Tải bản đầy đủ (.pdf) (224 trang)

Những yếu tố văn hoá xã hội tác động đến sự ổn định và phát triển ở tây nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.88 MB, 224 trang )


Bộ khoa học
v
à công nghệ
chơng trình kh & cn trọng điểm cấp nhà nớc kx.03
Xây dựng con ngời và phát triển văn hóa Việt Nam
trong tiến trình đổi mới và hội nhập










Báo cáo tổng hợp
ti khoa hc cp Nh nc KX.03.01/06-10


Những yếu tố văn hóa - xã hội
tác động đến sự ổn định và
phát triển ở Tây Nguyên




Ch nhim ti: TS DNG TH HNG
Th ký ti: TS U TUN NAM


C quan ch trỡ: HC VIN BO CH V TUYấN TRUYN






7990


hà nội-2010



DANH SÁCH CÁC THÀNH VIÊN THAM GIA ĐỀ TÀI

1. TS Dương Thị Hưởng - Học viện Báo chí và Tuyên truyền
2. PGS, TS Hoàng Đình Cúc - Học viện Báo chí và Tuyên truyền
3. GS, TS Dương Xuân Ngọc - Học viện Báo chí và Tuyên truyền
4. TS Hoàng Anh - Học viện Báo chí và Tuyên truyền
5. TS Nguyễn Thị Hồng - Học viện Báo chí và Tuyên truyền
6. ThS Phạm Thị Nhung - Học viện Báo chí và Tuyên truyền
7. PGS, TS Lê Quý Đức - Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia HCM
8. PGS, TS Đỗ Đình Hãng - Học viện Chính trị - Hành chính khu vực I
9. TS Đoàn Minh Huấn - Học viện Chính trị - Hành chính khu vự
c I
10. TS Lê Phương Thảo - Học viện Chính trị - Hành chính khu vực I
11. TS Đậu Tuấn Nam - Học viện Chính trị - Hành chính khu vực I
12. ThS Nguyễn Thị Kim Liên - Học viện Chính trị - Hành chính khu vực II
13. TS Nguyễn Ngọc Hòa - Học viện Chính trị - Hành chính khu vực III

14. TS Lê Văn Định - Học viện Chính trị - Hành chính khu vực III
15. PGS, TS Trần Xuân Dung - Học viện An ninh nhân dân
16. PGS, TS Nguyễn Bình Ban - Học viện An ninh nhân dân
17. ThS Vũ Hải Vân - Học viện An ninh nhân dân
18. PGS, TS Lê Ngọc Thắng - Ủy ban Dân tộc
19. PGS, TS Khổng Di
ễn - Viện Phát triển bền vững vùng Trung Bộ
20. TS Mai Thanh Sơn - Viện Phát triển bền vững vùng Trung Bộ
21. TS Bùi Minh Đạo - Viện Phát triển bền vững vùng Tây Nguyên
22. TS Trần Hồng Hạnh - Viện Dân tộc học
23. ThS Trần Lê Minh Trang - Viện Nghiên cứu Đông Nam Á
24. TS Nguyễn Thị Kim Vân - Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Gia Lai
25. ThS Tô Văn Tám - Trường Chính trị tỉnh Kon Tum
26. ThS Đỗ Hữu Đệ - Trường Chính trị tỉnh Đắk Nông
27. Linh Nga Niê Kdam - Hội Vă
n hóa Nghệ thuật Đắk Lắk
28. Nguyễn Bạn - Phó Ban Chỉ đạo Tây Nguyên


1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Tây Nguyên vốn là địa bàn cư trú của nhiều dân tộc tại chỗ, thuộc hai
nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ me và Malayo - Polinesien. Tuy nhiên, bức tranh
phân bố tộc người ở Tây Nguyên hiện đã và đang có nhiều thay đổi, bởi sự có
mặt của nhiều dân tộc mới đến. Trước hết, phải kể tới sự có mặt khá sớm ở
Tây Nguyên một bộ ph
ận người Kinh đến từ các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ và

Bắc Trung Bộ. Ngoài ra, Tây Nguyên còn là địa bàn cư trú của nhiều tộc
người thiểu số đến từ các tỉnh miền núi phía Bắc (như các dân tộc Thái, Tày,
Nùng, Hmông, Dao…) trong những năm gần đây. Như vậy, có thể nói, Tây
Nguyên là một khu vực đa tộc người, với nhiều sắc thái văn hóa khác nhau,
trong đó văn hóa của các tộc người tại ch
ỗ khá đặc sắc, phong phú và đa dạng.
Song cần phải nói thêm rằng, văn hóa các dân tộc tại chỗ Tây Nguyên đang
đứng trước nguy xói mòn bản sắc và bị lợi dụng vào các mục tiêu chính trị phi
văn hóa của các thế lực thù địch. Do đó, vấn đề bảo tồn và phát triển văn hóa
các dân tộc tại chỗ Tây Nguyên phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế - xã
hội, giữ vững sự ổn định chính trị
, an ninh quốc phòng trở thành một nhiệm
vụ cấp bách.
Tây Nguyên là vùng lãnh thổ đặc thù nằm ở phía Tây Nam nước ta,
vốn được coi là mái nhà chung của ba nước Đông Dương, với những con
đường nằm trong hệ thống giao thông huyết mạch xuống đồng bằng và kết
nối với hai nước láng giềng Lào và Cămpuchia, với không gian môi trường
sinh thái đầu nguồn phía Đông thượng nguồn của sông Mê - kông. Do đó,
Tây Nguyên là địa bàn có tầm quan trọng chiến l
ược đối với cả nước trên
các phương diện địa - kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và môi trường sinh
thái. Nhận thức rõ tầm quan trọng đặc biệt của Tây Nguyên, từ sau năm
1975, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chính sách phát triển kinh tế - xã hội

2
nhằm giữ vững ổn định, đẩy mạnh khai thác các tiềm năng, thế mạnh của
vùng đất này. Kết quả nổi bật là không ngừng nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần cho các dân tộc ở Tây Nguyên; hệ thống chính trị ngày càng
được củng cố và tăng cường; văn hóa các dân tộc tại chỗ luôn được coi
trọng, bảo tồn và phát huy… Tuy nhiên, cũng phải khách quan thừa nhận,

nhiều chính sách đối với Tây Nguyên không phát huy
được hiệu quả như
mong đợi, thậm chí còn gây hiệu ứng nghịch. Trong quá trình lãnh đạo và
chỉ đạo phát triển kinh tế - xã hội ở Tây Nguyên, chúng ta chưa nhận thức
đầy đủ và thực sự coi tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của các dân
tộc tại chỗ; việc di dân theo kế hoạch nhằm phát triển kinh tế - xã hội Tây
Nguyên là một chủ trương đúng, nhưng thiếu giáo dục tinh thần đoàn kết và
tương tr
ợ dân tộc; quản lý kinh tế - xã hội còn áp dụng có phần xơ cứng mô
hình của người Kinh lên vùng dân tộc Tây Nguyên và chưa chú ý đầy đủ
việc khai thác những yếu tố phi quan phương trong tổ chức quản lý xã hội
Những bất cập trong các chính sách phát triển đã tạo ra nhiều mâu thuẫn
đáng tiếc nảy sinh từ chính trong nội tại đời sống văn hóa - xã hội Tây
Nguyên (giữa tôn giáo với chính quyền; giữa đồng bào các dân tộc tạ
i chỗ
với các dân tộc mới đến; giữa yếu tố phi quan phương với yếu tố quan
phương ). Những mâu thuẫn vừa nêu đã và đang tiềm ẩn nguy cơ dẫn tới
mất ổn định chính trị - xã hội, nhất là khi bị các thế lực thù địch lợi dụng,
những mâu thuẫn đó sẵn sàng bùng phát, chuyển hoá thành các “điểm
nóng”, điển hình như các vụ bạo loạ
n chính trị ở một số địa phương thuộc
Tây Nguyên các năm 2001 và 2004 Do vậy, những vấn đề trong nội tại
văn hóa - xã hội Tây Nguyên cần phải có các nghiên cứu chuyên sâu phân
tích làm rõ.
Từ những phân tích trên đây cho thấy, nghiên cứu “Những yếu tố văn
hoá - xã hội tác động đến sự ổn định và phát triển ở Tây nguyên” là một yêu
cầu hết sức bức thiết, không chỉ có giá trị về lý luận mà còn có ý ngh
ĩa về
thực tiễn.


