1
BỘ TƯ PHÁP
VIỆN KHOA HỌC PHÁP LÝ
BÁO CÁO PHÚC TRÌNH
ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP BỘ
CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI NGHỀ NGHIỆP VÀ HIỆP HỘI KINH TẾ
VỚI VIỆC XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH VÀ PHÁP LUẬT KINH TẾ
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM
CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI : TS. VÕ ĐÌNH TOÀN
PHÓ CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI: LUẬT GIA: TRẦN HỮU HUỲNH
THƯ KÝ ĐỀ TÀI: TH.S: VŨ VĂN CƯƠNG
7536
22/10/2009
HÀ NỘI – 2007
2
PHN M U
1.Tớnh cp thit ca ti.
Vn kin i hi i biu ton quc ca ng Cng sn Vit Nam ó ch
rừ: Kin ton t chc, i mi phng thc v nõng cao hiu qu hot ng ca
Quc hi, trng tõm l cụng tỏc lp phỏp, xõy dng chng trỡnh di hn v lp
phỏp, hon thin h thng phỏp lu
t, i mi quy trỡnh ban hnh v hng dn thi
hnh lut Thc hin tt quy ch dõn ch, m rng dõn ch trc tip c s,
to iu kin nhõn dõn tham gia qun lý xó hi, tho lun v quyt nh nhng
vn quan trng
1
.
Chin lc phỏt trin kinh t xó hi ca ng v Nh nc ta ra nhim v
cp bỏch l phi i mi v hon thin khung phỏp lut, thỏo g mi tr ngi v c
ch, chớnh sỏch v th tc hnh chớnh phỏt huy ti a mi ngun lc, to sc bt
mi cho sn xut, kinh doanh ca mi thnh phn kinh t vi cỏc hỡnh thc s hu
khỏc nhau.
Ngh quy
t s 48-NQ/TW ngy 24 thỏng 5 nm 2005 ca B Chớnh tr v
Chin luc xõy dng v hon thin h thng phỏp lut Vit Nam n nm 2010,
nh hng n nm 2020 ch rừ: T nay n nm 2010 v cỏc nm tip theo
tip tc xõy dng v hon thin th ch kinh t th trng nh hng xó hi ch
ngha, tp trung vo mt s lnh vc phỏp lut kinh t trng
im ỏp ng kp thi
yờu cu cụng nghip hoỏ, hin i hoỏ t nc, hi nhp kinh t quc t.
K t khi cụng cuc i mi ton din t nc c ng v Nh nc ta
khi ng, c bờt l trong nhng nm gn õy, h thng phỏp lut ca nc ta
trong ú cú phỏp lut kinh t tng bc c i m
i v hng ti s phự hp vi
nhng ũi hi ca kinh t th trng v yờu cu ca hi nhp kinh t quc t. Tuy
nhiờn, thc t thi hnh cho thy, phỏp lut kinh t nc ta cũn cha n nh v
thiu ng b. Cỏc quy nh phỏp lut cha bo m tớnh d bỏo cao nờn cũn lc
hu so vi s vn ng v phỏt trin ca cỏc quan h kinh t, d
n ti tỡnh trng
phi sa i, b sung nhiu. nõng cao cht lng ca phỏp lut kinh t ũi hi
ng thi phi tin hnh nhiu gii phỏp, trong ú cú vic thu hỳt ụng o cỏc lc
1
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia
3
lượng xã hội, các tầng lớp, các tổ chức tham gia vào quá trình xây dựng chính sách
và pháp luật kinh tế .
Các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế là hình thức tổ chức tập
hợp các cá nhân, các tổ chức kinh tế gắn với các quan hệ sản xuất, kinh doanh
trong nền kinh tế. Chính vì vậy, việc thu hút lực lượng xã hội này tham gia vào quá
trình xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế trong nền kinh tế thị trường ở nướ
c
ta có ý nghĩa thiết thực. Mặc dù trong những năm gần đây, các chính sách kinh tế
và pháp luật kinh tế được ban hành đã có sự tham gia của các tổ chức xã hội nghề
nghiệp và hiệp hội kinh tế nhưng hiệu quả chưa cao chưa phát huyđược đầy đủ
tiềm năng của họ. Điều đó đặt ra yêu cầu là cần nghiên cứu làm rõ vai trò và tình
hình thực tế tham gia của các tổ chức này vào việ
c xây dựng chính sách pháp luật
kinh tế, trên cơ sở đó tìm giải pháp để nâng cao hiệu quả tham gia của các chủ thể
này. Tuy nhiên, đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện
về vấn đề này.
Từ thực tế trên đây cho thấy, việc nghiên cứu làm rõ về lý luận, tình hình
thực tế và tìm cơ chế phát huy vai trò của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp
hội kinh tế trong việc xây dựng chính sách và pháp luật kinh t
ế trong nền kinh tế
thị trường ở Việt Nam có ý nghĩa thiết thực đối với việc tìm giải pháp để đổi mới
quy trình xây dựng, nâng cao chất lượng pháp luật kinh tế.
2.Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Làm rõ căn cứ lý luận và thực tiễn của việc tham gia của các tổ chức xã hội
nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế trong xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế
trong nền kinh tế
thị trường ở Việt Nam.
- Kiến nghị các giải pháp nâng cao hiệu quả tham gia của các tổ chức xã hội
nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế trong việc xây dựng chính sách và pháp luật kinh
tế trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
3.Nhu cầu kinh tế xã hội và địa chỉ áp dụng
- Kết quả nghiên cứu đề tài góp phần bổ sung luận cứ khoa học cho việc
triển khai Chiến lược phát tri
ển hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 và
4
những năm tiếp theo; trực tiếp phục vụ việc xây dựng đề án đổi mới quy trình xây
dựng pháp luật kinh tế.
- Sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ việc nâng cao ý thức, trách nhiệm
của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế trong việc xây dựng chính
sách và pháp luật kinh tế ở Việt Nam.
- Sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ cán bộ
nghiên cứu, giảng dạy, học
tập liên quan tới xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế.
4.Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Việc nghiên cứu đề tài nhằm mục đích xác định cơ sở lý luận và thực tiễn
của việc thực hiện vai trò của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế
trong xây dựng chính sách pháp luật kinh tế, để trên cơ sở đó tìm giải pháp phát
huy vai trò của các t
ổ chức này. Do đó, việc nghiên cứu đề tài không nhằm mục
đích xác định vai trò của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế trong
tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội hay xác định tư cách chủ thể quan
hệ pháp luật nói chung của các tổ chức này. Ngoài ra, việc tiếp cận nghiên cứu đề
tài cũng chỉ giới hạn ở góc độ công trình nghiên cứu khoa h
ọc pháp lý.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu mà đề tài đặt ra, phương pháp luận nghiên
cứu là phép biện chứng duy vật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về phát triển
nền kinh tế nhiều thành phần, về phát huy dân chủ và xây dựng nhà nước pháp
quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể gồm:
phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, điều tra xã hội học, th
ống kê v.v.
6.Kết cấu của đề tài
Công trình nghiên cứu sẽ tập trung giải quyết các vấn đề sau:
1. Những vấn đề lý luận.
1.1. Khái niệm, phân loại các tổ chức xã hội-nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế
1.2 Những yêu cầu đặt ra trong xây dựng chính sách pháp và luật kinh tế
trong nền kinh tế thị trường ở VN.
5
1.3.Sự cần thiết tham gia của các tổ chức xã hội-nghề nghiệp và hiệp hội
kinh tế trong việc xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế trong nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam.
1.4. Các hình thức tham gia của các tổ chức xã hội-nghề nghiệp và các hiệp
hội kinh tế trong việc xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế.
2. Thực trạng pháp luật và những vấn đề phát sinh từ thực tế tham gia
xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế của các tổ chức xã hội-nghề nghiệp và
hiệp hội kinh tế ở nước ta hiện nay.
