữu
73

3.2.4. Bảo đảm sự không phân biệt đối xử giữ
a các hình thức sở hữu 74
3.3. Một số kiến nghị cụ thể 74
3.3.1. Cần sửa đổi Hiến pháp năm 1992 để thay thế hình thức sở hữu
toàn dân bằng hình thức sở hữu nhà nước
74
3.3.2. Cần làm rõ tiêu chí để xác định đúng các hình thức sở hữu đang
tồn tại ở nước ta
75
3.3.3. Cần làm rõ ngoài quyền sở hữu còn có các loại vật quyền khác
và mối quan hệ
giữa quyền sở hữu với các loại vật quyền khác
75
3.3.4. Tiếp tục hoàn thiện các quy định về các loại vật quyền khác 76
3.3.5. Sửa đổi cơ bản cơ chế đăng ký quyền sở hữu và các hình thức
vật quyền khác
76
3.3.6. Cần đổi mới cơ bản cơ chế thực hiện chức năng (quyền) đại
diện chủ sở hữu Nhà nướ
c theo hướng thu hẹp và tiến tới không
còn chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước của các bộ, uỷ ban
nhân dân cấp tỉnh đối với công ty nhà nước
77
3.3.7. Cần tiếp tục củng cố và phát huy vai trò của mô hình Công ty
đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước với tư cách là đại diện chủ
sở hữu nhà nước đối với phần vốn, tài sản nhà nước đầu tư tại
các doanh nghiệp để thay thế chức năng đại diện chủ sở hữu của
bộ, uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trong thời điểm thích hợp
77
3.3.8. Cần xem xét lại bản chất của sở hữu trong các hợp tác xã, nên

coi đó là một dạng cụ thể của sở hữu pháp nhân
78
3.3.9. Cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế bảo vệ quyền và lợi ích của các
xã viên đố
i với tài sản thuộc sở hữu của hợp tác xã
78
3.3.10. Làm rõ thực chất của sở hữu tư nhân là sở hữu cá nhân 79
3.3.11. Cần công nhận một cách có điều kiện quyền sở hữu nhà ở gắn
liền với quyền sử dụng đất cho cá nhân nước ngoài tại Việt
Nam
79

Danh mục tài liệu tham khảo
81







5

DANH MỤC CÁC CHUYÊN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.
Khái niệm, bản chất, hình thức và
vai trò của sở hữu trong đời sống
xã hội
ThS Nguyễn Văn Cương -

Viện Khoa học pháp lý -
Bộ Tư pháp
84
2.
Một số vấn đề về sở hữu ở nước
ta hiện nay
PGS. TS Dương Đăng Huệ -
Vụ Pháp luật DS, KT -
Bộ Tư pháp
98
3.
Pháp luật v
ề sở hữu ở Cộng hoà
liên bang Nga và bài học kinh
nghịêm đối với Việt Nam
PGS. TS Dương Đăng Huệ -
Vụ Pháp luật DS, KT -
Bộ Tư pháp

103
4.
Một số vấn đề về quyền sở hữu
trong Bộ luật Dân sự năm 2005
và hướng hoàn thiện
TS Hoàng Thị Thuý Hằng -
Vụ Pháp luật dân sự, kinh tế -
Bộ Tư pháp
114
5.
Sở hữu chung trong Bộ luật Dân

sự năm 2005
TS Hoàng Thị Thuý Hằng -
Vụ Pháp luật dân sự, kinh tế -
Bộ Tư pháp
130
6.
Thực trạng đ
iều chỉnh pháp luật
đối với sở hữu nhà nước ở Việt
Nam
Cử nhân Cao Đăng Vinh -
Vụ Pháp luật dân sự, kinh tế -
Bộ Tư pháp
135
7.
Thực trạng điều chỉnh pháp luật
đối với sở hữu tập thể ở Việt Nam
TS Trần Thị Thơ - Vụ Pháp luật
dân sự, kinh tế - Bộ Tư pháp
150
8.
Quyền s
ở hữu tài sản của các tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị -
xã hội
TS Phùng Trung Tập -
Trường Đại học Luật Hà Nội
172
9.
Quyền sử dụng đất của cá nhân,

hộ gia đình, tổ chức ở Việt Nam:
Bản chất, nội dung và kiến nghị
hoàn thiện
Cử nhân Nguyễn Thị Mai -
Vụ Pháp luật dân sự, kinh tế -
Bộ Tư pháp
185
10.
Sở hữu theo pháp luật Việt Nam
thời kỳ phong kiến và thuộc địa -
khả năng vận dụng vào việc xây
dựng pháp luật về sở hữu dưới
chế độ XHCN
TS Nguyễn Huy Anh -
Vụ III - Văn phòng Chính phủ
205
11.
Sở hữu theo pháp luật của CHND
Trung Hoa
ThS Nguyễn Chi Lan -
Vụ Pháp luật dân sự, kinh tế -
Bộ Tư pháp
222
12.
Pháp luật v
ề sở hữu ở Cộng hoà
liên bang Đức
Cử nhân Nguyễn Thị Chính -
Vụ Pháp luật quốc tế -
Bộ Tư pháp

255










6


A. SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

1. Lý do nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài này là rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay vì một số lý do
cơ bản sau đây:
Thứ nhất, sở hữu và pháp luật về sở hữu là những vấn đề rất quan trọng đối với
đời sống kinh tế - xã hội, trong khi đó, chúng lại rất ít đượ
c quan tâm nghiên cứu hiện
nay ở nước ta
Trong bất cứ hình thái kinh tế - xã hội nào thì quan hệ kinh tế (quan hệ sản xuất)
vẫn luôn giữ vai trò chủ đạo, quyết định tính chất, nội dung, phương hướng phát triển của
các quan hệ xã hội còn lại khác. Theo quan niệm truyền thống thì, quan hệ kinh tế có ba
bộ phận cơ bản, đó là quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối. Trong các
quan hệ kinh tế
đó thì quan hệ sở hữu có vai trò đặc biệt quan trọng vì nó quyết định tính
chất và nội dung của các quan hệ kinh tế khác là quan hệ quản lý và quan hệ phân phối.

Tóm lại, quan hệ sở hữu có vai trò rất to lớn đối với sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế
của bất cứ một quốc gia nào. Cũng chính vì vậy mà vấn đề sở hữu luôn được ghi nhận
một cách trang trọng trong Hiến pháp, bấ
t cứ là Hiến pháp của nhà nước xã hội chủ nghĩa
hay Hiến pháp của nhà nước tư bản chủ nghĩa.
Việc xác định quan hệ sở hữu một cách đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan
sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các quan hệ kinh tế (nhất là quan hệ trao đổi hàng hoá) phát
triển và ngược lại, sẽ kìm hãm sự phát triển của các quan hệ kinh tế và kéo theo đó là sự
trì trệ của các quan hệ xã hội khác. Điều này đã được thực tế chứng minh rất rõ ở nhiều
nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Trước đây, trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung,
Nhà nước ta chỉ công nhận hai hình thức sở hữu cơ bản là sở hữu toàn dân (sở hữu nhà
nước) và sở hữu tập thể. Các quy định này về sở hữu đã phát huy hiệ
u quả nhất định trong
thời kỳ đất nước có chiến tranh. Tuy nhiên, việc kéo dài quan điểm này về sở hữu sau khi
chiến tranh kết thúc đã làm cho đời sống kinh tế - xã hội của đất nước gặp không ít khó
khăn. Một trong những nguyên nhân chính của tình trạng này là do tình trạng vô chủ trong
khu vực kinh tế tập thể và khu vực kinh tế quốc doanh. Sự vô chủ này (mà lý do chủ yếu
của nó là sự tách rời người lao
động ra khỏi quyền sở hữu của họ đối với tư liệu sản xuất
mà họ đang sử dụng để làm ra của cải vật chất cho xã hội) đã làm cho người lao động
không quan tâm đến năng suất, không hăng hái nhiệt tình trong hoạt động sản xuất, kinh
doanh, không gắn bó với hợp tác xã, xí nghiệp nơi mình đang làm việc. Hậu quả là, sản
xuất bị đình đố
n, đời sống vật chất và tinh thần của đa số người lao động đã rơi vào tình
cảnh khốn khó, nghèo nàn, lạc hậu, đất nước rơi vào khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm
trọng. Trong điều kiện đó, Chỉ thị số 100 (năm 1981) và Nghị quyết 10 (năm 1988) của
Đảng về khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động và đổi mới quản lý nông
nghiệ
p đã phát huy tác dụng, biến Việt Nam từ một quốc gia thiếu ăn, đói kém triền miên
trở thành một nước xuất khẩu gạo đứng hàng thứ hai, thứ ba trên thế giới.

Tóm lại, sở hữu là vấn đề rất quan trọng, có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển
nền kinh tế của bất cứ quốc gia nào, đặc biệt là đối với Việt Nam ta trong giai đ
oạn
chuyển đổi hiện nay. Tuy nhiên, phải nói rằng, sự quan tâm của Nhà nước, giới khoa học
kinh tế và luật học đối với vấn đề này là hoàn toàn chưa thoả đáng. Từ khi xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đến nay, chúng ta đã làm được nhiều việc,


7

giải quyết được nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn, xây dựng được nhiều đạo luật quan
trọng để tạo môi trường pháp lý cho việc định hình và vận hành một cách trôi chảy nền
kinh tế mới. Trong số các đạo luật quan trọng này, đáng lưu ý nhất là Luật Doanh nghiệp
(năm 1999, 2005), Luật Doanh nghiệp Nhà nước (năm 1995, 2003), Luật Hợp tác xã
(năm 1996, 2003), Luật Thương mại (năm 1997, 2005), Luật Các t
ổ chức tín dụng (năm
1997 và năm 2004), Luật Kinh doanh bảo hiểm (2000), Luật Khuyến khích đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam (năm 1993, 1998, 2001, 2003), Luật Xây dựng (năm 2003), Luật Phá
sản (năm 1993, 2004), Luật Cạnh tranh (năm 2004)… Tuy nhiên, về vấn đề sở hữu thì
hầu như chưa có một sự nghiên cứu nào đáng kể ngoài một số quy định rất cô đọng, ngắn
gọn trong Hiến pháp (năm 1992) và Bộ lu
ật Dân sự (năm 1995, 2005). Một sự ứng xử
như vậy của Nhà nước, của các nhà khoa học là hoàn toàn chưa ngang tầm với vị trí và
vai trò, ý nghĩa của vấn đề sở hữu và pháp luật về sở hữu. Vì vậy, việc nghiên cứu nghiêm
túc, đồng bộ, bài bản về vấn đề này là rất cần thiết ở nước ta hiện nay.
Thứ hai, cần phải nghiên cứu vấn
đề này để tạo cơ sở lý luận cho việc giải quyết
những vướng mắc, ách tắc liên quan đến sở hữu, quyền sở hữu do thực tiễn đặt ra hiện
nay mà chưa có cơ sở khoa học để xử lý một cách thoả đánG
Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (năm 1986), cơ chế quản lý kinh tế ở nước

ta đã có một bướ
c chuyển biến quan trọng: chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang
cơ chế kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Từ hơn 20 năm qua, sự chuyển đổi này đã tạo nên nhiều thành tựu to lớn trong đời sống
kinh tế - xã hội của đất nước. Đồng thời với sự chuyển biến theo hướ
ng tích cực, thực tiễn
quản lý kinh tế cũng như thực tiễn sản xuất, kinh doanh cũng đặt ra nhiều vấn đề lý luận
mới, rất phức tạp. Nhiều vấn đề lý luận do thực tiễn đặt ra đã được giải quyết nhưng cũng
không ít vấn đề, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến sở hữu, quyền sở hữu cho đến nay,
vẫn ch
ưa có câu trả lời thoả đáng. Ví dụ:
- Thế nào là chế độ sở hữu, hình thức sở hữu, loại sở hữu? căn cứ khoa học để
phân biệt chúng với nhau là gì cho đến nay vẫn chưa được làm rõ;
- Liệu có nên giữ khái niệm sở hữu toàn dân nữa hay không bên cạnh khái niệm sở
hữu nhà nước?
- Liệu có còn khái niệm sở hữu tập thể nữa hay không hay đó chỉ là một d
ạng của
sở hữu pháp nhân?
- Làm thế nào để doanh nghiệp nhà nước với tư cách là một pháp nhân có quyền
chủ động hơn nữa trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản được Nhà nước
giao?
- Quyền của doanh nghiệp nhà nước đối với tài sản được Nhà nước giao nên gọi là
quyền gì (quyền sở hữu hay quyền quản lý nghiệp vụ hay quyền vận hành kinh tế
như một
số nước (Nga) đã gọi) và mối quan hệ giữa nó với quyền sở hữu của Nhà nước nên thiết
lập lại như thế nào cho phù hợp với cơ chế kinh tế mới?
- Ngoài quyền sở hữu còn có những quyền tài sản nào được gọi là vật quyền?
- Bản chất của quyền sử dụng đất là gì, nó có phải là một quyền sở hữu h
ạn chế
hay không? v.v