3
2. Mục tiêu của đề tài
- Làm rõ các yếu tố văn hoá - xã hội tác động đến sự ổn định và phát
triển ở Tây Nguyên.
- Phân tích nguyên nhân của những tác động đến sự ổn định và phát
triển ở Tây Nguyên.
- Đề xuất một số kiến nghị, giải pháp góp phần ổn định và phát triển ở
Tây Nguyên.
3. Tổng quan tình hình nghiên cứu về Tây Nguyên
3.1. Những nghiên cứu của các học giả nước ngoài
Cùng với s
ự có mặt của chủ nghĩa thực dân tại, một số học giả Âu
Châu, mà số đông là các nhà Nhân học/Dân tộc học người Pháp đã đến Việt
Nam nghiên cứu về các dân tộc thiểu số nói chung và các dân tộc tại chỗ Tây
Nguyên nói riêng. Trước hết, phải kể đến các nhà nghiên cứu có tên tuổi như
J. Guilteminet, J. Dournes, G. Condominas, J. Boutbet, C. Robecquain,
A.Maurice, H. Maspéro Phần lớn các công trình nghiên cứu của họ đã được
công bố trên các Tập san của Tr
ường Viễn Đông Bác cổ (BEFEO), Hội nghiên
cứu Đông Dương (BSEI), Những người bạn Huế cổ kính (BAVH), Pháp Á
(FA), Tạp chí Đông Dương (RI)
Ngay từ những thập niên đầu của thế kỷ XX, ở Việt Nam đã xuất hiện
một số chuyên khảo của các học giả nước ngoài nghiên cứu về các dân tộc
thiểu số, trong đó các tộc người thiểu s
ố tại chỗ Tây Nguyên đã được học giả
quan tâm tìm hiểu. Trong số đó, phải kể đến các tác giả như: P.W. Schmidt
với “Les peuples Mon - Khmer, trait d’union entre les peuples de l’Asie
Centrale et de l’Austronésie” (“Các dân tộc Môn - Khmer, gạch nối giữa
các dân tộc của châu Á Trung tâm và châu Úc”) [1908]; H. Maitre với
“Các xứ Thượng ở miền Nam Đông Dương, cao nguyên Đắc Lắk” [1912];

H. Maspéro với “Etude sur la phonétique historique de la langue annammite,
Les initiales” (“Nghiên cứu về lịch sử ngữ âm học của ti
ếng Annam, sự khởi
đầu”) [1912]

4
Sau năm 1945, nhiều học giả nước ngoài tiếp tục công bố một số
nghiên cứu về Tây Nguyên rất có giá trị như: P. Guileminet với “Coutumier
de la tribu Bahnar, des Sedang et des Jrai de la province de Kontum” (“Tập
quán của các tộc người Bana, Sêđăng và Giarai ở tỉnh Kontum”) [1952] và
“Les tribus Bahnars au Kontum” (“Các tộc người Bana ở Kontum”) [1952];
P.B. Lafont, Tơ lơi Djuat với “Coutumier de la tribu Jrai” (“Tập quán của
dân tộc Giarai”) [1963]… Những nghiên cứu này đi sâu hơn tìm hiểu từng
mặt phong tục tậ
p quán như luật tục, lễ hội, cách ăn, mặc, ở, sinh hoạt của
một số dân tộc tại chỗ Tây Nguyên.
Sau năm 1975, các nghiên cứu của các học giả nước ngoài về Tây
Nguyên tiếp tục được mở rộng, mà tiêu biểu là các học giả người Mỹ, Nhật,
Hà Lan. Trong đó, đáng chú ý là Gerald Hickey (Mỹ) với một loạt các nghiên
cứu như: “Sons of the Mountains. Ethnohistory of the Vietnamese Central
Higlands to 1954” (“Những đứa con c
ủa núi rừng. Lịch sử tộc người ở Tây
Nguyên Việt Nam cho đến năm 1954”) [1982]; “Free in the Forest.
Ethnohistory of the Vietnamese Central Highland 1954-1976” (“Tự do trong
rừng. Lịch sử tộc người ở Tây Nguyên Việt Nam 1954-1976”) [1982];
“Shatted World. Adaptation and Survival among Vietnam’s Highland Peoples
during the Vietnam War” (“Một thế giới bị chia cắt. Thích ứng và sinh tồn
của các tộc người cao nguyên trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam”) [1993]
Hickey là chuyên gia đã từng nghiên cứu phục vụ cho các chính sách thực dân
của Mỹ ở miền Nam Vi

ệt Nam trước 1975. Chính vì vậy, Ông có điều kiện
hiểu rõ quá trình hoạch định chính sách của Mỹ và chính quyền Sài Gòn đối
với người Thượng ở vùng Tây Nguyên. Loại trừ những quan điểm của một
chuyên gia thực dân, các công trình của Hickey cũng phải thừa nhận rằng,
mặc dù đến thời kỳ Nguyễn Văn Thiệu cầm quyền, chính quyền Sài Gòn có
điều chỉnh chính sách đối với người Thượng, như
ng chính sách của Mặt trận
Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam vẫn có sức lôi kéo mạnh mẽ đồng
bào Tây Nguyên. Sau Hickey phải kể đến Furuta Moto (Nhật Bản) với

5
“Chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam” [1989]; Oscar Salemink
(Hà Lan) với “Beyond Conplicity and Naiveté: Contextualizing the
Ethenography of Vietnam’s Central Highlanders 1850-1990” (Trên cả thói a
tòng và sự ngây thơ: Bối cảnh hoá dân tộc học về người Thượng Việt Nam)
[1994]; Patricia Pelly (Mỹ) với “Barbarian” and “Younger Brother”. The
Remaking of Race in Postcolonial Vietnam (“Các dân tộc lạc hậu” và “Những
người anh em”. Sự tái hình thành chủng tộc ở Việt Nam thời hậu thực dân)
[1998] Các công trình nêu trên chủ yếu nghiên cứu từ góc nhìn Nhân
học/Dân tộc h
ọc, từ đó đề cập đến chính sách của Đảng và Nhà nước Việt
Nam đối với các dân tộc thiểu số nói chung và đối với khu vực Tây Nguyên
sau năm 1975 nói riêng.
Trong những năm gần đây, một số tổ chức phi chính phủ quốc tế trong
khi tham gia các chương trình, dự án phát triển, chống đói nghèo, bảo vệ môi
trường ở miền núi Việt Nam cũng đã tham gia nghiên cứu một số khía cạnh
về kinh tế - văn hoá - xã hội các tộc người thiểu số Việt Nam. Trong đó, đáng
chú là Công ty ADUKI Pty Ltd với “Poverty in Vietnam” (Vấn đề nghèo đói ở
Việt Nam) [1995]; hoặc các báo cáo tư vấn của Ngân hàng thế giới, Ngân
hàng phát triển châu Á, các tổ chức phi chính phủ, như báo cáo của Neil

Jamieson: “b. Rethinking Approaches to Ethenic Minority Development, The
Case of Vietnam” [2000] (Nghĩ lại cách tiếp cận chương trình phát triển dân
tộc thiểu số, Trường hợp Việt Nam); của
John Hlevan: “Phát triển kinh tế-xã
hội trong mối tương quan với văn hoá truyền thống văn hoá miền Trung”
[2001] Những nghiên cứu này đề cập một số khía cạnh phát triển dân tộc và
miền núi từ môi trường - sinh thái, vấn đề đất đai, xoá đói giảm nghèo, phát
triển nguồn nhân lực Điểm đáng ghi nhận trong các báo cáo này là đã chỉ ra
càng phát triển kinh tế thị trường thì các nhóm cư dân yếu thế càng thua thi
ệt,
kể cả thụ hưởng thành quả tăng trưởng kinh tế trên chính quê hương của chính
họ, dù nhà nước đã tìm nhiều biện pháp điều tiết sự phát triển, thực hiện các
đảm bảo xã hội ở vùng dân tộc thiểu số.