2.1 Thực trạng pháp luật về việc tham gia của các tổ chức xã hội-nghề
nghiệp và hiệp hội kinh tế trong xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế ở Việt
Nam.
2.2 Thực tế tham gia xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế của các tổ
chức xã hội-nghề nghiệp và hiệp hội kinh t
ế ở Việt Nam, kinh nghiệm nước ngoài
và những vấn đề cần giải quyết.
3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả tham gia xây dựng chính sách và
pháp luật kinh tế của các tổ chức xã hội -nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế.
3.1.Giải pháp về phát triển các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh
tế
3.2 Giải pháp về hoàn thiện pháp luật
7. Những tư tưởng cơ bản rút ra từ vi
ệc nghiên cứu đề tài
a) Tham gia của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế vào việc
xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế là xã hội hoá công việc của Nhà nước, đó
là trao quyền của Nhà nước cho các tổ chức này mà không phải là sự phân công
hay phân cấp trong một hệ thống quyền lực. Trong xây dựng chính sách và pháp
luật kinh tế sự tham gia của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế là
do nhu cầ
u nội tại của pháp luật kinh tế trong nền kinh tế thị trường mà không phải
là sự ban phát quyền lợi của Nhà nước.
b) Các quy định của pháp luật về sự tham gia của hội, hiệp hội trong xây
dựng chính sách và pháp luật kinh tế là điều kiện bắt buộc phải có để thực hiện
việc tham gia của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế. Cùng với các
6
quy định về trao quyền tham gia rõ rang, minh bạch, pháp luật phải có các quy
định cụ thể về cơ chế bảo đảm thực hiện quyền tham gia của các tổ chức xã hội
nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế trong xây dựng chính sách, pháp luật kinh tế, đồng
thời chính bản thân Nhà nước phải quan tâm thực sự đến việc tổ chức thì việc tham
gia của các tổ chức này mới có hiệu quả
thiết thực.
c) Cơ chế tham gia của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế
trong việc xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế phụ thuộc cơ chế thực hiện
quyền lực nhà nước nên ở Việt Nam việc nâng cao vai trò, phát huy hiệu quả của
các tổ chức này phải đi theo côn đường đổi mới mà không phải là con đường cải
tổ.
Để thực hiện đổi mớ
i việc tham gia xây dựng chính sách, pháp luật kinh tế
của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế, Nhà nước không chỉ đóng
vai trò là chủ thể trao quyền mà phải là chủ thể tổ chức mang tính định hướng, tạo
lập môi trường chính trị - pháp lý.
7
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1.Khái niệm, phân loại các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế.
1.1.1.Đặt vấn đề
Trước đây, hiện nay và về sau, ở nước ta cũng như ở các nước khác trên thế
giới, có những vấn đề mà Nhà nước tự bản thân không có khả năng giải quyết
được, hoặc giải quyết kém hiệu quả
. Lại có những vấn đề vượt ra ngoài khuôn khổ
mối quan hệ chính trị và pháp lý giữa công dân và Nhà nước mà từng cá nhân cũng
không thể giải quyết được. Đối với những vấn đề như vậy, các Nhà nước đều phải
dựa vào các tổ chức dân sự (phi nhà nước) để giải quyết bằng những phương pháp
quản lý, điều chỉnh đa dạng, phù hợp với từng loại
đối tượng. Bằng sự phân công
và hợp tác này giữa Nhà nước và các tổ chức xã hội mà một xã hội dân chủ được
tạo ra và phát triển một cách ổn định, bền vững.
Trong cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
kinh tế quốc tế, các mối quan hệ trong xã hội nước ta, nhất là quan hệ giữa Nhà
nước và công dân đã có sự thay đổi rất c
ơ bản. Quan điểm cũ trước đây về việc
Nhà nước quản lý, chăm lo mọi mặt của đời sống xã hội (thực chất là sự can thiệp
quá trực tiếp và qúa sâu vào đời sống dân sự) đã hoàn toàn thay đổi. Chủ trương xã
hội hoá một số hoạt động mà Nhà nước không nhất thiết phải trực tiếp làm hoặc
dân có thể tự làm có hiệu quả hơn, chính là đ
iều kiện để khai thác mọi nguồn lực
trong dân (cả về vốn, nhân lực và khả năng quản lý) thông qua các tổ chức tự quản.
Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã
hội, văn hoá, khoa học những năm qua đã giúp sức cho từng cá nhân trong xã hội
nâng cao thêm ý thức tự chủ, tự chịu trách nhiệm và tính sáng tạo của mình. Trong
điều ki
ện như vậy, quần chúng nhân dân đã có thêm cơ hội để phát triển bản thân,
muốn đóng góp ngày càng nhiều hơn cho phát triển xã hội và đó chính là lý do làm
cho các tổ chức dân sự ngày càng trở nên có sức hấp dẫn và có chiều hướng phát
triển tích cực.
Theo quy định của pháp luật, ngoài các tổ chức chính trị, tổ chức tôn giáo ở
Việt Nam hiện có các loại tổ chức dân sự sau đây:
8
Thứ nhất, các tổ chức chính trị - xã hội (Công đoàn, Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các tổ chức thành viên: Hội Phụ nữ, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí
Minh, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh);
Trong quá trình tổ chức và hoạt động, các tổ chức chính trị - xã hội thể hiện
rõ nét 2 tính chất: tính chất chính trị và tính chất xã hội như sau:
Về tính chất chính trị: Tính chấ
t chính trị của các tổ chức này có được là
nhờ 2 yếu tố cơ bản sau đây:
Một là, các tổ chức chính trị - xã hội là tổ chức gần gũi và có quan hệ chặt
chẽ nhất với các cơ quan của Đảng cầm quyền, nói cách khác là các tổ chức này
chịu sự lãnh đạo trực tiếp nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thông qua các tổ
chức chính trị - xã hộ
i, Đảng tập hợp quần chúng. Các tổ chức chính trị - xã hội
phản ánh trung thành những nhu cầu, nguyện vọng, tâm tư của hội viên với Đảng
để Đảng có những chủ trương, đường lối, chính sách đúng. Căn cứ từ đường lối,
chính sách của Đảng, các tổ chức chính trị - xã hội hướng dẫn hội viên thực hiện
tốt các nhiệm vụ của hội theo mục tiêu, đườ
ng lối của Đảng.
Hai là, các tổ chức chính trị - xã hội còn có quan hệ rất chặt chẽ với bộ máy
nhà nước. Quan hệ giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Công đoàn với Nhà nước là
quan hệ phối hợp để thực hiện nhiệm vụ chính trị chung của đất nước là xây dựng
một nước Việt Nam dân chủ và giàu mạnh. Nói một cách thẳng thắn thì, các tổ
chứ
c này là bàn tay nối dài của Nhà nước, giúp Nhà nước thực hiện những nhiệm
vụ kinh tế – xã hội quan trọng trong những lĩnh vực nhất định của đời sống xã hội.
Sự gắn bó chặt chẽ này đã làm tăng thêm tính chất chính trị của các tổ chức này.
Trong quá trình hoạt động, các tổ chức chính trị - xã hội phải tuân thủ luật pháp
của Nhà nước, tham gia các hoạt động nhằm đề ra và t
ổ chức thực hiện các chủ
trương, chính sách, chế độ liên quan đến nghĩa vụ, quyền lợi của các đối tượng là
thành viên của tổ chức mình, đồng thời, giám sát các hoạt động của các cơ quan
nhà nước, khắc phục tình trạng quan liêu, tham nhũng của bộ máy nhà nước.
