Tải bản đầy đủ (.pdf) (176 trang)

Pháp luật về quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 176 trang )


1

Bộ Giáo dục và Đào tạo bộ t pháp
trờng đại học luật hà nội





đỗ thị kim tiên





Pháp luật về quyền bình đẳng
giữa các doanh nghiệp ở Việt Nam








luận án tiến sĩ luật học









Hà nội - 2014



2

Bộ Giáo dục và Đào tạo bộ t pháp
trờng đại học luật hà nội




đỗ thị kim tiên



Pháp luật về quyền bình đẳng
giữa các doanh nghiệp ở Việt Nam

Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 62 38 01 07


luận án tiến sĩ luật học





Ngời hớng dẫn khoa học: PGS.TS Dơng Đăng Huệ





Hà nội - 2014


3





Lời cam đoan


Tôi xin cam đoan đây là công trình
nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu trong
luận án là trung thực. Những kết luận khoa
học của luận án cha từng đợc ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả luận án


Đỗ Thị Kim Tiên








4

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU
1
Chương 1:
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
9
1.1. Tình hình nghiên cứu lý luận về bình đẳng, quyền bình đẳng giữa các
doanh nghiệp và pháp luật về quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp
9
1.2. Tình hình nghiên cứu thực trạng pháp luật và thực thi pháp luật về
quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp
13
1.3. Các công trình nghiên cứu đề cập giải pháp bảo đảm quyền bình đẳng
giữa các doanh nghiệp
23
1.4. Đánh giá chung tình hình nghiên cứu các công trình liên quan đến
luận án
28

Chương 2:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN BÌNH ĐẲNG GIỮA
CÁC DOANH NGHIỆP

32
2.1. Quan niệm về bình đẳng giữa các doanh nghiệp 32
2.2. Quan niệm về quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp 45
2.3. Ý nghĩa của việc thực hiện quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp 53
2.4. Vai trò của pháp luật về quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp 57
2.5. Những yếu tố chi phối hệ thống pháp luật và quá trình thực thi pháp
luật về quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp
64
Chương 3:
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC THI PHÁP LUẬT
VỀ QUYỀN BÌNH ĐẲNG GIỮA CÁC DOANH NGHIỆP

74
3.1. Thực trạng pháp luật về quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp 74
3.2. Thực trạng thực thi pháp luật về quyền bình đẳng giữa các doanh
nghiệp ở Việt Nam
106
3.3. Nguyên nhân gây bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp ở Việt Nam 116

5

3.4. Hệ quả của bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp 123
Chương 4:
CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN
BÌNH ĐẲNG GIỮA CÁC DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM


128
4.1. Hoàn thiện nội dung quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp 129
4.2. Hoàn thiện các quy định pháp luật về thiết chế bảo đảm quyền bình
đẳng giữa các doanh nghiệp
149

KẾT LUẬN
159

CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI LUẬN ÁN
162

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
163


6



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BĐGCDN : Bình đẳng giữa các doanh nghiệp

CBXH : Công bằng xã hội
DNNN : Doanh nghiệp nhà nước
DNTN : Doanh nghiệp tư nhân
ĐKDN : Đăng ký doanh nghiệp
ĐKKD : Đăng ký kinh doanh

KTTT : Kinh tế thị trường
TNHH : Trách nhiệm hữu hạn
XHCN : Xã hội chủ nghĩa

7




DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang
3.1 Báo cáo các vụ vi phạm theo Điều 159 - chương xâm phạm
trật tự quản lý kinh tế
108
3.2 Báo cáo các vụ vi phạm theo Điều 279, 289 về tội đưa, nhận
hối lộ
109




DANH MỤC CÁC HÌNH

Số hiệu
hình
Tên hình Trang
2.1 Mô phỏng các mối quan hệ tạo ra bình đẳng hoặc bất

BĐGCDN
39





8

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài nghiên cứu
Doanh nghiệp là một trong những yếu tố cấu thành của mọi hệ thống kinh
tế. Trong nền kinh tế quốc dân, doanh nghiệp là chủ thể cơ bản của thị trường, có vị
trí, vai trò đặc biệt quan trọng. Doanh nghiệp đóng góp chủ yếu cho ngân sách nhà
nước, bổ sung nguồn dự trữ quốc gia và khai thác nâng cao giá trị của tài nguyên thiên
nhiên. Ở Việt Nam, khi thừa nhận phát triển kinh tế nhiều thành phần, doanh nghiệp
chính là hoạt động sống của các thành phần kinh tế, tạo ra tăng trưởng. Với hoạt
động sản xuất, kinh doanh đa dạng, doanh nghiệp có mặt trong nhiều ngành, nghề,
lĩnh vực và tác động đến sự hình thành các loại thị trường. Vì lẽ đó, một quốc gia
chỉ có thể kiểm soát được nền kinh tế bắt đầu từ hệ thống doanh nghiệp.
Để phát triển kinh tế, hầu hết các quốc gia trên thế giới đã lựa chọn mô hình
kinh tế thị trường (KTTT), nhằm sử dụng sức mạnh của quy luật cạnh tranh làm
động lực phát triển. Cơ sở để quy luật cạnh tranh được vận hành là quyền tự do kinh
doanh và quyền BĐGCDN được bảo đảm. Chỉ trong điều kiện kinh doanh bình
đẳng, doanh nghiệp mới có cơ hội kinh doanh bằng chính thực lực của mình và
cạnh tranh được vận hành đúng với bản chất của nó. Từ đây, những doanh nghiệp
yếu kém được loại bỏ, lành mạnh hóa nền kinh tế, thúc đẩy kinh tế phát triển. Vì
thế, đảm bảo môi trường kinh doanh BĐGCDN vừa là nguyên tắc, vừa là giá trị phổ
biến của KTTT. Việc nhà nước thực hiện chính sách ưu tiên, bảo trợ về vốn, đất đai,

tài nguyên cho doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và sử dụng DNNN làm công cụ
điều tiết nền kinh tế trong nhiều năm qua là mâu thuẫn với nguyên tắc bình đẳng, đi
ngược KTTT. Đồng thời, tính không hiệu quả của DNNN cũng chưa giải thích được
tác dụng thực tế của những chính sách ưu tiên đó. Vấn đề vướng mắc hiện nay cả về
lý luận và thực tiễn trong phát triển KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở
Việt Nam là làm thế nào để kinh tế nhà nước nắm vai trò chủ đạo nhưng vẫn bảo
đảm sự bình đẳng giữa DNNN với các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác.
Ngày 7/11/2006, cùng với việc ký kết gia nhập Tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO), Việt Nam đồng thời phải ký vào bản cam kết chấp nhận bị coi là nền