6
Tóm lại, các nghiên cứu của một số học giả nước ngoài về vấn đề dân
tộc thiểu số ở Việt Nam nói chung và ở Tây Nguyên nói riêng đã đạt được
nhiều kết quả đáng ghi nhận. Một số công trình có giá trị khoa học, trở thành
tài liệu tham khảo bổ ích, giúp chúng ta thấy rõ hơn cách tiếp cận của họ đối
với chính sách dân tộc của các thể chế chính trị Việt Nam và trong nghiên cứ
u
các dân tộc tại chỗ ở Tây Nguyên. Tuy nhiên, do động cơ nghiên cứu khác
nhau, thậm chí có cả những công trình bị ảnh hưởng bởi các quan điểm thực
dân, trái ngược với đường lối, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta,
cần phải hết sức thận trọng khi tham khảo.
3.2. Những nghiên cứu trong nước
Như chúng ta đã biết, Tây Nguyên là một vùng lãnh thổ đặc thù của
Việt Nam, có tầm quan trọng đặc biệ
t trên nhiều phương diện. Do đó, đây là
khu vực được các nhà nghiên cứu trong nước đặc biệt quan tâm. Có thể tổng

hợp các công trình do các nhà khoa học trong nước nghiên cứu thành 4 nhóm
vấn đề cơ bản sau:
Nhóm thứ nhất: Các công trình nghiên cứu về lịch sử - văn hoá các
dân tộc thiểu số ở Việt Nam, trong đó có văn hoá - xã hội các dân tộc thiểu số
Tây Nguyên.
Trước năm 1945, do hạn chế bởi các điề
u kiện chủ quan, khách quan
khác nhau, các học giả Việt Nam ít có cơ hội tìm hiểu về các dân tộc thiểu số
nói chung và các dân tộc tại chỗ Tây Nguyên nói riêng. Một số công trình lịch
sử chỉ đề cập đến các dân tộc thiểu số Tây Nguyên với những nét sơ giản như
“Việt Nam sử lược” [1921] của Trần Trọng Kim, “Việt Nam văn hoá sử
cương” [1938] của Đào Duy Anh, “Sự
tiến hoá và ý nghĩa xã hội của phong
tục An Nam” [1939] của Nguyễn Văn Huyên và có tính chuyên khảo hơn là
cuốn “Mọi Kon Tum” của Nguyễn Kinh Chi và Nguyễn Đổng Chi.
Sau năm 1945, cùng với sự ra đời và phát triển của nhiều ngành khoa
học với chuyên ngành hẹp, đã thúc đẩy sự hình thành những nghiên cứu
chuyên biệt về dân tộc - miền núi nói chung và Tây Nguyên nói riêng. Tuy

7
vậy, vào thời kỳ 1954-1975, những nghiên cứu về văn hoá - xã hội các dân tộc
thiểu số Tây Nguyên cũng còn rất hạn chế, chủ yếu đề cập một cách sơ giản
trong một số bộ lịch sử của Đào Duy Anh (“Lịch sử Việt Nam” [1950],
“Nguồn gốc dân tộc Việt Nam” [1957], “Đất nước Việt Nam qua các đời”
[1964]) của tập thể các nhà sử họ
c khoa Lịch sử trường Đại học Tổng hợp Hà
Nội (“Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam”), của Uỷ ban khoa học xã hội Việt
Nam (“Lịch sử Việt Nam” [1971]). Ở miền Bắc sau 1954 đã từng bước hình
thành chuyên ngành Dân tộc học với những nghiên cứu bước đầu về lịch sử -
văn hoá các tộc người thiểu số. Song do chiến tranh, đất nước b

ị chia cắt,
không có điều kiện điền dã thực tế phía Nam, các nghiên cứu giai đoạn này
chủ yếu tập trung vào khu vực miền núi phía Bắc. Ở miền Nam, Phan
Khoang với “Việt sử xứ Đàng Trong (1558-1777)” [1957] trong khi trình bày
quá trình Nam tiến của các chúa Nguyễn cũng có chấm phá đôi nét đến địa
bàn Tây Nguyên. Mặc dù có đề cập đến lễ hội, tiếng nói, luật tục, tập quán
của “ng
ười Thượng cao nguyên”, nhưng phần nhiều nghiên cứu của giới khoa
học miền Nam từ 1954-1975 phục vụ cho mục đích “tâm lý chiến” của chính
quyền Sài Gòn, nên còn không ít hạn chế cả về cách tiếp cận khoa học và
quan điểm chính trị.
Sau năm 1975, các học giả Việt Nam mới có điều kiện đi sâu nghiên
cứu khu vực Tây Nguyên, cả những nghiên cứu tổng hợp và các nghiên cứu
chuyên sâu từng khía cạnh v
ăn hoá - xã hội các dân tộc tại chỗ Tây Nguyên:
1) Những nghiên cứu tổng quan về các dân tộc thiểu số ở Việt Nam và
quá trình hình thành cộng đồng quốc gia - dân tộc Việt Nam. Đáng chú ý
trong số này là những công trình như: “Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các
tỉnh phía Nam)” [1984] của tập thể tác giả; “Về khái niệm “dân tộc” của Mác
và Ăngghen và sự hình thành dân tộc Việt Nam” [1980] của Hà Văn Tấn; “Quá
trình hình thành và phát triển của dân tộc Việt Nam” [1982] của Phan Huy Lê;
“Cộng đồng quốc gia dân tộc Việt Nam” [2003] của Đặng Nghiêm Vạn Trong
các công trình này, vùng Tây Nguyên được đề
cập ở những nét chung nhất về

8
quá trình tộc người, nhóm ngôn ngữ, cơ tầng văn hoá Cũng có những
nghiên cứu chuyên sâu về một địa phương hoặc một DTTD ở Tây Nguyên như
Bế Viết Đẳng và Chu Thái Sơn với “Đại cương về các dân tộc Ê đê và
Mnông ở Đắk Lắk” [1982]; Mạc Đường với “Vấn đề dân tộc ở Lâm Đồng”

[1983]; Đặng Nghiêm Vạn vớ
i “Các dân tộc tỉnh Gia Lai-Kon Tum” [1981];
Khổng Diễn với “Các dân tộc vùng Trường Sơn - Tây Nguyên” [1984] Có
thể nói, đây là những nghiên cứu tổng hợp, mang tính khái quát về đặc điểm
văn hoá - xã hội các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, chưa thể đi sâu vào từng
khía cạnh cụ thể của yếu tố văn hoá - xã hội tác động đến sự ổn định và phát
triển trong đời sống đương
đại.
2
) Những nghiên cứu về văn hoá các dân tộc thiểu số Việt Nam nói
chung và văn hoá các dân tộc thiểu số Tây Nguyên nói riêng. Tiêu biểu là
công trình của Ngô Đức Thịnh: “Văn hoá vùng và phân vùng văn hoá Việt
Nam” [1993] đã xác định “không gian văn hoá Tây Nguyên” không đồng nhất
với “không gian lãnh thổ Tây Nguyên”. Phan Hữu Dật cùng các cộng sự
nghiên cứu về “Sắc thái văn hoá địa phương và tộc người trong chiến lược
phát triển đất nước” [1999] đã khu biệt hoá đặc điểm văn hoá các dân tộc
vùng Trường Sơn - Tây Nguyên. Có nghiên c
ứu đi sâu lý giải một khía cạnh
văn hoá - xã hội cổ truyền các dân tộc tại chỗ Tây Nguyên như Ngô Đức
Thịnh: “Luật tục M’nông” [2000]; Lưu Hùng: “Buôn làng cổ truyền xứ
Thượng” [1994]; Chu Thái Sơn: “Vai trò của các tầng lớp người già trong
các xã hội truyền thống ở Trường Sơn - Tây Nguyên” [1997] Đây là những
nghiên cứu bước đầu phân tích cấu trúc tổ chức buôn làng;
vai trò của toà án
phong tục, của luật tục, của già làng ở Tây Nguyên với đặc trưng riêng biệt
không thể lầm lẫn với bất cứ vùng nào. Có những công trình lại tập trung tìm
hiểu sử thi, chữ viết, tiếng nói, sinh hoạt văn hoá các dân tộc (ăn, mặc, ở, đi
lại, lễ hội),
3) Những nghiên cứu về chính sách dân tộc của các thể chế cầm quyền
Việt Nam từ xưa tới nay đối với khu vực Tây Nguyên. Về chính sách sách dân


