Tải bản đầy đủ (.pdf) (504 trang)

Xây dựng văn hóa thanh tra và chuẩn mực đạo đức cán bộ thanh tra

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.9 MB, 504 trang )






















MỤC LỤC

THANH TRA CHÍNH PHỦ


BÁO CÁO TỔNG THUẬT


ĐỀ TÀI KHOA HỌC TRỌNG ĐIỂM CẤP BỘ:
XÂY DỰNG VĂN HÓA THANH TRA VÀ CHUẨN MỰC


ĐẠO ĐỨC CÁN BỘ THANH TRA



Chủ nhiệm đề tài: Trần Văn Truyền
Ủy viên TW Đảng, Tổng Thanh tra Chính phủ






7895

HÀ NỘI –12/2009

2
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 3
I. Sự cần thiết nghiên cứu đề tài 3
II. Mục tiêu, nhiệm vụ của Đề tài 6
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 6
IV. Phương pháp và quá trình triển khai đề tài 6
V. Kết cấu của đề tài. 7
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
VĂN HOÁ THANH TRA VÀ
CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC CÁN BỘ THANH TRA 8
1.1. Quan niệm về văn hóa thanh tra, chuẩn mực đạo đức cán bộ thanh tra. 8
1.2. Cấu trúc của văn hoá thanh tra 27
1.3. Quan niệm về xây dựng văn hóa thanh tra, chuẩn mực đạo đức cán bộ

thanh tra và những yêu cầu đặt ra trong giai đoạn hiện nay. 42
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VĂN HÓA THANH TRA VÀ XÂY DỰNG
VĂN HOÁ THANH TRA, CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC CÁN B
Ộ THANH TRA 56
2.1. Thực trạng văn hóa thanh tra từ khi thành lập ngành Thanh tra đến nay. 56
2.2. Thực trạng xây dựng văn hóa thanh tra và chuẩn mực đạo đức cán bộ
thanh tra 94
2.3. Những vấn đề rút ra qua nghiên cứu những giá trị đạt được của văn hoá
thanh tra và việc xây dựng văn hoá thanh tra, chuẩn mực đạo đức cán bộ hiện
nay. 111
CHƯƠNG III: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG V
ĂN HOÁ
THANH TRA VÀ CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC CÁN BỘ THANH TRA 117
3.1. Định hướng xây dựng văn hoá và chuẩn mực đạo đức cán bộ thanh tra
trong giai đoạn hiện nay 117
3.2. Một số giải pháp nhằm xây dựng văn hoá thanh tra và chuẩn mực đạo đức
cán bộ thanh tra trong giai đoạn hiện nay. 130
KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 168


3
LỜI MỞ ĐẦU
I. Sự cần thiết nghiên cứu đề tài.
Nghị quyết lần thứ năm Ban chấp hành trung ương Đảng (Khoá VIII) đã
khẳng định: “Văn hoá Việt Nam là thành quả hàng nghìn năm lao động sáng tạo,
đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam, là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới để
không ngừng hoàn thiện mình. Văn hoá Việt Nam đã hun đúc nên tâm hồn khí
phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc”.
Văn hoá là yếu tố quan trọng trong toàn bộ quá trình hoạt động của xã hội,

văn hoá là môi trường sống của mọi hoạt động. Bất cứ thành quả hoạt động nào
cũng đều phản ánh nét văn hoá và đều ghi nhận những giá trị văn hoá trên đ
ó.
Văn hoá vừa phản ánh giá trị của lao động sản xuất vừa thể hiện những giá trị
tinh thần trong sinh hoạt của con người. Văn hóa là một trong những cơ sở để
phát huy cao độ sự sản sinh ra vật chất, nói cách khác, vật chất và văn hóa là hai
nội dung cốt lõi của sự sinh tồn và phát triển của một dân tộc, một quốc gia. Chế
độ chính trị tồn tại trên hai nền t
ảng đó, với hai nội dung đó. Ngày nay, khi xã
hội có sự phân công lao động, đặc biệt là xã hội hiện đại với sự phân công lao
động ở mức cao, quan hệ văn hóa và nghề nghiệp trở thành mối quan hệ biện
chứng, tác động qua lại, quyết định lẫn nhau. Hoạt động nghề nghiệp là tạo ra
các sản phẩm của đời sống xã hội, tạo nền tảng hình thành cơ sở vật ch
ất, kinh tế
để duy trì cuộc sống.

Thanh tra là hoạt động đặc thù của quản lý nhà nước, là chức năng thiết
yếu, quan trọng nhằm bảo đảm cho hiệu lực của quản lý nhà nước được thực
hiện. Để đảm bảo thực hiện chức năng quản lý nhà nước thì nhất thiết phải có
thanh tra, kiểm tra và hơn thế nữa là phải xây dựng môi trường thanh tra minh
bạch, khách quan và có văn hoá cao. Quản lý là hoạt động tổng hợp, ph
ải được
nhìn nhận từ nhiều góc độ khác nhau. Trong xã hội văn minh, hiện đại thì hoạt
động quản lý Nhà nước, quản lý xã hội phải được nhìn nhận từ góc độ văn hóa.
Môi trường văn hoá lành mạnh trong quản lý thì chắc chắn phải tiếp cận văn hoá
như là động lực quan trọng nhằm thúc đẩy hoạt động quản lý nhà nước nói
chung và hoạt động của từng bộ phận trong quá trình quả
n lý chuyên ngành nói
riêng, trong đó có hoạt động thanh tra. Có thể khẳng định rằng trong bất cứ giai


4
đoạn lịch sử nào, xây dựng văn hoá là điều kiện tối quan trọng để phát triển
nhân cách con người nói chung và người cán bộ thanh tra nói riêng.

Hơn 64 năm qua, kể từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 64/SL
ngày 23/11/1945 thành lập Ban Thanh tra đặc biệt, dưới sự lãnh đạo của Đảng,
ngành Thanh tra Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh và trưởng thành. Lớp lớp
các thế hệ cán bộ, công chức ngành Thanh tra không ngừng phấn đấu, vượt qua
mọi gian nan, thử thách để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, góp phần
xứng đáng vào sự thắng lợ
i của cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, bảo
vệ và xây dựng Tổ quốc xã hội chủ nghĩa Việt Nam, xây dựng nên truyền thống
hào hùng của Thanh tra Việt Nam, tạo lập bản sắc văn hoá thanh tra Việt Nam,
xứng đáng với lời dạy của Bác Hồ kính yêu: “cán bộ thanh tra là tai mắt của
trên, là bạn của dưới”. Chính truyền thống hào hùng của Ngành, bản sắc văn hoá
Thanh tra Việt Nam là điể
m tựa tinh thần vững chắc cho các thế hệ cán bộ thanh
tra hôm nay vượt qua mọi khó khăn, thử thách và những cám dỗ để hoàn thành
xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, xứng đáng với sự tin cậy, kỳ vọng của Đảng,
Nhà nước và nhân dân. Đến nay, Thanh tra Việt Nam không chỉ là hệ thống cơ
quan quyền lực nhà nước, thực hiện những chức năng, nhiệm vụ được Đảng và
Nhà nước giao phó mà đã trở thành một biểu tượng bảo vệ pháp luật, bảo đảm
pháp chế xã hội chủ nghĩa. Biểu tượng đó là sự kết tinh những giá trị mà ngành
Thanh tra đã đạt được trong quá trình phát triển và trưởng thành, là sự cống hiến
tận tụy, đầy trách nhiệm của các thế hệ cán bộ thanh tra.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả to lớn đóng góp vào sự phát triển của
đất nước, tạo nên niềm tự hào cho truyền thống của ngành Thanh tra, thực tiễn
hoạt động thanh tra đang bộc lộ một số tồn tại, hạn chế, nếu không được phát
hiện, khắc phục kịp thời thì hình ảnh của ngành Thanh tra sẽ bị ảnh hưởng, thậm

chí gây bức xúc trong quần chúng và đối tượng thanh tra. Nhữ
ng tồn tại yếu kém
đó đang đặt ra những thách thức to lớn, đòi hỏi ngành Thanh tra phải vượt qua
để xứng đáng với trọng trách được Đảng và Nhà nước giao phó và sự trông cậy
của nhân dân. Để vượt qua được những thách thức đó, xây dựng hình ảnh ngày
một đẹp hơn, một trong những yêu cầu cấp thiết đặt ra là ngành Thanh tra phải
phát huy được những giá trị văn hoá dân tộc đồng thờ
i cũng phát huy được
những nét đặc thù văn hoá của ngành góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động,
xây dựng môi trường văn hoá ngày càng hoàn thiện tạo cơ sở cho việc giáo dục