9

kinh tế phi thị trường (non - market economy, hay NME) trong 12 năm, kể từ ngày
gia nhập. Trong các quy định của GATT và WTO không có quy định về tiêu chí
NME hay KTTT. Tuy nhiên, các quy định này được xây dựng dựa trên những
nguyên tắc của thị trường. Hệ thống nguyên tắc này đòi hỏi các nước gia nhập
WTO phải cam kết cải cách kinh tế theo hướng thị trường, tuân thủ yêu cầu về
thương mại không phân biệt đối xử, đảm bảo quyền BĐGCDN. Do đó, để trở thành
nền KTTT không muộn hơn năm 2019, đáp ứng yêu cầu hội nhập, Việt Nam cần
phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế và hoàn thiện thể chế kinh tế theo hướng tuân thủ
các quy luật thị trường, đảm bảo môi trường đầu tư, kinh doanh bình đẳng cho
doanh nghiệp. Cùng với điều này, trong các đàm phán Hiệp định đối tác kinh tế
chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) cũng coi quyền BĐGCDN là vấn đề cần
được bảo đảm.
Trong thực tế, quan điểm về bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, giữa
các doanh nghiệp đã được Đảng và Nhà nước quan tâm từ Đại hội Đảng lần thứ VI
(1986), được triển khai trong Hiến pháp 1992 và trong các đạo luật. Chính phủ cũng
đã phê duyệt Đề án 1715/2009/QĐ-TTg ngày 26/10/2009 nhằm đổi mới quản lý nhà
nước đối với các doanh nghiệp theo hướng không phân biệt hình thức sở hữu. Tuy
nhiên, đi ngược với mục tiêu của nhà nước, trên thực tế, bất BĐGCDN không giảm

mà đang có xu hướng gia tăng, với tính chất ngày càng đa dạng và phức tạp. Vẫn
tồn tại nhiều sự phân biệt, đối xử doanh nghiệp ngay từ khi gia nhập thị trường,
trong quá trình kinh doanh và trong giải thể, phá sản doanh nghiệp. Các DNNN
kinh doanh độc quyền trong nhiều lĩnh vực, vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc thị
trường. Một số tập đoàn kinh tế nhà nước được ưu tiên, bảo lãnh, khoanh nợ, giãn
nợ, xóa nợ. Có những DNNN kinh doanh thua lỗ được sáp nhập vào tổng công ty
nhà nước, giao trách nhiệm cứu vớt cho các thành viên khác mà không bị phá sản.
Việc tiếp cận các dịch vụ công, nguồn vốn ưu đãi của Chính phủ, tiếp cận nguồn tài
nguyên, đất đai của DNNN có nhiều thuận lợi, trong khi các doanh nghiệp thuộc
kinh tế tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) còn tiếp tục gặp phải
những rào cản về điều kiện kinh doanh, vay vốn, thuê đất, Không chỉ tồn tại
những bất bình đẳng do chính sách của nhà nước tạo ra, thực trạng các doanh
nghiệp cạnh tranh không lành mạnh, kinh doanh hàng giả, hàng nhái, hàng lậu, trốn

10

thuế đang ngày càng gia tăng, vượt khỏi tầm kiểm soát của nhà nước cũng tạo ra bất
bình đẳng, gây thiệt hại cho các doanh nghiệp kinh doanh chân chính.
Theo nghĩa khách quan, doanh nghiệp nào quản lý kinh doanh yếu kém,
không cạnh tranh được tất yếu bị thanh lọc khỏi thị trường do chính sự vận động
của quy luật cạnh tranh. Tuy nhiên, thực tế có những doanh nghiệp quản lý kinh
doanh tốt, tôn trọng pháp luật chưa hẳn đã chiến thắng trên thương trường. Trong
khi đó, doanh nghiệp quản trị yếu kém, thậm chí thua lỗ, vi phạm pháp luật nghiêm
trọng vẫn có thể không bị giải thể hay phá sản. Lợi nhuận của doanh nghiệp vẫn có
thể đạt được bằng những ưu tiên của nhà nước, bằng trốn thuế, kinh doanh trái
phép. Trong môi trường kinh doanh đòi hỏi nhiều chi phí bất hợp pháp, tham
nhũng, hối lộ để nhận được ưu tiên, hoặc làm hàng giả, cạnh tranh không lành mạnh
nhằm tối đa hóa lợi nhuận mà không bị xử lý đều là những hành vi gây ra bất bình
đẳng giữa các doanh nghiệp. Với môi trường kinh doanh bất bình đẳng, lợi nhuận
không phản ánh được giá trị đích thực của hoạt động sản xuất kinh doanh. Điều đó

làm nản lòng các nhà đầu tư, giảm động lực kinh doanh của doanh nghiệp và suy
giảm tăng trưởng kinh tế. Sự nỗ lực của nhà nước Việt Nam trong những năm qua
mới chỉ tập trung vào việc làm giảm bớt những ưu tiên, đặc quyền đối với DNNN
mà chưa có giải pháp tổng thể, do đó chưa đem lại hiệu quả thực tế.
Trước những đòi hỏi từ nội tại nền kinh tế và yêu cầu của những cam kết
quốc tế, việc nghiên cứu các quy định pháp luật, đánh giá quá trình thực thi nhằm
xác định đúng nguyên nhân và đưa ra giải pháp phù hợp, đảm bảo quyền BĐGCDN
là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Chính vì lẽ đó, tác giả luận án đã chọn
vấn đề "Pháp luật về quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp ở Việt Nam" làm đề
tài nghiên cứu.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
- Đối tượng nghiên cứu: Luận án nghiên cứu hệ thống pháp luật và việc
thực thi pháp luật về quyền BĐGCDN ở Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Luận án nghiên cứu một cách toàn diện về hệ thống pháp luật Việt Nam,
đánh giá đầy đủ, khách quan, nhận định chính xác pháp luật về quyền BĐGCDN ở
Việt Nam hiện nay.