Tóm lại, trong vấn đề sở hữu và quyền sở hữu ở Việt Nam hiện nay đang đặt ra không
ít vấn đề về mặt lý luận mà sự chậm trễ trong việc xử lý chúng chắc chắn sẽ gây ra không
ít khó khăn cho các chủ thể kinh doanh và suy cho cùng, sẽ ảnh hưởng không nhỏ đối với
sự phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế đất nước. Trong khi đó, pháp luật v
ề quyền sở


8

hữu được quy định tại hai đạo luật là Hiến pháp và Bộ luật Dân sự (năm 1995, 2005) lại
đang có nhiều điểm bất cập và bất hợp lý. Ra đời ngay sau khi tiến hành đổi mới, Hiến
pháp năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung năm 2001) chỉ quy định 3 hình thức sở hữu ở nước
ta là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó, sở h
ữu toàn dân, sở hữu
tập thể giữ vai trò chủ đạo (Điều 15). Chương IV Bộ luật Dân sự (năm 1995) và Chương
X Bộ luật Dân sự (năm 2005) quy định về các hình thức sở hữu, bao gồm: Sở hữu toàn
dân; sở hữu của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội; sở hữu tập thể; sở hữu tư
nhân; sở hữu của tổ
chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp Những quy định này là
quá đơn giản, có tính liệt kê, không mang tính khái quát, không giải quyết được nhiều vấn
đề cụ thể do thực tiễn vận hành của các quan hệ xã hội đặt ra, do đó, cần phải được
nghiên cứu một cách bài bản để có phương án sửa đổi, bổ sung kịp thời, đáp ứng nhu cầu
của thực tiễn quản lý nhà nướ
c về sở hữu cũng như thực tiễn sản xuất, kinh doanh của các
doanh nghiệp hiện nay.
Thứ ba, phải nghiên cứu vấn đề này nhằm phục vụ đắc lực cho hoạt động xây
dựng pháp luật của nước ta
Hiện nay, Bộ luật Dân sự năm 1995 đã được sửa đổi, bổ sung một cách cơ bản
bằng việc ban hành Bộ luật Dân sự nă
m 2005. Trong các vấn đề được sửa đổi, bổ sung có

vấn đề về hình thức sở hữu. Tuy nhiên, các quy định về sở hữu, nhất là quy định về các
hình thức sở hữu vẫn còn chưa thực sự phù hợp với thực tế khách quan, chưa đảm bảo
tính khoa học, do đó, cần phải tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện. Ví dụ: tại Điều 172 Bộ
luật Dân s
ự năm 2005 vẫn dùng phương pháp liệt kê trong việc xác định các hình thức sở
hữu (sở hữu của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội; sở hữu của tổ chức chính trị
xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp). Ngoài ra, trong khi
Hiến pháp năm 1992 vẫn giữ nguyên tên gọi là “sở hữu toàn dân” thì Bộ luật Dân sự năm
2005 đ
ã thay hình thức sở hữu này bằng một tên gọi khác là “sở hữu nhà nước”. Rõ ràng
đã có sự “vi hiến” trong Bộ luật Dân sự này. Sắp tới, để phục vụ cho cải cách hành chính,
cải cách tư pháp, chắc chắn Nhà nước ta sẽ phải sửa đổi, bổ sung Hiến pháp. Đây là một
công việc lớn, hệ trọng vì sửa đổi Hiến pháp có nghĩa là phải động chạm đến một loạt vấn
đề phức tạp, nền tảng, trong đó có vấn đề về sở hữu. Vì vậy, việc nghiên cứu các vấn đề
về sở hữu hiện nay sẽ góp phần quan trọng vào việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp - một
hoạt động mang tính chất chính trị - pháp lý rất to lớn trong tương lai gần của Đảng và
Nhà nước ta. Và đó cũng là một lý do khiến cho vịêc nghiên cứu Đề tài này trở nên bức
xúc và bổ ích.
Tóm lại, việc nghiên cứu một cách cơ bản đề tài: “Hoàn thiện pháp luật về các
hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị trường ở nước ta” là một việc làm rất cần thiết, góp
phần giúp Đảng và Nhà nước trong việc thiết lập một cách hợp lý các hình thức sở hữu cơ
bản ở Việt Nam, đặc biệt là trong việc sửa đổi, bổ sung Hi
ến pháp và Bộ luật Dân sự
trong thời gian tới.
2. Mục tiêu, phương pháp và phạm vi nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài này nhằm giải quyết ba mục tiêu cơ bản sau đây:
a) Nghiên cứu để phân biệt rõ các khái niệm, thuật ngữ như: chế độ sở hữu, hình
thức sở hữu, loại sở hữu vì những khái niệm này lâu nay được sử dụng mộ
t cách tuỳ tiện

và không có cơ sở khoa học rõ ràng.


9

b) Tìm ra những khuyết nhược điểm trong chế độ pháp lý đối với từng loại hình
thức sở hữu (sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân và sở hữu chung) để có
hướng và biện pháp khắc phục phù hợp.
c) Trên cơ sở tìm ra những hạn chế, bất cập của pháp luật về sở hữu ở Việt Nam và
trên cơ sở ti
ếp thu những kinh nghiệm của các nước, đề tài này sẽ nghiên cứu và đề xuất
các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về các hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị
trường ở nước ta, góp phần thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển, ổn định đời sống
kinh tế - xã hội của đất nước.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Việc hoàn thiện pháp luật về các hình thức sở hữu trong nề
n kinh tế thị trường ở
nước ta được nghiên cứu dựa trên những nền tảng lý luận cơ bản là quan điểm của Chủ
nghĩa Mác - Lênin về sở hữu; đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vậ
t biện
chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như:
phương pháp hệ thống, tổng hợp, phân tích, diễn giải, quy nạp, so sánh pháp luật và tham
khảo ý kiến của các chuyên gia.
2.3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài này nghiên cứu các hình thức sở hữu và quyền sở hữu đối với tài sản. Tài
sản theo quy định của Bộ luật Dân sự là khái niệm rộng, bao gồm v
ật có thực, tiền, giấy
tờ trị giá được bằng tiền và các quyền tài sản. Tuy nhiên, do điều kiện có hạn nên Đề tài

này chỉ nghiên cứu quyền sở hữu tài sản ở phạm vi hẹp, chủ yếu là các tài sản hữu hình, ở
dạng hiện vật. Ngoài ra, Đề tài cũng chỉ nghiên cứu pháp luật liên quan đến các hình thức
sở hữu chủ yếu mà không đi sâu nghiên cứu pháp luật về tấ
t cả các hình thức sở hữu và
các dạng cụ thể của mỗi hình thức sở hữu, ví dụ: không nghiên cứu một cách cụ thể hai
loại sở hữu chung là sở hữu chung theo phần và sở hữu chung hợp nhất hoặc trong hình
thức sở hữu nhà nước đề tài cũng chưa có điều kiện nghiên cứu đến sở hữu của cấp chính
quyền địa phương.
3. Khả
năng ứng dụng của sản phẩm nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu đề tài sẽ có ích cho các đối tượng sau:
- Sinh viên các khoa luật và trường đại học luật
- Giảng viên các khoa luật và trường đại học luật
- Các nghiên cứu sinh về pháp luật
- Những tổ chức, cá nhân khác cần nghiên cứu, tìm hiểu về vấn đề sở hữu
- Đặc biệt đề tài sẽ phục vụ đắc lự
c cho các cơ quan nhà nước (bộ, ngành, Chính
phủ, Quốc hội) trong việc định hướng chính sách, hoàn thiện pháp luật về sở hữu như: sửa
đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992; hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp (Luật Doanh
nghiệp nhà nước, Luật Hợp tác xã), Bộ luật Dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ
luật Dân sự.
4. Các chuyên đề cụ thể
Để đạt được các mục tiêu và nội dung nghiên cứu trên
đây, Ban chủ nhiệm đề tài
đã ký 14 hợp đồng nghiên cứu độc lập với các cộng tác viên là các nhà khoa học, công
chức lãnh đạo, giảng viên và các chuyên gia có bề dày kinh nghiệm công tác am hiểu lĩnh
vực về kinh tế, dân sự. Cụ thể như sau:


10


Chuyên đề 1: Sở hữu và pháp luật về sở hữu ở Cộng hoà liên bang Nga (PGS. TS
Dương Đăng Huệ - Vụ trưởng Vụ Pháp luật dân sự, kinh tế - Bộ Tư pháp)
Chuyên đề 2: Quyền của công ty nhà nước đối với tài sản được Nhà nước giao: Thực
trạng và phương hướng hoàn thiện (TS Nguyễn Viết Tý - Trường Đại học Luật Hà Nội)
Chuyên đề 3: Thự
c trạng điều chỉnh pháp luật đối với sở hữu tập thể ở Việt Nam (TS
Trần Thị Thơ - Vụ Pháp luật dân sự, kinh tế - Bộ Tư pháp)
Chuyên đề 4: Hoàn thiện chế độ pháp lý về quyền sở hữu trong Bộ luật Dân sự năm
1995 (TS Hoàng Thị Thuý Hằng - Vụ Pháp luật dân sự, kinh tế - Bộ Tư pháp)
Chuyên đề 5: Quyền sử d
ụng đất của cá nhân, hộ gia đình, tổ chức ở Việt Nam: Bản
chất, nội dung và kiến nghị hoàn thiện (Cử nhân Nguyễn Thị Mai - Vụ Pháp luật dân sự,
kinh tế - Bộ Tư pháp)
Chuyên đề 6: Thực trạng điều chỉnh pháp luật đối với sở hữu nhà nước ở Việt Nam
(Cử nhân Cao Đăng Vinh - Vụ Pháp luật dân sự, kinh tế - Bộ Tư pháp)
Chuyên đề 7: Sở
hữu và pháp luật về sở hữu ở Cộng hoà liên bang Đức (Cử nhân
Nguyễn Thị Chính - Vụ Pháp luật quốc tế - Bộ Tư pháp)
Chuyên đề 8: Khái niệm, bản chất, hình thức và vai trò của sở hữu trong đời sống xã
hội (ThS Nguyễn Văn Cương - Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp)
Chuyên đề 9: Pháp luật về sở hữu chung ở Việt Nam: Thực trạng và phương hướng
hoàn thiện (TS Nguyễn Văn Cừ - Trường Đại học Luật Hà Nội)
Chuyên đề 10: Quyền sở hữu tài sản của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã
hội (TS Phùng Trung Tập - Trường Đại học Luật Hà Nội)
Chuyên đề 11: Vấn đề sở hữu cá nhân theo pháp luật Việt Nam và phương hướng
hoàn thiện (TS Phạm Công Lạc - Trường Đại học Lu
ật Hà Nội)
Chuyên đề 12: Thực trạng điều chỉnh pháp luật đối với sở hữu tư nhân ở Việt Nam
(PGS. TS Nguyễn Như Phát - Viện Nhà nước và Pháp luật)