9
tộc dưới chế độ phong kiến, gắn liền với quá trình hình thành dân tộc và phát
triển của chế độ phong kiến tập quyền Việt Nam, có nghiên cứu của Phan
Hữu Dật và Lâm Bá Nam: “Chính sách dân tộc của các chính quyền nhà
nước phong kiến Việt Nam (X - XIX)” [2001]. Về thời kỳ thực dân cũ và mới,
loại nghiên cứu này tuy không nhiều và thiếu hệ thống, nhưng rải rác trong
một số công trình khác nhau đã cho th
ấy rõ quan điểm, biện pháp của thực
dân Pháp, đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn đối với dân tộc tại chỗ Tây
Nguyên. Về thời kỳ chế độ dân chủ cộng hoà từ 1945 đến nay, gắn liền với
yêu cầu xây dựng, tổ chức lại cuộc sống của đồng bào các dân tộc ở Tây
Nguyên, đã thu hút được đông đảo giới nghiên cứu quan tâm. Đặc biệt, từ sau
1975, trong đi
ều kiện đất nước thống nhất và nhu cầu khai thác, phát triển Tây
Nguyên đặt ra cấp bách, các nghiên cứu về Tây Nguyên rất được quan tâm.
Tiêu biểu là các công trình: “Những vấn đề lý luận và thực cấp bách liên quan
đến mối quan hệ dân tộc hiện nay” [2001] của Phan Hữu Dật; “Vấn đề dân
tộc và chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta” [1995] của nhiều tác giả.
Những công trình này, từ góc nhìn về thể chế, chính sách đã dự
báo một số
nguy cơ bất ổn ở khu vực Tây Nguyên, trong đó nổi lên là vấn đề tôn giáo, đói
nghèo, phai nhạt bản bản sắc văn hoá dân tộc, tật bệnh, quản lý đất đai ;
giúp hình dung rõ cách nhìn lịch đại về chính sách dân tộc đối với Tây
Nguyên; so sánh những khác nhau về bản chất của các thể chế cầm quyền
trong thực hiện chính sách dân tộc.
Nhóm thứ hai
: Các công trình tổng kết tình hình thực hiện chính sách
dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam đối với Tây Nguyên trong những
năm Đổi mới, trong đó các yếu tố văn hoá - xã hội được đặc biệt coi trọng và

giải quyết trong mối quan hệ với các yếu tố kinh tế, chính trị, quốc phòng và
an ninh.
1) Những nghiên cứu đề cập tổng quan về tình hình thực hiện chính
sách dân tộc ở Tây Nguyên, trong đó vấn đề văn hoá - xã hội thường được coi
trọng. Đáng chú ý là các công trình: “Một số vấn đề kinh tế - xã hội Tây

10
Nguyên” [1989] của Uỷ ban khoa học xã hội Việt Nam; “Báo cáo kết quả
thực hiện dự án “Điều tra đánh giá tác động của quá trình phát triển kinh tế -
xã hội đến đời sống của các dân tộc bản địa Tây Nguyên trong những năm đổi
mới” [1998] của Nguyễn Văn Tiêm và cộng sự Ở đây, các yếu tố văn hoá -
xã hội không nghiên cứu riêng biệt, mà được đặt trong mố
i quan hệ tương hỗ
với các yếu tố chính trị và kinh tế. Nhiều nghiên cứu cho thấy, những chuyển
biến to lớn của Tây Nguyên sau một quá trình thực hiện Nghị quyết 22 của Bộ
Chính trị, đặc biệt từ khi có Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây
Nguyên (1998). Bên cạnh đó, các tổng kết nói trên cũng đã chỉ rõ những di
tồn lịch sử, những tác động của điề
u kiện tự nhiên, phong tục tập quán, trình
độ dân trí và trình độ kinh tế trên cơ sở đó có khuyến nghị điều chỉnh
chính sách cho phù hợp, tránh để yếu tố quan phương đối lập với yếu tố phi
quan phương.
2) Những tổng kết bước đầu về đời sống văn hoá và xác định các yêu
cầu bảo tồn, phát huy các giá trị văn hoá truyền thống của đồng bào các dân
tộc Tây Nguyên. Đáng kể là các nghiên cứu: “Giữ gìn và phát huy giá trị văn
hoá Tây Nguyên” [1996] do Học viện Chính trị - Hành chính khu vực III tổ
chức thực hiện; “Xu hướng vận động của nền văn hoá các dân tộc ở khu vực
Tây Nguyên” [1995] của Nguyễn Hồng Sơn; “Văn hoá các dân tộc Tây
Nguyên - Thực trạng và những vấn đề đặt ra” [2004] của Trần Văn Bính
(chủ biên) Qua tổng kết thự

c tiễn, các nghiên cứu này đã so sánh yếu tố
truyền thống với yếu tố biến đổi của đời sống văn hoá - xã hội, từ đó cho thấy
cả khuynh hướng tích cực và tiêu cực tác động trực tiếp đến Tây Nguyên. Có
tác giả đã cắt nghĩa nguyên nhân kinh tế của những biến đổi ấy. Tuy vậy, loại
công trình này thường nghiên cứu trên bình diện chung về đời sống v
ăn hoá ở
Tây Nguyên, chưa có điều kiện sâu giải quyết từng yếu tố văn hoá - xã hội
vốn rất phức tạp. Mặc dù vậy, những nghiên cứu đó đã cung cấp cách nhìn
tổng quan để đi sâu nghiên cứu chuyên biệt từng yếu tố văn hoá - xã hội Tây
Nguyên đã và đang tác động đến sự ổn định và phát triển hiện nay.

11
3) Những nghiên cứu chuyên biệt về tín ngưỡng - tôn giáo ở Tây
Nguyên. Có thể nói, đây là vấn đề dành được mối quan tâm sâu sắc của giới
nghiên cứu, vì nó đe doạ trực tiếp đến yêu cầu bảo vệ văn hoá truyền thống
các dân tộc cũng như củng cố an ninh quốc gia. Đáng chú ý là nghiên cứu:
“Kitô giáo trước buôn làng” [2002] của Đỗ Quang Hưng; “Nhu cầu tín
ngưỡng, tôn giáo và thay đổi niềm tin tôn giáo của đồng bào các dân tộc thiểu
số Tây Nguyên hiện nay” [2003] của
Trương Minh Dục; “Tình hình tôn giáo
trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, Tây Bắc, Tây Nam Bộ”
[2004] của Ban Tôn giáo Chính phủ Những nghiên cứu này bước đầu phân
biệt giữa nhu cầu khách quan về tín ngưỡng tôn giáo của đồng bào với âm
mưu lợi dụng nhu cầu đó để truyền đạo trái pháp luật, gây bất ổn về an ninh
tôn giáo ở Tây Nguyên. Một số tác giả đã cố gắng truy tìm nguyên nhân bên
trong của các hiện trạng
đó (“Nguyên nhân tâm lý - xã hội của sự phục hồi và
phát triển đạo Tin lành tại tỉnh Kon Tum” [2001] của Đỗ Kim Oanh). Tuy
vậy, các nghiên cứu này chưa có điều kiện cắt nghĩa đầy đủ các cơ sở kinh tế,
văn hoá - xã hội làm biến đổi nhu cầu tín ngưỡng tôn giáo và thiếu những giải

