Tải bản đầy đủ (.pdf) (519 trang)

Chính sách phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội đối với các vùng dân tộc thiểu số tây bắc, tây nguyên, tây nam bộ cơ sở lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.79 MB, 519 trang )

BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
CHƯƠNG TRÌNH KX.02/06-10


ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP NHÀ NƯỚC



CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN XÃ HỘI VÀ QUẢN LÝ
PHÁT TRIỂN XÃ HỘI ĐỐI VỚI CÁC VÙNG DÂN TỘC
THIỂU SỐ TÂY BẮC, TÂY NGUYÊN, TÂY NAM BỘ -
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
(Mã số: KX.02.10/06-10)



BÁO CÁO
TỔNG HỢP KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU



Chủ nhiệm: TS Doãn Hùng
Cơ quan chủ trì đề tài: Học viện CT-HC Khu vực I

8165

HÀ NỘI – 2010


LỰC LƯỢNG CHÍNH THAM GIA ĐỀ TÀI


1. TS Doãn Hùng, Chủ nhiệm đề tài.
2. TS Nguyễn Ngọc Hà, Thư ký khoa học đề tài,
3. TS Lê Thị Phương Thảo, Liên hiệp các Hội khoa học Kỹ thuật VN.
4. PGS.TS Đoàn Minh Huấn, Học viện Chính trị - Hành chính khu vực I,
5. PGS.TS Ngô Ngọc Thắng, Học viện Chính trị - Hành chính khu vực I,
6. PGS.TS Phạm Thành Dung, Học viện Chính trị - Hành chính khu vực I,
7. PGS.TS Phạm Hảo, Học viện Chính trị - Hành chính khu vực III,
8. TS Lê Văn Định, Học việ
n Chính trị - Hành chính khu vực III,
9. TS Võ Thành Khối, Học viện Chính trị - Hành chính khu vực II,
10. Th/s Nguyễn Tấn Vinh, Học viện Chính trị - Hành chính khu vực II,
11. PGS.TS Phạm Đình Huỳnh, Học viện Chính trị - Hành chính khu vực IV,
12. PGS.TS Khổng Diễn, Viện nghiên cứu phát triển bền vững vùng Tây Nguyên,
13. TS Hà Hữu Nga, Viện Nghiên cứu phát triển bền vững vùng Bắc Bộ,
14. TS Bùi Minh Đạo, Viện nguyên cứu phát triển bền vững vùng Tây Nguyên,
15. TS Bạch Hồng Việt, Viện phát triển b
ền vững vùng Tây Nguyên,
16. TS Võ Công Nguyện, Viện Nghiên cứu phát triền bền vững vùng Nam Bộ.
17. TS Trần Nam Tiến, Trường Đại học KHXH và NV Thành phố HCM.
18. TS Trần Xuân Dung, Học viện An ninh nhân dân.
19. Hoàng Bạn, Ban Chỉ đạo Tây Nguyên.
20. TS Đậu Tuấn Nam, Học viện Chính trị - Hành chính khu vực I.
21. Th/s Nguyễn Thị Hải Yến, Học viện Chính trị - Hành chính khu vực III.








3
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nghiên cứu về chính sách phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở
các vùng dân tộc thiểu số Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ là một nhu cầu
khoa học cấp thiết đồng thời là đòi hỏi thực tiễn bức xúc, được chế định bởi
mấy lý do sau đây:
Một, Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ là nơi tụ cư xen cài giữa dân
t
ộc đa số (Kinh) với các dân tộc thiểu số, giữa dân tộc thiểu số này với dân
tộc thiểu số khác. Thực tế, đây là vùng đa tộc người. Nếu như phát triển xã
hội và quản lý phát triển xã hội ở vùng đơn tộc người đã khó thì phát triển xã
hội và quản lý phát triển xã hội ở vùng đa tộc người càng khó và phức tạp bội
phần, do mỗi tộc ngườ
i có đặc điểm riêng về văn hoá, phong tục, tập quán,
trình độ phát triển, nếp nghĩ, cách làm, không gian sinh tồn,… cùng vô vàn
các yếu tố khác chi phối. Đây là lý do thứ nhất quy định tính đặc thù trong
chính sách phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở vùng đa tộc người
mà cần phải có những nghiên cứu thấu đáo.
Hai, vùng dân tộc thiểu số có nhiều tiềm năng về khoáng sản, lâm sản,
trồng cây công nghiệp, cây d
ược liệu, thủy điện, du lịch lịch sử - văn hoá…
nhưng tiềm năng ấy chưa được khai thác có hiệu quả, thiếu tính bền vững. Sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá càng được đẩy tới thì nền kinh tế tế
đang được cơ cấu lại và theo đó làm thay đổi “đột ngột” kết cấu xã hội, đòi
hỏi việc hoạch
định, thực thi chính sách phát triển xã hội và quản lý phát triển
xã hội phải cân nhắc kỹ lưỡng cả yêu cầu bảo tồn giá trị truyền thống và phát
triển, đặc biệt đối với các khu vực tái định cư thuộc công trình thủy điện (Sơn
La, Than Uyên, Na Hang, Sê San…). Trong trường hợp như vậy, nếu áp đặt

cách quản lý xã hội của vùng dân cư có trình độ phát triển cao đối với dân cư
có trình độ thấ
p, của vùng đơn tộc người với vùng đa tộc người,…thì chắc
chắn sẽ phải trả giá và thất bại, mà những thí điểm xây dựng khu tái định cư
thuộc công trình thủy điện Sơn La một ví dụ điển hình. Đây là lý do thứ hai
đòi hỏi phải khu biệt hoá được tính đặc thù trong chính sách phát triển xã hội
và quản lý phát triển xã hội ở các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam
Bộ.

4
Ba, Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ đang nổi lên các điểm nóng
bức xúc, như truyền đạo trái phép, di dân diễn biến phức tạp, buôn bán và sử
dụng ma tuý, mâu thuẫn và xung đột tộc người giữa cư dân tại chỗ và cư dân
mới đến, tàn phá rừng đầu nguồn,… Những bức xúc nêu trên có mặt cần có
thời gian và những nguồn lực tương ứng mới giải quyết được triệt để, như
ng
cũng có mặt đòi hỏi phải xử lý bằng giải pháp tình thế. Nhiều vấn đề xã hội
bức xúc của vùng dân tộc thiểu số nếu không được giải quyết dứt điểm thì từ
“điểm” có nguy cơ bùng phát thành “diện”, từ tính chất đơn giản chuyển
thành phức tạp. Đây là đặc điểm quy định lý do thứ ba về tính đặc thù trong
chính sách phát triển xã hộ
i và quản lý phát triển xã hội các vùng Tây Bắc,
Tây Nguyên và Tây Nam Bộ.
Bốn, trong khuynh hướng của “chủ nghĩa giải lãnh thổ”
(détrritorialisation) thì các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ nước
ta trở thành trọng điểm chống phá của các thế lực thù địch, đe doạ đến sự
thống nhất quốc gia và mô hình nhà nước - dân tộc. Các lực lượng li khai
thường núp dưới ngọn cờ dân tộc và tôn giáo để mưu toan thực hiện chủ
nghĩ
a ly khai. Các cuộc bạo loạn chính trị ở Tây Nguyên năm 2001 và tái phát

năm 2004 với cái âm mưu thành lập “Nhà nước Đề ga” cũng như tình hình
phức tạp của khu vực người H’Mông ở Tây Bắc, người Khơme ở Nam Bộ,…
đang đặt ra những thách thức to lớn đối với Đảng và Nhà nước ta trong những
năm trước mắt và cả chiến lược phát triển lâu dài. Đây là lý do thứ tư đòi hỏi
cần xác
định những phương thức đặc thù về phát triển xã hội và quản lý phát
triển xã hội ở các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ.
Năm, Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ có đường biên giới hàng
ngàn km tiếp giáp với Trung Quốc, Lào, Campuchia. Do đó, đây là “phên dậu
quốc gia”, có tầm quan trọng đặc biệt trên phương diện địa - chính trị, đảm
bảo an ninh chủ quyền biên giới, giữ vững và thúc đẩy quan hệ hữu nghị
truyền thố
ng với các nước láng giềng. Nơi đây đang xuất hiện những xu
hướng tích cực như thúc đẩy giao thương kinh tế, giao lưu văn hoá và mở
rộng đối ngoại nhân dân, nhất là hình thành các khu kinh tế cửa khẩu với sự
hợp tác chặt chẽ giữa các nước có chung đường biên giới. Bên cạnh đó cũng
nảy sinh hàng loạt vấn đề phức tạp như di dân xuyên quốc gia, buôn lậu hàng
hoá, buôn bán ma tuý, buôn bán người, kiể
m dịch động - thực vật,… Nhưng