Chuyên đề 13: Sở hữu theo pháp luật Việt Nam thời kỳ phong kiến và thuộc địa - khả
năng vận dụng vào việc xây dựng pháp luật về sở hữu dưới chế độ XHCN (TS Nguyễn
Huy Anh - V
ụ III - Văn phòng Chính phủ)
Chuyên đề 14: Sở hữu theo pháp luật của CHND Trung Hoa (ThS Nguyễn Chi Lan -
Vụ Pháp luật dân sự, kinh tế - Bộ Tư pháp)
5. Tiến độ thực hiện
Đề tài bắt đầu được triển khai từ tháng 4/2005 và kết thúc vào cuối tháng 4/2006.
Trong qúa trình thực hiện đề tài, đã có sự liên hệ, phối hợp chặt chẽ, trao đổi, thảo luận
thường xuyên giữa Ban chủ nhịêm đề tài với các cộ
ng tác viên của đề tài và Viện Khoa
học pháp lý. Các chuyên dề nghiên cứu nhìn chung đều đáp ứng yêu cầu, một số chuyên
đề có chất lượng cao. Các chuyên đề đều được Ban chủ nhiệm tổ chức đánh giá, nghịêm
thu đúng quy định. Để hoàn thiện Báo cáo phúc trình về kết quả nghiên cứu đề tài, Ban
chủ nhịêm đã tổ chức xin ý kiến (bằng phiếu) của các chuyên gia, các nhà khoa học về
những vấn đề còn có quan đ
iểm khác nhau.
Tháng 12/2007, Lãnh đạo Viện khoa học pháp lý đã lấy ý kiến nhận xét, phản biện
của hai chuyên gia về Đề tài. Về cơ bản các chuyên gia đánh giá cao kết qủa nghiên cứu,
nhất trí cho nghịêm thu chính thức Đề tài này. Nhóm nghiên cứu đã nghiêm túc tiếp thu ý
kiến của các chuyên gia và hoàn chỉnh lại Báo cáo phúc trình.
Đến nay, Đề tài đã được hoàn thành, Ban chủ nhiệm đề nghị Hội đồng khoa học,
Viện Khoa học pháp lý Bộ Tư pháp xem xét, nghiệm thu Đề
tài theo quy định.


11

B. NHỮNG KẾT QUẢ CHÍNH


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ SỞ HỮU VÀ PHÁP LUẬT VỀ SỞ HỮU

1.1. Bản chất, vai trò của sở hữu trong đời sống kinh tế - xã hội
1.1.1. Bản chất của sở hữu
Sở hữu là phạm trù được quan tâm đặc biệt bởi các ngành khoa học xã hội, nhất là
triết học, kinh tế học và luật học. Đó cũng là điều dễ hiểu bởi các ngành khoa học đó đều
có nghiên cứu về hành vi ứng xử của con người, trong khi đó, sở h
ữu về thực chất là khái
niệm thể hiện mối quan hệ giữa người với người trong quá trình chiếm hữu, sử dụng và
định đoạt của cải vật chất trong xã hội. Tuy được quan tâm, nghiên cứu bởi các ngành
khoa học đó, nhưng cho đến nay, ở Việt Nam cũng như ở các nước, vẫn còn nhiều cách
hiểu khác nhau về sở hữu
1
. Bản thân các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, dù lúc
sinh thời đã đưa ra lý luận của mình về sở hữu, nhất là vấn đề sở hữu tư bản chủ nghĩa,
nhưng cũng chưa bao giờ đưa ra khái niệm về sở hữu
2
. Nội dung lý luận về sở hữu của
Chủ nghĩa Mác - Lênin có thể tóm tắt ở những điểm chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, sở hữu là vấn đề có tính chất lịch sử. Mỗi hình thức sở hữu (dù là sở
hữu tư nhân hay sở hữu cộng đồng.v.v ) đều có vai trò lịch sử nhất định. Không có hình
thức sở hữu nào tồn tại vĩ
nh viễn. Mọi hình thức sở hữu đều có quá trình phát sinh, phát
triển và tiêu vong.
Thứ hai, quá trình thay thế lẫn nhau giữa các hình thức sở hữu là quá trình lịch sử
tự nhiên, theo hướng, sở hữu công cộng của bộ lạc bị thay thế bởi sở hữu tư nhân chiếm
hữu nô lệ. Sở hữu tư nhân chiếm hữu nô lệ bị thay thế bởi sở hữu tư nhân phong kiến. Sở
hữu tư nhân phong kiến bị thay thế bởi sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Sở hữu tư nhân
tư bản chủ nghĩa bị thay thế bởi sở hữu công cộng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa

(sở hữu toàn dân).
Thứ ba, vai trò lịch sử của mỗi hình thức sở hữu là vấn đề có tính khách quan, do
trình độ phát triển c
ủa lực lượng sản xuất quyết định. Điều này có nghĩa là, không thể tùy
tiện xóa bỏ một hình thức sở hữu nhất định theo ý chí chủ quan của Nhà nước hoặc giai
cấp cầm quyền. Muốn xóa bỏ hình thức sở hữu nào đó, thì vấn đề là phải làm sao phát
triển được lực lượng sản xuất để đến lúc trình độ của lực lượng sản xuất t
ự nó làm cho
quan hệ sở hữu trở thành yếu tố kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất và từ đó đòi
hỏi phải có hình thức sở hữu mới phù hợp hơn.
Ngoài ra, chủ nghĩa Mác - Lênin còn đề cập tới tính chất giai cấp của sở hữu. Theo
chủ nghĩa Mác - Lênin, trong xã hội có giai cấp, vấn đề sở hữu có ảnh hưởng quan trọng
đối với việ
c khẳng định vị trí của giai cấp thống trị trong xã hội. Giai cấp nào sở hữu
những tư liệu sản xuất chủ yếu, giai cấp đó sẽ quyết định được vận mệnh của số đông
người lao động
3
. Điều này có nghĩa rằng, vấn đề sở hữu không đơn thuần là vấn đề kinh
tế mà còn là vấn đề có ý nghĩa chính trị. Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định: giai cấp nắm

1
Xem: GS.TS. Phạm Văn Nghiên “Một số quan điểm về đổi mới chính sách kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế” - NXB Chính trị Quốc
gia 1993, tr. 89. Trong tác phẩm này, các tác giả nhận xét “sở hữu là một trong những khái niệm được định nghĩa một cách thiếu
chặt chẽ, được hiểu một cách khác nhau tùy theo các giai đoạn của lịch sử loài người, cũng như ở các nền văn hóa và các thể chế
chính trị-xã h
ội khác nhau”;
Cũng xem: TS Nguyễn Văn Thức - Sở hữu - Lý luận và vận dụng ở Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, 2004, trang 39;
2
Xem: TS Nguyễn Văn Thức, Sở hữu: Lý luận và vận dụng ở Việt Nam - NXB Khoa học xã hội 2004, trang 11.
3

Xem: Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam - ĐH Luật Hà Nội - NXB Công an Nhân dân 2002, trang 148-149.


12

tư liệu sản xuất trong tay sẽ là giai cấp quyết định chế độ xã hội, giữ quyền thống trị về
chính trị và tư tưởng đối với xã hội
4
.
“Sở hữu” theo nghĩa Hán Việt được ghép từ 2 chữ “sở” (của mình) và “hữu” (có)
vì thế sở hữu được giải thích là “cái mình có”
5
. Theo cách hiểu thông thường này, “sở
hữu” sẽ bị đồng nhất với “cái mình có” - tức là bị đồng nhất với chính “tài sản” - đối
tượng của sở hữu. Cách giải thích về “sở hữu” này rõ ràng có lỗi về mặt lô-gíc, khó có thể
được chấp nhận làm khái niệm khoa học.
Cũng có quan điểm cho rằng “sở hữu” là “việc chiếm giữ những sản vật tự nhiên,
những thành quả lao
động của xã hội loài người”
6
. Theo cách hiểu này, sở hữu là hành vi
tương tác của con người với những đối tượng nhất định (tài sản) vốn là một bộ phận của
thế giới tự nhiên.
Dưới giác độ triết học và kinh tế học, khái niệm “sở hữu” thường bị đồng nhất với
khái niệm “quan hệ sở hữu”. Cuốn Từ điển kinh tế do nhà xuất bản Sự th
ật ấn hành năm
1979 tại trang 381 có định nghĩa về sở hữu như sau: sở hữu là “quan hệ giữa người với
người trong việc chiếm hữu tư liệu sản xuất và của cải vật chất được tạo ra nhờ tư liệu sản
xuất ấy”. Chia sẻ cách tiếp cận này, gần đây, một số học giả ở Việt Nam nghiên cứu
chuyên sâu về

sở hữu như TS. Nguyễn Văn Thức (2004)
7
, PGS. TS. Nguyễn Văn Thạo,
TS. Nguyễn Hữu Đạt (2004)
8
đã đưa ra định nghĩa về sở hữu như sau: Sở hữu là quan hệ
giữa con người với con người đối với việc chiếm hữu của cải và thông qua quan hệ ấy con
người thực hiện thỏa mãn các nhu cầu của mình.
Dưới giác độ pháp lý, thuật ngữ “sở hữu” thường được sử dụng đồng nhất với khái
niệm “quyền sở hữu”
9
- một khái niệm pháp lý đã tồn tại từ thời La Mã cổ đại. Theo cách
tiếp cận này, với các quốc gia thuộc hệ thống luật châu Âu lục địa, “quyền sở hữu”thường
được hiểu là tập hợp nhóm quyền đối với tài sản, cụ thể đó là tập hợp nhóm 3 quyền là
quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt
10
. Với các nước theo hệ thống luật
án lệ (common law), định nghĩa về “quyền sở hữu” được chấp nhận rộng rãi là định nghĩa
về quyền sở hữu của luật gia William Blackstone - một luật gia nổi tiếng người Anh đưa
ra từ cuối thế kỷ 18
11
. Theo định nghĩa này, “quyền sở hữu” (property) là “độc quyền chi
phối tuyệt đối đối với một bộ phận của thế giới bên ngoài (một vật), và ngăn cản tất cả
mọi người khác tiếp cận với vật ấy”
12
. Tuy khái niệm này mới hình dung tới quyền sở hữu
đối với tài sản là vật hữu hình, chưa hình dung tới quyền sở hữu đối với các loại tài sản vô
hình (trong đó có tài sản trí tuệ) mà thời luật gia Blackstone sống hầu như chưa đặt ra

4

Xem: giáo trình Luật Dân sự Việt Nam - ĐH Luật Hà Nội - NXB Công an Nhân dân 2002, trang 148-149.
Cũng xem: Giáo trình Triết học Mác-Lênin, Hội đồng trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác-
Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh - NXBCTQG, 1999, tr. 440.
5
Xem: GS. Nguyễn Lân - Từ điển từ và ngữ Hán Việt - NXB Từ điển bách khoa 2002, trang 588-589.
6
Xem: Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam - Trường ĐH Luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân, 2002, trang 147.
7
Xem: TS Nguyễn Văn Thức, Sở hữu: Lý luận và vận dụng ở Việt Nam - NXB Khoa học xã hội 2004, trang 42.
8
Xem: PGS. TS. Nguyễn Văn Thạo, TS. Nguyễn Hữu Đạt, Một số vấn đề về sở hữu ở nước ta hiện nay - NXB Chính trị quốc gia, H.
2004, trang 45.
9
Điều 544 Bộ luật dân sự Pháp quy định “sở hữu” là “quyền hưởng lợi và định đoạt những tài vật một cách tuyệt đối, miễn việc sử
dụng không bị luật lệ cấm đoán” (Xem: LS. Triệu Quốc Mạnh, Pháp luật và dân luật đại cương, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 2000,
tr. 245).
Điều 206 BLDS Nhật Bản quy định “sở hữu” là “quyền sử dụng, thu lợi, định
đoạt tài sản theo các giới hạn mà pháp luật quy định”
(Xem: Hiroshi Oda, Japanese Law, 2
nd
edition, Oxford, 1999, tr. 155).
Ở các nước theo hệ thống luật án lệ (Common Law), sở hữu được hiểu là “tập hợp các quyền sử dụng và thụ hưởng một tài sản,
bao gồm cả quyền chuyển nhượng tài sản đó cho người khác” (Từ điển Black’s Law Dictionary - xuất bản năm 1991, dẫn theo Luật
sư Triệu Quốc Mạnh, sđd, tr. 246) .
10
Xem: TS. Phạm Duy Nghĩa, Chuyên khảo Luật Kinh tế - NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004, trang 145.
11
Xem:
12
Ownership: A case study in the representation of legal concepts – L. Thorne McCarty – GS ĐH Rugers, New Jersy (Hoa Kỳ),

2001, trang 2.