pháp đồng bộ để điều chỉnh.
4) Những nghiên cứu các khía cạnh khác nhau của đời sống xã h
ội Tây
Nguyên như phát triển giáo dục, y tế, xoá đói giảm nghèo, lao động việc làm.
Trong đó, đáng chú ý là các nghiên cứu: “Xoá đói, giảm nghèo vùng đồng bào
dân tộc thiểu số ở Kon Tum hiện nay” [2002] của Lê Văn Định và Nguyễn
Thị Hải Yến; “Di dân với quá trình phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ tài
nguyên môi trường ở nước ta hiện nay” [2000] của Trần Văn Chử; “Nâng
cao dân trí, động lực phát triển đời sống các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên”
[2004] củ
a Mai Văn Mô…Bên cạnh khẳng định mặt thành công, các nghiên
cứu này cũng không né tránh mặt chưa thành công trong xây dựng văn hoá - xã
hội ở Tây Nguyên và các thế lực thù địch đang ra sức lợi dụng những khuyết
điểm đó để chống phá, gây bất ổn. Một số bất cập nảy sinh ở Tây Nguyên
cũng đã được chỉ ra là: dân trí thấp, chất lượng nguồn nhân lực không đồng

12
đều, đói nghèo ở vùng sâu, vùng xa; bản sắc văn hoá dân tộc bị xâm hại
nghiêm trọng; di dân diễn biến phức tạp và khó quản lý; chăm sóc sức khoẻ
cho đồng bào chưa xứng tầm; ứng dụng khoa học - công nghệ còn hạn chế
Tuy vậy, phần lớn những nghiên cứu này là các viết trên tạp chí, mới đề cập
một vài khía cạnh nhỏ, chưa có điều kiện đánh giá có hệ thống
đời sống văn
hoá - xã hội ở Tây Nguyên và những tác động của nó đối với sự ổn định và
phát triển hiện nay.
Nhóm thứ ba
: Những công trình nghiên cứu về phát triển kinh tế, xây
dựng hệ thống chính trị, phát huy dân chủ, xây dựng khối đại đoàn kết dân
tộc, tăng cường quốc phòng - an ninh được đặt trong quan hệ với phát triển
văn hoá - xã hội.

1) Trước hết
, vấn đề đất đai ở Tây Nguyên là hướng nghiên cứu giành
được sự quan tâm sâu sắc của nhiều tác giả. Đáng kể như các công trình: “Sở
hữu và sử dụng đất đai ở các tỉnh Tây Nguyên” [2000] của Vũ Đình Lợi, Bùi
Minh Đạo, Vũ Thị Hồng; “Vấn đề đất đai ở các tỉnh Tây Nguyên” [2002] của
Đặng Nghiêm Vạn; “Tái lập quản lý cộng đồng về đất đai ở các buôn làng
Tây Nguyên (trong bối cảnh thự
c hiện Luật đất đai 1993” [2002] của Vương
Xuân Tình Có thể nói, các công trình nghiên cứu kể trên bước đầu đã làm
rõ đặc trưng của chế độ sở hữu và quản lý đất đai ở Tây Nguyên - một xã hội
đang chuyển từ công xã thị tộc sang công xã nông thôn-với việc đề cao vai trò
của buôn làng trong quản lý. Vì vậy, những áp đặt cách quản lý của người
Kinh lên Tây Nguyên như giao rừng, khoán đất sẽ không phù hợp, đ
òi hỏi
phải phát huy vai trò của buôn làng trong quản lý kinh tế, văn hoá, xã hội.
Cũng có những tác giả đã mạnh dạn chỉ ra các dẫn chứng sinh động về sự thất
bại của khoán đất, giao rừng ở Tây Nguyên.
2) Trong thời gian gần dây, các vấn đề xây dựng hệ thống chính trị,
phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số, dân chủ hoá đời sống xã
hội cũng dành được sự quan tâm đặc biệt của giới nghiên cứu. Đáng chú ý là
các nghiên cứu: “Xây dựng hệ thống chính trị cơ sở ở Tây Nguyên đáp ứng

13
yêu cầu cách mạng trong giai đoạn hiện nay” [2002] của Lê Hữu Nghĩa;
“Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên hiện nay - Thực
trạng và giải pháp” [2004] của Dương Thị Hưởng (chủ nhiệm) Loại nghiên
cứu này tuy không đề cập trực tiếp các yếu tố văn hoá - xã hội, song có đặt ra
các mối liên hệ nội tại với sự tuỳ thuộ
c lẫn nhau, làm tiền đề tồn tại cho nhau
giữa chính trị, kinh tế với văn hoá - xã hội. Có nghiên cứu đã cắt nghĩa

nguyên nhân yếu kém của hệ thống chính trị Tây Nguyên thời gian qua là
không nắm vững đặc điểm văn hoá - xã hội của các dân tộc tại chỗ, áp đặt
cách tổ chức xã hội của người Kinh cho các dân tộc tại chỗ Tây Nguyên
Không ít tác giả đã gợi mở một số hướ
ng nghiên cứu về kết hợp chặt chẽ giữa
yếu tố quan phương và phi quan phương, giữa truyền thống và hiện đại trong
xây dựng hệ thống chính trị ở Tây Nguyên, đặc biệt là phát huy vai trò của các
thiết chế xã hội truyền thống, của cách thức quản lý cộng đồng, của luật tục.
3) Những nghiên cứu về đảm bảo an ninh dân tộc, tôn giáo ở Tây
Nguyên, mà ở đó các yếu tố văn hoá - xã hội được đề cập chủ yếu dưới góc độ
là cơ sở đảm bảo sự ổn định và phát triển bền vững. Các nghiên cứu này dạng
này tiếp cận từ khía cạnh chính trị và an ninh như: “An ninh ở vùng dân tộc
thiểu số Tây Nguyên - Thực trạng và giải pháp” [2000] của Tạ Văn Trung;
“Phát triển kinh tế-xã hội gắn v
ới bảo đảm an ninh, quốc phòng trên địa bàn
Tây Nguyên” [2003] của Nguyễn Phúc Thanh; “Hoạt động lợi dụng tôn giáo
của các thế lực thù địch ở Tây Nguyên hiện nay - Thực trạng và giải pháp
phòng ngừa, đấu tranh” [2002] của Trần Xuân Dung Các công trình này ở
chừng mực nhất định đã cho thấy thực trạng bất ổn ở Tây Nguyên trên tất cả
các mặt an ninh chính trị, an ninh tư tưởng - văn hoá, an ninh biên giới - lãnh
thổ, nhất là từ sau vụ bạo loạn chính trị các năm 2001 và 2004; từ đó, khuyến
nghị một số giải pháp an ninh để ổn định tình hình. Tuy vậy, do xuất phát chủ
yếu từ nghiệp vụ an ninh, nên những nghiên cứu trên chưa có điều kiện đi sâu
cắt nghĩa chiều sâu văn hoá - xã hội của “vấn đề dân tộc” ở Tây Nguyên, giải
pháp được khuyến nghị chủ yế
u giải quyết những vấn đề mang tính tình thế.