5
nổi cộm nhất vẫn là vấn đề bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới với tính phức
tạp của nó, có phần do di tồn lịch sử, có phần mới nảy sinh do sự chi phối bởi
động thái chính trị - xã hội phức tạp của các quốc gia láng giềng. Đó là lý do
thứ năm đòi hỏi phải tính toán những đặc thù của chính sách phát triển xã hội
và quản lý phát triển xã hội ở
vùng biên giới, đóng góp luận cứ khoa học vào
hoạch định chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia trong tình hình mới.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
a. Nghiên cứu của người nước ngoài

Nghiên cứu nước ngoài về chính sách quản trị và phát triển xã hội được
kế thừa trong thực hiện đề tài này rất phong phú, đặc biệt là các lý thuyết về
an sinh xã hội, nhân học tộc người, tương đối lu
ận văn hóa, xung đột xã hội,
nhóm lợi ích, quan hệ giữa tổ chức với đối tượng quản lý, con người trong các
chính sách quản lý, triết lý phát triển xã hội hiện đại mà bất cứ hệ thống
quản lý nào cũng phải xử lý. Trực tiếp phục vụ cho đề tài này có các nhóm
nghiên cứu nước ngoài sau đây được khảo cứu kỹ lưỡng.
Một là: Nghiên cứu về khoa học vùng trong xu thế toàn cầu hoá và
nh
ững liên hệ với phát triển vùng kinh tế, vùng sinh thái, vùng văn hoá
Đã có nhiều nghiên cứu chuyên sâu về khu vực học, có khi xem xét trên
một không gian lịch sử - văn hoá rộng, trung bình hoặc hẹp để định dạng, mà
khu vực dân tộc thiểu số thường nhận được sự quan tâm đặc biệt, như Blench,
Roger [1999] với: Language Phyla of the Indopacific Region: recent Recearch
and Classification (“Các nhóm ngôn ngữ của Khu vực Ấn Độ -Thái Bình
Dương: nghiên cứu và Phân loại gần đây”). Ho
ặc có những nghiên cứu đi
sâu vào mối quan hệ tương phản giữa khu vực hoá và toàn cầu hoá với đại
diện là Honnighausen L., Marc Frey, James Peacock, Niklaus Steiner [2005]
với “Regionalism in the Age of Globalism – Volume Concepts of
Regionalism” (“Khu vực hoá trong Thời đại Toàn cầu hoá: Các khái niệm
khu vực hoá”)
Hai là: Những nghiên cứu tổng quan các dân tộc thiểu số ở Việt Nam,
trong đó các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ thường được xem là
trọng điểm nghiên cứu. Thuộc nhóm này, trước hết ph
ải kể đến tên tuổi nhiều
nhà nhân học văn hoá, nhân học xã hội người Pháp như Parke E.H, H.

6

Maspéro, mà kết quả nghiên cứu của họ đã được công bố trên Tập san của
Trường Viễn đông Bác cổ (BEFEO), Tập san Hội nghiên cứu Đông Dương
(BSEI), Tập san Pháp Á (FA) hoặc xuất bản thành chuyên khảo. Gần đây
có nghiên cứu của Donovan D., Rambo T.A, Fox J., Lê Trọng Cúc, Trần Đức
Viên: “Những xu hướng phát triển ở vùng núi phía Bắc Việt Nam’’ [1997] với
việc xem xét cụ thể mỗi cộng đồ
ng tộc người gắn với hệ sinh thái tộc người
(rẻo cao, rẻo giữa, thung lũng) và từ đó chi phối đến đặc trưng văn hoá mà
mỗi chính sách phát triển xã hội tộc người cần phải tính toán đầy đủ. Furuta
Mooto (Nhật Bản) với Luận án tiến sĩ “Chính sách dân tộc của Đảng Cộng
sản Việt Nam” (Luận án Tiến sĩ) [1989] không chỉ quan tâm đến đặc điể
m
nhân chủng, văn hoá tộc người, mà hướng trọng tâm nghiên cứu thể chế,
chính sách phát triển xã hội tộc người và quản lý phát triển tộc người của
Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Ba là: Những nghiên cứu chuyên biệt về từng tộc người thiểu số ở cả 3
vùng Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ. Bên cạnh những tên tuổi thời
thuộc địa như P. Guileminet, P.B. Lafont, Tơ lơi Djuat, J. Cuisiner, thì gần
đây có Gerald Hicke (Mỹ), Oscar Salemink (Hà Lan), Patricia Pelly (Mỹ
),
với một số nghiên cứu về các tộc người thiểu số ở Việt Nam, đặc biệt là Tây
Nguyên. Các công trình nêu trên chủ yếu nghiên cứu dưới giác độ nhân học,
rồi từ đó đề cập đến chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam đối với phát
triển xã hội tộc người và quản lý phát triển xã hội tộc người. Một số tổ chức
phi chính phủ trong quá trình tài trợ cho các ch
ương trình, dự án xoá đói
giảm nghèo, bảo vệ môi trường sinh thái, cải cách hành chính, ở vùng dân
tộc thiểu số nước ta, đã có các nghiên cứu cũng như báo cáo đánh giá. iêu
biểu cho nhóm nghiên cứu này là công trình của Công ty ADUKI Pty Ltd với
“Poverty in Vietnam” (“Vấn đề nghèo đói ở Việt Nam”) [1995]; hoặc các báo

cáo tư vấn của Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng phát triển châu Á, các tổ chức
phi chính phủ, đáng lưu ý là báo cáo của Neil Jamieson: “a. Socio – economic
Overview of the Northern Mountain Region and the Project and Poverty
Reduction in the Northern Mountain Region of Vietnam”, 2000 (a. Tổng quan
về tình hình kinh t
ế – xã hội khu vực miền núi phía Bắc. Dự án xoá đói giảm
nghèo ở khu vực miền núi phía Bắc: Ngân hàng Thế giới) và “b. Rethinking
Approaches to Ethenic Minority Developmen, The Case of Vietnam”.

7
Concept Paper perpared for the World Bank, Unpublished, 2000 (“Nghĩ lại
cách tiếp cận chương trình phát triển dân tộc thiểu số, Trường hợp Việt
Nam”) Những báo cáo này có khuyến nghị Chính phủ Việt Nam cần lưu
tâm đến chăm lo những đối tượng chịu nhiều thua thiệt trong trong quá trình
chuyển đổi cơ chế, những nguy cơ xung đột tộc người, các bất bình đẳng mới
nảy sinh trong xã hội tộc người, các nguồn vốn xã hộ
i cần khai thác để phục
vụ yêu cầu phát triển bền vững.
b. Nghiên cứu trong nước
Nghiên cứu trong nước liên quan đến đề tài càng phong phú hơn, nhất là
về phương diện chính sách phát triển xã hội. Dưới đây là các nhóm nghiên
cứu chính liên quan trực tiếp đến đề tài:
Một là
: Nghiên cứu về vùng văn hoá, vùng kinh tế trong mối liên hệ với
sự PTXH và QLPTXH mang “đặc tính vùng” của Tây Bắc, Tây Nguyên và
Tây Nam Bộ.
Nhóm nghiên cứu này có ưu điểm là dựa trên lý thuyết khu vực học để
tìm ra đặc trưng của vùng, mà Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ thường
được liên hệ là những không gian lịch sử - văn hoá đặc thù, độc đáo, nhưng
đồng thời lại là vùng tăng trưởng thấp, chịu nhiều áp lực củ

a cơ chế thị
trường, của toàn cầu hoá, có nguy cơ phân rã các kết cấu xã hội truyền thống.
Do vậy, những nghiên cứu về vùng văn hoá thường đặt ra yêu cầu bảo tồn,
lưu giữ giá trị truyền thống trong phát triển xã hội và quản lý phát triển xã
hội. Tiêu biểu cho những nghiên cứu này là chuyên khảo của Ngô Đức Thịnh:
“Văn hoá, văn hoá tộc người và văn hoá Việt Nam” [2006]; củ
a Phan Hữu
Dật, Ngô Văn Thịnh, Lê Ngọc Thắng: “Sắc thái văn hoá địa phương và tộc
người trong chiến lược phát triển đất nước” [1999], các công trình của Trần
Văn Bính (chủ biên) [2004, 2005] về văn hóa Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây
Nam Bộ, của Trần Hồng Liên về văn hóa người Hoa ở Tây Nam Bộ [2005].
Dưới góc độ kinh tế vùng gắn với quy hoạch phát triển các vùng lãnh thổ có
các công trình của Viện Chiến lược phát triển [2004], c
ủa Nguyễn Xuân Thu
– Nguyễn Văn Phú (đồng chủ biên) [2006], Ngô Doãn Vịnh [1998].
Hai là:
Nghiên cứu về chính sách xã hội nói chung, trong đó có đề cập
đến chính sách phát triển xã hội đối với vùng dân tộc thiểu số.