11

+ Luận án nghiên cứu pháp luật về quyền BĐGCDN ở Việt Nam chỉ áp
dụng đối với các doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp 2005, không bao gồm các
chủ thể kinh doanh khác (hợp tác xã hay hộ kinh doanh cá thể, )
+ Luận án nghiên cứu quyền BDDGCDN gắn với quá trình: (i) thành lập
doanh nghiệp; (ii) hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp; và (iii) trong giải thể,
phá sản doanh nghiệp.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án là cung cấp các luận cứ khoa học cho việc
hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền BĐGCDN ở Việt Nam.
Nhiệm vụ của luận án là:

- Phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận về bình đẳng, BĐGCDN, quyền
BĐGCDN và đánh giá ý nghĩa của việc bảo đảm quyền BĐGCDN. Luận án cũng
đồng thời đánh giá vai trò của pháp luật trong việc bảo đảm quyền BĐGCDN và
xác định các yếu tố chi phối quyền BĐGCDN.
- Rà soát hệ thống pháp luật Việt Nam, đưa ra những đánh giá khách quan
về ưu điểm và hạn chế của của pháp luật quy định về quyền BĐGCDN.
- Thu thập thông tin, tài liệu về thực tiễn áp dụng pháp luật về quyền
BĐGCDN ở Việt Nam, trên cơ sở đó đánh giá những mặt đạt được và hạn chế. Từ
đó xác định các nguyên nhân cơ bản tạo ra bất BĐGCDN và hệ quả của nó.
- Đưa ra các giải pháp tổng thể nhằm hoàn thiện nội dung pháp luật về
quyền BĐGCDN và hoàn thiện thiết chế bảo đảm quyền BĐGCDN ở Việt Nam.
4. Cơ sở lý luận và giả thuyết khoa học
4.1. Cơ sở lý luận nghiên cứu đề tài
Luận án nghiên cứu pháp luật về quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp ở
Việt Nam trên cơ sở vận dụng phương pháp duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và chính
sách, pháp luật của nhà nước về công bằng, bình đẳng, về nhà nước pháp quyền, về
kinh tế với thị trường, về quan hệ giữa nhà nước với thị trường và doanh nghiệp, về
chế độ sở hữu và thành phần kinh tế. Ngoài ra, luận án cũng chú ý các học thuyết và

12

quan điểm của các nhà kinh tế, chính trị, luật học, xã hội học trong nước và nước
ngoài về chế độ kinh tế, thể chế KTTT, về quan hệ giữa nhà nước với doanh nghiệp.
4.2. Câu hỏi nghiên cứu, giả thuyết khoa học và dự kiến kết quả nghiên cứu
Đề tài pháp luật về quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp ở Việt Nam
được tiến hành dựa trên các câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu như sau:
Câu hỏi nghiên cứu 1
- Bình đẳng là gì và bình đẳng giữa các doanh nghiệp là gì?
- Giả thuyết nghiên cứu: Có sự nhầm lẫn giữa bình đẳng của các doanh nghiệp

với bình đẳng của thành phần kinh tế.
- Dự kiến kết quả nghiên cứu: Luận án sẽ làm rõ bản chất của BĐGCDN.
Theo đó, BĐGCDN phải thỏa mãn đồng thời hai điều kiện: (i) đảm bảo sự tương
thích giữa đóng góp với hưởng thụ của doanh nghiệp, giữa vi phạm và trừng phạt;
và (ii) mọi doanh nghiệp khi ở vào những điều kiện như nhau đều phải áp dụng quy
định pháp luật như nhau, không có ngoại lệ.
Câu hỏi nghiên cứu 2
- Quyền BĐGCDN là gì?
- Giả thuyết nghiên cứu: Trong nền kinh tế thị trường tồn tại nhiều chủ thể
kinh doanh, trong đó có doanh nghiệp. Để tồn tại và hoạt động, các doanh nghiệp
cần được bình đẳng về mặt pháp lý trong các giao dịch với đối tác và quan hệ với
nhà nước (qua các điều kiện ngang bằng và tiêu chuẩn giống nhau trong việc vay
vốn, hưởng các ưu đãi và thực hiện nghĩa vụ thuế, ). Như vậy, BĐGCDN là thuộc
tính vốn có và là yêu cầu không thể thiếu được của nền KTTT.
- Dự kiến kết quả nghiên cứu: Luận án làm rõ và phân biệt khái niệm quyền
BDDGCDN về mặt pháp lý và về mặt thực tế.
Câu hỏi nghiên cứu 3
- Tại sao lại phải đặt vấn đề BĐGCDN? và tại sao phải bảo đảm quyền BĐGCDN?
- Giả thuyết nghiên cứu: Tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh và BĐGCDN
là nguyên tắc của thị trường, là cơ sở để vận hành quy luật cạnh tranh, tạo động lực
phát triển kinh tế.

13

- Dự kiến kết quả nghiên cứu: Chứng minh mối liên hệ giữa bảo đảm quyền
BĐGCDN với hoàn thiện thể chế thị trường, cạnh tranh bình đẳng. Đồng thời đánh
giá được ý nghĩa của việc bảo đảm quyền BĐGCDN.
Câu hỏi nghiên cứu 4
- Thực tế có tình trạng bất BĐGCDN ở Việt Nam hay không?
- Giả thuyết nghiên cứu: Có tình trạng bất BĐGCDN ở Việt Nam, để lại

những hậu quả tiêu cực đối với kinh tế, xã hội.
- Dự kiến kết quả nghiên cứu: Rà soát, đánh giá pháp luật và quá trình thực
thi pháp luật để chứng minh có sự tồn tại của bất BĐGCDN ở Việt Nam.
Câu hỏi nghiên cứu 5
- Nguyên nhân nào gây ra bất BĐGCDN ở Việt Nam hiện nay?
- Giả thuyết nghiên cứu: Có các quy định pháp luật mang tính phân biệt đối
xử doanh nghiệp và quá trình thực thi vi phạm quyền BĐGCDN bắt nguồn từ
những nguyên nhân sâu xa khác nhau.
- Dự kiến kết quả kiến cứu: Luận án chỉ rõ những quy định pháp luật tạo ra
bất BĐGCDN và các nguyên nhân gây ra bất BĐGCDN.
Câu hỏi nghiên cứu 6
- Những giải pháp nào có thể đem lại hiệu quả cho việc bảo đảm quyền
BĐGCDN ở Việt Nam?
- Giả thuyết nghiên cứu: Hoàn thiện chế định pháp luật về quyền BĐGCDN
và bảo đảm thiết chế thực thi pháp luật về quyền BĐGCDN có thể giúp cho các
doanh nghiệp vận hành và thực hiện mọi giao dịch được bình đẳng.
- Dự kiến kết quả nghiên cứu: (i) Đề xuất xóa bỏ những quy định pháp luật
có nội dung phân biệt đối xử doanh nghiệp, sửa đổi, bổ sung một số quy định chưa
rõ ràng, thiếu cụ thể, minh bạch hóa các chính sách ưu tiên, miễn trừ và hạn chế đầu
tư, đổi mới chính sách đối với DNNN; và (ii) hoàn thiện cơ quan quản lý, tăng
cường năng lực, đạo đức công vụ, văn hóa doanh nghiệp, thay đổi thái độ của con
người để tôn trọng pháp luật và thực thi quyền BĐGCDN ở Việt Nam có hiệu quả.