14
Cả 4 nhóm nghiên cứu nêu trên có ý nghĩa rất quan trọng đối với quá
trình thực hiện đề tài, bao gồm: cung cấp một số tư liệu và cách tiếp cận đối

tượng nghiên cứu. Tuy nhiên, phần lớn các nghiên cứu còn mang tính rời rạc
và chưa có công trình nghiên cứu chuyên biệt, mang tính hệ thống về các yếu
tố văn hoá - xã hội tác động đến sự ổn định và phát triển ở Tây Nguyên.
Đặc
biệt là còn thiếu những nghiên cứu liên ngành để tìm ra luận cứ, giải pháp ổn
định và phát triển Tây Nguyên - một vùng đất tuy đã “yên” nhưng chưa “ổn”
sau các vụ bạo loạn chính trị 2001 và 2004. Giải quyết “khoảng trống” nêu
trên là trách nhiệm đặt ra đối với đề tài khoa học này.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện nghiên cứu đề tài, chúng tôi đã triển khai các
phương pháp chủ yếu sau đây:
-
Phương pháp thống kê, tổng hợp và phân tích tài liệu được sử dụng để
thu thập và đánh giá các nguồn tài liệu liên quan đến đề tài, bao gồm các Văn
kiện của Đảng và Nhà nước ở Trung ương và địa phương, các công trình nghiên
cứu về văn hoá - xã hội ở Tây Nguyên đã được công bố trong và ngoài nước.
- Phương pháp điền dã dân tộc học được chúng tôi coi trọng trong
quá trình nghiên cứu trên thực địa, bao gồm các thao tác cơ b
ản như: quan sát
tham dự, quan sát trực tiếp, phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm.
+ Quan sát tham dự là sự tiếp cận người dân theo nguyên tắc: cùng ăn,
cùng ở và cùng làm. Với cách tiếp cận này, chúng tôi có thể vừa quan sát, vừa
tham gia vào nhiều hoạt động sinh hoạt hàng ngày của người dân; từ đó, có
thể tạo mối quan hệ thân thiện, hiểu biết về họ và cuộc sống của họ, khiến họ
cảm thấ
y thoải mái hơn với sự hiện diện của chúng tôi trong gia đình/cộng
đồng của họ. Cũng chính nhờ vậy, chúng tôi có thể thu thập các thông tin về
cuộc sống của họ, trong đó có các thông tin về văn hóa - xã hội và những vấn
đề nhạy cảm có liên quan.
+ Trong quá trình điền dã, chúng tôi cũng đã sử dụng phương pháp

quan sát trực tiếp để đánh giá sơ bộ các điều kiện tự nhiên, nơ
i cư trú, hệ

15
thống canh tác nông nghiệp, hoạt động sản xuất và các khía cạnh khác trong
đời sống kinh tế, văn hóa - xã hội của các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, đặc
biệt là các dân tộc tại chỗ - đối tượng nghiên cứu chính của đề tài.
+ Để tiến hành phỏng vấn sâu, chúng tôi đã lựa chọn các thông tín
viên chủ chốt gồm chính những người dân tộc tại chỗ, những người tham gia
công tác đảng và công tác chính quyền các cấp (tỉnh, huy
ện, xã, buôn làng);
những người thực thi chính sách văn hóa và các già làng, trưởng buôn làng,
người có uy tín trong cộng đồng. Nội dung phỏng vấn được chuẩn bị trước với
những câu hỏi được xây dựng theo nguyên tắc gợi ý để người trả lời có nhiều
lựa chọn khi đưa ra quan điểm, ý kiến của mình về sự tác động của các yếu tố
văn hóa - xã hội đến sự ổn định và phát triển
ở địa phương. Những vấn đề
chính trong bảng phỏng vấn sâu đề cập tới là những vấn đề mà bảng hỏi định
lượng không thể giải quyết được một cách triệt để hoặc sâu sắc.
+ Các cuộc thảo luận nhóm cũng được tiến hành tại địa bàn nghiên
cứu (dành cho đối tượng cung cấp thông tin là người dân) hay tại Uỷ ban nhân
dân các cấp tỉnh, huyện, xã (dành cho đối tượng cung c
ấp thông tin là cán bộ
địa phương). Đối với nhóm người dân, chúng tôi chia thành từng nhóm riêng,
căn cứ vào giới tính (nam/nữ), lứa tuổi (người già/trung niên/thanh niên) và
nghề nghiệp (thuần nông, trưởng các thôn buôn, già làng …) của các nhóm
đối tượng. Mỗi nhóm người dân thường gồm 7 - 9 người. Đối với nhóm cán
bộ địa phương, chúng tôi cũng tổ chức thành các nhóm để thảo luận. Mỗi
nhóm gồm 5 - 7 cán bộ đang công tác tại các phòng chức năng. Hướng thảo
luận t

ập trung vào các vấn đề về tình hình đời sống kinh tế, văn hóa, giáo
dục; mong muốn và kiến nghị của địa phương về bảo tồn văn hóa các tộc
người, những giải pháp mà chính quyền địa phương các cấp đã và sẽ thực
hiện nhằm hạn chế những tác động của các yếu tố văn hóa - xã hội đến sự ổn
định và phát triển…
- Phương pháp đi
ều tra xã hội học được thực hiện thông qua bảng
hỏi chuẩn bị sẵn. Nguyên tắc chọn mẫu: theo phương pháp ngẫu nhiên. Trong

16
cơ cấu mẫu có chú ý tới các nhóm đối tượng khảo sát: nhóm người dân tộc tại
chỗ và nhóm người dân tộc mới đến. Phương pháp trưng cầu ý kiến: dùng
Bảng hỏi trực tiếp với những người được trưng cầu ý kiến, theo nguyên tắc số
phiếu phát ra phải lớn hơn số phiếu dự kiến thu về ít nhất là 10%. Kỹ thuật
phân tích và xử lý số liệu: Các số li
ệu định lượng được xử lý bằng những công
cụ phần mềm hỗ trợ như: SPSS for Windows 15.0; Eview; DTM.
- Phương pháp chuyên gia được thực hiện qua các cuộc trao đổi trực
tiếp với các chuyên gia có nhiều trải nghiệm khi nghiên cứu về văn hóa - xã hội
Tây Nguyên, cũng như những đánh giá của họ về tác động của các yếu tố văn
hoá - xã hội ở Tây Nguyên đến sự ổn định và phát tri
ển. Phương pháp này cũng
nhằm thu thập ý kiến của lãnh đạo chính quyền các cấp, các ban, ngành trong
việc thực thi chính sách từ trung ương xuống địa phương, làm cơ sở đối sánh
với những phát hiện thu được trong quá trình khảo sát.
5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
5.1. Về nội dung
Nội dung nghiên cứu của đề tài là những yếu tố văn hóa - xã hội tác
động đến sự ổn định và phát triển của Tây Nguyên. Tuy nhiên, đề
tài chỉ lựa

chọn những yếu tố cơ bản nhất phản ánh đặc trưng của Tây Nguyên đã, đang
và sẽ tác động đến ổn định và phát triển để khảo sát, nghiên cứu. Đó là các
yếu tố: (i) Thiết chế xã hội truyền thống; (ii) Vấn đề sở hữu đất đai; (iii) Di cư
và di cư tự do; (iv) Hệ thống tri thức địa phương; (v) Tín ngưỡng và tôn giáo;
(vi) Quan hệ
tộc người. Mỗi yếu tố như thế đều được nhận diện cả chiều cạnh
truyền thống và chiều cạnh biến đổi, những tương tác của chúng đối với ổn
định và phát triển ở Tây Nguyên.
5.2. Về thời gian
Đề tài nghiên cứu sự vận động và biến đổi của các yếu tố văn hoá - xã
hội ở Tây Nguyên từ khi thực hiện Đổi m
ới (1986) đến nay tác động đến sự
ổn định và phát triển. Lẽ dĩ nhiên, các yếu tố văn hóa - xã hội truyền thống
luôn được đề cập, phân tích để đối sánh.

17
5.3. Về không gian
Địa bàn Tây Nguyên được quan niệm theo “vùng văn hoá” rộng hơn rất
nhiều so với quan niệm về “vùng lãnh thổ thể chế”. Tuy nhiên, khu vực Tây
Nguyên trong nghiên cứu này được giới hạn theo đơn vị hành chính gồm 5
tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng.
6. Kết cấu của báo cáo tổng hợp
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Báo cáo tổng hợp
của đề tài gồm 4 chương:
Ch
ương 1: Những vấn đề lý luận, phương pháp luận nghiên cứu các
yếu tố văn hóa - xã hội ở Tây Nguyên tác động đến sự ổn định và phát triển.
Chương 2: Tổng quan về vùng thể chế Tây Nguyên và cấu trúc của các
yếu tố văn hóa - xã hội ở Tây Nguyên tác động đến sự ổn định và phát triển.
Chương 3: Những yếu tố văn hóa - xã hội chủ yếu tác động đến s

ự ổn
định và phát triển ở Tây Nguyên.
Chương 4: Xu hướng, quan điểm và giải pháp phát triển văn hóa - xã hội
Tây Nguyên vì sự ổn định và phát triển bền vững.