13

nhưng yếu tố “độc quyền chi phối” đối với tài sản rõ ràng là bộ phận cấu thành nên nội
dung quyền sở hữu.
Như vậy, theo cách quan niệm chung (dù là theo hệ thống common law hay hệ
thống civil law) thì quyền sở hữu không phải là loại quyền không thể phân chia. Ngược
lại, quyền sở hữu có thể chia thành những quyền năng thành phần. Chẳng hạn, quyền sở
hữu có thể
chia thành quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt (bao gồm quyền
cho thuê, cho mượn, chuyển giao tài sản, quyền đòi lại tài sản .v.v ). Chính vì thế, không
phải không có lý khi coi quyền sở hữu là một nhóm các quyền (a bundle of rights) của
những chủ thể nhất định đối với tài sản
13
như cách quan niệm của luật gia khá nổi tiếng
người Mỹ từ năm 1913 - Wesley Hohfeld
14
.
Ở đây cũng cần lưu ý về sự khác biệt giữa thuật ngữ “quyền sở hữu” với “chủ
quyền” (sovereignty). Đây là 2 khái niệm khác nhau. Chủ sở hữu chỉ có quyền sở hữu đối
với tài sản chứ không thể có chủ quyền với tài sản. Chủ quyền là loại quyền năng chính trị
đặc biệt mà chỉ Nhà nước mới có thể có được. Chính vì thế, tuy không ph
ải là chủ sở hữu
tài sản, nhưng do có chủ quyền, Nhà nước có thể can thiệp vào quá trình thực thi quyền sở
hữu của các chủ thể trong xã hội. Nhà nước có thể có những hành vi hạn chế quyền sở
hữu của các chủ thể trong xã hội theo các trình tự, thủ tục pháp luật quy định.
Trong bối cảnh sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế ngày càng lớn, quyền sở
hữu c

ủa các thành viên trong xã hội (cá nhân, pháp nhân) ngày càng chịu nhiều ràng buộc
từ phía Nhà nước, có luồng quan điểm cho rằng sở hữu cần được quan niệm không chỉ
đơn thuần chỉ là một nhóm quyền mà phải bao gồm cả những nghĩa vụ đi kèm. Theo cách
quan niệm ấy, sở hữu sẽ là một nhóm quyền và nghĩa vụ của một chủ thể đối với một tài
sản (a bundle of rights and obligations)
15
.
Khi xây dựng Bộ luật Dân sự năm 1995 của Việt Nam (và gần đây là Bộ luật Dân
sự năm 2005), các nhà làm luật dường như cũng đã chia sẻ cách tiếp cận này
16
. Các quy
định về sở hữu trong Bộ luật không chỉ có các quy định về các quyền của chủ sở hữu mà
còn chứa đựng cả các quy định về hạn chế quyền sở hữu (tức là những nghĩa vụ mà chủ
sở hữu phải gánh chịu đi kèm với việc có quyền sở hữu).
Bộ luật Dân sự năm 1995 và năm 2005 đã đưa ra những khái niệm pháp lý cơ
bản
liên quan đến “sở hữu” và “quyền sở hữu” trong pháp luật Việt Nam. Cụ thể Điều 164 Bộ
luật Dân sự năm 2005 quy định “quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng
và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật. Chủ sở hữu là cá
nhân, pháp nhân, chủ thể khác có đủ ba quyền là quyền chi
ếm hữu, quyền sử dụng, quyền
định đoạt tài sản”. Điều 165 Bộ luật Dân sự năm 2005 còn quy định: “chủ sở hữu được
thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình đối với tài sản nhưng không được gây thiệt hại
hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp
của người khác”. Điều 169 Bộ lu
ật Dân sự năm 2005 cũng quy định: “chủ sở hữu có
quyền tự bảo vệ, ngăn cản bất cứ người nào có hành vi xâm phạm quyền sở hữu của

13
Xem: Property, trong từ điển Wikipedia

14
Xem: Wesley Hohfeld, “Some fundamental legal conceptions as applied in judicial reasoning” (Một số khái niệm cơ bản được sử
dụng trong lập luận của tòa án”, 23 Yale Law Review 16.
15
Xem:
Cũng xem: Ownership: A case study in the representation of legal concepts – L. Thorne McCarty – GS ĐH Rugers, New Jersy (Hoa
Kỳ), 2001, trang 2.
16
Xem: PTS. Hoàng Thế Liên – Bình luận khoa học một số vấn đề cơ bản của Bộ luật dân sự, NXB Chính trị Quốc gia, H. 1997,
trang 85.


14

mình, truy tìm, đòi lại tài sản bị người khác chiếm hữu, sử dụng, định đoạt không có căn
cứ pháp luật”.
Việc tồn tại quyền sở hữu chính là cơ sở pháp lý quan trọng để một chủ thể tiến
hành các hành vi tương tác với tài sản mà các chủ thể khác trong xã hội phải tôn trọng do
được pháp luật bảo hộ. Quyền sở hữu chính là quyền tiếp cận với tài sả
n và có các hành vi
khai thác, sử dụng, phát huy công dụng và cả bảo vệ tài sản. So sánh giữa chủ sở hữu với
các chủ thể không phải là chủ sở hữu trong xã hội, chúng ta có thể coi rằng “quyền sở
hữu” là độc quyền chi phối, khai thác, quyết định số phận của tài sản. Chỉ có chủ sở hữu
mới có “độc quyền” này. Do đó, nhờ sự tồn tại của sở hữu, ch
ủ sở hữu có ưu thế so với
các chủ thể khác trong việc chi phối, khai thác, quyết định số phận của tài sản. Trên cơ sở
đó, chúng ta có thể nói rằng, sự tồn tại của quan hệ sở hữu chính là sự thừa nhận của xã
hội về phân tầng giữa các tổ chức, cá nhân trong việc tiếp cận đối với các nguồn lực khan
hiếm trong xã hội (tài sản và các sản ph
ẩm có nguồn gốc từ tài sản).

Sở hữu chung của toàn thể cộng đồng - sở hữu công cộng hoặc sở hữu toàn dân tạo
điều kiện cho mọi thành viên trong xã hội được bình đẳng trong việc tiếp cận và sử dụng,
hưởng thành quả từ việc sử dụng, khai thác các nguồn lực trong xã hội (nhất là các tài
sản). Trong khi đó, sự tồn tại của các hình thức sở hữu mà ch
ủ thể sở hữu chỉ là hữu hạn,
nhóm người hoặc từng cá nhân luôn là dấu hiệu thừa nhận tình trạng bất bình đẳng giữa
các thành viên xã hội trong việc tiếp cận nguồn lực (tài sản trong xã hội). Do có sự tồn tại
của quan hệ sở hữu kiểu này (đặc biệt là sở hữu tư nhân) mà xã hội đã bị phân tầng thành
kẻ giàu, người nghèo - một cơ cấu xã hộ
i ở chừng mực nhất định có tác dụng kích thích
xã hội phát triển (dù chính điều đó cũng có thể tiềm ẩn nhiều điểm bất ổn).
Như vậy, có thể đưa ra khái niệm sở hữu dưới giác độ pháp lý (tức là quyền sở
hữu) như sau: (quyền) sở hữu là độc quyền chi phối đối với một tài sản nhất định và ngăn
cản ng
ười khác xâm phạm độc quyền chi phối tài sản này - (quyền) sở hữu như vậy về
bản chất là một đặc quyền, một độc quyền.
1.1.2. Các hình thức sở hữu và nguyên nhân của việc thay thế các hình thức sở hữu
trong xã hội
1.1.2.1. Hình thức sở hữu
Hình thức sở hữu là cách thức biểu hiện, là phương thức tồn tại của các quan hệ sở
hữu. Trong lị
ch sử nhân loại, quan hệ sở hữu đã từng tồn tại dưới nhiều hình thức sở hữu
khác nhau như sở hữu bộ lạc, sở hữu công xã, sở hữu gia đình, sở hữu cá nhân, sở hữu
chung, sở hữu tập thể, sở hữu công cộng .v.v Xét về mặt lịch sử, hình thức sở hữu cá
nhân đối với tài sản (coi mỗi cá nhân là chủ thể đ
ích thực của các quan hệ xã hội, quan hệ
pháp luật) chỉ thực sự xuất hiện cùng với quá trình giải phóng tư cách chủ thể của cá nhân
khỏi các thiết chế liên quan (như bộ lạc, thị tộc, gia đình.v.v ). Về thực tiễn lịch sử, hình
thức sở hữu cá nhân được hình thành và bộc lộ rõ nét cùng với phong trào Phục Hưng,
Khai sáng và cách mạng tư sản từ khoảng thế kỷ XVI đến th

ế kỷ XIX. Đến thế kỷ XIX,
cùng với các Bộ luật Dân sự nổi tiếng được ra đời trong đó phải kể đến Bộ luật Dân sự
Napoleon, cá nhân con người mới được các bộ luật chính thức thừa nhận là chủ thể của
các quan hệ sở hữu. Trước đó, cá nhân con người thường bị lẩn khuất trong các “thiết chế
xã hội” như gia đình, cộng đồng, công xã.v.v Hiệ
n nay, giữa hai hình thức sở hữu có
tính chất đối lập là sở hữu tư nhân và sở hữu công cộng thường tồn tại nhiều dạng hình
thức sở hữu trung gian như sở hữu chung, sở hữu tập thể, sở hữu nhà nước .v.v


15

Nhìn chung, cách quan niệm về các loại hình thức sở hữu ở phương Tây và Việt
Nam có nhiều rất khác biệt.
Ở phương Tây, người ta quan niệm có ba dạng (hoặc ba hình thức) sở hữu cơ bản
là sở hữu tư nhân (private property), sở hữu tập thể (collective property) hoặc đôi khi còn
gọi là sở hữu cộng đồng (communcal ownership hoặc common property) và sở hữu công
cộng (common property)
17
. Theo chế độ sở hữu công cộng thì tài sản thuộc loại hình sở
hữu này sẽ thuộc về tất cả mọi người, mọi người đều có quyền tiếp cận (ví dụ đồng cỏ tự
nhiên, công viên .v.v ). Theo chế độ sở hữu tập thể (hay sở hữu cộng đồng), tài sản thuộc
về một cộng đồng người cụ thể và chỉ có cộng đồ
ng người đó mới có quyền quyết định về
cách sử dụng và định đoạt tài sản. Theo chế độ sở hữu tư nhân, tài sản thuộc về những cá
nhân con người cụ thể hoặc một pháp nhân tư (công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm
hữu hạn chẳng hạn) và các quyết định liên quan tới tài sản là thuộc về riêng cá nhân, pháp
nhân đó
18
. Chính vì thế, sở hữu tư nhân đôi khi còn được gọi là “sở hữu riêng” (individual

ownership)
19
. Ngoài ra còn có sở hữu chung trong trường hợp quyền sở hữu đối với một
vật thuộc nhiều người (chủ thể). Có hai loại sở hữu chung: sở hữu chung theo phần và sở
hữu chung hợp nhất.