8
Đáng chú ý là nghiên cứu của Doãn Hùng (chủ nhiệm): Đảng lãnh đạo
thực hiện chính sách xã hội trong thời kỳ đổi mới [1999]; của Phạm Xuân Nam
(chủ biên): “Đổi mới chính sách xã hội - Luận cứ và giải pháp” [1997]; của
của Đặng Cảnh Khanh: “Gia đình trẻ em và sự kế thừa các giá trị truyền thống”
[2003]; của Lê Thị Quý: “Bình đẳng giới trong phát triển vùng đa dân tộc miền
núi’’ [2005]. Điể
m đáng ghi nhận trong những nghiên cứu này là các vùng
Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ luôn được xem là những nơi khó khăn
nhất nên được đề cập với tư cách những địa bàn đặc thù trong thực thi các
chính sách xã hội như xoá đói giảm nghèo, nâng cao dân trí, giáo dục – đào

tạo, định canh định cư.
Ba là:
Nghiên cứu về thiết chế quản lý xã hội ở vùng dân tộc thiểu số Tây
Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, trong đó có nêu lên tính tộc người, tính địa
phương trong quản lý phát triển xã hội
Thiết chế quản lý phi quan phương được quan tâm đặc biệt của giới
nghiên cứu, nhất là kết cấu buôn/làng/phum/sóc. Đáng chú ý là nghiên cứu
của Doãn Hùng (chủ nhiệm): “Đặc điểm truyền thống dân tộc Mường tỉ
nh Hoà
Bình và dân tộc Thái tỉnh Sơn La ảnh hưởng tới việc thực hiện quy chế dân chủ
ở cơ sở” [2001]; của Lê Ngọc Thắng (chủ biên), Lâm Bá Nam: “Thiết chế xã
hội cổ truyền các dân tộc thiểu số Việt Nam” [1990]; của Lưu Hùng: “Buôn
làng cổ truyền xứ Thượng” [1994]; của Nguyễn Quốc Phẩm: “Luật tục và ý
thức pháp luật trong quản lý xã hội các dân tộc thiểu s
ố” [2002]; Các nghiên
cứu loại này bước đầu đã cho thấy những tác động trực tiếp và gián tiếp của
thiết chế xã hội truyền thống đối với sự phát triển xã hội và quản lý phát triển
xã hội ở từng vùng, từng tiểu vùng và từng cộng đồng tộc người.
Theo một cách tiếp cận khác, có tác giả lại đi sâu tìm hiểu các thiết chế
quan phương do các thể chế nhà n
ước áp đặt lên vùng dân tộc thiểu số, với
nghiên cứu của Phan Hữu Dật và Lâm Bá Nam [2001]; của Tô Huy Rứa,
Nguyễn Cúc, Trần Khắc Việt [2004], của Nguyễn Cúc, Ngô Ngọc Thắng,
Đoàn Minh Huấn [2005]). Từ nghiên cứu thiết chế quản lý quan phương,
những chuyên khảo này đã cho thấy độ “vênh” với thiết chế quản lý phi quan
phương và xem đây là một trong những nguyên nhân cản trở hiệu quả quản lý
phát triển xã hội và h
ạn chế sự tham gia của các dân tộc tại chỗ vào hoạt động
quản lý xã hội. Vì vậy, nhiều nghiên cứu đã nêu ra các khả năng kết hợp, lồng


9
ghép giữa thiết chế quản lý quan phương với phi quan phương, nhất là ở hệ
thống chính trị cấp cơ sở, để nâng cao hơn năng lực và hiệu quả quản lý.
Bốn là:
Nghiên cứu các yếu tố “động” của đối tượng và chủ thể quản lý
phát triển xã hội vùng dân tộc thiểu số Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ.
Yếu tố “động” trong quản lý xã hội chính là con người, gồm cả con
người với tư cách đối tượng quản lý và con người với tư cách là chủ thể quản
lý. Con người với cách là chủ thể quản lý xã hội vùng dân tộc thiểu số rất
đượ
c đặc biệt coi trọng, nhất là cán bộ, trí thức, già làng, trưởng bản. Thuộc
loại nghiên cứu này có công trình của Lê Hữu Nghĩa (chủ biên) [2001]; của
Lê Phương Thảo, Nguyễn Cúc, Doãn Hùng [2005]; của Doãn Hùng (chủ
nhiệm) [2004]; của Nguyễn Ngọc Hà (chủ nhiệm) [2005]; của Trịnh Quang
Cảnh [2005]; của Chu Thái Sơn [1997] Nhiều nghiên cứu đặt vấn đề hiệu
quả quản lý phát triển xã hội ở vùng dân tộc thiểu số vớ
i yêu cầu đan xen, kết
hợp giữa thiết chế quan phương và phi quan phương, giữa tri thức địa
phương và tri thức khoa học, giữa luật tục và luật pháp, giữa đơn vị hành
chính lãnh thổ và đơn vị dân cư (buôn/ làng). Đây là những hướng tiếp cận rất
được quan tâm trong sự phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở các
vùng dân tộc thiểu số Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ.
Năm là:
Nghiên cứu quan hệ tộc người, các “điểm nóng” chính trị - xã hội
ở Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và những vấn đề đặt ra trong đổi mới
CSPTXH và QLPTXH vùng đa dân tộc.
Nhóm nghiên cứu này rất phong phú, đa dạng, với cả chuyên khảo và bài
viết công bố trên tạp chí, đáng chú ý là các công trình của Phan Hữu Dật [2001],
của Nguyễn Quốc Phẩm (chủ biên) [2006], của Trương Minh Dục [2005], của
Nguyễn Văn Huy, Lê Duy Đại [1999], củ

a Hoàng Chí Bảo (chủ nhiệm)
[2006].,. Nhiều chuyên khảo đặt ra những quan tâm sâu sắc vấn đề tôn giáo ở
cả 3 vùng Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ của Hà Quốc, của Đỗ Quang
Hưng [2004]). Vấn đề di dân, đói nghèo, dân trí, thể chất con người, tàn phá
rừng đầu nguồn cũng nhận được sự quan tâm sâu sắc của giới nghiên cứu với
công trình của Đặng Nguyên Anh [2006], của Trần Văn Chử [2000], của
Trung tâm khoa học xã h
ội và nhân văn quốc gia [2002], của Mai Văn Mô
[2004];

10
Cả 5 nhóm nghiên cứu nêu trên có ý nghĩa rất quan trọng đối với quá
trình thực hiện đề tài này, bao gồm cả cung cấp một số tư liệu và cách tiếp
cận đối tượng nghiên cứu. Tuy nhiên, phần lớn các nghiên cứu chưa có hệ
thống, còn thiếu những nghiên cứu liên ngành để tìm ra luận cứ và giải pháp
thích hợp nhằm phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hộ
i ở các vùng Tây
Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ. Do đó, việc thực hiện đề tài này là rất cần
thiết, xét trên cả phương diện khoa học lẫn phương diện thực tiễn.
3. Mục tiêu của đề tài.
- Phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn của chính sách phát triển xã hội và
quản lý phát triển xã hội ở các vùng dân tộc thiểu số Tây Bắc, Tây Nguyên,
Tây Nam Bộ.
- Phân tích thực trạng, xu hướng và những vấ
n đề đặt ra trong chính sách
phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở các vùng dân tộc thiểu số Tây
Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp đổi mới, hoàn thiện chính sách phát
triển xã hội và quản lý phát triển xã hội đối với các vùng dân tộc thiểu số Tây
Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
a. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề
tài là chính sách quản lý và phát triển xã
hội tộc người ở cấp độ vùng, được xem xét cụ thể trong trường hợp của Tây
Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ.
b. Giới hạn phạm vi nghiên cứu.
- Về mặt thời gian:
Đề tài tổng kết chính sách phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội
từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng công cuộc đổi mới hiện nay,
chủ yếu tập trung tổ
ng kết từ năm 2000.
- Về không gian:
Tên đề tài đã giới hạn địa bàn nghiên cứu là các vùng Tây Bắc, Tây
Nguyên và Tây Nam Bộ. Số liệu thống kê, điều tra chủ yếu dựa theo vùng
kinh tế theo sự phân định của Tổng cục Thống kê hiện nay. Tuy nhiên, trong

11
quá trình phân tích, đánh giá định tính đối với từng tình huống cụ thể đề tài
còn kết hợp với sử dụng các quan niệm vùng văn hoá, vùng sinh thái, vùng
địa lý, vùng ký ức – lịch sử… mà nhiều khi không đồng nhất với cách phân
định của Tổng cục Thống kê.
- Về mặt nội dung:
Đây là một đề tài đặc thù thuộc Chương trình KX.02/06-10 tiếp cận
phương diện xã hội theo cơ cấu dân tộc, được qu
ản lý ở cấp độ vùng. Vì vậy,
chính sách quản lý và phát triển xã hội các vùng dân tộc thiểu số Tây Bắc,
Tây Nguyên và Tây Nam Bộ được giới hạn ở những nội dung sau:
Về mặt chủ thể quản lý: Bao gồm cả Trung ương và địa phương, cả hệ
thống quản lý nhà nước và quản lý phi nhà nước.