18

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, PHƯƠNG PHÁP LUẬN NGHIÊN CỨU
CÁC YẾU TỐ VĂN HÓA - XÃ HỘI Ở TÂY NGUYÊN
TÁC ĐỘNG ĐẾN ỔN ĐỊNH VÀ PHÁT TRIỂN

1.1. Một số khái niệm liên quan
1.1.1. “Dân tộc” và “tộc người”
Trong nhiều công trình nghiên cứu, cũng như trên các phương tiện
truyền thông của Việt Nam hiện nay, việc hiểu và sử dụng khái niệm dân tộc
chưa có sự thống nhất. Sự
thiếu chuẩn xác trong sử dụng thuật ngữ “dân tộc”
ở Việt Nam là xuất phát từ việc tiếp cận khái niệm này theo nhiều cách hiểu
khác nhau:
- Khái niệm dân tộc được hiểu là một cộng đồng cư dân sống trên một
lãnh thổ quốc gia xác định dưới sự điều hành của một nhà nước trung ương
thống nhất. Nếu theo quan điểm này thì các cư dân cùng sinh sống trên một
lãnh thổ
có thể khác nhau về ngôn ngữ, văn hóa, phong tục tập quán, thậm chí
là cả về nguồn gốc chủng tộc nhưng cùng có chung một nhiệm vụ chính trị
(xây dựng và bảo vệ nhà nước) thì đều thuộc về một cộng đồng - quốc gia,
nghĩa là họ đều thuộc về một quốc tịch. Kiểu cộng đồng này rất phổ biến ở
nhiều nước của các châu lục trên th
ế dưới mà điển hình là các quốc gia châu

Á, châu Phi; ở châu Á thì đó là trường hợp của Trung Quốc, Việt Nam, Lào,
Thái Lan, Myanmar…
- Khái niệm dân tộc được dùng để chỉ các tộc người (ethnics). Ở Việt
Nam, thuật ngữ các dân tộc thường được hiểu theo tinh thần này, thể hiện qua
Bảng danh mục các thành phần dân tộc Việt Nam được Nhà nước công bố vào
năm 1979. Theo Bảng danh mục các thành phần dân tộc Việt Nam, thì ở n
ước
ta có 54 tộc người (được nhận biết chính thức), được xác định dựa vào 3 tiêu
chí cơ bản đó là: có ngôn ngữ chung; có các đặc trưng chung về sinh hoạt-văn

19
hóa; và có ý thức tự giác tộc người, trong đó ý thức tự giác tộc người được coi
là quan trọng nhất.
- Khái niệm dân tộc còn được dùng với nghĩa chỉ những người không
phải người Kinh, không thuộc thành phần đa số mà họ là thiểu số. Khái niệm
này còn được dùng để đặt tên cho các cơ quan nhà nước có liên quan đến cộng
đồng thiểu số như Hội đồng dân tộc của Qu
ốc hội, Ủy ban dân tộc của Chính
phủ, Ban dân tộc các tỉnh. Đấy là chưa nói đến việc sử dụng khái niệm dân tộc
như là một danh từ riêng (người dân tộc - chỉ một người hay t nhóm người
thiểu số cụ thể nào đó), hay là một thuật ngữ mang tính miệt thị (ngơ ngác như
mấy anh dân tộc thiểu số)… Khái niệm dân tộc được sử dụ
ng trong trường
hợp này là rất không chính xác và vô hình chung đã không thừa nhận cộng
đồng đa số (người Kinh) thuộc phạm trù dân tộc.
Trong nhiều trường hợp khái niệm dân tộc ít người được dùng với ý
nghĩa chỉ các tộc người thiểu số không phải là người Kinh. Cụm từ “ít người”
được coi là một từ thuần Việt, có nội hàm rõ ràng. Do đó, trước đây nó được
dùng rất phổ thông mà đi
ển hình là ở hai công trình nghiên cứu: Các dân tộc ít

người ở Việt Nam (Các tỉnh phía Bắc) [Hà Nội 1978] và Các dân tộc ít người
ở Việt Nam (Các tỉnh phía Nam) [Hà Nội 1984]. Tuy nhiên, nhiều người vẫn
sử dụng khái niệm dân tộc thiểu số để biểu đạt cộng đồng cư dân trên (như
cuốn Các dân tộc thiểu số Việt Nam). Vấn đề đặt ra ở đây là nên dùng khái
niệm các dân tộc thiểu s
ố hay các dân tộc ít người? Thực ra, khái niệm thiểu
số (đối nghĩa với đa số) thường được dùng cho các phạm trù thiên về định
lượng. Do đó, xét dưới góc độ khoa học thì dùng thuật ngữ các dân tộc thiểu
số đảm bảo độ chuẩn xác cao hơn.
Tóm lại, xuất phát từ những cách hiểu khác nhau dẫn đến sự thiếu
chuẩn xác và không thống nhất trong việc sử dụng khái niệm dân t
ộc. Do đó,
cần phải có sự thống nhất cách gọi các cộng đồng này sao cho vừa đảm bảo
tính chính xác, khoa học mà vẫn phù hợp với thói quen đã được xác lập. Theo
tinh thần đó, chúng tôi cho rằng, dân tộc (nation) và tộc người (ethnic) là

20
những khái niệm có mối liên hệ rất mật thiết với nhau, tuy thống nhất mà
không đồng nhất, giữa chúng có những điểm khác biệt thể hiện qua định nghĩa
về dân tộc và tộc người như sau:
Dân tộc hay quốc gia - dân tộc (nation) là một cộng đồng chính trị-xã
hội, được thiết lập trên một lãnh thổ nhất định, được chỉ đạo bởi một nhà
n
ước, cùng có chung một vận mệnh lịch sử, dùng chung một tiếng nói/ngôn
ngữ hành chính (trừ trường hợp cá biệt), có chung một sinh hoạt kinh tế hay
một thị trường và có chung một tính cách dân tộc thể hiện trong lối sống và
những biểu tượng văn hóa chung, tạo nên một tính cách dân tộc.
Tộc người (ethnic) hay dân tộc - theo thuật ngữ thường dùng - là một
cộng đồng người được hình thành trong lịch sử trên một lãnh thổ nhấ
t định,

cùng có chung những đặc điểm tương đối bền vững về ngôn ngữ, văn hóa tạo
thành một tính cách tộc người và đặc biệt là cùng có chung một ý thức tự giác
tộc người. Một tộc người có thể bao gồm nhiều nhóm địa phương nhưng
không nhất thiết phải có cùng một lãnh thổ, một cộng đồng sinh hoạt kinh tế;
vì vậy, một tộc người có thể ở
nhiều quốc gia khác nhau. Nhóm địa phương
(groupe local) là một bộ phận của một tộc người nhất định, cố kết với nhau
thành một nhóm riêng, có một tên gọi riêng.
1.1.2. “Yếu tố văn hoá - xã hội”
1.1.2.1. “Yếu tố” là thành phần, bộ phận cấu thành của một sự vật, hiện
tượng nào đó của đời sống tự nhiên hoặc xã hội. Trong nghiên cứu khoa họ
c
thường có hai cách tiếp cận bản chất sự vật, hiện tượng - tiếp cận “chủ toàn”
và “chủ biệt”. Nếu chủ toàn xem xét cái tổng thể thì chủ biệt lại xem xét cái
chiều cạnh - cụ thể. Đây là những cách thao tác tư duy rất có ý nghĩa về mặt
tri thức luận, vừa cho phép khám phá đời sống hiện thực ở các yếu tố đơn lẻ;
vừa hình dung
được tổng thể các yếu tố trong chỉnh hợp. Làm rõ các “yếu tố”
với ý nghĩa khám phá các lát cắt - chiều cạnh đã thúc đẩy không chỉ khám phá
ngoại giới, mà kể cả tìm hiểu sinh giới và đời sống xã hội con người. Nhưng
dù một tỷ “yếu tố” vẫn chỉ là “yếu tố”, chưa phải là toàn thể. Vì vậy, bên cạnh