5
lý tưởng, nâng cao kiến thức kỹ năng nghề nghiệp, bản lĩnh của cán bộ thanh tra
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Muốn thực hiện
được yêu cầu đó, cần phải nghiên cứu có hệ thống, toàn diện những giá trị tích
cực mà ngành Thanh tra đã đạt được qua các giai đoạn phát triển, đồng thời, chỉ
ra những tiêu cực, tồn tạ
i, hạn chế để có biện pháp khắc phục, đặc biệt là nhìn từ
góc độ văn hoá. Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa và cải cách hành chính hiện nay, việc tăng cường hiệu quả hoạt động
thanh tra, nâng cao đạo đức cán bộ thanh tra càng có ý nghĩa quan trọng trong
việc xây dựng nền hành chính minh bạch, hiệu quả. Việc xây dựng văn hóa
thanh tra và chuẩn mực đạo đức cán bộ
thanh tra sẽ góp phần đắc lực để thực
hiện mục tiêu này.
Thực tế chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu sâu về văn hoá thanh
tra và đạo đức cán bộ thanh tra, chưa có những đánh giá xác đáng về tác động
của nó đối với hoạt động thanh tra, chưa xây dựng được những tiêu chí cụ thể,
khoa học trong việc đánh giá đạo đức và văn hoá thanh tra. Để từng bước nâng
cao chất lượng và hiệu qu

ả của công tác thanh tra, tiến tới xây dựng phong cách
văn hoá thanh tra, cần thiết phải tiến hành nghiên cứu một cách tổng thể toàn bộ
hoạt động thanh tra từ góc độ văn hoá, đặc biệt là đạo đức, phong cách, lề lối
làm việc, ứng xử của cán bộ thanh tra. Việc nghiên cứu, xây dựng văn hoá thanh
tra trực tiếp nhằm giáo dục cán bộ, công chức ngành Thanh tra giữ vững phẩm
chất đạo đức cách mạng, c
ần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư; tuân thủ các giá
trị đạo đức nghề nghiệp, góp phần hình thành nên những giá trị đạo đức của
người cán bộ thanh tra, xác lập những định hướng tư tưởng, giá trị truyền thống
ngành Thanh tra, góp phần nâng cao chất hiệu quả hoạt động thanh tra. Xây
dựng, hoàn thiện văn hoá thanh tra và đạo đức người cán bộ thanh tra có ý nghĩa
lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn trong quá trình đổi mới tổ ch
ức và hoạt động
của ngành Thanh tra, góp phần quan trọng vào việc tăng cường năng lực, xây
dựng ngành Thanh tra ngày càng trong sạch, vững mạnh, đáp ứng được yêu cầu,
nhiệm vụ được giao.
Do đó, việc nghiên cứu Đề tài “Xây dựng văn hoá thanh tra và chuẩn
mực đạo đức cán bộ thanh tra” là vấn đề cấp thiết đối với ngành Thanh tra
hiện nay.

6
II. Mục tiêu, nhiệm vụ của Đề tài.
Mục tiêu của đề tài là nghiên cứu một cách có hệ thống các vấn đề lý luận
về văn hóa thanh tra, chuẩn mực đạo đức cán bộ thanh tra, thực trạng văn hóa
thanh tra trong giai đoạn hiện nay, từ đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị
nhằm xây dựng văn hóa thanh tra và chuẩn mực đạo đức cán bộ thanh tra.
Đề tài này có nhiệm vụ chủ y
ếu sau:
- Làm rõ những vấn đề lý luận về văn hoá thanh tra và đạo đức cán bộ
thanh tra; những yêu cầu đặt ra đối với việc xây dựng văn hóa thanh tra và

chuẩn mực đạo đức cán bộ thanh tra;
- Đánh giá thực trạng văn hoá thanh tra; thực trạng xây dựng văn hoá
thanh tra và chuẩn mực đạo đức cán bộ thanh tra, chỉ ra những tồn tại, hạn chế
và những khó khăn, vướng mắc đối vớ
i việc xây dựng văn hóa thanh tra và
chuẩn mực đạo đức cán bộ thanh tra.
- Đề xuất những định hướng và giải pháp cơ bản nhằm xây dựng văn hóa
thanh tra và chuẩn mực đạo đức cán bộ thanh tra.
Những nội dung nghiên cứu của Đề tài không chỉ làm sáng tỏ bản sắc
riêng có của văn hoá thanh tra mà còn phục vụ cho việc xây dựng và phát triển
ngành Thanh tra đáp ứng các yêu cầu đối với công tác thanh tra trong giai đoạn
hiện nay.
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là văn hoá thanh tra và đạo đức cán bộ
thanh tra.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu văn hóa thanh tra và đạo đức
cán bộ thanh tra trong các lĩnh vực hoạt động của ngành Thanh tra và những mối
quan hệ phản ánh văn hóa thanh tra và đạo đức cán bộ thanh tra.
IV. Phương pháp và quá trình triển khai đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu:
Cơ sở phương pháp lu
ận để nghiên cứu Đề tài là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước về văn hoá nói
chung, văn hoá thanh tra nói riêng. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, Ban Chủ
nhiệm còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội khác như:

7
phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phương pháp cấu trúc hệ
thống, phương pháp pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, thống kê, điều tra xã hội
học

- Quá trình triển khai đề tài:
Ngay sau khi Thuyết minh đề tài được phê duyệt, Ban Chủ nhiệm đã tổ
chức Tọa đàm xây dựng hệ thống chuyên đề nghiên cứu, xây dựng đề cương chi
tiết của các chuyên đề và ký hợp đồng th
ực hiện chuyên đề nghiên cứu với các
chuyên gia. Để xác định những nội dung cơ bản cần phải nghiên cứu, Ban Chủ
nhiệm đã tổ chức Hội thảo khoa học “Vai trò của văn hóa thanh tra đối với việc
hình thành nhân cách đạo đức người cán bộ thanh tra” với sự tham gia của nhiều
nhà nghiên cứu về văn hóa và cán bộ công tác lâu năm của ngành Thanh tra.
Sau khi nhận được các chuyên đề, Ban Chủ nhiệm đề tài đã rà soát,
đánh
giá từng chuyên đề làm cơ sở xây dựng Báo cáo Tổng thuật. Ban Chủ nhiệm đề
tài cũng đã lấy ý kiến trực tiếp của một số chuyên gia và tổ chức hội thảo khoa
học để lấy ý kiến hoàn thiện.
Quá trình nghiên cứu đề tài, Ban Chủ nhiệm đã tiến hành khảo sát thông
qua hình thức gửi phiếu hỏi đến 500 cán bộ thanh tra và khảo sát trực tiếp tại hai
địa phương là t
ỉnh Quảng Ninh và tỉnh Lạng Sơn. Kết quả khảo sát và những ý
kiến, kiến nghị mà Ban Chủ nhiệm đề tài đã nhận được trong quá trình khảo sát
đã được tổng hợp, sử dụng làm sáng tỏ những luận điểm được nêu trong đề tài
và bổ sung cơ sở thực tiễn cho việc đưa ra các giải pháp xây dựng văn hóa thanh
tra và chuẩn mực đạo đức cán bộ thanh tra.
V. Kết cấ
u của đề tài.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài được kết cấu thành 3 chương:
Chương I: Những vấn đề lý luận về văn hoá thanh tra và chuẩn mực đạo
đức cán bộ thanh tra
Chương II: Thực trạng văn hóa thanh tra và xây dựng văn hóa thanh tra,
chuẩn mực đạo đức cán bộ thanh tra
Chương III: Định hướng và giải pháp xây dựng văn hóa thanh tra và chuẩn