Về tính chất xã hội của các tổ chức này được thể hiện ở những điểm sau đây:
- Các t
ổ chức chính trị - xã hội là những tổ chức có sự tham gia của đông
đảo người lao động, các tầng lớp nhân dân, các giai tầng xã hội.
9
- Cơ chế tham gia và quản lý của các tổ chức này là mềm dẻo, chủ yếu dựa
trên cơ sở tự nguyện của các thành viên, chế tài không mang tính cưỡng chế, áp
đặt, mà chủ yếu là dùng biện pháp giáo dục, thuyết phục để điều chỉnh các mối
quan hệ giữa các thành viên và giữa tổ chức với thành viên.
Thứ hai, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp (Hộ
i Luật gia Việt Nam,
Hội nhà văn, Hội nhà báo…)
Thứ ba, tổ chức xã hội thuần tuý (Hội người cao tuổi, Hội khuyến học, Hội
phẫu thuật nụ cười, Hội phục hồi chức năng ) Trong các tổ chức xã hội, tính xã
hội này còn được thể hiện đậm nét hơn ở những biểu hiện cụ thể sau đây:
- Trong kết cấu tổ chứ
c, các tổ chức xã hội là tổ chức liên kết hoàn toàn tự
nguyện của công dân, không phân biệt thành phần xã hội, trình độ chuyên môn, tín
ngưỡng, giàu, nghèo, nam, nữ. Hình thức tổ chức cũng như tên gọi của các tổ chức
này là hết sức đa dạng, phong phú, phù hợp với nhu cầu và nguyện vọng của các
công dân. Các tổ chức xã hội, đoàn thể vừa là người đại diện, vừa là người bảo vệ
lợ
i ích của các thành viên trong những mối quan hệ xã hội nhất định.
- Trong nội dung hoạt động, các tổ chức xã hội luôn lấy mặt xã hội của sản
xuất, kinh tế, chính trị, văn hoá (tức là từ nhân tố con người) để hoạch định nội
dung hoạt động của mình nhằm thoả mãn các nhu cầu, sở thích, nguyện vọng của
các thành viên.
- Phương thức hoạt động, các tổ chức này hoạ
t động theo những nguyên tắc
và phương pháp hết sức mềm dẻo. Cán bộ của các tổ chức xã hội thường được bầu
ra trên cơ sở uy tín và sự tôn vinh của các thành viên nên họ thực sự là thủ lĩnh của
tổ chức, là người đại diện thật sự của các thành viên. Không có biện pháp cưỡng
chế hành chính nhà nước nào được áp dụng trong quan hệ giữa các tổ chức và hội
viên cũng như giữ
a các hội viên với nhau. Các quan hệ này được xác lập và xử lý
trên cơ sở giáo dục, thuyết phục và tính tự giác cao.
- Các tổ chức xã hội, đoàn thể hoạt động dựa trên cơ sở pháp luật và các quy
chế, điều lệ do tổ chức tự ban hành mà không cần có sự phê duyệt của cơ quan nhà
nước.
Thứ tư, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp (các hội, hiệp hội ngành nghề
);
10
Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp là tổ chức của quần chúng, được phát triển
mạnh mẽ trong cơ chế kinh tế thị trường. Các tổ chức này ít mang tính chất chính
trị, bên cạnh tính xã hội thì các tổ chức này còn mang nặng tính nghề nghiệp. Tính
nghề nghiệp của tổ chức này được thể hiện chủ yếu ở đối tượng tham gia và lĩnh
vực hoạt động c
ủa tổ chức đó. Thành viên của tổ chức xã hội - nghề nghiệp thường
gồm những người có cùng nghề nghiệp chuyên môn, tập hợp nhau trong một hội
hoặc hiệp hội nhằm hỗ trợ, giúp đỡ nhau hành nghề tốt hơn, chống lại hoặc giảm
thiểu những tác nhân bất lợi từ bên ngoài.
Thứ năm, các tổ chức kinh tế (các doanh nghiệp dưới mọi hình thứ
c: Doanh
nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu
hạn, công ty hợp danh, hợp tác xã ).
Với phương thức tổ chức, quản lý mềm dẻo, linh hoạt, nội dung hoạt động
phong phú, đa dạng, các tổ chức dân sự đã góp phần bảo đảm sự ổn định xã hội,
đáp ứng được các nhu cầu trong cuộc sống của mọi giới (về giới tính, dân tộc, tín
ngưỡng, nghề nghiệp ), tạo ra đối trọng (không phải là đối lập) cần thiết đối với
hoạt động của các cơ quan nhà nước, góp phần ngăn chặn các hành vi quan liêu,
cửa quyền. Vai trò đối trọng đó thể hiện qua việc các tổ chức dân sự này chia sẻ
với Chính phủ các dịch vụ công cộng, đáp ứng kịp thời và đầy đủ nhu cầu đời sống
với hi
ệu qủa cao; hoặc qua tham gia thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội
với cách làm gọn nhẹ, tiết kiệm, thiết thực và được dân trực tiếp kiểm tra. Các tổ
chức này còn cung cấp cho Chính phủ các thông tin, những kiến nghị thiết thực của
dân, qua đó giúp Chính phủ kịp thời xem xét, điều chỉnh chính sách và các chủ
trương của mình cho sát đúng với tình hình thực tiễn trong từng giai đoạn.
1.1.2. Khái niệm,
đặc điểm của tổ chức xã hội - nghề nghiệp
Tổ chức xã hội - nghề nghiệp là một loại pháp nhân hoạt động theo các quy
định của Bộ luật Dân sự, được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép thành
lập, chuẩn y điều lệ và có hội viên là cá nhân, tổ chức tự nguyện đóng góp tài sản
hoặc hội phí nhằm phục vụ nhu cầu chung của hội viên và mục
đích của hội
2
2
§iÒu 104 Bé luËt D©n sù 2005.
11
T chc xó hi - ngh nghip chu trỏch nhim dõn s bng ti sn ca mỡnh.
Hi viờn khụng chu trỏch nhim dõn s bng ti sn riờng v vic thc hin ngha
v dõn s ca t chc xó hi - ngh nghip. Trong trng hp t chc xó hi -
ngh nghip chm dt hot ng, thỡ ti sn ca t chc ú khụng
c phõn chia
cho cỏc hi viờn m phi c gii quyt theo quy nh ca phỏp lut
3
.
Nghiờn cu cỏc quy nh ca phỏp lut, cú th rỳt ra mt s c im ca
cỏc t chc xó hi - ngh nghip nh sau:
Th nht, t chc xó hi - ngh nghip l mt phỏp nhõn;
Th hai, t chc xó hi - ngh nghip c thnh lp theo sỏng kin v ý chớ
t nguyn ca cỏc thnh viờn;
Th ba, phi c s cho phộp ca c quan nh n
c cú thm quyn thỡ cỏc
t chc xó hi - ngh nghip mi c thnh lp v hot ng;
Th t, mc ớch ca t chc xó hi - ngh nghip l phc v cỏc hot ng
cú tớnh cht ngh nghip.
1.1.3. Hip hi ca cỏc t chc kinh t
Hip hi ca cỏc t chc kinh t l hỡnh thc liờn kt kinh t ca cỏc t ch
c
kinh t cú hot ng cựng ngnh ngh. Trong c ch kinh t tp trung, bao cp, vi
vic Nh nc giao ch tiờu k hoch c th cho tng n v kinh t, nh giỏ v
bao tiờu sn phm, cỏc hỡnh thc liờn kt trong hot ng kinh t tr nờn n iu
v khụng thit thc. Nhỡn chung, trong thi k ny, cỏc hi/ hip hi kinh t khụng
phỏt trin vỡ cỏc doanh nghip nh nc chim vai trũ tuyt i trong n
n kinh t
k hoch hoỏ tp trung, khụng cú nhu cu thnh lp v tham gia hip hi.