Ở các nước tư bản phương Tây, không có quan niệm về sở hữu toàn dân theo kiểu
như sở hữu toàn dân ở Việt Nam. Sở hữu công cộng ở phương Tây được hiểu là hình thức
sở hữu mà tài sản có thể được mọi người dân tiếp cận tự do. Ở Việt Nam, tài sản thuộc sở
hữu toàn dân nói chung là do Nhà nước quản lý hoặc do tổ chức được Nhà nước ủy quyền
qu
ản lý, sử dụng, định đoạt (cơ quan nhà nước, doanh nghiệp nhà nước).
Ở các nước tư bản phương Tây cũng có khái niệm sở hữu nhà nước mà các học giả
Việt Nam thường gọi là sở hữu tư bản nhà nước
20
. Tài sản thuộc sở hữu nhà nước được
giao cho các cơ quan nhà nước và các doanh nghiệp công (doanh nghiệp nhà nước) nắm
giữ. Tài sản này được hình thành chủ yếu từ nguồn thuế thu của dân, từ nguồn vay của
dân (trái phiếu chính phủ) hoặc từ hoạt động của chính các doanh nghiệp nhà nước. Một
số nhà nước phương Tây trong một thời gian dài sau thế chiến thứ hai đến trước khi kết
thúc chiến tranh lạnh (1991) đ
ã thành lập hàng loạt doanh nghiệp nhà nước nắm giữ độc
quyền kinh doanh và chi phối một số ngành kinh tế quan trọng như khai thác, điện, điện
thoại.v.v Tuy nhiên, sau những trục trặc xuất phát từ sự thiếu minh bạch về cơ chế
khuyến khích lợi ích và phân chia trách nhiệm trong các doanh nghiệp nhà nước, nhiều
quốc gia đã tiến hành phong trào tư nhân hóa (nhất là từ cuối thập niên 1970 đến nay)
chuyển các doanh nghiệp nhà n
ước thành các công ty do tư nhân nắm giữ và quản lý với
hy vọng nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp này. Tuy nhiên, thực tế, hình
thức sở hữu nhà nước ở các nước phương Tây vẫn tồn tại.

Như vậy, có thể thấy, tiêu chí để phân định các hình thức sở hữu trong nhiều
trường hợp không phải hoàn toàn rõ ràng. Tuy nhiên, các hình thức sở hữu khác nhau chủ
yếu ở ba yếu tố chính:
+ Chủ thể
của quyền sở hữu (chủ sở hữu là người mang quyền lực nhà nước hay
không mang quyền lực nhà nước, số lượng chủ thể bao nhiêu .v.v ?).

17
Xem: Mục “property” trong Từ điển triết học - Đại học Standford – Hoa Kỳ (
18
Xem: Mục “property” trong Từ điển triết học - Đại học Standford – Hoa Kỳ (
19
Xem:
20
Xem: Nguyễn Đăng Dung, giáo trình Luật Hiến pháp của các nước tư bản, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 2001, trang 78.


16

+ Nội dung các quyền năng mà chủ sở hữu có thể có (chủ sở hữu có thể bị hạn chế
quyền sở hữu của mình đến mức nào?).
+ Loại tài sản mà chủ sở hữu có thể có (đối với mỗi loại chủ sở hữu thì có thể sở
hữu những loại tài sản nào?). Chẳng hạn, đối với sở hữu tư nhân, ở Việt Nam, pháp luậ
t
không công nhận quyền sở hữu tư nhân đối với đất đai. Chính vì thế, đất đai chỉ có thể là
tài sản thuộc sở hữu Nhà nước, không thể là tài sản mà các cá nhân, pháp nhân có thể sở
hữu được.
1.1.2.2. Nguyên nhân của việc thay thế các hình thức sở hữu trong xã hội
Áp dụng mô hình kinh tế tư bản chủ nghĩa, nhiều quốc gia phương Tây đã triệt để
khai thác và áp dụng chế độ s

ở hữu tư nhân về tài sản. Sở hữu tư nhân được coi là một
thành tố quan trọng của nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, vì sao sở hữu tư nhân nảy sinh,
thay thế các hình thức sở hữu cộng đồng đã tồn tại trước đó thì chính các học giả phương
Tây cũng còn tranh cãi. Phần dưới đây, chúng tôi xin trình bày những quan điểm cơ bản
của nhà kinh tế học pháp luật Harold Demsetz - mộ
t trong những nhà lý luận hàng đầu về
quyền sở hữu ở các nước tư bản phương Tây hiện nay.
Trong tác phẩm “Toward a theory of property rights” (Tiến tới xây dựng một lý
thuyết về quyền sở hữu) xuất bản trên tờ Tạp chí kinh tế Hoa Kỳ
21
năm 1967, Harold
Demsetz đã lần đầu tiên đưa ra một cách giải thích tương đối hệ thống về lý do quyền sở
hữu tư nhân được nảy sinh để thay thế cho tình trạng vô chủ hoặc tình trạng sở hữu cộng
đồng đối với một số tài sản nhất định.
Tinh thần chung trong lý thuyết của Harold Demsetz về sở hữu là sở dĩ người ta
trao quyền sở hữu tư
nhân thay cho các hình thức sở hữu khác (nhất là sở hữu chung của
một nhóm người, sở hữu chung của cộng đồng) là vì bị thúc đẩy bởi lý do “hiệu quả sử
dụng nguồn lực” trong xã hội. Theo Harold Demsetz, trong xã hội dường như có một
khuynh hướng rất tự nhiên là nhu cầu cải thiện tính hiệu quả trong việc sử dụng nguồn lực
trong xã hội. Khi mà tình trạng vô chủ đối với một số tài s
ản dẫn tới hệ quả về sự khai
thác quá mức tài sản, không lưu ý tới sự bồi bổ, phát triển tài sản, thì giải pháp đối phó
với tình trạng này là trao cho các thành viên của cộng đồng quyền “sở hữu tư nhân”,
nhằm tạo ra “tình trạng khan hiếm” về “quyền sở hữu” để tài sản của ai thì do người đó tự
mình chiếm giữ, sử dụng và định đoạt. Bằ
ng cách ấy, xã hội có thể tránh được tình trạng
khai thác cạn kiện nguồn tài nguyên và nhờ đó con người sẽ khai thác, sử dụng một cách
hiệu quả hơn
22

.
Như vậy, theo Horald Demsetz, sở hữu tư nhân được hình thành thay thế cho sở
hữu công cộng, sở hữu tập thể là nhằm khuyến khích tinh thần trách nhiệm trong khai
thác, sử dụng các nguồn lực trong xã hội. Nhờ việc biến tài sản thuộc sở hữu chung, sở
hữu cộng đồng thành sở hữu tư nhân, các thành viên cộng đồng sẽ ý thức rõ hơn về tính
khan hiếm nguồn lực trong xã hội và sử
dụng tài sản một cách hiệu quả, có trách nhiệm
hơn. Cũng nhờ đó, năng suất lao động, năng suất sử dụng các nguồn lực trong nền kinh tế
được nâng lên. Có thể coi, giải pháp “tư nhân hóa” tài sản công cộng trong lý thuyết về sở

21
Harold Demsetz, Toward a Theory of Property Rights, 57 Am. Econ. Rev. 347, 347 (1967).
Xem thêm: Harold Demsetz, Toward a Theory of Property Rights II: The Competition Between Private and
Collective Ownership, 31 J. Legal Stud. S653, S653 (2002).
22
Xem: Thomas W. Merrill, Introduction: The Demsetz thesis and the Evolution of property rights, the Journal of
Legal Studies, June, 2002.


17

hữu của Harold Demsetz là cách thức làm cho mỗi thành viên trong cộng đồng nhận thức
rõ hơn về tính khan hiếm của các nguồn lực hữu ích trong xã hội.
Việc công nhận sở hữu tư nhân, bảo vệ sở hữu tư nhân, bảo vệ khả năng chuyển
nhượng tài sản thuộc sở hữu tư nhân được coi là một trong những biện pháp khuyến khích
“phúc lợi xã hội” (social welfare). Chí ít, việc công nhận sở hữu t
ư nhân với quy tắc cơ
bản là người nào đầu tư vào tài sản thuộc sở hữu của mình thì người đó phải được hưởng
thành quả của sự đầu tư ấy (hoa lợi, lợi tức từ tài sản) cũng góp phần thúc đẩy tính tích
cực trong lao động, đầu tư của mỗi người. Điều này hết sức đơn giản bởi lẽ, nếu như

người ta đầu tư vào một mảnh đất bằng cách trồng trọt trên đó mà người ta lại không được
gặt hái thành quả trên đó, thì người ta sẽ không muốn làm
23
. Cũng nhờ quy tắc này, chủ
sở hữu cũng có trách nhiệm với tài sản của mình hơn - họ sẽ lưu ý tới việc duy tu, bảo trì,
bảo quản tài sản của mình (nhất là tài sản vốn) tốt hơn.
Thiếu một hệ thống quy tắc tôn trọng quyền tư hữu - người ta sẽ có khuynh hướng
đi lấy của người khác làm của mình và như vậy, xã hội luôn ở trong tình trạ
ng mâu thuẫn.
Do đó, việc duy trì một hệ thống pháp luật bảo hộ có hiệu quả quyền sở hữu tài sản
(quyền tài sản) góp phần chống tình trạng vô trật tự, vô chính phủ (tình trạng ăn cắp, ăn
cướp) trong xã hội, chống các rủi ro mà mỗi cá nhân (nhất là cá nhân yếu thế) có thể gặp
phải do tình trạng hỗn loạn.
Với việc cho phép quyền chuyển nhượng tài sản tự
do - một bộ phận cấu thành của
quyền sở hữu - tài sản trong xã hội sẽ được dịch chuyển (phân bổ) đến những nơi tài sản
được trả giá cao nhất (thông thường đây cũng chính là nơi tài sản được khai thác, sử dụng
một cách hiệu quả nhất). Cũng nhờ đó, khả năng tích tụ tài sản để hưởng lợi thế kinh tế
theo quy mô (economy of scale), để hưởng lợ
i thế của việc chuyên môn hóa lao động
(specialization of labor).
Thực ra thì trước Harold Demsetz, các học giả nổi tiếng như Hobbes (1651),
Blackstones (1765-1769) và Bentham (1830) đã từng biện minh cho sự cần thiết phải duy
trì chế độ sở hữu tư nhân đối với tài sản từ giác độ nhấn mạnh tác dụng của nó đối với
“động lực làm việc” và “không khuyến khích sự ăn cắp”
24
.
Đến nay, lý thuyết về sở hữu của Horald Demsetz đã được ứng dụng để luận giải
cho việc khắc phục tình trạng “vô chủ”, thiếu minh bạch về chế độ trách nhiệm bằng cách
tư nhân hóa nhiều doanh nghiệp nhà nước ở các nước tư bản. Cũng nhờ ứng dụng lý

thuyết về sở hữu của Harold Demsetz, trong việc bảo vệ môi trường, nhiều quốc gia
đã
thay đổi quan niệm về môi trường sinh thái từ quan niệm trước đây coi môi trường sạch,
môi trường trong lành là nguồn lực vô tận sang quan niệm “môi trường sạch, môi trường
trong lành là thứ “tài nguyên khan hiếm” và cần “tư nhân hóa” loại tài sản, nguồn lực
khan hiếm này bằng cách đưa ra hệ thống “quyền gây ô nhiễm” (hoặc quyền xả thải vào
môi trường, quota phát thải) - thứ tài sản tư có thể chuyển nhượng để kiểm soát hành vi
gây ô nhiễm môi trường trong một số lĩnh vực.
Tuy nhiên, lý thuyết về sở hữu của Harold Demsetz cũng gặp nhiều chỉ trích từ
chính các học giả phương Tây. Nhiều ý kiến cho rằng đây là một lý thuyết có nhiều điểm
khiếm khuyết. Lý thuyết về sở hữu của Harold Demsetz đã không thể trả lời được câu hỏi
làm cách nào mà người ta biến từ sở hữu chung sang sở hữu t
ư nhân (cách thức chuyển

23
Xem: Louis Kaplow & Steven Shavell: “Economic analysis of law” – Working Paper 6960 (February 1999), p. 14.
24
Xem: Louis Kaplow & Steven Shavell: “Economic analysis of law” – Working Paper 6960 (February 1999), p. 14.