mực đạo đức cán bộ
thanh tra

8
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VĂN HOÁ THANH TRA VÀ CHUẨN
MỰC ĐẠO ĐỨC CÁN BỘ THANH TRA
1.1. Quan niệm về văn hóa thanh tra, chuẩn mực đạo đức cán bộ thanh
tra.
1.1.1. Khái niệm văn hóa, văn hóa thanh tra và chuẩn mực đạo đức cán
bộ thanh tra.
1.1.1.1. Quan niệm về văn hoá và văn hoá thanh tra.
Văn hoá là một khái niệm vừa phức tạp nhưng rất giản dị, vừa đa tầng,
đa
nghĩa những lại gần gũi và gắn bó với hành vi con người. Trong xã hội, mọi
hành vi của con người đều hàm chứa sự nhận thức về các giá trị, chuẩn mực bao
hàm yếu tố văn hoá nhưng việc phân định ranh giới các giá trị đó lại không dễ
dàng. Vì vậy, việc đưa ra một định nghĩa về văn hoá là việc không đơn giản.
E.B.Tylor trong tác phẩm Văn hóa nguyên thủy (1871) đã
định nghĩa về
văn hóa: Văn hóa hiểu theo nghĩa rộng nhất của nó là toàn bộ phức thể bao gồm:
hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục cùng với khả
năng và tập quán khác mà con người có được với tư cách là một thành viên của
xã hội.
Hai nhà nhân chủng học người Mỹ là A.L Kroeber và A.C Kluckholn cho
rằng: “ở trên đời này không có gì phiêu diêu, mông lung hơn là khái niệm văn
hoá. Người ta không thể phân tích v
ăn hoá vì thành phần của nó vô cùng
tận Người ta không thể mô tả văn hoá vì nó muôn mặt. Muốn cô đọng văn hoá
thành lời lẽ thì cũng giống như tay không bắt không khí, ta sẽ thấy không khí ở

khắp nơi mà riêng trong tay chẳng nắm được gì”
1
. Bản thân hai tác giả nói trên
đã đưa ra và phân tích 164 định nghĩa khác nhau về văn hoá.
Tiếp cận từ kho tàng lý luận về văn hoá, học giả Linton viết: “ Văn hoá là
sự kết hợp giữa lối ứng xử mà người ta học được và các kết quả ứng xử mà các
thành tố của nó được các thành viên của xã hội đó tán thành và truyền lại nhờ kế

1
A.L Kroeber và A.C Kluckholn. ”Văn hoá: điểm lại có phê phán các khái niệm và định nghĩa”. Trích lại từ
Phạm Xuân Nam. Sự đa dạng văn hoá và đối thoại giữa các nền văn hoá- Một góc nhìn từ Việt Nam. NXB Khoa
học xã hội năm 2008, trang 15-16.

9
thừa”. R. Benndict lại cho rằng: “Văn hoá là lối ứng xử của con người đã học
được – khi sinh ra chưa có”. Theo E. Sapir: “ Văn hoá là tổ hợp các phương thức
hoạt động và tín niệm cấu thành bộ khung của cuộc sống chúng ta, được kế thừa
theo con người xã hội” và còn rất nhiều những định nghĩa như vậy.
Federico Mayor Zazacoza, Tổng Giám đốc UNESCO lại cho rằng văn hoá
có hai loại di sản: Văn hoá hữu th
ể và văn hoá vô hình, văn hoá hữu thể được
hiểu là văn hoá vật chất, văn hoá vô hình được hiểu là văn hoá tinh thần. Từ đó
đưa ra định nghĩa: “Văn hoá là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo trong
quá khứ và hiện tại…hình thành một hệ thống các giá trị, các truyền thống và
các thị hiếu - văn hoá giúp xác định đặc tính riêng biệt của từng dân tộc”. Theo
cách hiểu này, văn hoá đượ
c tiếp cận là hệ thống giá trị vật chất và tinh thần do
con người sáng tạo ra trong hoạt động thực tiễn lịch sử - xã hội mang tính chân,
thiện, mỹ phục vụ cho sự sinh tồn và phát triển của con người và xã hội loài
người. Văn hoá là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo của các cá nhân và

các cộng đồng trong quá khứ và hiện tại. Qua các thế hệ, hoạt động sáng tạo ấy
đã hình thành nên hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu, các yếu tố
xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc.
Ở Việt Nam, những công trình nghiên cứu riêng về thuộc tính của văn hoá
dưới góc độ văn hoá học mới chỉ xuất hiện cách đây vài chục năm, mặc dù một
số khía cạnh về ý nghĩa và giá trị của văn hoá đã được đề cập từ xa xưa.
Cách đây sáu trăm năm, Nguyễn Trãi đã nói “văn trị chung tu chí thái
bình”. Có nghĩa là để cho một đất nước thái bình, no ấm thì nước đó phải có
một nền tảng văn hoá cao, phải có văn hiến. Đối với thuật trị nước, theo Nguyễn
Trãi, không phải chỉ có “pháp trị”, tức là dùng luật pháp để trị nước theo kiểu
Thương Ưởng, Hàn Phi tử, cũng không phải chỉ có “đức trị”, tức là dùng
đạo
đức để cai trị theo kiểu Khổng tử, Mạnh tử, mà phải trị nước có văn hoá, tức là
“văn trị”. Bởi vậy, Nguyễn Trãi cho rằng “văn trị” cao hơn “pháp trị” và “đức
trị”. Tư tưởng này vẫn còn nguyên giá trị đến ngày nay, khi loài người đã bước
vào thời kỳ văn minh và tiến bộ thì mọi công dân không chỉ tuân thủ pháp luật
mà còn cần phải sống có văn hoá. Mọi lao độ
ng, sinh hoạt, giao tiếp cho đến
việc quản trị đất nước cũng cần phải có văn hoá.

10
Cách đây mấy chục năm, Đào Duy Anh – tác giả “Việt Nam văn hoá sử
cương” cho rằng: “Hai tiếng văn hoá chẳng qua chỉ là chung tất cả các phương
diện sinh hoạt của loài người cho nên ta có thể nói rằng: Văn hoá tức là sinh
hoạt”. Đã là sinh hoạt thì không kể là dân tộc văn minh hay lạc hậu đều có văn
hoá riêng của mình, chỉ khác nhau về trình độ cao thấp mà thôi
2
. Khái quát ở
tầm cao hơn, gần gũi với quan điểm hiện đại về văn hoá, Giáo sư Trần Ngọc
Thêm cho rằng: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh

thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong
sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội”
3
.
Đề cập đến vấn đề văn hóa, Hồ Chủ tịch từng nói: “Vì lẽ sinh tồn cũng như
mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ
viết, đạo đức, pháp luật, khoa học và tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công
cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ
những sáng tạo và phát minh đó t
ức là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi
phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra
nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”
4

Mặc dù nhiều khái niệm khác nhau nhưng tất cả những khái niệm về văn
hoá đều chứa đựng yếu tố con người. Văn hoá là hoạt động của con người, là lối
sống, là lối ứng xử mà con người học tập được trong suốt quá trình từ khi sinh ra
cho đến khi trưởng thành. Do gắn liền với hoạt động của con người nên văn hóa
bao gồm cả những giá trị do con người sáng tạ
o ra, làm ra, là nhân hoá, gắn liền
với đời sống của con người. Không có bàn tay và khối óc của con người không
thể có văn hoá.
Con người là chủ thể sáng tạo nên văn hóa luôn nằm trong sự vận động
không ngừng nên văn hóa phải được nhìn nhận ở trạng thái vận động của chính
cuộc sống con người, nó chỉ có thể sống trong bối cảnh đồng hành với cuộc sống
của con người. Cuộc sống con ng
ười hiện diện trong một xã hội với không gian
và nhiều yếu tố tác động, trong đó có yếu tố văn hoá. Con người vừa là chủ thể

2

Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Đồng Tháp, 1998, tr.13
3
Cơ sở Văn hóa Việt Nam
4
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, 1995, tâp 3 trang 431