Về đối tượng: Bao gồm cả dân tộc thiểu số và dân tộc đa số
sinh sống
đan xen ở các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ.
Về phân hệ chính sách phát triển xã hội, bao gồm: Bên cạnh những vấn
đề chung thì mỗi vùng có những chiều cạnh riêng về quản lý phát triển xã hội
mà đề tài căn cứ vào đó để tổng kết, phân tích, đánh giá. Ngoài các chính sách
phát triển xã hội phổ biến được áp dụng ở tất cả các vùng như : (i) chính sách
phát triển giáo dục, (ii) chính sách sức khỏe, (iii) chính sách xóa đói giảm
nghèo, (iv) chính sách lao độ
ng, việc làm thì mỗi vùng có có những đặc riêng
khi nghiên cứu chính sách phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội.
Chẳng hạn, nổi cộm của Tây Bắc là du canh, du cư nên chính sách định canh,
định cư rất quan trọng; trong khi đó ở Tây Nguyên lại không có du canh du
cư, mà chỉ có luân canh, luân khoảnh của cư dân tại chỗ và tình trạng nhập cư
người từ nơi khác đến cho nên vấn đề ở đây là bố trí lại dân cư, ổn đị
nh dân
cư; còn Tây Nam Bộ thì vấn đề này rất ít được đặt ra do không có du canh, du
cư hay luân canh, luân khoảnh, chủ yế là tổ chức lại dân cư do biến đổi khí
hậu, tập quán cư trú. Vì vậy, giới hạn của đề tài tập trung vào 4 chính sách cơ
bản nêu trên, ngoài ra còn căn cứ vào đặc trưng vùng để nghiên cứu các chính
sách xã hội khác.
5. Cơ sở lý luận, cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu.
a. Cơ sở lý luận.
Đề tài
được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin,

12
tư tưởng Hồ Chí Minh để tiếp cận những vấn đề mang tính bản chất luận của
quản lý và phát triển xã hội tộc người, đồng thời có vận dụng những lý thuyết
khác để xử lý các vấn đề mang tính thao tác luận trong nghiên cứu khoa học

b. Cách tiếp cận.
- Tiếp cận khu vực học (areas studies) là phương pháp nghiên cứu liên
ngành giữa lịch sử, dân tộc họ
c, xã hội học, văn hoá học, nhân học thể chất
(Physical Anthropology), nhân trắc học (Anthro-metrics), nhân học xã hội,
nhân học văn hoá, chính trị học, hành chính học, kinh tế học, sinh thái học
nhân văn, tâm lý học tộc người, lịch sử di dân, quan hệ quốc tế, khoa học
vùng (regional science), địa kinh tế học mới (New Economic Geography), qui
hoạch phát triển vĩ mô…v.v.
- Tiếp cận liên vùng sử dụng cả nghiên cứu quá trình tộc người trong
quá khứ và nhữ
ng vấn đề của đời sống đương đại, để thấy những giao thoa lẫn
nhau giữa các vùng lãnh thổ mà cư dân các tộc người cư trú (thậm chí với cả
các vùng giáp ranh của các nước láng giềng (Lào, Campuchia, Nam Trung
Quốc).
- Tiếp cận liên cấp đòi hỏi phải xem xét ở cả 3 cấp độ vĩ mô, trung mô
và vi mô, đồng thời có sự đan xen, tác động qua lại lẫn nhau giữa các cấp
quản lý trong ho
ạch định các chính sách phát triển nguồn nhân lực ở vùng dân
tộc thiểu số.
- Tiếp cận nội sinh kết hợp ngoại sinh với yêu cầu xem xét đầy đủ cả
yếu tố bên trong và các tác nhân bên ngoài, mà vấn đề cơ bản là phải chuyển
hoá được các nguồn lực bên ngoài biến thành năng lực nội sinh bên trong của
cộng đồng cư dân ở vùng dân tộc thiểu số.
- Tiếp cận tham gia đòi h
ỏi phải xem xét các DTTS không chỉ là đối
tượng thụ hưởng kết quả nghiên cứu, mà còn phải được tham dự vào quá
trình nghiên cứu để họ có điều kiện phản ánh nhu cầu, lợi ích của mình trong
mỗi giải pháp phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội.
c. Phương pháp nghiên cứu.

Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau đây: Thống kê,
phân tích, tổng hợp, nghiên cứu định lượ
ng, điền dã dân tộc học, phỏng vấn
sâu, chuyên gia, đánh giá SWOT (dùng để phân tích Điểm mạnh (Strengths),

13
Điểm yếu (Weaknesses), Cơ hội (Opportunities), Rủi ro – Nguy cơ (Threats))
6. Kết cấu của báo cáo tổng hợp.
Báo cáo tổng hợp ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham
khảo, gồm ba phần sau đây:
Phần thứ nhất: Cơ sở lý luận và kinh nghiệm quốc tế về hoạch định và
thực thi chính sách phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội các vùng dân
tộc thiểu số.
Ph
ần thứ hai: Chính sách phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội
các vùng dân tộc thiểu số Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ - Thực trạng
và những vấn đề đặt ra.
Phần thứ ba: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện chính sách phát triển xã
hội và quản lý phát triển xã hội các vùng dân tộc thiểu số Tây Bắc, Tây
Nguyên và Tây Nam Bộ.



















14
PHẦN THỨ NHẤT

Cơ sở lý luận và kinh nghiệm quốc tế về hoạch
định và thực thi chính sách phát triển xã hội và
quản lý phát triển xã hội vùng tộc người thiểu số

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI VÀ
QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI VÙNG TỘC NGƯỜI THIỂU SỐ

I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘC NGƯỜI THIỂU SỐ.
1. Quan niệm về tộc người, tộc người thiểu số và tộc người bản địa
trong quốc gia đa tộc người.
Tộc người (ethnic) - theo thuật ngữ thường dùng - là một cộng đồng
người được hình thành trong lịch sử trên một lãnh thổ nhất định, cùng có
chung đặc điểm tương đối bền vững về ngôn ngữ, văn hóa tạo thành một tính
cách tộc người và
đặc biệt là cùng có chung một ý thức tự giác tộc người,
được thể hiện ở tên tự gọi. Một tộc người có thể bao gồm nhiều nhóm địa
phương nhưng không nhất thiết phải có cùng một lãnh thổ, một cộng đồng
sinh hoạt kinh tế; vì vậy, một tộc người có thể ở nhiều quốc gia khác nhau.

Nhóm địa phương (local group) là một bộ phận của một t
ộc người nhất định,
cố kết với nhau thành một nhóm riêng, có một tên gọi riêng.
Tộc người ra đời trước khi nhà nước - dân tộc hình thành, ban đầu có
lãnh thổ tộc người, quản trị xã hội bằng tập tục và tín ngưỡng, bằng quyền lực
công cộng. Khi giai cấp ra đời, thủ lĩnh tộc người – liên tộc người trở thành
lực lượng cai trị, lãnh thổ tộc người hoặc liên - lãnh thổ t
ộc người trở thành
quốc gia, tập tục và tín ngưỡng trở thành luật pháp, quyền lực xã hội trở thành
quyền lực nhà nước. Từ đây quan hệ tộc người đan xen với quan hệ giai cấp,
quyền lực xã hội tộc người bị chế ước bởi quyền lực chính trị, mà thường do
giai cấp thống trị của tộc người chủ thể chi phối. Có nhiều hình thái tộ
c người
trong các nhà nước - dân tộc, phổ biến vẫn là hình thái nhà nước - dân tộc đa
tộc người. Cũng có những nhà nước - dân tộc đơn tộc người như Triều Tiên
nhưng đó chỉ là những trường hợp hiếm hoi.