14

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, sử dụng
phương pháp tiếp cận về sự vận động và phát triển của nền KTTT trong điều kiện
mới, luận án kết hợp với một số nghiên cứu phù hợp theo từng nội dung nghiên cứu:
Chương 1: Thu thập thông tin và phân tích, so sánh, đánh giá những vấn đề

liên quan đến đề tài nghiên cứu, những vấn đề đã được giải quyết, những vấn đề còn
bỏ ngỏ để định hướng tiếp tục nghiên cứu.
Chương 2: Sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
để nghiên cứu, kết hợp với phương pháp phân tích, tổng hợp. Các phân tích, nhận
định quan niệm về bình đẳng, bình đẳng doanh nghiệp, quyền BĐGCDN được gắn
vào những điều kiện kinh tế, xã hội cụ thể.
Chương 3: Áp dụng phương pháp thu thập tài liệu, phương pháp hệ thống
nhằm kế thừa và tổng hợp kết quả nghiên cứu đã công bố. Chương này cũng sử
dụng phương pháp phân tích, đánh giá, làm rõ thực trạng pháp luật và thực thi pháp
luật, nguyên nhân tạo ra bất BĐGCDN.
Chương 4: Chủ yếu áp dụng phương pháp phân tích, dự báo, đưa ra những
khuyến nghị, giải pháp xác đáng nhằm đảm bảo quyền BĐGCDN ở Việt Nam.
6. Những đóng góp mới, ý nghĩa khoa học của luận án
Kết quả của việc nghiên cứu luận án đối với đề tài: "Pháp luật về quyền
bình đẳng giữa các doanh nghiệp ở Việt Nam" đem lại những điểm mới sau đây:
Thứ nhất, luận án làm rõ bản chất của bình đẳng, BĐGCDN và quyền
BĐGCDN. Đồng thời, phân tích làm rõ vấn đề bảo đảm quyền BĐGCDN không
mâu thuẫn với chính sách ưu tiên hay hạn chế trong đầu tư, kinh doanh.
Thứ hai, luận án xây dựng khái niệm, xác định nội dung, tiêu chí đánh giá
về bình đẳng, BĐGCDN, quyền BĐGCDN, pháp luật về quyền BĐGCDN. Trên cơ
sở đó, luận án đánh giá vai trò của pháp luật trong việc bảo đảm quyền BĐGCDN
và xác định các yếu tố chi phối quyền BĐGCDN.
Thứ ba, luận án nghiên cứu toàn diện hệ thống pháp luật liên quan đến doanh
nghiệp, đưa ra những nhận định về hạn chế của pháp luật về quyền BĐGCDN và
nguyên nhân chủ yếu gây ra bất BĐGCDN ở Việt Nam.

15

Thứ tư, luận án đưa ra giải pháp tổng thể, nhằm hoàn thiện các quy định
pháp luật hiện hành trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm điều chỉnh

pháp luật của nước ngoài, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh kinh tế của Việt Nam
trong quá trình hội nhập và phát triển hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Kết quả đạt được của luận án góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề lý luận
trong khoa học pháp lý về quyền BĐGCDN. Cụ thể là: xây dựng được khái niệm,
xác định nội dung và đưa ra tiêu chí xác định thế nào là bình đẳng doanh nghiệp,
quyền BĐGCDN, phân tích thực trạng điều chỉnh pháp luật đối với các vấn đề liên
quan đến quyền bình đẳng doanh nghiệp, chỉ ra những bất cập của lĩnh vực pháp
luật này và đề xuất các giải pháp hoàn thiện.
Những tình huống cụ thể cùng những lập luận khoa học sẽ chứng minh cho
các luận điểm mà luận án đưa ra. Ngoài ra, những giải pháp hoàn thiện pháp luật và
thực thi pháp luật về quyền BĐGCDN là cơ sở để các cơ quan chức năng, trong
phạm vi thẩm quyền của mình sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực
tương ứng. Bên cạnh đó, luận án sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích không chỉ với các
nhà nghiên cứu, cán bộ giảng dạy mà còn đối với cán bộ đang làm công tác hoạch
định chính sách, xây dựng pháp luật, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế và hội nhập
kinh tế quốc tế.
8. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận án gồm 4 chương, 15 tiết.


16

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

Trong tổng quan tình hình nghiên cứu, tác giả luận án sẽ đánh giá các công
trình khoa học trong nước, quốc tế về những vấn đề liên quan đến nội dung luận án.
Luận án sẽ kiểm chứng, kế thừa những vấn đề đã được làm rõ, tiếp tục giải quyết

những vấn đề còn bỏ ngỏ. Trong chương này, những vấn đề có liên quan đến nội
dung luận án được trình bày theo lôgic từ lý luận đến thực trạng và giải pháp.
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN VỀ BÌNH ĐẲNG, QUYỀN
BÌNH ĐẲNG GIỮA CÁC DOANH NGHIỆP VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN BÌNH
ĐẲNG GIỮA CÁC DOANH NGHIỆP
1.1.1. Nghiên cứu các quan niệm về bình đẳng, bình đẳng giữa các
doanh nghiệp và quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp
1.1.1.1. Các quan niệm về bình đẳng
Trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, phần chiến lược phát triển
kinh tế xã hội 2011-2020 có định hướng: "Tiếp tục đổi mới việc xây dựng và thực thi
luật pháp bảo đảm cạnh tranh bình đẳng, minh bạch giữa các doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế" [16, tr. 108]. Tuy nhiên, trong toàn nội dung văn kiện đều không
tìm thấy bất kỳ định nghĩa hay giải thích nào về cạnh tranh bình đẳng hay BĐGCDN.
Pháp luật Việt Nam triển khai chính sách của Đảng về bảo đảm quyền BĐGCDN
cũng không có quy định nào đưa ra khái niệm hay giải thích thế nào là BĐGCDN.
Một số công trình nghiên cứu chỉ đề cập đến khái niệm bình đẳng ở những góc nhìn
khác nhau và gián tiếp đề cập đến những khía cạnh nhất định về BĐGCDN.
Trong Đại Từ điển tiếng Việt, tác giả Nguyễn Như Ý có ghi: "bình đẳng là
ngang nhau về nghĩa vụ và quyền lợi" [93]. Cuốn sách Quan niệm tự do bình đẳng
của tư bản và vô sản, do Tô Hồng Quân biên dịch không đề cập đến bình đẳng
doanh nghiệp nhưng đã nêu ra các quan điểm và những tranh luận về bình đẳng.
Trong cuốn sách này, quan điểm mác-xít thể hiện rõ trong những lập luận, phản
biện của Mác - Ăngghen, Lênin và sau này là Stalin trước những chỉ trích của chủ