11
của văn hoá nhưng đồng thời lại chịu sự tác động của văn hoá. Đây chính là
nguyên tắc căn bản và quan trọng nhất khi nghiên cứu về văn hoá nói chung.
Có thể khái quát văn hoá là tổng thể các giá trị vật chất và tinh thần và ứng
xử mang tính biểu trưng, do con người sáng tạo và tích luỹ được qua quá trình
lao động trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và lịch sử
củ
a mình cũng như sự hoàn thiện của bản thân mình. Văn hoá là hiện tượng xã
hội gắn liền với hoạt động của con người. Văn hoá được biểu thị như là phương
thức hoạt động bao gồm toàn bộ các sản phẩm vật chất và tinh thần cũng như
năng lực phát triển của chính bản thân con người. Theo nghĩa rộng nhất, văn hoá
là toàn bộ những gì do con người sáng t
ạo ra. Văn hoá trước hết phải là sản
phẩm mang dấu ấn của con người nhưng những sản phẩm đó phải chứa đựng
những giá trị hướng con người tới mục tiêu “chân” (cái đúng), “thiện” (cái tốt)
“mỹ” (cái đẹp), ngày nay là hướng con người tới xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh. Khi xã hội có sự phân công lao động, đã hình thành những nghề nghiệp
chuyên môn thì hoạt động nghề nghiệp c
ủa con người cũng là hoạt động phản
ánh văn hoá, có ý nghĩa văn hoá. Mức độ ứng xử có văn hoá của con người đối
với hoạt động lao động nghề nghiệp như thế nào thì nó cũng là thước đo tính
người trong chính hoạt động đó. Văn hoá khi đó gắn liền với nghề nghiệp, xác
định những giới hạn hoạt động nghề nghiệp trong từng lĩnh v
ực cụ thể. Với quan

niệm đó, văn hóa không phải là một giá trị hữu hình mà là một không gian mở,
với nhiều sự tương tác và những mối quan hệ vô cùng đa dạng. Nền văn hoá của
mỗi xã hội không phải là một không gian văn hoá mà là tổng thể nhiều không
gian văn hoá, các không gian văn hoá có sự đan xen lẫn nhau, tác động lẫn nhau.
Sự phân công lao động trong xã hội ngày càng rõ thì những không gian văn hoá
nghề ngày càng phát triển.
Thanh tra là ch
ức năng thiết yếu của các cơ quan quản lý nhà nước. Mục
đích của hoạt động thanh tra là nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi
vi phạm pháp luật, phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp
luật để kiến nghị với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền các biện pháp khắc
phục; phát huy nhân tố tích cực, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý
nhà nước, bảo vệ
lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan,

12
tổ chức, cá nhân. Các cơ quan thanh tra nhà nước có vị trí, vai trò quan trọng
trong cơ cấu tổ chức bộ máy của các cơ quan hành chính nhà nước, là thiết chế
bảo vệ pháp luật góp phần giữ gìn trật tự, kỷ cương trong xã hội. Với chức năng
đó, việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của ngành Thanh tra gắn liền với việc
thực hiện quyền lực nhà nước. Trên bình diệ
n rộng, hoạt động thanh tra chịu sự
chi phối của đời sống chính trị. Trên bình diện hẹp hơn, thanh tra thuộc nhánh
hành pháp trong tổ chức quyền lực nhà nước, có chức năng thực thi pháp luật và
kiểm soát sự tuân thủ pháp luật nên thanh tra là bộ phận của nền công vụ, hoạt
động thanh tra là hoạt động công vụ của Việt Nam. Nói cách khác, hoạt động
thanh tra là hoạt động công vụ nhưng mang tính chính trị sâu sắc. Vì vậy, bi
ểu
hiện của văn hoá thanh tra trong đời sống vừa mang tính chất là một bộ phận của
văn hoá công vụ, vừa nằm trong không gian văn hoá chính trị. Trong điều kiện

hiện nay, khi nền hành chính đang chuyển mình theo hướng chuyên nghiệp, hiện
đại, người cán bộ thanh tra khi tiến hành các hoạt động thanh tra đã được gắn
với ngạch, bậc chuyên môn chuyên sâu, hoạt động thanh tra thực sự là hoạt động
mang tính nghề nghiệp, v
ăn hoá thanh tra còn mang đậm nội dung của văn hoá
nghề. Do đó, văn hoá thanh tra chính là văn hoá nghề, nằm trong văn hoá công
vụ và chịu ảnh hưởng của văn hoá chính trị. Nói tóm lại, văn hóa là sản phẩm do
con người tạo ra trong quá trình lao động, sản xuất, bao gồm rất nhiều yếu tố cấu
thành, từ tư tưởng, niềm tin cho đến phong cách, phương pháp trong lao động,
làm việc, ứng xử và hiệu quả công việc, những s
ản phẩm và thành quả do lao
động tạo ra.
Từ những cách nhìn khác nhau về văn hóa nói chung và xuất phát từ đặc
điểm của công tác thanh tra, có thể quan niệm văn hoá thanh tra là một bộ phận
của văn hóa Việt Nam, thuộc văn hóa tinh thần, bao gồm những giá trị trong
lịch sử phát triển ngành Thanh tra, bao gồm hệ thống các nguyên tắc và phương
pháp lãnh đạo của ngành Thanh tra, tri thức nghề nghiệp của ngành Thanh tra
trong hệ thống chính trị - hành chính, phả
n ánh những giá trị của hoạt động
thanh qua các giai đoạn lịch sử và đạo đức, phong cách quan hệ, ứng xử của
cán bộ thanh tra trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, công vụ và trong sinh hoạt
cá nhân ”.

13
1.1.1.2. Quan niệm về chuẩn mực đạo đức cán bộ thanh tra.
Đạo đức cán bộ thanh tra là một bộ phận của văn hóa thanh tra, là giá trị
đặc trưng. Trong thực tiễn, văn hoá thanh tra chính là những kết quả, thành tựu
tốt đẹp trong hoạt động thanh tra cũng như trong hành vi ứng xử của cán bộ
thanh tra được gây dựng trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của ngành
Thanh tra, trở thành giá trị phổ biến, hình ảnh đặ

c trưng và truyền thống của
Ngành, nó chi phối tình cảm, nếp suy nghĩ và hành vi của toàn thể cán bộ, công
chức, thanh tra viên trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được
giao, phẩm chất chính trị, năng lực chuyên môn và đạo đức, lối sống, ứng xử,
giao tiếp của cán bộ thanh tra. Để xây dựng văn hóa thanh tra có nhiều hoạt
động, trước hết phải quan tâm đến xây dựng chuẩn m
ực đạo đức cán bộ thanh
tra.
Chuẩn mực đạo đức được hiểu một cách chung nhất là những phép tắc,
mang tính quy phạm - tính khuôn mẫu trong quan hệ ứng xử giữa con người với
con người, con người với xã hội. Đó là những yêu cầu, được thể hiện bằng
những tiêu chuẩn cụ thể, làm cơ sở cho việc đánh giá hành vi của con người.
Chuẩn mực đạo đức cán bộ
thanh tra là hệ giá trị được mọi người thừa nhận, có
tính phổ quát, bao gồm những phẩm chất cấu thành nên nhân cách của người cán
bộ thanh tra, là những nguyên tắc, quy tắc đạo đức được mọi người thừa nhận
trở thành những mực thước, khuôn mẫu để xem xét đánh giá và điều chỉnh hành
vi của người cán bộ thanh tra.
Chuẩn mực đạo đức cán bộ thanh tra có quan hệ chặt chẽ vớ
i chuẩn mực
pháp luật. Hệ thống chuẩn mực đạo đức gồm những chuẩn mực điều chỉnh hành
vi có giá trị tích cực (những việc phải làm và nên làm) và những chuẩn mực điều
chỉnh hành vi có giá trị tiêu cực (những việc không được làm, không nên làm).
Ngoài ra, chuẩn mực đạo đức cán bộ thanh tra còn bao gồm những chuẩn mực
điều chỉnh hành vi có thể làm. Trong đó, chuẩn mực
điều chỉnh hành vi có giá trị
tích cực (những việc phải làm và không được làm là những yêu cầu tối thiểu
trong định hướng, điều chỉnh hành vi của cán bộ thanh tra. Nó thuộc về chuẩn
mực pháp lý, mang tính bắt buộc thực hiện. Vi phạm loại chuẩn mực này cán bộ
thanh tra sẽ bị sự xử lý. Loại chuẩn mực đòi hỏi nên làm và không nên làm là