15
Dân tộc (nation) có quan hệ mật thiết với tộc người (ethnic) nhưng
không đồng nhất. Dân tộc (hay dân tộc - quốc gia) là một cộng đồng chính trị-
xã hội, được thiết lập trên một lãnh thổ nhất định, được quản lý bởi một nhà
nước, có chung một vận mệnh lịch sử, dùng chung một tiếng nói/ngôn ngữ
hành chính (trừ trường hợp cá biệt), có chung một sinh hoạt kinh tế hay một
thị trường và có chung một tính cách dân tộc thể hiện trong lối sống và những
biểu tượng văn hóa, tạo nên đặc tính dân tộc.
“Dân tộc thiểu số” được dùng trong trường hợp của đề tài này chính là
“tộc người thiểu số” (ethnic minorities). Việc gọi là “dân tộc” hay “tộc người”
chỉ theo thói quen hoặc ngữ cảnh. Gọi tộc người thiểu số là để phân biệt với
tộc người
đa số mà tiêu chí phổ dụng là xem xét tỷ lệ dân số tộc người trong

tỷ lệ dân số quốc gia. Một tộc người chỉ được xem là thiểu số khi đặt dân số
tộc người đó với tổng dân số cả nước mà không xem xét ở phạm vi vùng hay
địa phương. Bởi vì, một tộc người thiểu số nào đó (của cả nước) nhưng đặt
trong phạm vi một địa ph
ương nhất định có khi lại chiếm đa số, như trường
hợp người Thái ở Sơn La hay người Nùng ở Lạng Sơn. Thuật ngữ “thiểu số”
hay “ít người” cũng đều hàm nghĩa giống nhau, một bên nghĩa Hán - Việt,
còn bên kia là thuần Việt. Tuy nhiên, khi nói “ít người” dễ hiểu lầm với các
tộc người thiểu số có dân số ít (thường dưới 10.000 người), nên thuật ngữ
“thiểu s
ố” ít được sử dụng. Còn nếu gọi “dân tộc thiểu số” ở nước ta thì được
ngầm định là “tộc người thiểu số”, tức 53 tộc người còn lại ngoài người Kinh.
“Sắc tộc thiểu số” trong nhiều trường hợp hay sử dụng thay thế cho thuật
ngữ “tộc người thiểu số”. “Sắc tộc” chỉ đặc trưng màu da của nhóm cư dân -
một dấu hiệ
u phân biệt chủng tộc này với chủng tộc khác. Chủng tộc khác với
tộc người ở chỗ, một bên là một quần thể (hay tập hợp quần thể) có dấu hiệu
đặc trưng bởi di truyền về hình thái - sinh lý mà nguồn gốc và quá trình hình
thành của chúng liên quan đến một vùng địa vực nhất định
1
, còn tộc người là
một cộng đồng cư dân có chung nguồn gốc lịch sử, đặc trưng văn hoá, ngôn
ngữ và ý thức tự giác tộc người. Khái niệm sắc tộc ít được sử dụng vì nó
thường gợi lên sự phân biệt chủng tộc.
Khái niệm “tộc người bản địa” cũng cần phải được làm rõ, vì trong rất

1. Lê Sĩ Giáo (chủ biên), Hoàng Lương, Lâm Bá Nam, Lê Ngọc Thắng: Dân tộc học đại cương,
Nxb Giáo dục, H, 2005, tr. 48.

16

nhiều trường hợp thường bị hiểu lầm và sử dụng cho các mục đích chính trị,
có ảnh hưởng rất lớn đến quản lý và phát triển xã hội các vùng tộc người thiểu
số Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ. “Tộc người bản địa” (indigennous
ethnic) và “tộc người thiểu số” (minorities ethnic) là những khái niệm khác
nhau được sử dụng chính thức trong các văn kiện của Liên Hợp quốc. Về m
ặt
lịch sử, khái niệm “tộc người bản địa” có nguồn gốc gắn liền với sự xâm lược
của chủ nghĩa thực dân và di dân từ các nước phương Tây đến các nước thuộc
địa, thậm chí có những nơi còn các tộc người ở giai đoạn tiền nhà nước, mà
sự di dân từ châu Âu sang châu Mỹ và châu Úc là một điển hình. Tại các xã
hội này hình thành hai nhóm tộc người với vị th
ế chính trị, địa vị kinh tế,
nguồn gốc lịch sử, … khác nhau, giữa bên là nhóm cư dân phi bản địa đóng
vai trò thống trị, còn nhóm cư dân bản địa ở địa vị bị trị, thậm chí còn bị xua
đuổi, tàn sát, diệt chủng, phải lùi dần vào trong rừng sâu. Ở các quốc gia này,
dân cư ngoại quốc (nhập cư) dần chiếm đa số, còn dân cư bản địa dần chỉ
còn
thiểu số. Tại đây có sự đan xen giữa ách thống trị giai cấp với ách thống trị
tộc người. Điều này diễn ra phổ biến ở các “thuộc địa di dân” như châu Mỹ
và châu Úc. Còn đối với các quốc gia châu Á, vốn trước khi bị chủ nghĩa thực
dân đế quốc thôn tính, đã hình thành nhà nước - dân tộc và nền văn minh lâu
đời, các tộc người thiểu số cố k
ết với tộc người đa số trong xây dựng và bảo
vệ quốc gia - dân tộc. Đây không phải là thuộc địa di dân. Người ngoại quốc
đến từ các nước chính quốc chỉ chiếm thiểu số trong kết cấu dân cư, mà người
Pháp ở Việt Nam trước năm 1945 là một ví dụ. Theo cách hiểu đó, ở Việt
Nam hiện nay không có “tộc người bản địa” mà chỉ có các “tộc người thiểu
số”. Các tộc người thiểu số trên đất nước Việt Nam trong lịch sử đã từng gắn
bó, đoàn kết với người Kinh - tộc người chiếm đa số - để cấu trúc lại lãnh thổ,
tổ chức phát triển xã hội, không ngừng bảo tồn và phát triển quốc gia dân tộc.

Xét trường hợp Việt Nam, khái niệm “người bản địa” (hay người bản xứ) mới
ra
đời khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, chỉ toàn thể 54 tộc người sinh
sống lâu đời trên đất nước Việt Nam, được phân biệt với người Pháp xâm
lược và thống trị là người phi bản địa (hay kẻ thực dân). Còn khái niệm “tộc
người thiểu số” đã có từ lâu đời trong lịch sử, tiếp tục tồn tại sau quá trình phi
thực dân hoá. Do đó, việc sử dụng khái niệm “tộc người bả
n địa” thay thế cho
các “tộc người thiểu số” ở Việt Nam không phản ánh đúng bản chất quan hệ

17
tộc người. Kể cả sử dụng khái niệm này để chỉ các nhóm tộc người thiểu số
sinh sống lâu đời ở một địa phương nào đó nhằm phân biệt với người Kinh
mới nhập cư cũng không thích hợp, vì đây chỉ là việc xuất cư và nhập cư diễn
ra bình thường của dân cư, lao động gắn với quá trình phân bố lại nhân khẩu
và lao động trong mộ
t quốc gia dân tộc thống nhất, có chủ quyền, được luật
pháp quốc tế công nhận. Điều này cũng lý giải tại sao các quốc gia như Mỹ,
Úc, Canađa lại không ký vào “Tuyên ngôn về quyền của người bản địa” của
Liên Hợp quốc thông qua vào ngày 13-9-2007. Trên thực tế, từ sau quá trình
phi thực dân hoá, vấn đề “tộc người bản địa” chỉ có ở các quốc gia này - vốn
trước đó là thuộ
c địa di dân, rồi sau đó hình thành luôn quốc gia dân tộc với
người ngoại quốc đóng vai trò chủ thể. Còn các quốc gia còn lại chỉ có vấn đề
“tộc người thiểu số” được lý giải trên ba chiều cạnh: (i) vấn đề quan hệ giữa
các nhóm tộc người thiểu số trong một quốc gia - dân tộc vốn tồn tại từ lâu
trong lịch sử; (ii) vấn đề các nhóm tộc người thiểu số m
ới nhập cư từ các
nước khác, kể cả nhập cư bất hợp pháp, diễn ra gắn với dịch chuyển lao động
và nhân khẩu, đặc biệt là dòng nhập cư từ các nước đang phát triển sang các

nước phát triển; (iii) vấn đề quan hệ giữa các nhóm địa phương trong một tộc
người.
Vấn đề quyền của “tộc người bản địa” được hâm nóng lên ở nhiều qu
ốc
gia kể từ khi Liên Hợp quốc thông qua “Tuyên ngôn quyền của người bản
địa” ngày 13 tháng 9 năm 2007, trong đó có vấn đề “quyền dân tộc tự quyết”
và chúng được các thế lực dân tộc cực đoan ở Tây Nguyên, Tây Bắc, Tây
Nam Bộ lợi dụng để thực hiện chủ nghĩa ly khai. Ở đây, các lực lượng thù
địch đã đánh đồng khái niệm “tộc người bản địa” với “t
ộc người thiểu số”,
“quyền dân tộc tự quyết” với “quyền của người bản địa”. Theo các văn kiện
của Liên hợp quốc thì “Quyền dân tộc tự quyết” (The Right of self
determination) và quyền của người bản địa (The Rights of Indigenous
Peoples) là hai khái niệm có quan hệ với nhau, song khác xa nhau về nội hàm,
nhất là về ý nghĩa chính trị. Quyền dân tộc tự quyết là quyền của quốc gia -
dân tộc, với tư cách là chủ
thể của luật quốc tế. Còn quyền của người bản địa
là quyền của các tộc người thiểu số (Ethnic Minority Grops), hoặc nhóm sắc
tộc (Race Grops), thường là những quyền về văn hóa- xã hội của một bộ phận
dân cư trong lòng một quốc gia-dân tộc độc lập, thống nhất nào đó.