18

đổi chế độ sở hữu như thế nào là hợp lý và hiệu quả.v.v ) và liệu quá trình ngược lại
(biến từ sở hữu tư thành sở hữu công) có phải luôn là bất hợp lý hay không
25
.
1.1.3. Vai trò của sở hữu trong đời sống kinh tế - xã hội
Quyền sở hữu là đặc quyền tiếp cận các nguồn lực trong xã hội. Chủ sở hữu là
người có thể tiếp cận một cách đầy đủ nhất (khi so với các chủ thể khác trong xã hội) đối
với các nguồn lực trong xã hội (các tài sản vật chất và tài sản trí tuệ). Nhưng chính việc

tiếp cận với các nguồ
n lực trong xã hội là điều kiện vô cùng quan trọng đối với sự tồn tại
và phát triển của các cá nhân, tổ chức trong xã hội, việc tồn tại quyền sở hữu (nhất là sở
hữu tư nhân) đã góp phần phân định lượng quyền năng tiếp cận, quản lý các nguồn lực
trong xã hội, là tiền đề phân chia giàu nghèo.
Các quy định về sở hữu - có ảnh hưởng trực tiếp t
ới “động lực làm việc”, “động
lực sáng tạo”, “động lực làm ăn, kinh doanh” của mỗi cá nhân, tổ chức trong xã hội.
Chẳng hạn, giả sử tồn tại quy tắc ứng xử của xã hội là “người nào có tài sản và có lao
động làm tăng tài sản thì tài sản gia tăng sẽ thuộc về người khác” thì chắc chắn, người có
tài sản cũng không có ý định lao động để làm gia tăng giá trị của tài sản.
Điều này cho
thấy, cơ cấu sở hữu trong xã hội có mối quan hệ với quá trình tăng trưởng, phát triển kinh
tế của đất nước.
Việt Nam đã từng có nhiều kinh nghiệm hay về vấn đề này: đó là những kinh
nghiệm được trả học phí khá đắt trong giai đoạn tiền đổi mới (1975-1985). Mô tả dưới
đây trong một cuốn sách của GS. Hoàng Chí Bảo về tình hình sản xuất nông nghiệ
p và
kinh tế hợp tác trong giai đoạn đó là một minh chứng điển hình: “Người lao động có thái
độ thờ ơ với công việc chung của hợp tác xã, ruộng đất, tài sản của hợp tác xã không được
xã viên quan tâm, họ phải dồn vốn liếng và sức lao động vào mảnh đất 5% và tìm nguồn
thu nhập để tồn tại. Quy mô hợp tác xã càng mở rộng thì lãng phí càng lớn, tình trạng vô
chủ gia tăng đến mức nghiêm trọng t
ất yếu dẫn đến hiệu quả kinh tế giảm; tài sản, vốn
quỹ thất thoát; diện tích đất hoang hóa ngày càng tăng và phổ biến ở nhiều hợp tác xã; sản
xuất nông nghiệp sa sút liên tục và nghiêm trọng; mức thu nhập của xã viên giảm. Nhà
nước phải đưa gạo về chi viện, cứu đói cho nông dân ngày càng nhiều. Trên thực tế, thu
nhập từ kinh tế tập thể giảm đi rõ rệt, chỉ
còn 30-40% tổng thu nhập của hộ xã viên, có
nơi chỉ còn 16-20% so với thu nhập của hộ xã viên”

26
.
Trong công cuộc đổi mới của đất nước, chúng ta đã và đang tìm cách giải quyết
vấn đề sở hữu để tạo nên hệ thống quan hệ sở hữu phù hợp với những đòi hỏi khách quan
của nền sản xuất xã hội, khắc phục chế độ công hữu hình thức nhằm giải phóng mọi năng
lực sản xuất của xã hội, phát huy các động lực phát tri
ển, tăng hiệu quả của hoạt động
kinh doanh. Bởi vậy, tính đa dạng về hình thức sở hữu và hình thức tổ chức kinh doanh
cùng với sự đa dạng về các thành phần kinh tế đã được chấp nhận và đang phát huy mặt
tích cực của nó đối với quá trình phát triển nền kinh tế của đất nước.
1.2. Pháp luật về sở hữu
1.2.1. Sở hữu và quyền s
ở hữu
1.2.1.1. Sở hữu
Sở hữu là phạm trù kinh tế. Là phạm trù kinh tế, sở hữu thể hiện các quan hệ sản
xuất xã hội, phương thức chiếm hữu và phân phối trong từng hình thái kinh tế - xã hội và

25
Thomas W. Merrill, Introduction: The Demsetz thesis and the Evolution of property rights, the Journal of Legal
Studies, June, 2002.
26
GS. TS. Hoàng Chí Bảo - Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn nước ta hiện nay - NXB Lý luận chính trị 2005, trang 116.


19

quan hệ xã hội nhất định. Sở hữu trả lời cho câu hỏi: tài sản, tư liệu sản xuất, thành quả
lao động thuộc về ai, do đó nó thể hiện quan hệ giữa người với người trong quá trình tạo
ra và phân phối các thành quả vật chất. Với nội dung kinh tế như vậy, sở hữu là quan hệ
kinh tế khách quan.

Sở hữu có 3 đặc điểm cơ bản sau đ
ây:
Thứ nhất, sở hữu thể hiện quan hệ xã hội (quan hệ giữa người với người về vật);
Thứ hai, quan hệ xã hội này mang tính khách quan, tức là quan hệ sở hữu tồn tại
không phụ thuộc vào ý chí của con người. Con người không tạo ra quan hệ sở hữu mà chỉ
có thể tham gia vào quan hệ sở hữu và gây ảnh hưởng nhất định đến sự vận hành c
ủa nó
theo hướng hoặc là làm cho quan hệ sở hữu hình thành, phát triển một cách nhanh chóng,
thuận lợi hoặc là làm cho chúng đi theo chiều hướng ngược lại.
Thứ ba, sở hữu là bộ phận cơ bản của quan hệ sản xuất, là nền tảng kinh tế của
bất cứ hình thái kinh tế - xã hội nào.
1.2.1
.2. Quyền sở hữu theo nghĩa khách quan - Pháp luật về sở hữu:
Như trên đã trình bày, sở hữu là vấn đề rất quan trọng, có vai trò quyết định đến các
vấn đề chính trị, kinh tế trong mọi chế độ xã hội, bất luận là tư bản chủ nghĩa hay xã hội
chủ nghĩa. Vì vậy, Nhà nước nào cũng dành sự quan tâm đặc biệt và bằng nhiều công cụ,
phương tiện để tác
động vào các quan hệ sở hữu, làm cho các quan hệ xã hội này hình
thành, phát triển theo ý chí của mình. Một trong những công cụ quan trọng đó là pháp
luật. Bằng pháp luật, Nhà nước:
- Tuyên bố về các hình thức sở hữu tồn tại trong xã hội (thường là thông qua Hiến
pháp - đạo luật cơ bản của một quốc gia);
- Quy định những quyền năng mà chủ sở hữu có được đối với tài sản của mình (nội
dung quyề
n sở hữu);
- Quy định các nguyên tắc thực hiện quyền sở hữu (chủ sở hữu được toàn quyền
trong việc đối xử với tài sản của mình nhưng phải phù hợp với pháp luật và không vi
phạm quyền lợi của người khác);
- Quy định nghĩa vụ của những chủ thể khác không phải là sở hữu chủ không được
xâm phạm quyền của sở hữu chủ

;
- Xác định các căn cứ làm phát sinh và chấm dứt quyền sở hữu;
- Quy định cơ chế xác nhận, công khai hoá quyền sở hữu để mọi người biết (cơ chế
đăng ký tài sản);
- Quy định cơ chế (biện pháp, cách thức giúp chủ sở hữu bảo vệ được quyền sở hữu
của mình ).
Kết quả của việc thực hiện các công việc nêu trên là sự hình thành một nhóm các
quy
định pháp luật về sở hữu, được gọi là pháp luật về sở hữu - một khái niệm thuộc
thượng tầng kiến trúc, một phạm trù pháp lý.
Như vậy, khi sở hữu với tư cách là một phạm trù kinh tế được pháp luật điều chỉnh
thì xuất hiện quyền sở hữu với tư cách là một phạm trù pháp lý. Với tư cách là một phạm
trù pháp lý, quyền sở
hữu mang tính chất chủ quan, vì đó là sự ghi nhận của Nhà nước.
Nhưng Nhà nước không thể đặt ra quyền sở hữu theo ý chí chủ quan của mình mà quyền
sở hữu được quy định trước hết bởi nội dung kinh tế của sở hữu. Nhà nước quy định
quyền sở hữu, tức là thể chế hoá những quan hệ chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản.


20

Với tính cách là một phạm trù pháp lý, quyền sở hữu là tổng hợp các quy phạm pháp
luật do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh
vực chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản. Đây là khái niệm quyền sở hữu theo nghĩa
rộng, nghĩa khách quan. Còn theo nghĩa hẹp (nghĩa chủ quan) thì quyền sở hữu được hiểu
là các quyền năng cụ
thể của chủ sở hữu đối với tài sản của mình.
Ở Việt Nam, chế định về quyền sở hữu được quy định ở Phần thứ hai của Bộ luật
Dân sự năm 2005. Trên cơ sở cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp năm 1992 về phát
triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa với các hình thức

kinh doanh đa dạ
ng, dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân,
Bộ luật Dân sự đã quy định khá tập trung về vấn đề quyền sở hữu: từ những vấn đề có
tính nguyên tắc đến các vấn đề cụ thể, tạo cơ sở pháp lý để cá nhân, tổ chức thực hiện
quyền sở hữu của mình, tôn trọng quyền sở
hữu của người khác; đồng thời là căn cứ để
Toà án, các cơ quan nhà nước khác có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về quyền sở
hữu, góp phần bảo vệ một cách có hiệu quả các quyền của chủ sở hữu tài sản.
1.2.1.3. Quyền sở hữu theo nghĩa chủ quan - các quyền năng của chủ sở hữu
Theo nghĩa chủ quan thì quyền sở hữu là quyền c
ủa chủ thể, quyền thuộc về một chủ
thể nào đó liên quan đến việc đối xử với tài sản mà họ được pháp luật công nhận là chủ sở
hữu. Với ý nghĩa như vậy, quyền sở hữu là một quyền công dân, quyền con người, được
pháp luật tất cả các nhà nước văn minh thừa nhận và bảo vệ.
Thông thường, Nhà nước công nhận cho chủ sở
hữu có ba quyền năng là quyền
chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt tài sản. Ví dụ, Điều 164 Bộ luật Dân sự năm
2005 của Việt Nam quy định: Chủ sở hữu là cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác có đủ ba
quyền là quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt tài sản.
- Quyền chiếm hữu: là quyền nắ
m giữ, quản lý tài sản (Điều 182 Bộ luật Dân sự năm
2005). Điểm cơ bản nhất trong việc điều chỉnh pháp luật đối với quyền chiếm hữu là tính
hợp pháp của việc chiếm hữu. Sự chiếm hữu chỉ có thể được coi là hợp pháp nếu nó được
thực hiện trên cơ sở những căn cứ được quy định trong pháp luật hoặ
c những căn cứ khác
không trái pháp luật.
- Quyền sử dụng: là quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản
(Điều 192 Bộ luật Dân sự năm 2005).
+ Quyền sử dụng của chủ sở hữu: Trong trường hợp chủ sở hữu thực hiện quyền sử
dụng tài sản thuộc sở hữu của mình thì chủ sở hữu