chuẩn mực chịu nhiều sự tác động và ki
ểm soát dư luận xã hội. Nói cách khác,

14
chuẩn mực đạo đức cán bộ thanh tra và pháp luật về quyền và nghĩa vụ của cán
bộ thanh tra đều là những quy phạm xã hội, nhưng pháp luật chỉ là những chuẩn
mực đạo đức tối thiểu. Chuẩn mực đạo đức cán bộ thanh tra có phạm vi rộng
hơn quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của cán bộ thanh tra.
Tóm lại, đạo đức của cán b
ộ thanh tra là một bộ phận không thể tách rời
của văn hóa thanh tra. Xây dựng chuẩn mực đạo đức cán bộ thanh tra là một
trong những nội dung quan trọng của việc xây dựng văn hóa thanh tra. Thanh tra
là hoạt động chính trị - quản lý nên văn hóa thanh tra có rất nhiều điểm tương
đồng với văn hóa chính trị, văn hóa quản lý. Chuẩn mực đạo đức cán bộ thanh
tra có nhiều nội dung thuộc chuẩn mực đạ
o đức cán bộ công chức hành chính
nói chung. Tuy nhiên, do thanh tra là hoạt động quản lý đặc biệt, là chức năng
đánh giá công tác quản lý, tìm ra những hạn chế, yếu kém trong công tác quản lý
để kịp thời có những điều chỉnh phù hợp, vì vậy văn hóa thanh tra và chuẩn mực
đạo đức cán bộ thanh tra có sự khác biệt với văn hóa chính trị, văn hóa quản lý
và chuẩn mực đạo đức cán bộ công chức nói chung.
Xuất phát từ đặc đ
iểm của công tác thanh tra, không gian văn hóa thanh tra
thể hiện rõ nét hình ảnh nghiêm trang của lực lượng bảo vệ pháp luật. Tuy
nhiên, do thanh tra là chức năng của quản lý nên hoạt động thanh tra phải kịp
thời, phong phú, đa dạng. Vì vậy, những nội dung cụ thể của văn hóa thanh tra
luôn gần gũi, gắn bó với các cơ quan, tổ chức, cá nhân. Điều đó làm cho không
gian văn hóa thanh tra có phần “mở” hơn so với không gian văn hóa của các lĩ
nh
vực bảo vệ pháp luật khác như văn hóa công an, văn hóa tư pháp Cũng xuất

phát từ đặc điểm của công tác thanh tra, phương pháp làm việc, phong cách, ứng
xử của cán bộ thanh tra cũng khác với phương pháp làm việc, phong cách, ứng
xử của cán bộ làm trong các cơ quan bảo vệ pháp luật khác và khác với phương
pháp làm việc, phong cách ứng xử của công chức hành chính nói chung. Là
công chức hành chính, cán bộ thanh tra phải yêu nước, thương dân, năng động,
sáng tạo, tận tâm, thận trọng, khách quan, công tâm trong công việc, khiêm tốn,
trung thực, cần kiệm, hòa đồng trong lối sống. Tuy nhiên, xuất phát từ đặc điểm
nghề nghiệp, tính năng động, sáng tạo, thận trọng, khách quan, công tâm, trung
thực là những chuẩn mực đặc biệt quan trọng, đòi hỏi cán bộ thanh tra phải đáp
ứng ở mức rất cao.

15
1.1.2. Quan điểm của Đảng, Nhà nước ta và Hồ Chí Minh về công tác
thanh tra - cơ sở xây dựng văn hóa thanh tra, chuẩn mực đạo đức cán bộ
thanh tra.
Tuy không trực tiếp đề cập đến nội dung xây dựng văn hóa thanh tra nhưng
những quan điểm, chủ trương của Đảng cộng sản Việt Nam, chính sách, pháp
luật của Nhà nước ta và tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò, đặ
c
điểm, chức năng của công tác thanh tra chính là cơ sở để xác định những nội
dung cơ bản của văn hoá thanh tra và định hướng xây dựng văn hóa thanh tra,
chuẩn mực đạo đức cán bộ thanh tra.
Thanh tra là một chức năng quan trọng của quản lý. V.I. Lênin đã khẳng
định: “quản lý đồng thời phải có Thanh tra, quản lý và Thanh tra là một chứ
không phải là hai”
5
. Đây là nguyên tắc cơ bản đầu tiên để xác định vị trí, vai trò
của công tác thanh tra, điều đó cũng có nghĩa rằng khi đề cập đến công tác thanh
tra, không thể không đề cập đến vấn đề quản lý nói chung và quản lý nhà nước
nói riêng.

Đảng, Nhà nước ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng công tác thanh
tra. Ngay sau khi giành được độc lập, tại các phiên họp ngày 4/10/1945, ngày
13/11/1945, ngày 14/11/1945 Chính phủ thảo luận và đi đến quyết định cần ph
ải
thành lập Ban Thanh tra đặc biệt. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh 64/SL
ngày 23/11/1945 thành lập Ban Thanh tra đặc biệt. Từ nhiệm vụ ban đầu của
Ban Thanh tra đặc biệt được Đảng và Nhà nước xác định tại Sắc lệnh 64/SL
ngày 23/11/1945 đã được nhiều lần bổ sung qua các sắc lệnh, chỉ thị, nghị quyết
của Đảng, Nhà nước, đó là Sắc lệnh 138/SL ngày 18/12/1949; Sắc lệnh số
261/SL ngày 28/3/1956; Nghị
định 165/CP ngày 31/8/1970; Nghị định 01/CP
ngày 3/01/1977 của Hội đồng Chính phủ. Cùng với việc ban hành các sắc lệnh,
Đảng và Nhà nước ta đã ban hành các chỉ thị, nghị quyết về công tác thanh tra.
Các văn kiện đó đã thể hiện rõ nét quan điểm của Đảng và Nhà nước về vị trí,
vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của thanh tra và trách nhiệm của các
cấp, các ngành đối với công tác thanh tra. Trong Chỉ thị số 50/CT-TW ngày
4/4/1962 củ
a Ban Bí thư đã chỉ rõ: “Tổ chức Thanh tra chuyên nghiệp là tai mắt

5
Lênin toàn tập, Nhà xuất bản sách chính trị Berlin 1971, trang 25,352

16
của cơ quan lãnh đạo các cấp, nó có nhiệm vụ giữ gìn dân chủ, kỷ luật nhà nước,
bảo đảm chấp hành nghiêm chỉnh các chủ trương, chính sách của Đảng và Chính
phủ… Thanh tra có nhiệm vụ theo dõi, xem xét sự chấp hành đúng đắn đường
lối, chính sách, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và Chính phủ… Các bộ, các ngành,
các cấp nhất định phải có cơ quan Thanh tra của mình để theo dõi ngay từ đầu,
để kịp th
ời uốn nắn, sửa chữa sai lầm, thiếu sót có thể xảy ra… Các cán bộ lãnh

đạo (các Bộ trưởng, Thứ trưởng…) nhất định phải chỉ đạo trực tiếp cơ quan
Thanh tra của mình”. Trong Thông tri số 210/TT/TW, ngày 22/12/1967 của Ban
Bí thư Trung ương Đảng đã chỉ rõ: “Lưu ý các cấp ủy và các Đảng đoàn phải hết
sức chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm tra của Đảng, công tác thanh tra
và xét thư khiếu tố
của nhân dân: Không những chỉ lãnh đạo về nội dung mà
phải chấn chỉnh và bổ sung về mặt tổ chức làm cho bộ máy tương xứng với
nhiệm vụ”…
Là nền tảng cho Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra chủ trương, chính sách và
Nhà nước thể chế hóa chính sách đó, tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò và
tầm quan trọng của công tác thanh tra đã đặc biệt nhấn mạnh công tác thanh tra
như là m
ột biện pháp quan trọng trong việc phát hiện và xử lý những hành vi vi
phạm pháp luật. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng “muốn chống bệnh quan liêu,
bệnh bàn giấy; muốn biết các nghị quyết có được thi hành không, thi hành có
đúng không; muốn biết ai ra sức làm, ai làm cho qua chuyện, chỉ có một cách là
khéo kiểm soát”
6
. Không những thế, thanh tra còn đóng vai trò như một biện
pháp phòng ngừa hữu hiệu các vi phạm pháp luật. Người nói “nếu Trung ương
Đảng, Chính phủ có nghị quyết, chỉ thị đưa về các ngành, các địa phương, kết
quả thế nào không có thanh tra khó mà biết được địa phương nào làm tốt, làm
vừa, làm xấu; có làm hay không làm trên không biết, địa phương nhiều khi tự
mình cũng không biết; trên không thấu dưới; dưới không thấu trên. Thanh tra để
theo dõi xem các k
ế hoạch, chỉ thị, chính sách đó, các địa phương đã chấp hành
thế nào”
7