18
“Tuyên ngôn quyền của người bản địa” ra đời là một ý tưởng nhân văn
tiến bộ, được đánh giá cao, nhất là ở châu Mỹ, châu Úc, châu Phi. Bảo vệ
quyền của nhóm xã hội dễ bị tổn thương là giá trị nhân văn chung của nhân
loại, một nguyên tắc của Luật Nhân quyền và Luật Nhân đạo quốc tế. Tuy
vậy, bản Tuyên ngôn nói trên cũng không đưa ra định nghĩa thế nào là người
b
ản địa, cho nên, mỗi quốc gia, mỗi nhóm cư dân diễn giải “người bản địa”
theo một cách rất khác nhau để có thể tự nhận hoặc tự phủ định nếu nó phù hợp

với động cơ của mình. Trong phạm vi quyền tài phán, một nhà nước, một chính
phủ hoàn toàn có quyền thừa nhận hoặc phủ nhận một nhóm, một bộ phận dân
cư, một tộc người nào đó là “ngườ
i bản địa”, nếu điều đó phù hợp với lợi ích
của quốc gia- dân tộc của mình. Nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ tuyên bố rằng
ở đất nước họ không có “người bản địa” hay những vấn đề liên quan đến người
bản địa mà chỉ có người thiểu số về chủng tộc, ngôn ngữ, văn hoá, tôn giáo…
Mặt khác, các nhóm tộc người cực đoan cũng diễn giả
i khái niệm “tộc người
bản địa” và “quyền của tộc người bản địa”, trong đó đặc biệt là “quyền tự quyết
dân tộc”, gây nên những tác động to lớn và sâu rộng đến quản lý phát triển xã
hội các quốc gia đa tộc người cũng như làm phức tạp thêm bản đồ địa - tộc
người ở các khu vực và trên thế giới. Các vùng tộc người thiểu số Tây Bắ
c, Tây
Nguyên và Tây Nam Bộ của Việt Nam cũng không nằm ngoài quỹ đạo đó mà
quá trình phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội cần tính toán đầy đủ.
2. Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng minh triết Hồ Chí Minh về
tộc người và quản lý phát triển xã hội tộc người thiểu số.
a. Chủ nghĩa Mác - Lênin về quản lý và phát triển xã hội tộc người thiểu
số.
Dù đặt trọng tâm vào nghiên cứu các xã hội có nhà nướ
c, nhưng để hình
dung về logic hình thành và phát triển của nhân loại, K. Marx và F. Enghen
cũng đã đề cập đế các xã hội tiền nhà nước, thậm chí còn nói đến cả những
tộc người dã man. Đặc biệt các nghiên cứu về xã hội ngoài phương Tây, dù
chỉ mới đề cập một cách giản lược trong các bản thảo sau đó được xuất bản
với tiêu đề “Những hình thái kinh tế tiền tư b
ản chủ nghĩa” (Pre - Capitalist
Economic Formations) nhưng rất có ý nghĩa đối với khoa nghiên cứu nhân
học. Ngoài ra, vấn đề các xã hội tiền nhà nước còn được trình bày rải rác

trong “Hệ tư tưởng Đức”, mà ở đó các ông đã chỉ ra con đường chuyển từ tổ

19
chức bộ lạc lên nhà nước, từ tính địa phương lên dân tộc. Với K. Marx và F.
Enghen, những nghiên cứu này nhằm tìm ra quy luật phát triển của lịch sử để
xây dựng nên chủ nghĩa duy vật về lịch sử, rồi từ đó thiết kế nên một xã hội
tương lai hợp quy luật. Nhưng điều đó lại giúp giới nghiên cứu hình dung
thêm về các xã hội tiền nhà nước được t
ổ chức dựa trên các lãnh địa, tập tục
và cộng đồng dân cư. Nhiều nghiên cứu về xã hội ngoài phương Tây rất có ý
nghĩa khi quy chiếu với các không gian tộc người thiểu số trên thế giới, đặc
biệt với trường hợp vùng Tây Nguyên nước ta.
Trong những nghiên cứu này, K. Marx đã chỉ ra rằng trong các xã hội
tiền nhà nước thì quan hệ thân tộc trong gia đình là cơ sở của tất cả mọi quan
hệ
xã hội. Không có khái niệm sở hữu đất đai và mỗi nhóm tạm thời khai thác
một vùng đất trước khi chuyển sang vùng đất khác. K. Marx cho rằng, việc
phân tích quá trình xã hội phải có chiều kích lịch sử và cần phải trở về “hình
thái phát triển tự phát mà chúng ta bắt gặp ở ngưỡng cửa lịch sử của tất cả
những chủng tộc văn minh”. Quy chiếu lý thuyết này trong trường hợp Tây
Nguyên cho thấy nhiều lý thú, nhấ
t là cắt nghĩa vai trò của sở hữu cộng đồng
buôn/làng, tình trạng hưu canh và luân khoảnh trong canh tác đất rừng mà có
lúc bị ngộ nhận là “du canh, du cư”.
Lý luận của K. Marx về ba con đường ra khỏi xã hội công xã nguyên
thuỷ rất có ý nghĩa rất khi xem xét quá trình chuyển sang xã hội văn minh
theo lối đa tuyến của nhân loại, nhất là với những tộc người đang trong quá
trình chớm xuất hiện tư hữu và phân tầng xã h
ội như các nhóm cư dân
Malayo - polinesien ở Tây Nguyên. K. Marx hình dung rằng trong các xã hội

tiền nhà nước, phân công lao động chỉ giản đơn tuỳ thuộc vào tuổi và giới tính
của từng thành viên trong cộng đồng. Mỗi cá nhân là một công cụ nỗ lực sản
xuất của nhóm. Một phần sản phẩm do hộ làm ra được dành cho việc sản xuất
trong tương lai và một phần được tiêu dùng ngay để nuôi sống gia đình. Khi
năng suất lao động tă
ng lên, nhờ cải tiến công cụ sản xuất, của cải dư thừa
xuất hiện, đã phá vỡ tính chất công hữu trước đó. Điều này đã dẫn tới các
cộng đồng dân cư trước đó bình đẳng về phương diện xã hội, bình quân về
phương diện phân phối kết quả sản xuất và các cơ hội khác, đã bị phân hoá
thành thủ lĩnh và thường dân. Tu
ỳ theo những điều kiện ngẫu nhiên của địa lý
và nhân khẩu mà hệ thống xã hội có thể biến đổi theo con đường này hay con

20
đường kia để ra khỏi chế độ nguyên thuỷ
1
.
Ba mô hình mà các tộc người thoát khỏi xã hội nguyên thuỷ để đến với
xã hội có nhà nước là: phương thức sản xuất châu Á, Hy - La và Giéc-manh.
Phương thức sản xuất châu Á mà K. Mark để cập tiêu biểu là ở Ấn Độ thời kỳ
tiền thuộc địa, được xem là phương thức ổn định nhất. Ở đó cá nhân không
bao giờ tách khỏi cộng đồng của mình. Công xã vẫn là một đơn vị tự c
ấp tự
túc về nông nghiệp và sản xuất thủ công, có tất cả những phương tiện để tự
sinh tồn và sản xuất một số lượng sản phẩm thặng dư. Nếu dân số gia tăng,
một phần cư dân cộng đồng sẽ tách ra và thành lập một làng mới với cùng cấu
trúc như làng cũ. Mức cầu đối với lao động của từng thợ thủ
công và chuyên
gia thì cố định. Những ông vua nuôi dưỡng hệ thống quản lý của mình bằng
cách thu sản phẩm thặng dư dưới hình thức cống nạp có thể sáp nhập những

cộng đồng này vào hệ thống quản lý rộng lớn hơn; nhưng thành phố thì không
phải như vậy và có khuynh hướng chỉ phát triển ở những nơi có giao thương
với những hệ thống quản lý khác bên ngoài. Sự ổn đị
nh của tổ chức cộng
đồng theo phương thức sản xuất châu Á giúp phương thức này trường tồn, dù
cho các triều đại có thay đổi
2
. Tuy nhiên, K. Marx chưa có điều kiện khảo cứu
các cộng đồng tộc người nằm ngoài rìa các trung tâm quyền lực mà theo cách
gọi của nhiều nhà nghiên cứu phương Tây sau này đó là khu vực chủ quyền đa
phương
3
. Tại đây, trước khi có sự thôn tính của chủ nghĩa thực dân phương
Tây vẫn còn duy trì các hình thức công xã nông thôn, các thủ lĩnh tộc người
quản trị xã hội bằng luật tục, bằng tri thức bản địa và tôn giáo phi thể chế (tín
ngưỡng), tư hữu chưa hoặc chớm xuất hiện, sở hữu cộng đồng của bản/làng
còn chiếm địa vị thống trị trong xã hội. Dưới tác
động của các trung tâm
quyền lực, nhất là chủ nghĩa thực dân, hệ thống quản lý xã hội và các tập tục,
tín ngưỡng cũng như lãnh địa tộc người dần biến thể. Tây Nguyên ở trong
trường hợp như vậy.
Lý luận của K. Marx về động lực của sự bất định xã hội trong khả năng
của con người, bằng chính lao động của con người, về vai trò quan trọ
ng của