17

nghĩa tư bản về bình đẳng của các nước theo mô hình XHCN. Chủ nghĩa Mác -
Lênin nhận định bình đẳng không có nghĩa là cào bằng trong mọi điều kiện mà trên
cơ sở phù hợp với những đóng góp là quyền lợi mà một chủ thể được hưởng [35].
Luận án tiến sĩ của Vũ Anh Tuấn nghiên cứu về công bằng xã hội (CBXH)

cũng có những luận giải liên quan đến bình đẳng. Khi phân tích CBXH, tác giả viết:
"tuy có những điểm tương đồng song công bằng xã hội không phải là khái niệm
đồng nghĩa với bình đẳng xã hội" [86, tr. 31]. Theo tác giả thì, CBXH là khái niệm
chỉ sự tương xứng giữa vai trò và vị thế của các thành viên xã hội (cá nhân, giai cấp,
nhóm xã hội), giữa cái mà họ tạo ra được cho xã hội với cái mà họ nhận lại từ xã
hội (cái tạo ra và cái nhận lại có thể là điều tốt lành hoặc ngược lại) như cống hiến
và hưởng thụ, lao động và sự trả công, quyền và nghĩa vụ, vi phạm pháp luật và trách
nhiệm pháp lý Không có sự tương xứng nói trên là bất công xã hội [86, tr. 27]. Tác
giả quan niệm bình đẳng xã hội có phạm vi rộng hơn và bao quát hơn cả CBXH.
Cùng quan điểm với tác giả Vũ Anh Tuấn, trong kỷ yếu Hội thảo khoa học Đề tài
cấp nhà nước KX04/19/06-10, GS.TS Phạm Quang Phan nhận định: "Công bằng
được hiểu là sự phù hợp và tương xứng giữa cái đóng góp và cống hiến của cá nhân
cho xã hội với cái mà cá nhân thụ hưởng và nhận lại từ xã hội xét về tất cả các
khía cạnh". Để làm rõ hơn, tác giả viết: "Công bằng xã hội dù được thực hiện
trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng vẫn phải đảm bảo nguyên tắc cân bằng, tương
xứng giữa nghĩa vụ và quyền lợi, cống hiến và hưởng thụ". CBXH là công bằng
trong mọi lĩnh vực: chính trị, pháp lý, kinh tế, văn hóa, xã hội, ". Thực hiện công
bằng xã hội về mặt kinh tế thể hiện ở cả khâu phân phối tư liệu sản xuất và khâu
phân phối kết quả sản xuất, thành quả về đầu tư phát triển kinh tế". Như thế, tác
giả của hai công trình nghiên cứu trên đây đều thống nhất cho rằng, công bằng
không phải là cào bằng. Điều này cũng có nghĩa bình đẳng cũng không phải là luôn
bằng nhau mà phải đảm bảo sự tương thích về cả quyền, nghĩa vụ cũng như yêu cầu
quản lý nền kinh tế hiệu quả.
Khi xem xét ở khía cạnh địa vị pháp lý của các loại hình doanh nghiệp hiện
nay, nghiên cứu của Tô Nguyễn Cẩm Anh lại cho rằng: "Quy định không miễn trừ
nghĩa vụ về tài sản chỉ áp dụng riêng đối với doanh nghiệp tư nhân và thành viên
hợp danh của công ty hợp danh vô hình chung là một sự phân biệt đối xử giữa các

18


loại hình doanh nghiệp trong việc giải quyết thủ tục phá sản, tạo nên sự bất bình
đẳng về tương lai kinh tế của các chủ thể kinh doanh" [1, tr. 34]. Tuy nhiên, cho đến
nay chưa có quan điểm trái chiều hay đồng thuận nào được công bố chính thức về
nhận định này.
1.1.1.2. Các quan điểm về quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp
Quyền BĐGCDN ít được đề cập trong các công trình nghiên cứu. Ngay tại
các cơ sở đào tạo, giảng dạy về Luật thương mại cũng đề cập rất khái quát về quyền
BĐGCDN. Trong Giáo trình Luật thương mại của Trường Đại học Luật Hà Nội (2006),
các quyền của doanh nghiệp được nêu cụ thể. Các chương II, chương III và chương IV
của giáo trình nghiên cứu vào các nhóm đối tượng như: Doanh nghiệp tư nhân
(DNTN), các công ty và DNNN. Khi đề cập đến quyền của DNTN, giáo trình viết:
Doanh nghiệp tư nhân là một doanh nghiệp hoạt động theo Luật
doanh nghiệp 1999, chính về thế nó được hưởng những quyền chung
giống mọi doanh nghiệp khác như: Các công ty cổ phần, công ty trách
nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh. Tuy nhiên, mỗi một quyền chung ấy,
khi xét ở từng góc độ của từng doanh nghiệp lại có những đóng góp đặc
thù cho sự phát triển của từng loại hình doanh nghiệp cụ thể [94, tr. 89].
Sau bình luận này, giáo trình chưa làm rõ được sự khác nhau này có cần
thiết, có đảm bảo quyền BĐGCDN hay không.
Khác với Giáo trình Luật thương mại (2006), khi nghiên cứu về quyền của
DNTN, giáo trình Luật kinh tế (2003) cũng của Trường Đại học Luật Hà Nội viết:
Doanh nghiệp tư nhân tham gia vào các hoạt động kinh tế với tư
cách là một chủ thể kinh doanh độc lập, nhà nước không chỉ thừa nhận sự
tồn tại và phát triển lâu dài của doanh nghiệp tư nhân mà còn thừa nhận là
một chủ thể pháp lý độc lập. Điều đó được thể hiện một cách rõ rệt trong
các quy định về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp tư nhân [83, tr. 143].
Theo đó, các quyền của doanh nghiệp này gồm:
(i) Quyền tự do kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật của doanh nghiệp;
(ii) Quyền bình đẳng trước pháp luật của DNTN với các doanh nghiệp khác;