Chủ tịch Hồ Chí Minh coi “thanh tra là tai mắt của trên, là bạn của dưới”

và “cán bộ thanh tra như cái gương cho người ta soi mặt, gương mờ thì không

6
Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, H.1995, tập 5, tr.287
7
Một số văn kiện chủ yếu của Đảng và Chính phủ về công tác thanh tra, UB Thanh tra của Chính phủ, 1977, tr.7

17
soi được”. Đây là quan điểm có ý nghĩa chỉ đạo thực tiễn rất sâu sắc. Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ vị trí và vai trò đặc biệt của thanh tra trong hoạt động của
nhà nước và đời sống xã hội. Ví thanh tra quan trọng như tai, mắt của con người
- như bộ phận cấu thành cơ thể con người, là phương tiện cực kỳ trọng yếu giúp
cho con người nh
ận thức và phát triển trí tuệ, có nghĩa thanh tra như là một bộ
phận không thể thiếu của lãnh đạo trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà
nước, là phương tiện nhận thức của quá trình quản lý nhà nước. Cùng với vai trò
là “tai mắt của trên”, thanh tra còn là “bạn của dưới”. Đối với những người là
lãnh đạo quản lý cấp dưới thì thanh tra chính là người bạn giúp mình nhìn thấy,
biết được, phát hi
ện và chỉ cho mình thấy được những việc mình làm đúng, làm
tốt để tiếp tục phát huy, những việc làm sai, làm không đầy đủ, làm thiếu trách
nhiệm để khắc phục sửa chữa nâng cao năng lực và trách nhiệm của mình.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác thanh tra, có thể khái quát
trên ba yêu cầu cơ bản nhất đối với công tác thanh tra là:
- Công tác thanh tra phải thường xuyên, độc lập
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, vì thanh tra là công tác quan trọng của cơ

quan lãnh đạo Đảng và Nhà nước, do đó phải được tiến hành thường xuyên.
Công tác thanh tra nếu không được tiến hành thường xuyên tất yếu sẽ dẫn tới
bệnh quan liêu, mệnh lệnh và từ đó sẽ tiếp tục gây ra những tác hại to lớn khác

cho sự nghiệp cách mạng. Hoạt động thanh tra phải được đảm bảo tính độc lập
tương đối; thanh tra phải tuân theo pháp luật, chỉ tuân theo pháp luật và không ai
được cản trở
hoạt động thanh tra. Tính thường xuyên trong hoạt động thanh tra
do chính đặc điểm, tính chất của hoạt động chấp hành, điều hành trong quản lý
hành chính nhà nước quyết định và có mối quan hệ chặt chẽ với yêu cầu kịp thời
của việc ra các quyết định lãnh đạo, quản lý.
- Công tác thanh tra phải kịp thời, cụ thể, khách quan
Hoạt động thanh tra giúp cấp trên nắm được tình hình, giúp cấp dưới sửa
chữa, u
ốn nắn những sai lầm, lệch lạc; giúp đỡ cấp dưới thực hiện chủ trương,
chính sách, pháp luật. Do vậy, công tác thanh tra luôn luôn đòi hỏi tính kịp thời.

18
Thanh tra phải đến tận nơi, xem tận chỗ, đây là phương thức hoạt động đặc
trưng của công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát. Theo quan điểm của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, đã tiến hành thanh tra (hay kiểm tra, kiểm soát) phải đi đến tận
nơi, xem tận chỗ. Người nói: “Thanh tra muốn biết, muốn thấy, muốn hiểu rõ sự
thật ở cơ quan, địa phương nào đấ
y phải đến tận nơi, nghe ngóng, tìm hỏi, chịu
khó. Quan liêu sẽ không làm được nhiệm vụ”
8
. Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, với phương pháp đi đến tận nơi, xem tận chỗ, thanh tra sẽ góp phần
chống bệnh quan liêu. Người cho rằng: “Muốn chống bệnh quan liêu, bệnh bàn
giấy; muốn biết các nghị quyết có được thi hành không, thi hành có đúng không;
muốn biết ai ra sức làm, ai làm qua chuyện, chỉ có một cách là khéo kiểm soát”.
Theo quan điểm của Hồ Chủ tịch, thanh tra phải cẩn thậ
n, khách quan.
Những thông tin mà thanh tra cung cấp cho cơ quan cấp trên, cho người lãnh

đạo đòi hỏi độ chính xác rất cao. Muốn có được độ chính xác đó, thái độ của
người cán bộ thanh tra là phải cẩn thận, xem xét một cách tỷ mỷ, thấu đáo và
đánh giá một cách khách quan, không áp đặt theo ý chủ quan của mình, Người
khẳng định: “Thái độ của người cán bộ thanh tra là kiểm tra phải cẩn thận.
Nghe không được thiên lệch, nghe một bên, nên nghe người này, nghe người kia.
Ph
ải khách quan. Chớ do ý muốn và suy đoán chủ quan của mình. Chống quan
liêu: Thanh tra muốn biết, muốn thấy, muốn hiểu rõ sự thật ở cơ quan, ở địa
phương nào đấy phải đến tận nơi, nghe ngóng, tìm hỏi, chịu khó. Phải cẩn thận,
khách quan, điều tra, nghiên cứu kỹ lưỡng, chịu khó”
9
.
- Hoạt động thanh tra được thực hiện bằng phương thức dân chủ
Hồ Chí Minh cho rằng một trong những cách thức bảo đảm dân chủ trong
hoạt động thanh tra là phê bình và tự phê bình. Đây là yếu tố rất quan trọng tạo
nên hiệu quả của công tác thanh tra. Trong bài “Một việc mà các cơ quan lãnh
đạo cần thực hành ngay” đăng trên báo Sự thật số 103 ngày 30/11/1948, Người
viết: “kiểm tra phải dùng cách thức thật thà tự phê bình và phê bình
để tỏ rõ hết

8
Một số văn kiện chủ yếu của Đảng và Chính phủ về công tác thanh tra, UB Thanh tra của Chính phủ, 1977, tr.7
9
Một số văn kiện về công tác thanh tra, tr7-10

19
mọi khuyết điểm và tìm cách sửa chữa những khuyết điểm ấy. Như thế thì cán bộ
càng thêm trọng kỷ luật và lòng phụ trách”
10
.

Để đạt được yêu cầu đó, người đòi hỏi cán bộ thanh tra phải có năng lực,
kinh nghiệm và uy tín, có đạo đức cách mạng, phải gương mẫu, phải cố gắng
học tập, trau dồi đạo đức cách mạng, nâng cao trình độ lý luận, nghiệp vụ,
chuyên môn. Yêu cầu đó được thể hiện trong nhiều bài phát biểu của Người, ví
dụ: “Vì công tác thanh tra là một công tác quan trọng, Đảng và Chính phủ có
tin cậy m
ới giao cho làm nhiệm vụ ấy. Có thể nói cán bộ thanh tra là tai, mắt
của Đảng và Chính phủ, tai mắt có sáng suốt thì người mới sáng suốt”
11
; “Cán
bộ thanh tra như cái gương cho người ta soi mặt, gương mờ thì không soi
được”; “…muốn kiểm soát có kết quả tốt, phải có hai điều: một là việc kiểm soát
phải có hệ thống, phải thường làm. Hai là người đi kiểm soát phải là những
người rất có uy tín”; “Không thể gặp ai cũng phái đi kiểm tra. Người lãnh đạo
phải tự mình làm việc kiểm tra mới đủ kinh nghiệm và uy tín. Như
ng người lãnh
đạo cần phải có một nhóm cán bộ nhiều kinh nghiệm và giàu năng lực để giúp
mình đi kiểm tra”
12

Trong mỗi giai đoạn lịch sử, Đảng và Nhà nước đã đưa ra chủ trương thích
hợp, điều chỉnh kịp thời chức năng, nhiệm vụ của cơ quan Thanh tra phù hợp
với yêu cầu, nội dung quản lý nhà nước và sự phát triển kinh tế, xã hội. Nhiệm
vụ thanh tra được mở rộng từ chỗ chỉ tập trung kiểm tra, kiểm soát và công việc
của công chức, viên chứ
c trong bộ máy nhà nước, xem xét các khiếu nại của
công dân đến chỗ xác định nhiệm vụ thanh tra đối với các hoạt động kinh tế, xã
hội.
Ngày nay, Đảng và Nhà nước tiếp tục quan tâm hoàn thiện tổ chức và hoạt
động của ngành Thanh tra. Nghị quyết Trung ương 8 (Khóa VII), Nghị quyết

Trung ương 3 (Khóa VIII), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã
khẳng định phải đổi mới tổ chứ
c và hoạt động thanh tra, hoàn thiện thể chế pháp
luật về thanh tra, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra và coi đó là một
trong những nội dung quan trọng của cải cách nền hành chính Nhà nước.