1. Robert Layton: Nhập môn lý thuyết nhân học, Nxb Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh,
2007, tr.28-29.
2. Robert Layton, 2007, tr. 29-30.
3. Ronal Bruce St. John: Các biên giới trên đất liền ở Đông Dương: Campuchia, Lào và Việt
Nam, 2005, bản dịch của Ban Biên giới Chính phủ, tr.4.


21
hệ thống xã hội kiểm soát sự tiếp cận của con người đối với nguồn tài nguyên,
về tiến hoá xã hội là hệ quả của một động lực nội sinh của xã hội hơn là sự
thích ứng với môi trường,… có ý nghĩa rất quan trọng không chỉ xem xét các
xã hội có giai cấp và nhà nước mà cả những xã hội tiền nhà nước hoặc tộc
người thiểu số trong qu
ốc gia đa tộc người.
V.I. Lênin trong quá trình lãnh đạo Cách mạng Tháng Mười, tổ chức lại
các dân tộc vốn là thuộc địa của đế quốc Nga, đã nêu lên nhiều luận điểm có
giá trị về mặt khoa học lẫn thực tiễn. Liên bang Xô viết ra đời trên cơ sở xử lý
những di tồn lịch sử về quan hệ dân tộc đan gài với quan hệ tộc người giữa
n
ước Nga và các nước thuộc đế quốc Nga trước đây. Trong rất nhiều tác
phẩm quan trọng như “Ý kiến phê phán về vấn đề dân tộc”, “Quyền dân tộc tự
quyết”, “Chủ nghĩa xã hội và quyền dân tộc tự quyết”, “Sơ thảo đề cương về
các vấn đề dân tộc và thuộc địa”, “Những kết quả thảo luận về quyề
n tự
quyết”, … Lênin đã nêu nhiều luận điểm quan trọng cho giải quyết vấn đề dân
tộc đan gài với vấn đề tộc người. Ba luận điểm sau đây của Lênin có đóng
góp lớn cho lý luận về dân tộc - tộc người và quan hệ dân tộc - tộc người.
Luận điểm về các xu hướng của vấn đề dân tộc: (i) sự thức tỉnh c
ủa ý
thức dân tộc và của các phong trào dân tộc trong cuộc đấu tranh chống áp bức
dân tộc và thành lập các quốc gia dân tộc; (ii) phát triển và tăng cường quan
hệ giữa các dân tộc trong việc xoá bỏ những hàng rào ngăn cách các dân tộc
và trong việc thiết lập sự thống nhất quốc tế của tư sản, của đời sống kinh tế
nói chung, của chính trị, của khoa học
1
.

Luận điểm về bình đẳng dân tộc. Đây là một luận điểm cực kỳ quan
trọng và đóng góp lớn của Lênin vào chủ thuyết phát triển dân tộc, trở thành
nguyên tắc của Liên bang Xô-viết và nhiều nước xã hội chủ nghĩa trong giải
quyết vấn đề dân tộc. Bình đẳng giữa các dân tộc theo quan niệm của Lênin
phải được thể hiện trên mọi phương di
ện kinh tế, chính trị, văn hoá. Lênin cho
rằng: Người nào không thừa nhận và không bảo vệ quyền bình đẳng giữa các
dân tộc và bình đẳng giữa các ngôn ngữ, không đấu tranh chống áp bức hay
mọi bất bình đẳng dân tộc, người đó không phải là người mác-xít, thậm chí
cũng không phải là người dân chủ nữa
2
. Phải hoàn toàn xoá bỏ mọi đặc quyền

1. V.I. Lênin: Ý kiến phê phán và vấn đề dân tộc, Nxb Sự thật, H, 1963, tr.8.
2 . V.I. Lênin: Ý kiến phê phán về vấn đề dân tộc, Sđd, tr.10-15.

22
của bất cứ dân tộc nào cũng như của bất cứ ngôn ngữ nào và không dung thứ
bất kỳ một đặc quyền dân tộc nào, bất kỳ một sự bất bình đẳng nào về mặt
dân tộc
1
. Trong các quyền bình đẳng dân tộc, Lênin rất chú ý đến bình đẳng
về mặt văn hoá, trước nhất là quyền sử dụng tiếng mẹ đẻ trong trường học,
văn học, nhà hát,… đồng thời các dân tộc thiểu số cũng phải học tiếng của
dân tộc đa số.
Luận điểm về quyền tự quyết dân tộc. Luận điểm này trở thành nguyên
tắc quan tr
ọng thứ hai trong cương lĩnh của Lênin về vấn đề dân tộc. Tự quyết
dân tộc có nghĩa là các dân tộc thuộc đế quốc Nga có quyền tách ra thành lập
quốc gia độc lập. Tuy vậy, trong khi nêu lên luận điểm về tôn trọng quyền tự

quyết dân tộc thì Lênin cũng lưu ý cần hiểu đúng đắn nguyên tắc quyền tự
quyết dân tộc. Tự quyết dân tộc không có nghĩa là nhất thiế
t mọi dân tộc phải
tách khỏi nước lớn trong mọi điều kiện. Ông lưu ý rằng, chúng ta đòi quyền
tự do tự quyết không phải là chúng ta mơ ước sự phân nhỏ kinh tế hay mơ
ước xây dựng các nước nhỏ bé, mà ngược lại vì chúng muốn những quốc gia
to lớn và sự xích lại của liên bang các dân tộc nhưng trên cơ sở thực sự dân
chủ, thực sự quốc tế, và tr
ở nên vô nghĩa nếu không có sự tự do tách ra. Từ
nguyên tắc này có nảy sinh vấn đề xây dựng các khu vực tự trị - một hình
thức để giải quyết vấn đề dân tộc trong một quốc gia đa tộc người. Khu vực tự
trị được xây dựng trên một vùng lãnh thổ nhất định với thành phần đặc biệt
của dân cư, do sự khác biệt về những điều ki
ện kinh tế, đời sống, ngôn ngữ,
đặc trưng về văn hoá. Ông cho rằng: “Hoàn toàn hiểu là người ta không thể
quan niệm một quốc gia hiện đại thật sự dân chủ mà lại không có quyền tự trị
như thế cho mọi vùng có những đặc điểm dù là không lớn lắm về kinh tế hoặc
về lối sinh sống, và có một thành phần dân tộc đặc biệt”
2
. Luận đề này rất có
ý nghĩa đối với việc tổ chức lãnh thổ ở những quốc gia mà có tộc thiểu số cư
trú một cách riêng biệt, mật tập cao kiểu như Liên bang Xô viết hay Trung
Quốc.
Ngoài ra còn có thể kể đến những luận điểm khác nữa như đoàn kết dân
tộc hay vấn đề dân tộc - tộc người chỉ được giải quyết triệ
t để khi không còn

1. V.I Lênin: Sơ thảo đề cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa. Tuyển tập, quyển II, Nxb Sự
thật,, H, 1959, tr.4, 27.
2. V. I. Lênin: Ý kiến phê phán về vấn đề dân tộc, Sđd, tr. 50.