19

(iii) Quyền của DNTN trong việc tổ chức và quản lý doanh nghiệp. Giáo
trình đã đi từ nội dung khái quát đến cụ thể.
Giáo trình Luật kinh tế (2003) chỉ đề cập đến vấn đề các quyền cụ thể của
doanh nghiệp sau khi vấn đề (i) và (ii) đã được giải quyết. Một trong những phân
tích quan trọng được nêu ra là sự tồn tại và hoạt động của doanh nghiệp luôn đồng
hành với các quan hệ vừa hợp tác, vừa cạnh tranh lẫn nhau. Các quan hệ này nảy
sinh không chỉ giữa các doanh nghiệp trong một thành phần kinh tế mà cả giữa các
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Sự hợp tác và cạnh tranh giữa
các doanh nghiệp chỉ có thể phát triển một cách lành mạnh trong điều kiện các doanh
nghiệp đều bình đẳng với nhau trước pháp luật. Quyền bình đẳng trước pháp luật giữa
DNTN với các doanh nghiệp khác trước hết thể hiện ngay trong việc thành lập doanh
nghiệp [83, tr. 145]. Giáo trình cũng chỉ ra rằng: "Các doanh nghiệp có quyền bình
đẳng trước pháp luật còn có nghĩa là các doanh nghiệp đều phải có nghĩa vụ đóng góp
vào ngân sách nhà nước thông qua việc đóng thuế". Giáo trình này cũng đề cập sâu
hơn để giải thích về mức thuế đóng góp giữa các doanh nghiệp ở mức độ khác nhau là
sự hợp lý. Điều này hoàn toàn phù hợp với các quan niệm về công bằng, bình đẳng.
Trong luận án tiến sĩ Luật học của tác giả Bùi Ngọc Cường (2002) về Xây
dựng và hoàn thiện pháp luật nhằm đảm bảo quyền tự do kinh doanh ở nước ta
không đề cập trực tiếp đến quyền BĐGCDN nhưng đã gợi mở về phương pháp tiếp
cận nghiên cứu các quyền của doanh nghiệp nói chung, trong đó có quyền tự do
kinh doanh, quyền BĐGCDN là các quyền được xây dựng trên nền tảng kinh tế,
chính trị - xã hội nhất định.
1.1.2. Những công trình liên quan đến xác định vai trò của pháp luật
bảo đảm quyền bình đẳng doanh nghiệp
Không có công trình nào được biết đến đã từng nhận định trực tiếp về vai
trò của pháp luật đối với việc bảo đảm quyền BĐGCDN. Tuy nhiên, ở khía cạnh
nhất định, về mặt lý luận, vai trò của pháp luật nói chung đã được viết khá kỹ trong
giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật (2003) của Trường Đại học Luật

Hà Nội. Giáo trình khẳng định pháp luật là phương tiện để các chủ thể trong xã hội
quyết định những hoạt động của tổ chức, cá nhân [82, tr. 377]. Đồng thời, với tư

20

cách là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội, pháp luật tác động và ảnh hưởng
mạnh mẽ tới các quan hệ xã hội. Giáo trình viết: "Sự tác động và ảnh hưởng của
pháp luật thể hiện ở nhiều mức độ khác nhau tùy thuộc vào từng loại đối tượng và
từng loại quan hệ cụ thể cần có sự điều chỉnh của pháp luật" [82, tr. 337]. Pháp luật
được đặt ra nhằm thực hiện những mục đích đã được xác định. Những mục đích đó
luôn xuất phát từ những chức năng, nhiệm vụ của nhà nước và nhu cầu cần thiết
phải có sự điều chỉnh pháp luật các quan hệ xã hội trong thời kỳ quá độ, cũng như
trong mỗi giai đoạn cụ thể. Đối với Việt Nam, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI
xác định một trong ba khâu đột phá chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2010 - 2020
là: ''Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là
tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính" [16, tr. 46] đã thực
sự đặt công tác xây dựng và thực thi pháp luật vào một yêu cầu mới. Tác giả Vũ
Anh Tuấn khi viết về vai trò của pháp luật trong việc đảm bảo CBXH cũng xuất
phát từ vai trò của pháp luật nói chung nhưng không đồng nhất chúng, tác giả cho
rằng: "Vai trò của pháp luật trong việc đảm bảo công bằng xã hội được thể hiện
bằng việc pháp luật thể chế hóa và bảo đảm hiệu quả thực hiện đối với các quan
điểm, chính sách công bằng xã hội của nhà nước thông qua những hình thức, phạm
vi, nội dung và thuộc tính của pháp luật" [86, tr. 44].
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC
THI PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN BÌNH ĐẲNG GIỮA CÁC DOANH NGHIỆP

1.2.1. Các công trình nghiên cứu đề cập đến thực trạng pháp luật về
quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp
Thực trạng pháp luật về quyền BĐGCDN đã được phân tích và đề cập trong
khá nhiều tài liệu. Trong bài Góp ý dự thảo Luật Doanh nghiệp (thống nhất)

PGS.TS Nguyễn Như Phát cho rằng thực chất Luật Doanh nghiệp 2005 mới chỉ đặt
cơ sở cho sự bình đẳng doanh nghiệp ở khâu đăng ký kinh doanh (ĐKKD) để gia
nhập thị trường [32, tr. 24]. Như vậy, để có môi trường kinh doanh bình đẳng cho
doanh nghiệp, nhà nước không thể xây dựng một đạo luật riêng mà thực tế nó được
quy định trong nhiều đạo luật và các văn bản hướng dẫn khác nhau khi điều chỉnh
các mối quan hệ giữa các doanh nghiệp với nhau, giữa doanh nghiệp với các chủ thể