10
Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, H.1995, t.5, tr.521
11
Một số văn kiện về công tác thanh tra, tr.11-15
12
Hồ Chủ tịch Huấn thị về công tác thanh tra tại Hội nghị thanh tra toàn miền Bắc, ngày 19/4/1957

20
Tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3, lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương Đảng
khoá VII và Nghị quyết Đại hội IX, quan điểm của Đảng về công tác thanh tra
được thể hiện trên các yêu cầu cụ thể như sau:
- Đổi mới và tăng cường công tác thanh tra của Chính phủ và các cơ quan
hành pháp; củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của cơ quan Thanh tra
nhà nước;
- Tăng cường tổ
chức và hoạt động thanh tra, tập trung giải quyết khiếu
kiện của nhân dân, coi đó là công cụ quan trọng để đảm bảo hiệu lực quản lý cùa
Nhà nước, quyền làm chủ của người dân, thiết lập trật tự, kỷ cương xã hội.
- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra cần tiến hành đồng bộ với cải
cách bộ máy nhà nước và trên cơ sở phân định thẩm quyền trách nhiệm giữa các
cấp chính quyền, cơ quan quản lý nhà nước theo ngành và lĩnh vực, giữa các cơ
quan có chức năng thanh tra, kiểm tra, điều tra ở các cấp Trung ương và địa
phương.
- Xây dựng đội ngũ công chức thanh tra có phẩm chất đạo đức, có năng

lực, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới
1.1.3. Những thuộc tính và chức năng của văn hóa thanh tra
Là một bộ phận của v
ăn hóa chính trị - quản lý, văn hóa thanh tra có đầy đủ
các thuộc tính, chức năng của văn hóa chính trị - quản lý. Tuy nhiên, sự biểu
hiện các thuộc tính và chức năng của văn hóa thanh tra trong thực tế có những
điểm khác biệt. Sự khác biệt đó xuất phát từ chính đặc điểm của công tác thanh
tra.
1.1.3.1. Những thuộc tính của văn hóa thanh tra
Trong không gian văn hóa, con người đã quan hệ và tương tác với nhau
thông qua các hoạt độ
ng cảm thụ và sáng tạo. Trong không gian đó, những mối
quan hệ và tương tác của con người với nhau vừa mang tính (chiều, hướng) cộng
cảm, vừa mang tính nhân văn và thể hiện tính sáng tạo. Đây là ba thuộc tính của
không gian văn hoá và cũng là những thuộc tính cơ bản của văn hóa thanh tra.
- Tính cộng cảm của văn hóa thanh tra:

21
Tính cộng cảm của văn hoá thanh tra có thể được hiểu theo ý nghĩa là sự
lan tỏa, truyền bá và ảnh hưởng của văn hóa thanh tra trong đời sống xã hội. Nó
có ý nghĩa như là một sự “xã hội hóa”, trong xã hội, nó tác động và ảnh hưởng
đến các chủ thể, cá nhân và cộng đồng. Tính cộng cảm của văn hoá thanh tra
vừa phản ảnh sự hấp thụ vừa bao hàm sự lan tỏa, tạo nên một trong nhữ
ng đặc
trưng cơ bản nhất của văn hóa thanh tra. Văn hóa thanh tra cũng là sản phẩm của
xã hội, mặc dù trên thực tế nó có thể được sản sinh từ hoạt động của những cá
nhân (đặc biệt là cán bộ thanh tra) cụ thể nhưng nó cũng tác động, điều chỉnh
hành vi, ứng xử của nhiều chủ thể khác, đặc biệt là cán bộ thanh tra.
Có thể nói, sự cộng cả
m mang tính xã hội là phương thức tồn tại của văn

hóa thanh tra, là sự biểu hiện, là bề mặt trực quan và sống động của văn hóa
thanh tra. Chính nhờ tính cộng cảm mà văn hóa thanh tra có thể lan tỏa, trở
thành không có giới hạn. Nhiều chủ thể trong xã hội có thể tìm thấy những sự
ảnh hưởng của văn hóa thanh tra vượt qua giới hạn về giới tính, nghề nghiệp
Cũng chính nhờ sự c
ộng cảm mà văn hóa thanh tra có thể thẩm thấu và tương
tác với các văn hóa khác. Dưới góc độ nghiên cứu phát triển, chiều cộng cảm
của văn hóa thanh tra vừa tạo nên ý nghĩa của sự thống nhất vừa là nguyên nhân
của sự bài trừ. Quá trình vừa thống nhất vừa loại trừ vừa ổn định vừa biến đổi,
vừa cảm thụ vừa chối bỏ là cơ sở
của chính sự phát triển văn hóa thanh tra.
- Tính nhân bản của văn hóa thanh tra:
Văn hoá nói chung chính là hành vi của con người trên tự nhiên, là thế giới
tự nhiên mang tính người. Nhờ có tính nhân bản mà con người mới là những
thực thể văn hóa. Bề chiều nhân bản của văn hóa thể hiện ở chỗ con người trước
hết là đối tượng cảm thụ và sáng tạo văn hóa. Chỉ trong chừng mực có những
dấu ấn sáng t
ạo và cảm thụ của con người mà chúng ta mới có văn hóa. Con
người sống trong môi trường văn hoá, giống như cá sống trong môi trường
nước. Nhưng ở đây thứ “nước” văn hoá nuôi sống con người không thuần tuý là
tự nhiên, nó còn là sản phẩm của con người, mang tính người và bởi vậy có ý
nghĩa nhân văn sâu sắc. Với tư cách là sản phẩm của chính con người, văn hoá
lấy con người là mục tiêu, là nội dung và phương th
ức hoạt động. Hướng tới con
người, văn hoá có được động lực để hướng tới sự phát triển tiến bộ. Mọi sự xa
rời tính nhân đạo với con người đồng nghĩa với việc xa rời mục tiêu tồn tại và

22
phát triển của văn hoá, và như vậy, về bản chất là không có tính văn hoá. Chiều
nhân bản của văn hoá thanh tra không chỉ là điều kiện nuôi dưỡng con người,

đặc biệt là người cán bộ thanh tra, nghề thanh tra và nuôi dưỡng chính văn hoá
thanh tra). Đi ngược lại với mục tiêu nhân bản của văn hoá, “bầu khí quyển” của
văn hoá thanh tra sẽ vẩn đục, sẽ dẫn đến sự tàn lụi của vă
n hoá thanh tra. Trên
thực tế, trình độ văn hoá thanh tra chỉ ở mức cao khi có tính nhân bản cao, có
một không gian nhân bản đề cao con người, bảo vệ con người, thanh tra phải thể
hiện được tình cảm nhân ái giữa con người với con người, giữa cá nhân với cộng
đồng.
Tính nhân bản của văn hoá thanh tra thể hiện bản chất của văn hoá thanh
tra gắn với con người, phục vụ con người. Do văn hoá thanh tra suy cho cùng là
sản phẩm c
ủa con người nên tính nhân bản là bản chất của văn hóa. Nhưng quan
trọng hơn, do thanh tra là lực lượng bảo vệ pháp luật, bảo vệ con người, trực tiếp
hướng đến con người nên tính nhân bản của văn hóa thanh tra càng được thể
hiện rõ nét.
- Tính sáng tạo của văn hóa thanh tra:
Tính sáng tạo của văn hoá thanh tra gắn liền với hoạt động sáng tạo của con
người - người cán bộ thanh tra - vì con người chính là chủ thể
sáng tạo.
Nếu như đặc trưng cấu trúc nhân bản của văn hóa thanh tra phản ánh chiều
hòa hợp từ con người xã hội, lấy nội dung hoạt động của con người làm mục
đích căn bản thì đặc trưng của phương thức sáng tạo biểu hiện chiều hòa hợp từ
xã hội tới con người và mang dấu ấn nghề nghiệp, lấy sự nhận thức, năng lự
c lao
động và khám phá, giải quyết các vấn đề phát sinh từ hiện thực làm nền tảng.
Người cán bộ thanh tra cần có cuộc sống nhân bản và do vậy cũng cần có sự
sáng tạo. Nói rộng hơn, con người cũng cần có sự sáng tạo để làm phong phú
cho cuộc sống nhân bản. Ngành thanh tra luôn cần đến sự phát triển và không
ngừng hướng tới sự tiến bộ và do vậy cũng không ngừng hướng tới sự sáng t
ạo.