được khai thác công dụng, hưởng hoa
lợi, lợi tức từ tài sản theo ý chí của mình nhưng không được gây thiệt hại hoặc làm ảnh
hưởng đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người
khác (Điều 193 Bộ luật Dân sự năm 2005).
+ Quyền sử dụng của người không phải là chủ sở hữu:
1. Quyền sử dụng tài sản có thể đượ
c chuyển giao cho người khác thông qua hợp
đồng hoặc theo quy định của pháp luật, người không phải là chủ sở hữu có quyền sử dụng
tài sản đúng tính năng, công dụng, đúng phương thức;
2. Người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình cũng có quyền khai
thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản theo quy định của pháp luật.
Trọng tâm của việc điều chỉnh pháp luật đối với vấn đề này là việc pháp luật phải
quy định được những cơ chế, biện pháp, chế độ để kích thích các chủ sở hữu khai thác tài
sản của mình một cách có hiệu quả. Sự khuyến khích này được thực hiện bằng hai cách:


21

(1) đưa ra các ưu đãi về tài chính cho bất cứ người nào đã nâng cao hiệu quả sử dụng tài
sản của mình và (2) hạn chế và có thể kể cả việc tước quyền tài sản đối với những ai
không sử dụng hoặc sử dụng không tốt tài sản thuộc quyền sở hữu của mình.
- Quyền định đoạt: là quyền quyết định số phận pháp lý của tài s
ản bằng cách thay
đổi vị trí của tài sản trong hệ thống quan hệ xã hội. Điều 195 Bộ luật Dân sự năm 2005
quy định: quyền định đoạt là quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản hoặc từ bỏ quyền sở
hữu đó.

1.2.2. Quyền sở hữu và các loại vật quyền khác
Chế định quyền sở hữu không chỉ tập trung quy định địa vị pháp lý và các quyền
chủ thể của chủ sở hữu vì như vậy quyền sở hữu chỉ được nhìn nhận ở một phạm vi hẹp.

Sở hữu cần được hiểu là yếu tố cơ bản trải lên toàn bộ quan hệ sản xuấ
t, bao gồm không
chỉ quan hệ giữa người với người về vật mà cả quan hệ giữa họ về mặt tổ chức kinh
doanh, về mặt chi phối đối với lợi ích kinh tế do sự chiếm hữu về mặt tài sản tạo ra
27
. Do
đó, trong chế định về quyền sở hữu có cả các quy định về quyền của người không phải là
chủ sở hữu đối với tài sản trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt.
Người không phải là chủ sở hữu tài sản nhưng cũng có quyền chiếm hữu, sử dụng,
định đoạt tài sản không thuộc quyền sở hữu c
ủa mình theo thoả thuận với chủ sở hữu tài
sản đó hoặc theo quy định của pháp luật. Ở các nước phương Tây, các quyền này được
gọi là “các vật quyền khác”, còn ở Việt Nam, được gọi là “các quyền khác đối với tài sản”
(Điều 6 của Bộ luật Dân sự năm 1995 đã sử dụng cụm từ này). Tuy nhiên, trong Bộ luật
Dân sự năm 1995 còn quy định khá mờ nhạt về
“các quyền khác đối với tài sản”: chưa
quy định rõ “quyền khác đối với tài sản” là những quyền gì?, cách thức thực hiện và bảo
vệ các quyền đó như thế nào?
Theo pháp luật các nước, có các loại vật quyền (các quyền khác đối với tài sản) như
sau:
- Quyền sử dụng đất;
- Quyền địa dịch;
- Quyền vận hành/khai thác kinh tế của công ty nhà nước
Vậy, quyền của ng
ười không phải là chủ sở hữu (vật quyền) và quyền sở hữu có mối
liên hệ với nhau như thế nào?.
Sự khác biệt giữa quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản thể hiện ở các khía
cạnh sau:
Thứ nhất, quyền sở hữu là một loại quyền có trước còn vật quyền khác là quyền phái
sinh, chỉ có thể xuất hiện sau khi có quyền sở hữ

u.
Thứ hai, quyền sở hữu là loại quyền độc lập còn vật quyền khác là quyền phụ thuộc
Thứ ba, chủ sở hữu chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu của mình,
còn người có các quyền khác đối với tài sản chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc
sở hữu của người khác. Ví d
ụ, công ty nhà nước cũng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt đối với tài sản được Nhà nước giao nhưng các tài sản đó vẫn là của Nhà nước, thuộc
quyền sở hữu của Nhà nước; mọi cá nhân, pháp nhân ở Việt Nam cũng có quyền chiếm
hữu, sử dụng, định đoạt đất đai nhưng mọi đất đai đó đều là của Nhà nướ
c, do Nhà nước
là chủ sở hữu.

27
Bình luận khoa học: Một số vấn đề cơ bản của Bộ luật Dân sự, NXB Chính trị Quốc gia, 1997, tr.84.


22

Thứ tư, quyền năng của chủ sở hữu rộng hơn quyền năng của người có quyền khác
đối với tài sản. Các quyền năng của chủ sở hữu do pháp luật xác định, trong khi đó, quyền
năng của người có quyền khác đối với tài sản không chỉ do luật xác định mà còn được xác
định bởi ý chí của chủ sở hữu. Ý chí đó thường được thể hiệ
n thông qua hợp đồng giữa
chủ sở hữu và người có quyền khác đối với tài sản. Các quyền khác đối với tài sản thường
bị hạn chế về nội dung vì phạm vi quyền mà chủ sở hữu trao cho những người có quyền
này nhiều hay ít là phụ thuộc vào ý chí của chủ sở hữu.
Tóm lại, quyền khác đối với tài sản là quyền năng của một chủ thể trong chiế
m hữu,
sử dụng, định đoạt tài sản của người khác, phái sinh từ quyền của chủ sở hữu và theo ý
chí của chủ sở hữu (hoặc do pháp luật quy định), có nội dung hạn chế so với quyền sở

hữu, nhưng được pháp luật bảo vệ như bảo vệ quyền sở hữu.
1.2.3. Điều chỉnh pháp luật đối với sở hữu
ở một số nước trên thế giới và bài học kinh
nghiệm đối với Việt Nam
1.2.3.1. Tại Trung Quốc:
Năm 2006, Quốc hội Trung Quốc đã ban hành Luật quyền tài sản - một văn bản
pháp lý có tính tổng thể và toàn diện để điều chỉnh quyền về tài sản ở Trung Quốc. Đây
được coi là bước đi thích hợp, đúng đắn tạo cơ chế pháp lý cho nền kinh tế thị
trường của
Trung Quốc phát triển nhanh, hiệu quả và ổn định, tạo tâm lý yên tâm hơn cho các nhà
đầu tư, kinh doanh. Cho đến nay, trước khi dự thảo Luật quyền tài sản được thông qua,
pháp luật về sở hữu của Trung Quốc chủ yếu dựa trên bộ khung pháp lý quan trọng nhất
là Hiến pháp và Bản Quy tắc chung về Luật Dân sự của Trung Quốc được ban hành năm
1996 (sau đây gọi tắt là Bản Quy tắc) và mộ
t số văn bản pháp luật có liên quan như Luật
quản lý đất đai nông thôn, Luật quản lý đất thành thị, Bản Quy chế cấp đất.v.v
a) Khái niệm tài sản
Khái niệm "tài sản" theo pháp luật dân sự Trung Quốc bao gồm tài sản hữu hình
và tài sản vô hình. Tài sản vô hình được hiểu bao gồm các quyền tài sản như sáng chế,
nhãn hiệu, bản quyền và các công trình là sản phẩm của lĩnh vực sở hữu trí tuệ
. Tài sản
hữu hình, theo pháp luật Trung Quốc được phân thành tài sản đặc định và vật cùng loại.
Tại Điều 72 của bản Quy tắc đã điều chỉnh việc chuyển giao cả hai loại tài sản này, theo
đó: "Quyền sở hữu tài sản sẽ không được công nhận nếu vi phạm pháp luật. Quyền sở hữu
tài sản được xác lập thông qua hợp đồng hay các phương thức hợp pháp khác sẽ đượ
c
chuyển giao đồng thời với tài sản đó trừ phi pháp luật quy định khác"
28
.
Giống phần lớn các hệ thống pháp luật khác, pháp luật dân sự Trung Quốc cũng

phân biệt giữa tài sản là bất động sản và tài sản là động sản. Bất động sản là tài sản không
thể di chuyển được. Để chuyển giao tài sản là bất động sản như quyền sử dụng đất, thì
việc đăng ký là thủ tục phải được thực hiện như là một đ
iều kiện để hợp đồng chuyển giao
có hiệu lực. Việc đăng ký đối với động sản chỉ được đặt ra khi đó là các phương tiện đi
lại, tàu thuỷ, máy bay và các tài sản khác có liên quan
29
.


28
Các bên có thể điều chỉnh mối quan hệ của riêng họ trong hợp đồng, nhưng không phải là các quyền của bên thứ ba. Bản Quy
tắc không quy định gì về việc khi bên mua tài sản có được sự bảo vệ từ chủ nợ của bên bán.

29
Luật bảo đảm của Trung Quốc, điều 41- 43. Hệ thống đăng ký bất động sản toàn quốc và đăng ký quyền sở hữu
được Luật này quy định
.