Trong nhng nm va qua, cựng vi s phỏt trin ca kinh t th trng, cỏc
hi ngh nghip v hip hi kinh t phỏt trin mnh. õy l hỡnh thc phi hp
hot ng, do cỏc n v kinh t t nguyn tin hnh cựng nhau bn bc v ra
cỏc ch trng, bin phỏp cú liờn quan n cụng vic sn xu
t, kinh doanh ca
mỡnh, nhm thỳc y sn xut phỏt trin theo hng cú li nht
4
. Mc tiờu ca vic
liờn kt kinh t l to ra mi quan h kinh t n nh thụng qua cỏc hp ng kinh
3
Xem điều 230,231,232 Bộ luật Dân sự 2005
4
Điều 1 Quyết định số 38-HĐBT ngày 10/4/1989 của Hội đồng Bộ trởng về liên kết kinh tế trong sản xuất, lu
thông, dịch vụ.
12
tế hoặc các quy chế hoạt động của từng tổ chức liên kết, để tiến hành phân công
sản xuất chuyên môn hoá và hiệp tác hoá, nhằm khai thác tốt tiềm năng của từng
đơn vị tham gia liên kết, góp phần nâng cao sản lượng, chất lượng sản phẩm, nâng
cao hiệu quả kinh tế, nâng cao thu nhập của các bên liên kết, cũng như tăng thu
ngân sách Nhà nước, hoặc để cùng nhau tạo thị trường chung, phân đị
nh hạn mức
sản lượng cho từng đơn vị thành viên, giá cả cho từng loại sản phẩm, để bảo vệ lợi
ích kinh tế của nhau, tạo cho nhau có khoản thu nhập cao nhất.
5
Trong cơ chế kinh tế thị trường hiện nay ở Việt Nam, các doanh nghiệp cần
thiết gia nhập các hiệp hội vì những lý do sau đây:
Thứ nhất, tiến trình cải cách hành chính, đổi mới tổ chức và hoạt động của
các cơ quan quản lý nhà nước đang diễn ra một cách mạnh mẽ mà trọng tâm của nó
là tách bạch chức năng quản lý hành chính của các cơ quan quản lý nhà nước với
chứ
c năng sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, tiến tới xoá bỏ sự can thiệp
quá sâu của các cơ quan quản lý nhà nước vào hoạt động của các doanh nghiệp.
Theo đó, khái niệm “cơ quan chủ quản” của doanh nghiệp (kể cả doanh nghiệp nhà
nước) sẽ dần mất đi, một số điều kiện thuận lợi do cơ quan chủ quản đưa lại sẽ
không còn, mọi doanh nghiệp s
ẽ bình đẳng trước pháp luật, do vậy, nhu cầu dựa
vào các hiệp hội để hỗ trợ và đại diện bảo vệ quyền lợi sẽ tăng lên.
Thứ hai, trong quá trình phát triển và hội nhập, các doanh nghiệp Việt Nam
(nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa) sẽ bị cạnh tranh mạnh. Trong khi đó, với
năng lực cạnh tranh thấp (hạn chế về tài chính, nhân lực, công nghệ, thông tin, kỹ
năng quả
n lý ) thì tất yếu các doanh nghiệp sẽ đoàn kết tập hợp lại theo các ngành
hàng để tăng năng lực cạnh tranh cho mình. Thông qua các hiệp hội, doanh nghiệp
có điều kiện tiếp cận được thị trường rộng lớn hơn, được hưởng các dịch vụ tốt
hơn, được bảo vệ và hỗ trợ hiệu qủa hơn, tránh lãng phí các nguồn lực.
Thứ ba, khi tham gia vào thị trường quố
c tế sẽ có những thoả thuận, đàm
phán giữa các khu vực thị trường về chính sách thương mại. Đây là lúc các hiệp
hội thể hiện vai trò của mình, đấu tranh cho các hội viên và cũng chỉ có hiệp hội
mới làm được điều này. Doanh nghiệp đứng ngoài hiệp hội vừa bị thiếu thông tin,
5
§iÒu 2 QuyÕt ®Þnh sè 38-H§BT.
13
vừa không có tiếng nói. Hiệp hội sẽ là tổ chức hợp tác, liên kết “mềm” theo chiều
ngang để phối hợp hoạt động bảo vệ lợi ích chung và giúp nhau nâng cao sức cạnh
tranh và đó là nhân tố thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Nhận thức được vai trò và tác dụng rất quan trọng đó của hiệp hội các tổ
chức kinh tế, Nghị quyết Trung ương 4 (khoá VII) đã đề ra tư t
ưởng chỉ đạo: “Phát
triển các hình thức hợp tác giữa các doanh nghiệp nhà nước với các hợp tác xã, với
các hộ nông dân, xây dựng các hiệp hội ngành nghề theo cơ chế dân chủ, tự quản”.
Tiếp đó, Nghị quyết Trung ương Đảng lần thứ 5 khoá IX (3/2002) về phát triển
kinh tế tư nhân cũng khẳng định việc tăng cường vai trò các hiệp hội doanh
nghiệp: Phát triển vai trò Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam và các h
ội
doanh nghiệp, có chương trình hỗ trợ nâng cao năng lực hoạt động của các hiệp
hội
Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 của Chính phủ về trợ giúp
phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng nêu rõ: “Chính phủ khuyến khích thành
lập và củng cố việc trợ giúp các doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc các cơ quan, các tổ
chức chính trị, xã hội, tổ chức nghề nghiệp”.
Nghị định s
ố 88/2003/NĐ-CP ngày 30/7/2003 của Chính phủ đã tạo lập cơ
sở pháp lý quan trọng để giải quyết các vấn đề về tổ chức, hoạt động và quản lý
hội. Theo quy định tại khoản 4, Điều 37 của Nghị định số 88/2003/NĐ-CP thì:
Hiệp hội của các tổ chức kinh tế được thành lập theo Quyết định số 38-HĐBT
ngày 10/4/19989 của Hội đồng Bộ trưở
ng (nay là Chính phủ) về liên kết kinh tế
trong sản xuất, lưu thông, dịch vụ không phải xin phép thành lập lại. Nếu như
trước đây, có một số tổ chức nghề nghiệp vẫn được gọi là Hội, Đoàn… khiến có sự
thiếu rõ ràng về vai trò, tính chất của tổ chức, dễ gây nhầm lẫn ảnh hưởng đến
phương thức hoạt động của hiệp hội thì nay, t
ại Thông tư số 01/2004/TT-BNV
ngày 15/01/2004 của Bộ Nội vụ, các hình thức liên kết về kinh tế được gọi thống
nhất là hiệp hội của các tổ chức kinh tế.
Hiệp hội của các tổ chức kinh tế là tổ chức xã hội - nghề nghiệp được hình
thành trên cơ sở tự nguyện của các tổ chức kinh tế cùng ngành nghề, thuộc mọi
thành phần kinh tế, có tư cách pháp nhân, nhằ
m bảo vệ và phát triển ngành nghề.
14
Hip hi kinh t hot ng theo nguyờn tc t nguyn, t ch, t qun, t trang
tri, trong khuụn kh phỏp lut.
Hip hi ca cỏc t chc kinh t c chia thnh 2 loi l hip hi ngnh
hng v hip hi ngh nghip
6
.
Vi quy nh trờn ca phỏp lut v hip hi ca cỏc t chc kinh t, chỳng
tụi rỳt ra mt s nhn xột sau:
Th nht, hip hi ca cỏc t chc kinh t l t chc dõn s (phi Chớnh ph)
mang tớnh cht ngh nghip (ngha l cú mc ớch phc v cho ngh nghip), do
cỏc t chc kinh t t nguyn liờn kt vi nhau iu ho l
i ớch ni b hip hi,
bo v li ớch chung, h tr ln nhau i phú vi cỏc tỏc nhõn bt li t bờn ngoi,
nõng cao hiu qa kinh doanh, gia tng li nhun ca tng n v thnh viờn.