23
ách áp bức giai cấp… Các luận đề nêu trên ra đời trong bối cảnh nước Nga
phải giải quyết các di tồn lịch sử về ách áp bức dân tộc của đế quốc Nga, chủ
yếu là vấn đề giữa dân tộc chính quốc và dân tộc thuộc địa. Vì vậy, nó có ý
nghĩa chủ yếu về phương diện quan hệ dân tộc - quốc gia, dù trong đó có đan
gài quan hệ tộc người. Xu hướng thức t
ỉnh tộc người hay tự quyết dân tộc của
Lênin là hàm nghĩa dân tộc - quốc gia trong điều kiện chủ nghĩa đế quốc.
Điều này đã làm cho luận đề của Lênin có sức hấp dẫn đối với Hồ Chí Minh
trên hành trình tìm đường cứu nước, giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam.
Tuy vậy, Lênin chưa có điều kiện nghiên cứu sâu những đặc thù về quan hệ

tộc người trong một quốc gia đa tộc người, nhất là quan hệ đa tộc người cư trú
xen kẽ và phân tán như Việt Nam. Nếu nhầm lẫn những luận điểm như vậy về
giải quyết quan hệ dân tộc với quan hệ tộc người trong quốc gia đa tộc người
có lịch sử và hình thái cư trú đặc trưng như Việt Nam sẽ dẫn tới nh
ững hệ luỵ
khó đoán định, nhất là vấn đề tự quyết và tự trị dân tộc.
b. Tư tưởng minh triết tộc người của Hồ Chí Minh.
Có hai cách tư duy khác nhau giữa phương Tây và phương Đông trong
nhận thức về tự nhiên, về xã hội và về bản thân con người. Lối duy lý hoá
kiểu phương Tây đã tạo điều kiện cho sự phát triển vượt bậc của khoa h
ọc và
công nghệ, đặc biệt từ thế kỷ Ánh sáng đến nay. Tuy nhiên, cách tư duy đó
cũng có hạn chế là thường đối lập các mặt trong sinh giới và ngoại giới để
khu trú hóa đối tượng cần nhận thức mà các thực thể trong tự nhiên, xã hội và
tư duy con người lại không bao giờ đối lập và cắt rời cơ học như trong khái
niệm. Chúng luôn tồn tại trong một hợ
p thể như trong thái dương có thiếu âm

và trong thái âm có thiếu dương vậy. Lối tư duy phương Tây thường đối lập
các tộc người “văn minh” với tộc người “dã man”, giữa dân tộc “trung tâm”
với dân tộc “ngoại vi”, từ đó dễ dẫn tới áp đặt cách nghĩ của họ cho các tộc
người ngoài phương Tây. Vì vậy, cần phải “giải duy lý hoá” cách tư duy
phương Tây thì mới có khả năng tiếp cậ
n các xã hội tộc người thiểu số một
cách sát hợp.
Tiếp cận từ minh triết tộc người cho phép “giải duy lý hoá” lối tư duy
phương Tây nêu trên, mà minh triết tộc người của Hồ Chí Minh là một ví dụ
tiêu biểu. Minh triết hình thành không chỉ bằng lối duy lý, mà cơ bản bằng
nghiệm sinh của bản thân mỗi con người cũng như cộng đồng tộc người. Nếu

24
triết gia thường thể hiện tư tưởng của mình bằng những trước tác đồ sộ, bằng
tranh luận kiểu thắng - thua thì các nhà minh triết trong nhiều trường hợp
không hẳn như vậy mà lại thể hiện trong “vô vi” hoặc bằng hành động. Nếu
triết gia muốn nhận thức thế giới thì nhà minh triết cần ngộ, cảm, nếu như
triết gia thường thể hi
ện sự ganh đua giữa các trường phái thì nhà minh triết
quan trọng hơn là sự thoả đáng, sự hẳn hoi. Biết và ngộ là hai cấp độ khác
nhau. Biết không dễ, nhưng ngộ khó hơn rất nhiều. Biết rất nhiều nhưng chưa
hẳn đã ngộ được một điều giản đơn. Muốn giải quyết thỏa đáng vấn đề tộ
c
người thì cần phải tiếp cận từ góc độ minh triết. Tiếp cận các tộc người thiểu
số bằng lối duy lý kiểu phương Tây nhiều khi không chỉ khó nhận thức đời
sống mà còn dễ định hình nên các chính sách quản lý và phát triển xa lạ với
tâm thức tộc người. Tiếp cận từ góc độ minh triết tộc người sẽ cho phép thấu
hiểu và thấu cảm đượ
c đời sống xã hội tộc người. Minh triết Hồ Chí Minh
thuộc dạng thức như vậy, được thể hiện ở cả hình thức hữu ngôn và vô ngôn,

trở thành một di sản tư tưởng quý giá cần được nhận diện và vận dụng thấu
đáo.
Hồ Chí Minh, trên cơ sở chủ nghĩa duy vật biện chứng, kế thừa minh
triết phương Đông, triết h
ọc phương Tây, đặc biệt là minh triết của dân tộc,…
đã có quan niệm đúng đắn về vấn đề tộc người và giải quyết quan hệ tộc
người ở Việt Nam. Minh triết tộc người của Hồ Chí Minh không chỉ phản ánh
trong các trước tác, câu nói, mà còn cả trong cách ứng xử với các tộc người
thiểu số. Nhờ đó, Hồ Chí Minh đã xây dựng được chính sách dân tộc đúng
đắn, tập h
ợp, đoàn kết các tộc người thiểu số thực hiện các nhiệm vụ của cách
mạng Việt Nam. Có thể nhận thấy những luận điểm sau đây trong giá trị minh
triết tộc người của Hồ Chí Minh:
- Các tộc người thiểu số là một bộ phận của cộng đồng quốc gia - dân
tộc Việt Nam thống nhất, đã từng gắn bó keo sơn trong suốt quá trình l
ịch sử
dựng nước và giữ nước. “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai
hay Ê Đê, Xê Đăng hay Bana và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu
Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ
cùng nhau, no đói giúp nhau”
1
. Tính thống nhất giữa các tộc người do đặc
điểm lịch sử quy định, mà cốt lõi là các tộc người thiểu số quy tụ xung quanh

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, H, 1995, tr. 217.

25
dân tộc Kinh đóng vai trò chủ thể trong quá trình chinh phục tự nhiên và đấu
tranh với địch hoạ để xây dựng, bảo vệ đất nước, được tổ chức dẫn dắt bởi
một nhà nước trung ương tập quyền mà ở đó các tộc người thiểu số tham gia

vào cấu trúc quyền lực bằng nhiều hình thức “cứng” và “mềm” khác nhau.
Đoàn kết dân tộc trở thành một nội dung trọng y
ếu trong tư tưởng minh triết
tộc người của Hồ Chí Minh, trong đó có sự đoàn kết giữa các tộc người thiểu
số với tộc người đa số, giữa tộc người thiểu số này với tộc người thiểu số
khác, khắc phục các định kiến tộc người và vị chủng tộc người, phòng và
chống các biểu hiện chia rẽ tộ
c người. Ngay từ năm 1946, trong Thư gửi Đại
hội các dân tộc thiểu số miền Nam tại Plâycu, Hồ Chí Minh đã viết: “Ngày
nay nước Việt Nam là nước chung của chúng ta… Giang sơn, chính phủ là
giang sơn, chính phủ chung của chúng ta. Vậy nên tất cả các dân tộc chúng ta
phải đoàn kết chặt chẽ để giữ gìn nước non ta, để ủng hộ Chính phủ ta.
Chúng ta phải yêu thương nhau, phải kính trọng nhau, phải giúp đỡ nhau
để
mưu hạnh phúc chung của chúng ta và con cháu chúng ta.
Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng lòng đoàn kết chúng ta không
bao giờ giảm bớt”
1
.
- Đa tộc người là một đặc điểm tốt, một vốn quý đối với nước ta
2
- mà
nguồn gốc của nó chính là sự đa dạng của sinh giới. Bên cạnh nét tương
đồng, mỗi tộc người còn có sắc thái riêng, được Hồ Chí Minh xem là một
trong những tiềm năng to lớn của đất nước và của mỗi tộc người cần được
khai thác phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bằng lối nhìn minh
triết, Hồ Chí Minh luôn phát hiện được hệ
giá trị của các tộc người thiểu số
như “rất trung thành, chịu khó”, “rất thật thà và rất tốt” mà những người cách
mạng cần nhận diện và phát huy đầy đủ. Các phẩm chất đó của đồng bào

“nhập với hình thế hiểm trở của núi sông, trở thành sức mạnh vô địch” cho
cách mạng nước ta. Điều này cũng quy định chính sách tộc người đặc thù mà
Đảng và Nhà nước không bao giờ
được xem nhẹ - vấn đề mà Hồ Chí Minh
hết sức lưu ý và nỗ lực thực hiện.
- Đoàn kết và bình đẳng tộc người là một tư tưởng minh triết quan trọng
của Hồ Chí Minh, được nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần, đặc biệt trong bài phát

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, H, 1995, tr. 217.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 11, Nxb CTQG, H, 1995, tr.137.

×