Bởi vậy lịch sử của ngành thanh tra cũng chính là lịch sử của những hoạt động
sáng tạo. Sáng tạo là bản chất sự tồn tại của con người nói chung và do đó cũng
là bản chất sự tồn tại của văn hoá thanh tra.

23
Sáng tạo là một trong những đặc trưng quan trọng, bất di bất dịch của văn
hóa thanh tra. Lịch sử của văn hóa thanh tra cũng là lịch sử những hoạt động
không ngừng nghỉ của những sự sáng tạo các giá trị. Trong ngọn lửa vĩnh cửu
của sự sáng tạo, văn hóa tồn tại, biến đổi và không ngừng nâng cao các giá trị
của mình cùng với thời đại. Vì vậy, sáng t
ạo chính là một phương thức tồn tại
của văn hóa thanh tra, thông qua sáng tạo mà văn hóa thanh tra biểu hiện bản
chất của mình.
Với những đặc trưng về tính cộng cảm, tính nhân bản và tính sáng tạo của
văn hoá thanh tra, có thể nói, mọi hoạt động của ngành thanh tra nói chung và
cán bộ thanh tra nói riêng đều có ý nghĩa văn hoá và xoay quanh văn hoá.
Trên bình diện khác, với tính chất là bộ phận của văn hoá công vụ, nằm
trong không gian văn hoá chính trị và có
đầy đủ tính chất của văn hoá nghề, văn
hoá thanh tra có những đặc điểm cơ bản sau:
- Tính giai cấp của văn hóa thanh tra:
Là một phương diện của văn hoá chính trị, văn hoá thanh tra cũng bao gồm
những tính chất và đặc điểm của văn hoá chính trị nói chung. Tính giai cấp của
văn hoá thanh tra Việt Nam gắn liền với bản chất của chế độ chính trị, bản chất
của nhà nước ta, một nhà nước được tổ chức và hoạt động trên nền tảng chính trị
của liên minh giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tính giai cấp là đặc điểm nổi bật của văn hoá
thanh tra. Đặc điểm chính trị Việt Nam gắn với một giai cấp lãnh đạo, nó mang
hệ tư tưởng giai cấp, thế gi
ới quan, nhân sinh quan, lý tưởng, niềm tin, ý thức

của giai cấp công nhân Việt Nam mà Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong
của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Mục đích của Đảng là xây dựng
nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, thực
hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.
Đảng lấy
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ
nam cho hành động, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa
trí tuệ của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan, xu thế thời đại và thực tiễn
của đất nước để đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng đắn, phù
hợp với nguyện vọng c
ủa nhân dân. Tính giai cấp của Đảng Cộng sản Việt Nam

24
quy định bản chất Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và được ghi
nhận tại Điều 2, Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
1992 (đã được sửa đổi, bổ sung 2001): “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền t
ảng là liên
minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”.
Thanh tra là một lĩnh vực hoạt động nhà nước mang tính giai cấp. Do vậy,
thanh tra phải được tổ chức và hoạt động trên cơ sở các yêu cầu và đòi hỏi về
bản chất giai cấp của các lực lượng cầm quyền trong đời sống chính trị và cơ
chế vận hành các quan hệ quyền lực chính trị. Ngành thanh tra là một trong
nhữ
ng công cụ quan trọng để bảo vệ lợi ích giai cấp lãnh đạo và xử lý các quan
hệ chính trị, lợi ích của các giai, tầng xã hội khác từ quan điểm và ý chí của giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
Mặt khác, văn hoá thanh tra được hình thành và phát triển trong thực tiễn

đấu tranh giai cấp, phục vụ trực tiếp cho lợi ích giai cấp; đây cũng là nơi mang
quyền lợi giai cấp, bảo vệ và tuyên truyền h
ệ tư tưởng giai cấp. Văn hoá thanh
tra là văn hoá xã hội chủ nghĩa được hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lin dẫn
đường, phấn đấu vì lợi ích giai cấp công nhân, của toàn thể nhân dân lao động.
Mơ hồ về bản chất giai cấp của thanh tra sẽ dẫn đến việc hạ thấp vị trí, vai trò
của thanh tra trong việc góp phần giữ vững bản chất nhà nước và định hướng xã
hội chủ nghĩa.
- Tính nhân dân (quyền lực nhà nước):
Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có thể cần sử
dụng đến nhiều phương tiện, công cụ. Công tác thanh tra luôn là phương tiện
hữu hiệu, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước pháp
quyền. Đặc điểm của hoạt động thanh tra xuất phát từ vai trò là chức nă
ng thiết
yếu của quản lý nhà nước, luôn mang tính quyền lực nhà nước, mang tính độc
lập tương đối, chỉ hoạt động theo pháp luật. Tuy nhiên, suy cho cùng, quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân nên tính quyền lực nhà nước và quyền lực nhân dân
đồng nhất với nhau. Vì vậy, văn hoá thanh tra mang tính quyền lực nhà nước và
cũng mang tính nhân dân.

25
Tính nhân dân của văn hoá thanh tra xuất phát từ bản chất của nhà nước ta,
nhà nước “của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”, quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân, nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua các hình
thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp. Mục tiêu của thanh tra không chỉ là
bảo vệ một trật tự quản lý, bảo vệ lợi ích của nhà nước, mà vượt lên ý nghĩa này
là bảo vệ lợi ích c
ủa nhân dân. Nói một cách khác, ý chí, nguyện vọng của nhân
dân là sự định hướng cho tổ chức và hoạt động của thanh tra, của văn hoá thanh
tra. Bản chất cách mạng của Thanh tra Việt Nam là phục vụ lợi ích của nhân

dân, góp phần xây dựng và đảm bảo một trật tự quản lý nhà nước trong đó mỗi
người, mỗi cộng đồng đều có điều kiện, cơ hội bình đẳng để phát triển tự
do. Để
làm được điều này, thanh tra phải xuất phát từ ý chí, nguyện vọng của nhân dân,
biết tập hợp nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy sức mạnh và sáng tạo của
nhân dân để tổ chức các hoạt động thực tiễn của mình. Cũng như nhà nước, chỉ
trên cơ sở tôn trọng nhân dân, tận tâm phục vụ ý chí và lợi ích chính đáng của
nhân dân, thanh tra mới thực sự có sức mạnh, mới thực sự giành đượ
c sự ủng
hộ, giúp đỡ, tin yêu của nhân dân để đấu tranh có hiệu quả với hành vi vi phạm
pháp luật.
- Tính dân tộc:
Văn hoá thanh tra luôn gắn chặt với văn hoá dân tộc. Dân tộc chính là gốc
để xác định bản sắc văn hoá. Không thể biệt lập văn hóa thanh tra với văn hóa
dân tộc. Văn hóa thanh tra phải được xác định cụ thể trong văn hóa dân tộc. Vì
vậy, văn hoá thanh tra mang đậm tính dân tộc Việt Nam.
- Tính lị
ch sử:
Cũng như các phương diện văn hoá khác, văn hoá thanh tra là phạm trù lịch
sử. Văn hoá thanh tra mang đậm tính lịch sử và luôn luôn vận động và phát triển
không ngừng. Văn hóa thanh tra nảy sinh và phát triển cùng với lịch sử hình
thành và phát triển của ngành Thanh tra. Suy rộng ra, do thanh tra là chức năng
của quản lý nên văn hoá thanh tra nó nảy sinh và phát triển cùng với lịch sử hình
thành và phát triển của giai cấp, của nhà nước. Thanh tra có mục tiêu trước mắt
và mục tiêu lâu dài, hơ
n nữa nó còn bị chi phối bởi các nhân tố chủ quan và
khách quan. Chính điều đó đã quy định tính lịch sử - cụ thể của văn hoá thanh
tra.

×