Tớnh cht ngh nghip ca hip hi th hin ch bn thõn hip hi khụng
phi l mt t chc kinh doanh, khụng trc tip hot ng kinh doanh vi s gúp
v
n v iu hnh chung nh cỏc t chc liờn kt cng (tng cụng ty, cụng ty m,
cụng ty con, tp on kinh t); khụng can thip vo hot ng kinh doanh riờng ca
tng n v thnh viờn. ú l t chc phi li nhun, ch giỏn tip tỏc ng tng
thnh viờn ti a hoỏ li nhun.
Th hai, hip hi l t chc t nguyn, hot ng trong khuụn kh phỏp lut,
cú t cỏch phỏp nhõn,
c lp vi khu vc nh nc v khụng phi chu s qun lý
ca c quan ch qun theo ngnh nh cỏc doanh nghip nh nc. Hip hi l mt
i tỏc ca chớnh quyn lm cu ni gia doanh nghip vi nh nc, c nh
nc bo v quyn li, to iu kin thỳc y kinh doanh phỏt trin cú hiu qu.
Nh nc khuyn khớch v cú th h tr thờm
i vi cỏc ngnh trng yu (khụng
phi bao cp m l u tiờn giao cỏc d ỏn phỏt trin).
Do c tớnh ny m vic thnh lp hip hi do mt s sỏng lp viờn vn ng
v ng ký hot ng vi c quan Ni v ch khụng phi do B, S qun lý ngnh
ng ra thnh lp hoc cho phộp cng nh phờ duyt iu l
7
. Núi cỏch khỏc, hip
hi chu s iu chnh ca phỏp lut v dõn s thay vỡ phỏp lut v doanh nghip.
6
Khoản 2, điều 3 Luật cạnh tranh
7
Điều 14 và Điều 15 Nghị định số 88/2003/NĐ - CP ngày 30/7/2003 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động
và quản lý hội.
15
Điều này cần được nhấn mạnh, bởi lẽ, lâu nay có nhiều trường hợp các Bộ, Sở
quản lý ngành vẫn hành xử như là cơ quan chủ quản của các hiệp hội, thậm chí có
Thứ trưởng, Giám đốc Sở đứng ra làm Chủ tịch hiệp hội.
Thứ ba, về phương thức hoạt động của hiệp hội, hiệp hội không hoạt độ
ng
như một cơ quan quản lý kinh doanh, không can thiệp vào các hoạt động tự chủ
của các đơn vị thành viên. Bản thân hiệp hội cũng không tổ chức hoạt động kinh
doanh tìm kiếm lợi nhuận mà chỉ có thể tổ chức một số dịch vụ phục vụ nội bộ
hiệp hội để gây quỹ hoạt động tự trang trải kinh phí hoặc tạo thêm phúc lợi tập thể.
Mọi chủ trương của hiệp hội đều thông qua thương lượng dân chủ, bình
đẳng giữa các thành viên, phục vụ quyền lợi chung của hiệp hội, có sự nhất trí cao.
Các hoạt động chung được huy động lực lượng từ các đơn vị thành viên với
sự phân công hợp lý có sự điều phối của cơ quan điều hành hiệp hội. Bộ máy giúp
việc cơ quan điều hành hi
ệp hội rất gọn nhẹ, chủ yếu là thuê theo hợp đồng (bao
gồm chuyên gia, nhân viên).
Tài chính (thu, chi kinh phí hoạt động) phải công khai, minh bạch, có chức
danh kiểm soát và có chế độ báo cáo. Phần kinh phí kết dư không được phân chia
cho cá nhân, phải để lại quỹ để chi đúng mục đích. Hội phí đóng góp của các hội
viên được quy định trong điều lệ, cũng có thể tự nguyện đóng góp thêm. Khi hợp
nhất, chia, tách hoặc giả
i thể chấm dứt hoạt động cần phải kiểm kê, đánh giá tài sản
và thống nhất cách xử lý.
Việc gia nhập hoặc rút khỏi hiệp hội là hoàn toàn tự nguyện. Khi tham gia
mỗi đơn vị thành viên được bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm về kết
qủa kinh doanh; được bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ; không hoạt động riêng
rẽ trái với th
ỏa thuận chung gây phương hại cho các thành viên khác. Các biện
pháp cạnh tranh với đối tác bên ngoài cần được phối hợp.
Cơ quan quyền lực cao nhất của hiệp hội là Đại hội toàn thể đại diện các
đơn vị thành viên với nhiệm kỳ 2 hoặc 3 năm. Đại hội lần đầu do các thành viên
sáng lập (Ban vận động thành lập) triệu tập và chủ trì. Đại hội bàn và quyết định
điều lệ
, các cơ chế, chương trình hoạt động từng nhiệm kỳ và các chủ trương lớn
có ảnh hưởng lớn tới sự tồn tại và phát triển của hiệp hội.
16
Cơ cấu thành viên hiệp hội do điều lệ quy định. Ban điều hành hiệp hội là
cơ quan điều phối các hoạt động thường xuyên, chấp hành nghị quyết đại hội. Tuỳ
theo quy mô hiệp hội, có thể có chủ tịch, phó chủ tịch, tổng thư ký hoặc gọn hơn
là chủ tịch và một uỷ viên điều hành. Thành viên ban điều hành thường là nhữ
ng
giám đốc đơn vị thành viên kiêm nhiệm, chỉ trường hợp hiệp hội có quy mô toàn
quốc mới cần có người chuyên trách (tổng thư ký). Nói chung, mô hình tổ chức cơ
quan điều hành là đa dạng với nguyên tắc gọn nhẹ với số cán bộ, nhân viên giúp
việc tối thiểu. Hiệp hội có thể có ban kiểm soát (tài chính) do đại hội bầu ra (ngoài
ban điều hành), hoặc chỉ cần 1 uỷ viên kiểm soát. Khi cần thiế
t có thể sử dụng cơ
quan kiểm toán để xử lý.
Các nguồn thu kinh phí của hiệp hội bao gồm:
- Đóng góp vào quỹ của các hội viên (do Đại hội quy định), không nhất
thiết bình quân mà tuỳ quy mô và thực lực của từng đơn vị;
- Tài trợ của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước;
- Hỗ trợ của Nhà nước do đóng góp có hiệu qủa vào các nhiệm vụ của Nhà
nước;
- Các nguồn thu hợp pháp khác (gửi tiết kiệm, dịch vụ gây quỹ )
1.1.4. Những điểm khác biệt giữa tổ chức xã hội - nghề nghiệp và hiệp hội
của các tổ chức kinh tế theo pháp luật Việt Nam
Trước hết phải khẳng định: về bản chất, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp và
hiệp hội của các tổ chức kinh tế là những hình thứ
c tổ chức tập hợp các cá nhân,
các tổ chức kinh tế gắn với các quan hệ sản xuất, kinh doanh trong nền kinh tế.
Đây là những tổ chức phi Chính phủ, được các thành viên tự nguyện gia nhập, hoạt
động theo pháp luật, nội quy và điều lệ của tổ chức. Các tổ chức này vừa mang tính
xã hội, vừa mang tính nghề nghiệp, đặc biệt phát triển và phát huy tác dụng trong
cơ chế kinh tế thị trườ
ng.