21
nghiên cứu các yếu tố thì người ta cũng coi trọng xem xét các sự vật trong
chỉnh hợp mà "yếu tố" này thường dung nạp thuộc tính của "yếu tố" khác,
không chỉ cái riêng trong cái chung mà cái chung cũng nằm trong cái riêng.
Điều này rất có ý nghĩa về mặt phương pháp luận khi nghiên cứu Tây Nguyên,
bởi Tây Nguyên là một cấu trúc phức hợp giữa hiện thực và hư ảo, tự nhiên và
xã hội, cá nhân và cộng đồng… Vì vậy, nghiên cứu các yếu tố
văn hóa - xã

hội Tây Nguyên với tư cách là một bộ phận cấu thành chỉnh hợp đời sống các
tộc người tại chỗ Tây Nguyên cần phải giới hạn ở những yếu tố cơ bản nhất
đã, đang và sẽ có tác động tới tính ổn định hoặc biến đổi căn tính tộc người.
1.1.2.2. “Văn hóa” ở đây cần được hiểu theo cả
nghĩa rộng và nghĩa
hẹp. Theo nghĩa hẹp, văn hóa được hiểu như một lĩnh vực của hoạt động và
sinh hoạt xã hội, bao gồm các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thông tin đại
chúng (phát thanh, truyền hình, báo chí, bảo tồn và bảo tàng…). Theo nghĩa
rộng, văn hóa là tất cả những gì không phải tự nhiên, nghĩa là tất cả những gì
con người tạo ra, ở trong con người và liên quan trự
c tiếp nhất đến con người.
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích
của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết,
đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ
cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ
những sáng tạo và phát minh đó t
ức là văn hóa”
(1)
. Như vậy, theo Hồ Chí
Minh văn hóa gồm tất cả những gì con người sáng tạo ra nhằm duy trì cuộc
sống con người và xã hội. Trong “Tuyên bố toàn cầu về đa dạng văn hóa”
năm 2001, UNESCO đã định nghĩa: văn hóa được hiểu là một tập hợp các
đặc điểm nổi bật về mặt tinh thần, vật chất, tri thức và tình cảm của xã hội
hay một nhóm xã hộ
i, ngoài văn chương và nghệ thuật thì văn hóa còn bao
gồm lối sống, cách thức cùng chung sống, các hệ thống giá trị truyền thống và
tín ngưỡng.

1. Hồ Chí Minh (1995), “Mục đọc sách” Hồ Chí Minh Toàn tập tập 3, xuất bản lần thứ 2, Nxb
CTQG, Hà Nội, tr 431.


22
Theo Luật Di sản văn hóa (công bố theo Lệnh số 09/2001/L-CTN, của
Chủ tịch nước ngày 12/7/2001), tại Điều 4, thì các di sản văn hóa được phân
chia thành hai nhóm: vật thể và phi vật thể. Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm
vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, bao gồm di tích lịch sử-văn hóa,
danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia. Di sả
n văn hóa phi vật
thể là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu giữ
bằng trí nhớ, được lưu truyền bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và
các hình thức lưu giữ, lưu truyền khác, bao gồm tiếng nói, chữ viết, tác phẩm
văn học, nghệ thuật, khoa học, ngữ văn truyền miệng, diễn xướng dân gian,
lối số
ng, nếp sống, lễ hội, bí quyết nghề thủ công truyền thống, tri thức bản
địa về y học, dược học cổ truyền, về văn hóa ẩm thực, về trang phục truyền
thống dân tộc và những tri thức dân gian khác.
Theo nội hàm mà các định nghĩa vừa nêu ở trên, có thể nhận thấy, tuy
có nhiều cách quan niệm, định nghĩa về văn hóa, song về cơ bản đều thống
nh
ất coi văn hóa là những gì mà con người hiểu, tích lũy và sáng tạo để hình
thành nên các giá trị, chuẩn mực xã hội trong quá trình lao động, hoạt động
thực tiễn. Các giá trị và chuẩn mực đó tác động, chi phối, điều chỉnh đời sống
tâm lý, hành vi, đạo đức và các hoạt động trên mọi lĩnh vực có sự hiện diện
của con người.
Trong thực tế, tùy theo chuyên ngành và ở từng quốc gia mà văn hóa có
thể đượ
c chia thành các nhóm khác nhau. Trong ngành Dân tộc học/Nhân học,
các nhà nghiên cứu thường chia văn hóa các dân tộc thành: văn hóa vật chất,
văn hóa xã hội và văn hóa tinh thần.
Văn hóa vật chất (bao gồm văn hóa sản xuất) hay còn gọi là văn hóa

đảm bảo đời sống, thể hiện mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên, cách
thích ứng với điều kiện tự nhiên để tiến hành sản xuất ra của c
ải nuôi sống con
người, thõa mãn nhu cầu của con người trong môi trường tự nhiên và xã hội
nhất định. Trước hết, đó là những phương tiện kỹ thuật sản xuất, những sản
phẩm thiết yếu cho cuộc sống như ăn, ở, mặc, phương tiện đi lại… Quá trình

23
cải tạo tự nhiên ở những môi trường khác nhau đã tạo ra các nền văn hóa khác
nhau. Những hoạt động và sáng tạo của con người trong môi trường tự nhiên
được vật chất hóa thành những sản phẩm để thỏa mãn nhu cầu (ăn, mặc, ở, đi
lại…) của con người, đồng thời sẽ tạo ra sắc thái văn hóa vùng, miền, khu
vực. Những hoạt động sáng tạo của con người đượ
c dấu hiệu hóa bởi một số
sự nhân hóa tự nhiên, tự nhiên theo hình ảnh khác nhau của con người mà tạo
ra vật phẩm, các biểu tượng văn hóa. Do đó, khi khảo cứu văn hóa một dân
tộc, một tộc người trước hết cần phải xem xét điều kiện tự nhiên cũng như xã
hội của dân tộc đó.
Văn hóa xã hội thể hiện mối quan hệ giữa con ng
ười với con người trong
xã hội (vì suy cho cùng “con người là một tổng hòa các mối quan hệ xã hội”,
cũng như quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng ở một thời điểm nhất định.
Trước hết là gia đình, làng bản, đất nước. Trong quá trình hoạt động, con
người luôn hướng tới việc tạo ra những giá trị văn hóa - xã hội . Đó là những
chuẩn mực và trong thời điểm l
ịch sử nhất định con người tạo ra các khuôn
mẫu ứng xử. Chính chuẩn mực ứng xử đó đã điều chỉnh những giá trị được
cộng đồng noi theo (thành tập quán) và được kết tinh lại thành truyền thống
mang đặc trưng của cộng đồng người sáng tạo ra văn hóa. Sản phẩm được vật
thể hóa chính là luật tục thành văn và không thành văn, lối sống cá nhân và xã

h
ội, mối quan hệ gia đình, cộng đồng…
Văn hóa tinh thần bao gồm mối quan hệ thẩm mỹ của con người với
thực tại (thiên nhiên, con người, cảnh vật) và quan hệ giữa con người của cõi
sống và cõi chết Những hoạt động sáng tạo thể hiện mối quan hệ đó là tôn
giáo, tín ngưỡng, tâm linh, cái thiêng, nghệ thuật, nghi lễ, lễ hội…
Ở đây, cũng cần phải lưu ý r
ằng, văn hóa là một dòng chảy liên tục, có
biến đổi theo thời gian. Vì vậy, việc phân chia văn hóa theo lát cát ngang chỉ
có tính tương đối và mang tính thao tác trong nghiên cứu khoa học nhằm để
trình bày, miêu tả đối tượng một cách đầy đủ và chính xác, nhất là khi khảo
cứu về văn hóa dân tộc - tộc người. Trong thực tế, như chúng ta đều biết,

×