23

b) Các hình thức sở hữu
- Sở hữu nhà nước:
Theo pháp luật Trung Quốc, sở hữu nhà nước được hiểu là sở hữu toàn dân. Điều 7
của Hiến pháp năm 1982 quy định: "nền kinh tế nhà nước là nền kinh tế xã hội chủ nghĩa
và là nền kinh tế chủ đạo của nền kinh tế đất nước, trong đó quyền sở hữu là quyền sở
hữu toàn dân. Nhà nước bảo đả
m sự bền vững và tăng trưởng của nền kinh tế đất nước".
"Sở hữu nhà nước bao gồm cả sở hữu đối với khu vực đất đai thành thị, các nguồn tài

nguyên thiên nhiên, nguồn nước, rừng, núi, đồng cỏ, đất tự nhiên, biển và các tài nguyên
thiên nhiên khác mà theo quy định của pháp luật là thuộc sở hữu nhà nước. Nhà nước còn
sở hữu đường sắt, đường hàng không, hải cảng, các ngân hàng, các dịch v
ụ bưu chính
viễn thông và đài truyền hình, đài phát thanh".
Sở hữu nhà nước được bảo vệ một cách nghiêm ngặt. Điều 73 của Bản Quy tắc
quy định: “Tài sản nhà nước là tài sản thuộc sở hữu toàn dân. Tài sản nhà nước là thiêng
liêng, bất khả xâm phạm, không có bất kỳ một tổ chức hay cá nhân nào được phép niêm
phong, xâm chiếm, chia cắt, nắm giữ và huỷ hoại tài sản nhà nước”.
- Sở hữu tậ
p thể (sở hữu của những người lao động):
Trong pháp luật dân sự Trung Quốc nói riêng và hệ thống pháp luật Trung Quốc
nói chung không có nhiều quy định về tài sản tập thể. Đối với các doanh nghiệp tập thể,
sự thiếu vắng các quy định này là rất tai hại và địa vị pháp lý của loại hình doanh nghiệp
này là không chắc chắn. Căn cứ pháp lý cho tài sản tập thể là Điều 8 của Hiến pháp, cụ
thể là: “Các hình thức của nền kinh tế tập thể thuộc các lĩnh vực như thủ công mỹ nghệ,
công nghiệp, nhà ở, giao thông và thương mại dịch vụ ở thành phố và thành thị đều thuộc
về thành phần của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa dưới hình thức sở hữu tập thể của những
người lao động.
Nhà nước bảo hộ quyền và lợi ích h
ợp pháp của tổ chức hợp tác kinh tế nông thôn
và khuyến khích, hướng dẫn, giúp đỡ nền kinh tế hợp tác phát triển”.
Điều 74 của Bản Quy tắc quy định: “Sở hữu tập thể đối với tài sản là tài sản thuộc
về một nhóm người, thông thường là người lao động. Tài sản thuộc sở hữu tập thể bao
gồm: (1) đất, rừng, núi, đồng cỏ, đất tự nhiên và các bãi biển mà do t
ập thể sở hữu theo
quy định của pháp luật; (2) tài sản của các tổ chức kinh tế tập thể; (3) các toà nhà, hồ tự
nhiên, hồ nhân tạo, tư liệu sản xuất nông nghiệp (4) và các tài sản khác.
Sở hữu tập thể về đất đai sẽ do những người nông dân trong làng xã sở hữu theo
quy định của pháp luật. Đất đai thuộc sở hữu tập thể sẽ do hợp tác xã sả

n xuất nông
nghiệp hoặc các tổ chức kinh tế nông nghiệp hoặc Uỷ ban xã quản lý và đưa vào sử dụng.
Đất thuộc sở hữu của các tổ chức kinh tế tập thể nông dân ở tỉnh, thành sẽ do nông dân ở
tỉnh, thành đó sở hữu.
Tài sản thuộc sở hữu tập thể được pháp luật bảo vệ, không có bất kỳ tổ chức, cá
nhân nào được phép niêm phong, lấn chiếm, chia c
ắt, phá huỷ hoặc phong toả, chiếm giữ,
tịch thu một cách bất hợp pháp”.
- Sở hữu cá nhân:
Điều 75 Bản Quy tắc quy định: “Tài sản thuộc sở hữu cá nhân bao gồm: thu nhập
hợp pháp, nhà, khoản tiết kiệm, các vật dụng được sử dụng để đáp ứng nhu cầu sống hàng
ngày, sách, vở, tác phẩm nghệ thuật, cây cối, vật nuôi cũng như các tư liệu sản xuấ
t khác
mà pháp luật cho phép cá nhân được chiếm giữ và các tài sản hợp pháp khác.


24

Tài sản thuộc sở hữu của công dân sẽ được pháp luật bảo vệ, không một tổ chức,
cá nhân nào được phép sử dụng, lấn chiếm, phá huỷ hoặc phong toả, chiếm giữ, tịch thu
một cách bất hợp pháp”.
Điều 76 Bản Quy tắc quy định: “Công dân có quyền thừa kế tài sản theo quy định
của pháp luật”.
- Các hình thức sở hữu khác:
Bản Quy tắc của Trung Quốc còn quy định về
tài sản hợp pháp của các tổ chức xã
hội, bao gồm tổ chức tôn giáo và một số loại hình sở hữu khác như sau:
Điều 77 Bản Quy tắc quy định: Tài sản hợp pháp của các tổ chức xã hội, bao gồm
cả các tổ chức tôn giáo sẽ được pháp luật bảo vệ.
Điều 78 Bản Quy tắc quy định về đồng sở hữu do hai hoặc nhiều công dân, pháp

nhân cùng sở hữu
Có hai lo
ại đồng sở hữu, đó là sở hữu chung và đồng sở hữu theo phần. Chủ sở
hữu theo phần sẽ được hưởng quyền và có trách nhiệm tương ứng với số tài sản theo phần
mình được hưởng. Chủ sở hữu của sở hữu chung sẽ được hưởng quyền và có trách nhiệm
tương ứng tài sản sở hữu chung đó.
Chủ sở hữu theo phầ
n có quyền được rút phần sở hữu theo phần hoặc chuyển giao
quyền sở hữu của mình. Tuy nhiên, khi chủ sở hữu bán phần sở hữu của mình, các chủ sở
hữu khác được quyền ưu tiên mua trước.
c) Quan điểm của Đảng Cộng sản Trung Quốc về sự cần thiết xây dựng mối quan
hệ bình đẳng giữa các hình thức sở hữu - cơ sở chính trị cho vi
ệc hoàn thiện pháp luật về
sở hữu ở Trung Quốc
Trong suốt hai thập kỷ qua, địa vị pháp lý của sở hữu tư nhân đã có nhiều biến
chuyển tích cực tại Trung Quốc, sự tiến bộ này được thể hiện qua các lần sửa đổi, bổ sung
Hiến pháp. Cho đến tận những năm giữa thập kỷ 80, sở hữu công về tư liệu sản xuấ
t vẫn
được tiếp tục coi là nền tảng không thể thay đổi được của chủ nghĩa xã hội. Chẳng hạn
như Hiến pháp sửa đổi năm 1982 đã không quy định cụ thể địa vị của thành phần kinh tế
tư nhân tại Trung Quốc. Tiếp tục sự giải thích có tính chất thực tế về chủ nghĩa xã hôị dựa
trên bối cảnh Trung Quốc của nhữ
ng năm cuối thập kỷ 80, Hiến pháp sửa đổi năm 1988
đã chính thức công nhận thành phần kinh tế tư nhân như là "sự bổ sung" cho "nền kinh tế
công xã hội chủ nghĩa". Những năm cuối của thập kỷ 90, học thuyết "giai đoạn đầu của
chủ nghĩa xã hội" đã được tự do hơn nữa. Theo báo cáo của Chủ tịch nước Giang Trạch
Dân tại kỳ
họp Quốc hội lần thứ 15 (báo cáo năm 1997) thì bất kỳ hình thức sở hữu nào
đáp ứng được yêu cầu đẩy mạnh năng lực xã hội, sức mạnh quốc gia và đời sống nhân
dân đều được công nhận (sử dụng) để phục vụ cho mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Vào năm

1999, địa vị của thành phần tư nhân lại một lần nữa được phát triển. C
ăn cứ vào Hiến
pháp sửa đổi năm 1999 "cá nhân, tư nhân và các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh
cùng tồn tại trong phạm vi pháp luật quy định là những bộ phận cấu thành quan trọng của
nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa". Chỗ đứng của thành phần tư nhân lại một lần
nữa được chuyển dịch trong bản Hiến pháp sửa đổi năm 2004. Sự quan trọng của các
thành ph
ần kinh tế này đã vượt ra ngoài sự công nhận. Các thành phần tư nhân ngày nay
được đặc biệt "khuyến khích và ủng hộ"
30
.

30
Xem Hiến pháp Điều 11


25

Trong khi cùng với các chính sách của Nhà nước và sở hữu công được quy định
trong Hiến pháp, đây là sự công nhận một cách rõ ràng, dứt khoát sở hữu công là một
thành phần chủ đạo của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, thì sự phát triển của các
thành phần kinh tế ngoài quốc doanh cũng được khuyến khích một cách bình đẳng
31
. Chủ
tịch Giang Trạch Dân đã tuyên bố rõ ràng trong bản báo cáo 1997: "hệ thống kinh tế cơ
bản của Trung Quốc trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội là đặt sở hữu công trong
một vị trí chủ đạo và có sự đa dạng các hình thức sở hữu khác cùng phát triển". Thêm vào
đó, Hiến pháp sửa đổi năm 1999 đã có quy định đặc biệt rằng: Nhà nước sẽ bảo vệ các
quy
ền và lợi ích hợp pháp của các thành phần kinh tế cá nhân và tư nhân và trong thời

gian chờ đợi sự hướng dẫn, giám sát và điều chỉnh sự phát triển của các thành phần kinh
tế ngoài quốc doanh
32
.
Tại Đại hội toàn quốc lần thứ 16 tổ chức vào tháng 12/2002, dường như sự xung
đột chính sách về việc nắm giữ thành phần kinh tế công như một thành phần kinh tế chủ
đạo và thúc đẩy các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh cùng phát triển một lần nữa
được giải thích. Theo bản báo của Chủ tịch Giang Trạch Dân (bản báo cáo 2002) thì có
hai chính sách không nên "chống lại lẫn nhau", trái lại, mà hai chính sách này nên "thống
nhất" trong quá trình "hiện đại hoá xã hộ
i chủ nghĩa"
33
Bản báo cáo năm 2002 còn tiếp tục
chỉ ra rằng các thành phần kinh tế trong tất cả các hình thức sở hữu có thể sẽ đáp ứng
được những lợi thế của những thành phần kinh tế trong thị trường cạnh tranh, "khuyến
khích lẫn nhau cho sự phát triển chung". Cũng trong bản Báo cáo của Chủ tịch Giang
Trạch Dân, hoàn thiện hệ thống pháp lý để bảo vệ "tài sản tư nhân" và tạo lập mộ
t môi
trường cạnh tranh bình đẳng cho các thành phần kinh tế tư nhân và cá thể đã được khẳng
định như một chính sách nhà nước với mức độ cao hơn. Theo bản Hiến pháp sửa đổi năm
2004, tài sản tư nhân được coi ngang bằng với tài sản công là thiêng liêng và bất khả xâm
phạm, không có sự phân biệt đối xử đối với tài sản tư nhân. Do vậy, ít nhất về mặt định
tính, thành phần kinh tế tư nhân và thành ph
ần kinh tế công sẽ là các đối tác bình đẳng
trong thị trường.
Hơn nữa, Báo cáo năm 2002 còn kêu gọi cần phải thúc đẩy hơn nữa công cuộc "đa
dạng hoá" cơ cấu sở hữu (vốn) của tài sản nhà nước, đặc biệt là tài sản thuộc sở hữu nhà
nước. Với một vài sự ngoại lệ đặc biệt buộc phải thuộc sở hữu nhà nước, phần sở
hữu của
các doanh nghiệp nhà nước sẽ được "đa dạng hoá" thông qua "hệ thống cổ đông". Thêm

vào đó, chỉ một số doanh nghiệp quan trọng trong số doanh nghiệp nhà nước vẫn tiếp tục
do Nhà nước kiểm soát thông qua cơ chế cổ đông chi phối. Với một khung chính sách
như vậy, ranh giới giữa sở hữu nhà nước và sở hữu ngoài quốc doanh đã được xác định tại
mứ
c độ cổ đông. Kết quả là, "doanh nghiệp nhà nước" được chuyển đổi thành "doanh
nghiệp do nhà nước quản lý" là kết quả của quá trình cải cách "phân chia quyền" trong
giai đoạn trước đã trở thành "doanh nghiệp do nhà nước đầu tư" sau khi các doanh nghiệp
này chuyển đổi thành một tập đoàn hiện đại với đa đạng cơ cấu vốn. Sở hữu công và tư
nhân không được bảo hộ bình đẳng, nh
ưng đồng thời “thống nhất” trong một hệ thống
như vậy. Vì vậy, với một mức độ thấp nhất, sở hữu công và sở hữu tư nhân là rõ ràng
trong sự biến hoá có tính chất thống trị ở cả hai mức độ chính sách và Hiến pháp.
1.1.5.2. Tại Cộng hòa Liên bang Đức:

31
Xem Hiến pháp điều 6 (1982, sửa đổi 1999)
32
Xem Hiến pháp Điều 11
33
Xem báo cáo của Chủ tịch Giang Trạch Dân

×