Theo pháp luật hiện hành, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp và hiệp hội của
các tổ chức kinh tế có những loại sau:
17
* Loại tổ chức chỉ thuần tuý về một loại nghề nghiệp, một lĩnh vực (ví dụ:
Đoàn luật sư, Hiệp hội vận tải ô tô Việt Nam, Hiệp hội kinh doanh vàng, Hiệp hội
ngân hàng, Hiệp hội lương thực Việt Nam, Hiệp hội kinh doanh bảo hiểm ):
* Loại tổ chức chuyên về một loại chủ thể (ví dụ Hiệ
p hội doanh nghiệp
nước ngoài tại Việt Nam):
* Loại tổ chức riêng về một thành phần kinh tế (ví dụ Liên minh hợp tác xã
Việt Nam):
* Loại tổ chức bao trùm lên mọi thành phần kinh tế và các hiệp hội (ví dụ
Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam):
Từ những nghiên cứu trên, bước đầu có thể nêu một số điểm khác nhau cơ
bản giữa các tổ chức xã hội - nghề
nghiệp và hiệp hội của các tổ chức kinh tế, đó
là:
* Về thành viên của tổ chức:
- Hội viên của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp là các cá nhân, tổ chức.
- Hội viên của Hiệp hội của các tổ chức kinh tế là các tổ chức kinh tế phần
lớn là có tư cách pháp nhân. Các tổ chức kinh tế cử đại diện pháp nhân tham gia
hiệp hội để thực hiện các quy
ền và nghĩa vụ của thành viên. Hiệp hội cũng có thể
có thành viên là cá nhân nhưng chỉ trong trường hợp đặc biệt và thường là thành
viên danh dự.
* Về tính chất hoạt động:
- Tổ chức xã hội - nghề nghiệp: mang tính xã hội và tính nghề nghiệp, chủ
yếu là các thành viên hỗ trợ nhau trong nghề nghiệp của mình.
- Hiệp hội của các tổ chức kinh tế: Cũng mang tính xã hội và tính nghề
nghiệp, tuy nhiên, tính nghề nghiệp và m
ục tiêu kinh tế của hiệp hội cũng như của
từng thành viên được xác định rõ.
1.2.Những yêu cầu đặt ra trong xây dựng chính sách pháp luật kinh tế trong
nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
1.2.1. Nhận xét sơ lược về hệ thống pháp luật kinh tế của Việt Nam.
18
Chính sách pháp luật là hệ thống quan điểm, tư tưởng, đường hướng có tính
chỉ đạo chi phối nội dung pháp luật, những nội dung cơ bản trong chính sách đó
được thể chế hoá thành các quy phạm pháp luật.
Pháp luật kinh tế là một mảng pháp luật khá rộng lớn, bao trùm lên mọi hoạt
động quản lý nhà nước về kinh tế, hoạt động sản xuất, kinh doanh và tổ chức, hoạt
động c
ủa chủ thể kinh doanh Ngoại trừ hệ thống pháp luật về quyền cơ bản của
công dân, hình sự, tố tụng và tổ chức bộ máy nhà nước, còn lại mọi văn bản pháp
luật đều liên quan (trực tiếp hoặc gián tiếp) đến hoạt động sản xuất, kinh doanh -
tạo thành hệ thống pháp luật về kinh tế. Pháp luật kinh tế bao gồm các lĩnh vực
sau: Lĩnh vực tổ
chức và hoạt động của doanh nghiệp; Lĩnh vực tài chính - thuế -
ngân hàng - chứng khoán.; Lĩnh vực Thương mại, đầu tư - xuất nhập khẩu; Lĩnh
vực đất đai, xây dựng; Lĩnh vực kế toán - thống kê; lĩnh vực lao động ….
Pháp luật quy định về việc tham gia xây dựng chính sách và pháp luật kinh
tế của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế có thể hiể
u theo nghĩa
rộng hẹp khác nhau.
Theo nghĩa rộng đó chính là tổng thể các quy định của Nhà nước trong hệ
thống pháp luật hiện hành, có liên quan đến việc điều chỉnh nhiều mặt tổ chức và
hoạt động của các thiết chế nhà nước và xã hội như: Tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước (lập pháp, hành pháp, tư pháp); chế độ dân chủ trực tiếp và quy chế
dân chủ ở cơ sở; tổ chức và hoạt động của các hội nói chung và các tổ chức xã hội
nghề nghiệp, các hiệp hội kinh tế nói riêng; quy trình xây dựng và ban hành văn
bản chính sách, pháp luật…
Theo nghĩa hẹp, pháp luật về việc tham gia xây dựng chính sách và pháp
luật kinh tế của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế là tổng thể các
quy định của Nhà nước trong hệ thống các văn b
ản pháp luật hiện hành quy định
về quyền tham gia xây dựng chính sách, pháp luật kinh tế của các tổ chức xã hội
nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế.
Trong phạm vi nghiên cứu đề tài này khái niệm pháp luật về việc tham gia
xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và
hiệp hội kinh tế được hiểu theo nghĩa hẹp của khái niệm
19
Pháp luật của một nhà nước bị chi phối bởi chế độ chính trị, chế độ kinh tế
đang tồn tại. Trong mối quan hệ giữa pháp luật và kinh tế, các tiền đề kinh tế
không chỉ là nguyên nhân trực tiếp quyết định sự ra đời của pháp luật, mà còn
quyết định nội dung, tính chất và cơ chế điều chỉnh pháp luật. Đối với các quan hệ
kinh tế
, pháp luật tạo ra tiền đề pháp lý vững chắc để ổn định các quan hệ kinh tế,
nếu pháp luật phù hợp với các quan hệ kinh tế thì sẽ có tác dụng thúc đẩy các quan
hệ kinh tế phát triển; ngược lại, nếu pháp luật không phù hợp, nó sẽ có tác dụng
ngược lại – kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế.
Ở Việt Nam, trước thời kỳ đổi mới (trước năm 1986), pháp luật điề
u chỉnh
các quan hệ kinh tế quan liêu, bao cấp chỉ phù hợp ở giai đoạn đầu, giai đoạn mà
chúng ta mới giành được độc lập, thống nhất đất nước. Lúc này pháp luật quy định
về việc thực hiện chỉ tiêu kế hoạch được đặt ra nhằm xây dựng, củng cố đất nước
sau chiến tranh, củng cố kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể để từng bước t
ạo sự
ổn định về cuộc sống cho nhân dân. Kinh tế Việt Nam giai đoạn này không phải là
nền kinh tế hàng hóa mà là nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung quan liêu bao cấp,
không có cạnh tranh mà chỉ có sự độc quyền của Nhà nước trong mọi lĩnh vực.
Việt Nam bắt đầu công cuộc đổi mới từ năm 1986, dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản Việt Nam, nền kinh tế Việt Nam
đã có sự thay đổi lớn. Nền kinh tế
Việt Nam từng bước chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa sang nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần. Chính vì vậy, các quy định pháp luật không thừa nhận sự
phát triển của kinh tế tư nhân cần được thay thế và đến ngày 21 -12-1990 Luật
Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân đã ra đời. Pháp luật về kinh tế thời kỳ này
dựa trên nguyên tắc bảo
đảm quyền con người trong đó có quyền tự do kinh doanh,
quyền sở hữu là những quyền cơ bản nhất. Sự can thiệp của pháp luật vào kinh tế
theo phương thức liệt kê những điều cấm và những điều pháp luật cho phép để tổ
chức, cá nhân dựa vào các quy định pháp luật đó mà thực hiện.
Hiến pháp 1992 ra đời đã khẳng định: “Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý nhà nước, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ
20
chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập
thể, sở hữu tư nhân trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng” (Điều
15), “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế
xã hội chủ nghĩa. Các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ
chức xã hội, đơn vị vũ
trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp
luật, đấu tranh phòng ngừa chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp, pháp
luật” (Điều 12).
Trải qua gần 20 năm đổi mới, Nhà nước ta đã từng bước xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật nhằm tạo hành lang, khuôn khổ pháp luật cho sự vận động
của xã hội, góp phần quan trọng vào việ
c xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Pháp
luật đã thực sự trở thành công cụ chủ yếu của Nhà nước để quản lý xã hội. Nguyên
tắc pháp quyền từng bước được khẳng định và phát huy hiệu quả trên thực tế.
Bước chuyển biến cơ bản, rõ nét nhất của hệ th
ống pháp luật thể hiện ở chỗ,
nếu như trước đây, Nhà nước quản lý kinh tế, xã hội chủ yếu bằng chính sách, nghị
quyết và mệnh lệnh hành chính thì nay pháp luật đã trở thành công cụ quản lý chủ
yếu của nhà nước. Nguyên tắc pháp quyền từng bước được khẳng định và phát huy
hiệu quả trên thực tế. Hoạt động lập pháp ngày càng trở nên công khai hơn, dân
chủ XHCN ngày càng được m
ở rộng, tạo điều kiện để nhân dân tham gia và thực
hiện quyền giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước từ khâu soạn thảo văn
bản pháp luật đến thực thi pháp luật. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
nam của dân, do dân, vì dân đặt ra yêu cầu cơ bản là phải có một hệ thống pháp
luật hoàn thiện và thống nhất, phản ánh đúng ý chí lợi ích của các cá nhân và tổ
ch
ức trong xã hội.
Trong lĩnh vực kinh tế, về cơ bản chúng ta đã tạo dựng được khung pháp
luật cho việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, xác lập chế độ sở
hữu và các hình thức sở hữu, quy định địa vị pháp lý của các loại hình doanh
nghiệp, các quy định về bảo đảm quyền tự do kinh doanh, quyền tự do hợp đồng,
các cơ chế khuyến khích và bảo đảm
đầu tư; khai thác và sử dụng hiệu quả các
21
nguồn lực của xã hội nhằm hình thành môi trường cạnh tranh lành mạnh; từng
bước xác lập nguyên tắc công dân được làm tất cả những gì mà pháp luật không
cấm trong hoạt động kinh doanh; Các nguyên tắc hành chính trong điều chỉnh các
quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại đang từng bước được thay thế bằng các
nguyên tắc dân luật truyền thống; Đồng thời, để hỗ trợ cho các doanh nghiệp, trong
lĩ
nh vực pháp luật hành chính và cải cách hành chính, nhà nước đã có những bước
tiến tích cực, giảm thiểu sự can thiệp của cơ quan nhà nước bằng các biện pháp
hành chính vào các quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại nói chung và các hoạt
động của các doanh nghiệp nói riêng, giảm cơ chế xin cho. Chức năng, nhiệm vụ
của các cơ quan nhà nước, pháp luật công chức, công vụ ngày càng được xác định
rành mạch, rõ ràng; cải cách hành chính theo hướng đơn giản, công khai, dễ ti
ếp
cận và dễ kiểm tra
[8]
.
Đặc biệt là tại kỳ họp thứ 7 của Quốc hội khóa XI đã thông qua Bộ luật Dân
sự mới thay thế Bộ luật Dân sự năm 1995, Luật Thương mại mới thay thế Luật
Thương mại năm 1997. Trong đó đã xác định Bộ luật Dân sự là Bộ luật gốc quy
định địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của cá nhân, pháp nhân
các chủ thể khác về nhân thân, về
tài sản trong quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình,
kinh doanh, thương mại, lao động. Năm 2005 tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội đã thông
qua Luật Doanh nghiệp (áp dụng chung cho các loại hình doanh nghiệp), Luật Đầu
tư (áp dụng chung cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài) nhằm tạo sự bình
đẳng giữa các chủ thể trong các quan hệ kinh tế. Sự ra đời của Luật Cạnh tranh
năm 2004 đã cho thấy chúng ta đã b
ắt đầu nhận thức về sự cần thiết phải bảo vệ
cạnh tranh, chống cạnh tranh không lành mạnh, đây là một yêu cầu không thể thiếu
của nền kinh tế thị trường, đáp ứng phần nào đòi hỏi của quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế
Một trong những điểm yếu của hệ thống pháp luật kinh tế nước ta trong gần
20 n
ăm qua là hiệu quả điều chỉnh và áp dụng các văn bản quy phạm pháp luật
kinh tế chưa cao. Điều này thể hiện ở một số điểm sau:
8
Bản tiếp thu ý kiến của UBTVQH về đánh giá thực trạng Hệ thống pháp luật Việt Nam sau 17 năm đổi mới
22
Thứ nhất là về tính toàn diện, thống nhất, đồng bộ và khả thi của hệ thống
pháp luật về kinh tế.
Hệ thống văn bản pháp luật về kinh tế còn thiếu toàn diện, chưa đồng bộ,
chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý đất nước bằng pháp luật, nhiều lĩnh vực bức
xúc của đời sống xã hội v
ẫn chưa có luật, thậm chí chưa có cả văn bản của Chính
phủ để điều chỉnh. Đặc biệt, trong lĩnh vực kinh tế việc xây dựng luật chưa theo
kịp với sự phát triển của thực tiễn nên tính dự báo thấp, pháp luật thiếu ổn định,
thường xuyên phải sửa đổi. Ngoài ra, trong nhiều đạo luật vẫn có sự hiện diện của
các quy đị
nh mang tính chung chung như “Nhà nước có chính sách…”, “Nhà nước
bảo đảm…” mới chỉ thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước về những lĩnh vực
đó mà thiếu các quy định bảo đảm thực hiện các chính sách đó.
Thứ hai, pháp luật kinh tế vẫn mang tính hỗn hợp các nguyên tắc của hai cơ
chế quản lý kinh tế là kế hoạch hoá và kinh tế thị trường.
Trong lĩnh vực kinh tế, pháp luật ch
ưa thực sự tạo động lực mạnh mẽ cho
hoạt động kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh, nhà nước vẫn sử dụng một số biện
pháp can thiệp vào thị trường như can thiệp bằng giá, can thiệp bằng con đường
hành chính. Các quy định về thanh tra, chức năng thanh tra ít thay đổi, chồng chéo,
gây phiền hà cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó, trong một số lĩnh vực quan trọng, sự
liên kết các doanh nghiệp nhà nước bằng các quy
ết định hành chính thành tổng
công ty đã tạo ra sự hạn chế cạnh tranh và có thể dẫn tới tình trạng độc quyền hơn
là đáp ứng mong muốn ban đầu chỉ là tạo ra các tổng công ty nhà nước thực sự đủ
mạnh để cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài trong tiến trình hội nhập.
Thứ ba, còn tồn tại những văn bản quy phạm pháp luật chỉ có hiệu lự
c trên
giấy tờ mà thiếu tính thực tế. Ví dụ Luật Thương mại năm 1997, Pháp lệnh Hợp
đồng kinh tế năm 1989 – các văn bản này đã tồn tại trong suốt thời kỳ chuyển từ
nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường và cho đến gần
đây mới được xóa bỏ. Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tuy đã được
thông qua ngày 27-4-1999, nhưng quyề
n lợi của người tiêu dùng vẫn không được
bảo vệ một cách hữu hiệu…
23
Thứ tư, một số văn bản quy phạm pháp luật còn thiếu tính chính xác, thiếu
đồng bộ. Ví dụ các văn bản pháp luật về đất đai và Bộ luật Dân sự là một minh
chứng. Mặc dù tại thời điểm ban hành Bộ luật Dân sự, các quy định về chuyển
quyền sử dụng đất trong Bộ luật Dân sự là phù hợp với quy định của Luậ
t Đất đai
năm 1993, nhưng đứng trước xu thế vận động của các quan hệ đất đai, Luật Đất đai
năm 1993 đã được sửa đổi, bổ sung hai lần vào năm 1998 và 2001, nhưng các quy
định của Bộ luật Dân sự vẫn tồn tại khiến cho các quy định của Bộ luật Dân sự và
Luật Đất đai thiếu thống nhất. Các quy định về bảo đả
m thực hiện nghĩa vụ hợp
đồng trong Luật Hàng không dân dụng Việt Nam, Bộ luật Hàng hải, Pháp lệnh
Hợp đồng kinh tế, Bộ luật Dân sự không thống nhất, thậm chí mâu thuẫn với nhau.
Thứ năm, còn thiếu những quy định cần thiết làm cơ sở cho các quan hệ kinh
tế phát triển và bảo vệ quyền của các chủ thể tham gia các quan hệ kinh tế. Ví dụ
như còn thiếu các quy đị
nh đồng bộ về đăng ký quyền sở hữu đối với tài sản, thiếu
các quy định về bảo vệ tài sản thuộc sở hữu toàn dân…
Có thể nêu ra nhiều nguyên nhân của những điểm yếu nêu trên. Trong đó có
nguyên nhân từ việc xây dưng pháp luật. Nền kinh tế thị trường của Việt Nam khi
được xây dựng bắt đầu từ một nền kinh tế kế hoạch hóa bao cấp. Đ
ây là hai thái
cực đối lập nhau, với nền kinh tế thị trường đòi hỏi việc xây dựng hệ thống văn bản
pháp luật không thể dựa trên (hay có thể nói là phải đối lập) với hệ thống pháp luật
của nền kinh tế tự nhiên, tự cung, tự cấp, đối lập với cơ chế cấp phát, giao nộp.
Tuy nhiên, việc xây dựng pháp luật phải dựa vào nhận thức và ý th
ức pháp luật của
con người cụ thể. Vì vậy, không thể một lúc mà có thể thay đổi tư duy, nhận thức
của các nhà làm luật cũng như của dân chúng. Quá trình xây dựng pháp luật kinh tế
của nước ta là một khoảng thời gian dài, vì vậy không thể tránh khỏi những bất cập
trong quá trình xây dựng và hoàn thiện.
Khi xây dựng pháp luật, việc tuân thủ quy trình xây dựng pháp luật như thế
nào là hợp lý cũng ảnh hưởng không nhỏ
đến chất lượng văn bản quy phạm pháp
luật được xây dựng và việc thực thi các văn bản quy phạm pháp luật đó. Bất cập
của quy trình xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật của nước ta hiện nay là cơ
24
chế xây dựng, sửa đổi văn bản quy phạm pháp luật chưa hợp lý. Điều này được thể
hiện ở cách phân công và thực hiện quy trình soạn thảo dễ dẫn đến tình trạng bảo
vệ lợi ích cục bộ của ngành, địa phương, chưa thật sự vì lợi ích chung và vì sự
thuận lợi cho người dân. Việc thông qua luật hoặc pháp lệnh thường chậm, còn
hi
ện tượng vấn đề dễ soạn thảo thì thông qua trước, vấn đề rất bức xúc nhưng khó
thì vẫn để lại tiếp tục nghiên cứu mà không có các giải pháp thúc đẩy, hỗ trợ tích
cực cho việc soạn thảo. Nội dung của văn bản luật thường thiếu cụ thể, những nội
dung khó thường dành cho nghị định và các văn bản của Bộ, ngành quy định. Vì
vậy, đã dẫ
n đến tình trạng văn bản dưới luật mở rộng hoặc thu hẹp hơn phạm vi
điều chỉnh của luật, luật tuy đã được ban hành nhưng không thể áp dụng được ngay
mà còn phải chờ văn bản hướng dẫn thi hành. Mặc dù Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật (sửa đổi tháng 12 năm 2002) đã đổi mới một bước trình tự xem
xét, thông qua luật, pháp lệnh nhưng vẫ
n còn nhiều vấn đề chưa được đề cập, cần
tiếp tục nghiên cứu như: chưa có phương thức để có thể sửa đổi, bổ sung đồng thời
các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan với một luật, pháp lệnh mới được ban
hành hoặc mới được sửa đổi, bổ sung. Điều này dẫn đến sự không đồng bộ về nội
dung của các v
ăn bản quy phạm pháp luật nói chung và văn bản quy phạm pháp
luật kinh tế nói riêng, gây khó khăn cho việc thi hành luật. Quá trình xây dựng các
văn bản quy phạm pháp luật chưa có đủ cơ chế thu hút các chuyên gia giỏi, những
người trực tiếp thi hành pháp luật và huy động thực sự hiệu quả trí tuệ của nhân
dân, của thành viên các tổ chức xã hội, hiệp hội nghề nghiệp vào hoạt động xây
dựng pháp luật. Việc tổ ch
ức lấy ý kiến tham gia của các Bộ, ngành, của các thành
viên của Chính phủ về các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật nhiều khi còn hình
thức. Không phải tất cả hoặc phần lớn các văn bản quy phạm pháp luật có liên
quan đến sự phát triển của nền kinh tế đất nước đều có sự đóng góp ý kiến của
nhân dân nói chung và của các đối tượng chịu sự tác động trực tiếp hoặ
c gián tiếp
của các văn bản quy phạm pháp luật nếu văn bản được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ban hành. Việc lấy ý kiến đóng góp của các tổ chức, của nhân dân vào văn
bản quy phạm pháp luật từ giai đoạn nào cũng chưa thống nhất và đang là vấn đề
còn phải bàn. Từ trước đến nay, chỉ một số văn bản quy phạm pháp luật được l
ấy ý
25
kiến rộng rãi của nhân dân và thông thường nhân dân chỉ được hỏi ý kiến khi văn
bản quy phạm pháp luật đó chuẩn bị được Quốc hội xem xét, thông qua. Việc tiếp
thu hoặc không tiếp thu ý kiến của nhân dân vào việc xây dựng quy phạm pháp
luật không được các cơ quan xây dựng pháp luật phản hồi. Điều này sẽ ảnh hưởng
không nhỏ đến nội dung văn bản quy phạm pháp luật và vi
ệc áp dụng văn bản quy
phạm pháp luật được ban hành vào cuộc sống.
1.2.2. Những yêu cầu đặt ra trong xây dựng chính sách pháp luật kinh tế
trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam trong thời gian tới
Để đáp ứng yêu cầu hội nhập và cải cách kinh tế, trong thời gian tới, trọng
tâm của Nhà nước Việt Nam là tập trung phát triển kinh tế. Vì vậy, trong chương
trình cải cách pháp luật, hệ thống pháp luật kinh doanh đóng vai trò r
ất quan trọng.
Hướng tới mục tiêu xây dựng một hành lang pháp lý điều chỉnh hoạt động của các
doanh nghiệp một cách phù hợp, đồng thời khuyến khích sự phát triển của các
doanh nghiệp thuộc cả khối nhà nước và khối dân doanh, công tác xây dựng pháp
luật của Việt Nam hiện nay dành một phần lớn nguồn lực để xây dựng hệ thống
văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động kinh doanh. Ngh
ị quyết số 48-NQ/TW
ngày 24 tháng 5 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật ở Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 tại Mục
II.3 - Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về dân sự, kinh tế, trọng tâm là hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã chỉ rõ từ nay đến năm
2010 và các n
ăm tiếp theo tiếp tục xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tập trung vào một số lĩnh vực pháp luật kinh
tế trọng điểm đáp ứng kịp thời yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hội
nhập kinh tế quốc tế.
Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về sở hữu, quyền tự
do kinh doanh. Làm
rõ nội hàm và cơ chế quản lý tài sản thuộc sở hữu toàn dân, chủ sở hữu nhà nước
và các chủ sở hữu khác, cơ chế bảo đảm quyền sở hữu và hạn chế quyền sở hữu.
Hoàn thiện cơ chế bảo vệ quyền tự do kinh doanh, tạo lập môi trường pháp lý cho
cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, phù hợp với nguyên tắc của WTO, các cam kết
quốc t
ế và lộ trình đã công bố; thực hiện nguyên tắc công dân được làm tất cả