21

khác. Điều này cũng giống như tại các nước có nền KTTT phát triển như Anh, Đức,
Pháp, đều là những quốc gia tạo ra được vị thế bình đẳng cho doanh nghiệp bằng
nhiều đạo luật và văn bản pháp luật khác nhau chứ không thể giải quyết được trong
một đạo luật [32, tr. 25].
Trong bài "Luật Đầu tư 2005 - một số vấn đề bất cập", ThS. Đào Trung
Kiên khẳng định, Luật Đầu tư 2005 vẫn còn có sự phân biệt đối xử giữa đầu tư
trong nước và đầu tư nước ngoài [27, tr. 39]. Theo đó, chỉ có các dự án đầu tư trong
nước mới có thể thuộc diện không phải làm thủ tục đăng ký đầu tư, còn các dự án
của nhà đầu tư nước ngoài bất luận quy mô vốn thế nào cũng phải làm thủ tục đăng
ký đầu tư hoặc thủ tục thẩm tra đầu tư. Bên cạnh đó, vẫn có sự phân biệt thủ tục đầu
tư gắn với tổ chức kinh tế giữa các nhà đầu tư trong nước với các nhà đầu tư nước
ngoài (Khoản 1 Điều 50). Trong tham luận tại một hội thảo khoa học, TS Phạm
Tuấn Khải cũng cho rằng: "Pháp luật đất đai hiện hành vẫn chưa thật sự tạo sân
chơi bình đẳng cho các nhà đầu tư nước ngoài và trong nước" [26, tr. 3]. Nghiên
cứu tại Luật Luật sư và Nghị định 87/2003/NĐ-CP cũng cho thấy quan điểm phân
biệt đối xử doanh nghiệp vẫn còn khi quy định tổ chức hành nghề luật sư nước
ngoài tại Việt Nam không được cử luật sư của mình tham gia tố tụng tại Tòa án.
Phân tích về Luật Doanh nghiệp 2005, TS. Vũ Đặng Hải Yến cho rằng, vẫn có bất
bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp trong việc huy động vốn thông qua phát
hành trái phiếu [94]. Tác giả đề xuất ý kiến cho phép công ty hợp danh được phát
hành trái phiếu vì hiện tại luật pháp quy định công ty này không có quyền phát hành

bất kỳ loại chứng khoán nào. Giải thích cho đề xuất trên đây, tác giả cho rằng:
"Công ty hợp danh không được phép phát hành bất cứ loại chứng khoán nào. Có
nghĩa là, so với các loại hình doanh nghiệp khác, công ty hợp danh có khả năng huy
động vốn thấp hơn rất nhiều" [94, tr. 75]. Công ty cổ phần được pháp luật cho phép
phát hành mọi chứng khoán và chỉ cấm công ty TNHH phát hành cổ phiếu, tức là
trong điều kiện nhất định công ty vẫn có thể phát hành trái phiếu để huy động vốn.
Công ty hợp danh là loại hình công ty đối nhân, sự thay đổi trong cơ cấu nhân sự sẽ
làm ảnh hưởng đến tính đối nhân của nó, vì thế nó không được phép phát hành cổ
phiếu. Tác giả phân tích, công ty hợp danh có thể huy động vốn bằng cách phát
hành trái phiếu, "bởi trái phiếu chỉ là một chứng chỉ ghi nợ, người mua trái phiếu sẽ

22

trở thành chủ nợ của công ty, không phải là thành viên công ty, do đó việc phát hành
trái phiếu để huy động vốn không làm ảnh hưởng đến tính chất đóng, hạn chế tiếp
nhận thành viên của công ty hợp danh" [94, tr. 76]. Tác giả cũng cho rằng, nhà nước
chỉ cấm các doanh nghiệp hoạt động huy động vốn vay khi hoạt động đó có nguy cơ
xâm hại đến quyền lợi hợp pháp của các chủ thể khác. Tuy nhiên, với trường hợp
công ty hợp danh được pháp luật quy định có tư cách pháp nhân tức là công ty có
khả năng trả nợ cho chính nó, bên cạnh đó pháp luật lại quy định rằng trong công ty
có những chủ thể khác (cụ thể ở đây là các thành viên hợp danh) trả nợ thay cho
công ty nếu công ty không có khả năng trả nợ. Vì vậy, quyền lợi của người cho vay
được bảo đảm hơn so với các công ty khác chứ không phải có nguy cơ xâm hại.
Trong một nghiên cứu, TS. Nguyễn Chí Thành nhận định: "Tuy khung pháp
lý nhằm tạo dựng môi trường cạnh tranh bình đẳng đã được xây dựng nhưng việc áp
dụng trên thực tế còn nhiều vấn đề. Các độc quyền nhà nước và những ưu đãi đặc biệt
dành cho DNNN đã làm méo mó sân chơi chung của các doanh nghiệp" [79, tr. 118].
1.2.2. Các công trình đề cập đến thực trạng bất bình đẳng giữa các
doanh nghiệp trong quá trình thực thi pháp luật
Cuốn sách Hoạt động kinh doanh không chính thức và môi trường kinh

doanh ở Việt Nam [75] là công trình nghiên cứu phân tích hoạt động kinh tế không
chính thức và sự bất bình đẳng trong môi trường kinh doanh ở Việt Nam những
năm 2002- 2003. Trong nghiên cứu này, các tác giả nhận định, có nhiều sự phân
biệt đối xử giữa DNNN với doanh nghiệp dân doanh trong tiếp cận dịch vụ công và
các nguồn lực (vốn, đất đai, ). Cuốn sách có đoạn viết: Hoạt động kinh doanh
không chính thức ở Việt Nam phát triển mạnh một phần vì các doanh nghiệp thuộc
hình thức sở hữu và quy mô khác nhau thường bị đối xử không công bằng (xii). Từ
thực tế khảo sát, các tác giả cho rằng, những thiên kiến có hệ thống tồn tại trong
môi trường kinh doanh càng khiến cho các hoạt động kinh doanh không chính thức
gia tăng nhanh chóng và được các doanh nghiệp sử dụng như một công cụ nhằm
giành lại sự công bằng cho chính mình [75, tr. 89].
Tham luận của TS Nguyễn Minh Phong tại Hội thảo khoa học bàn về đổi
mới quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp không phân biệt hình thức sở hữu,
có nhận xét:

23

Sự phân định thành phần kinh tế trong suốt thời gian qua đã gây
ra nhiều định kiến xã hội nặng nề và dai dẳng dẫn đến phân biệt đối xử với
các thành phần kinh tế trong cả nhận thức, chính sách, tâm lý và hành động
thực tế, bất lợi cho sự đồng thuận xã hội và phát huy hiệu quả nội lực đất
nước, làm cho những tư tưởng lớn của Đảng coi các thành phần kinh tế
kinh doanh theo pháp luật đều là những bộ phận quan trọng cấu thành của
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cùng phát triển lâu dài,
hợp tác và cạnh tranh lành mạnh chưa thực sự đi vào cuộc sống [34, tr. 2].
Tác giả cho rằng, có tồn tại những định kiến về thành phần kinh tế và định
kiến về khu vực kinh tế tư nhân còn nặng nề. Nỗi ám ảnh về "thành phần" làm cho
doanh nghiệp và cả những người thực thi công vụ cũng e dè, ngần ngại mỗi khi phải
giải quyết những vấn đề liên quan đến lợi ích của khu vực kinh tế tư nhân" [34, tr. 2].
Cũng tại hội thảo này, TS Nguyễn Kế Tuấn nhận xét:

Trong điều kiện kinh tế thị trường, tạo môi trường kinh doanh
bình đẳng và thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh
tế khác nhau là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của nhà
nước trong quản lý kinh tế. Tuy nhiên, lâu nay trong thực tế vẫn tồn tại
tình trạng nhà nước phân biệt đối xử với các doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế [88, tr. 1].
Đánh giá về tình hình và nguyên nhân của vấn đề này, tác giả nhận định:
"Vẫn tồn tại tình trạng cơ quan quản lý nhà nước và công chức nhà nước phân
biệt đối xử với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, trong
đó doanh nghiệp nhà nước thường giành được nhiều ưu đãi hơn…". Đồng thời,
"Việc nhà nước đang đóng vai trò "kép", vừa là nhà quản lý vĩ mô, vừa là chủ sở
hữu đối với các doanh nghiệp nhà nước, dù nhiều hay ít vẫn phải dành cho chúng
sự quan tâm riêng" [88, tr. 2]. Tác giả cũng cho rằng, sự không rõ ràng trong nhận
thức sử dụng DNNN như một công cụ vật chất để điều tiết vĩ mô nền kinh tế cũng
tạo ra tâm lý Nhà nước kỳ vọng làm mạnh mẽ hơn công cụ vật chất của mình. Điều
này lại là yếu tố cản trở trực tiếp việc thu hẹp khu vực DNNN vốn dĩ đã bị phát
triển phân tán. Hơn nữa từ đây sẽ không thể triệt xóa được tình trạng Nhà nước
thiên vị đối với doanh nghiệp nhà nước [88, tr. 2].

24

Trong đề tài "Đổi mới quản lý nhà nước đối với các loại hình doanh nghiệp
ở Việt Nam theo hướng không phân biệt thành phần kinh tế" nhóm tác giả có nhận
định: "Quản lý nhà nước về đất đai và mặt bằng sản xuất kinh doanh vẫn chưa khắc
phục được ảnh hưởng của cơ chế cũ đến các loại hình doanh nghiệp". Nghiên cứu
này cũng phản ánh, tính trung bình cho mỗi doanh nghiệp thì số dự án được thuê đất
của khu vực doanh nghiệp dân doanh vẫn thấp hơn nhiều so với DNNN. Ngoài ra,
quyền sử dụng đất và nhiều giá trị vô hình khác của DNNN cho đến nay vẫn chưa
được tính vào giá trị tài sản của doanh nghiệp, khi DNNN có vốn liên doanh hoặc
cổ phần hóa mới được tính vào giá trị tài sản của doanh nghiệp. Trong khi đó các

doanh nghiệp ngoài nhà nước phải chịu chi phí khá lớn đối với quyền sử dụng đất.
Một trong những nội dung đáng chú ý là: "Tình trạng doanh nghiệp dân doanh phải
thuê lại đất của doanh nghiệp nhà nước là tương đối phổ biến" [11, tr. 62]. Đồng thời,
nhà đầu tư nước ngoài, do không phải là đối tượng được giao đất có thu tiền nên
cũng không thể tham gia vào các hoạt động đấu giá hay đấu thầu này, cũng có nghĩa
đây là sân chơi riêng của DNNN [11, tr. 63].
Trong đề tài "Đánh giá ảnh hưởng qua lại của các hoạt động kinh doanh
không chính thức của các doanh nghiệp khu vực tư nhân và môi trường đầu tư kinh
doanh ở Việt Nam", PGS.TS Nguyễn Đình Tài đã phản ánh sự đa dạng của các hoạt
động kinh doanh không chính thức có thể tạo ra bất BĐGCDN. Tác giả khẳng định,
mặt trái của hoạt động kinh doanh không chính thức là: (i) Tạo ra sân chơi không
bình đẳng; (ii) Cản trở cạnh tranh lành mạnh và (iii) Gây khó khăn cho quản lý nhà
nước. Giải thích cho vấn đề hoạt động kinh doanh không chính thức tạo ra sân chơi
không bình đẳng, tác giả viết: "Nếu như mục đích của pháp luật là tạo ra một sân
chơi bình đẳng, thì các hoạt động kinh doanh không nằm trong khuôn khổ của pháp
luật lại tạo ra những lợi thế cạnh tranh không công bằng cho các doanh nghiệp
không tuân thủ luật pháp và làm sai lệch việc phân bổ nguồn lực" [78, tr. 52]. Tác giả
cũng cho rằng, thực tế là: "Một trong những hoạt động khá phổ biến trong khu vực tư
nhân là thông đồng với cán bộ thuế để bớt thuế, thậm chí tránh thuế. Điều này tạo ra
một lợi thế không chính đáng và dồn những doanh nghiệp nghiêm túc vào cuộc chơi
không bình đẳng [78]. Đồng thời, "bằng cách sử dụng lao động không hợp đồng,
nhiều doanh nghiệp đã tránh được những khoản chi lớn cho bảo hiểm xã hội, bảo

25

hiểm y tế và các khoản chi cho phúc lợi khác cho người lao động" [78, tr. 53]. Điều
đó đã đẩy các doanh nghiệp thực hiện nghiêm túc pháp luật lao động vào tình thế
bất lợi. Những hoạt động kinh doanh không chính thức được đề tài phản ánh thể
hiện dưới nhiều hình thức. Có trường hợp công chức nhà nước tham gia thành lập
doanh nghiệp hoặc tham gia góp vốn vào các công ty TNHH. Những công ty hoạt

động theo hình thức này thường là công ty bạn bè của các công chức, đôi khi cũng
có trường hợp là công ty của họ hàng, hoặc anh em họ hàng với họ. Cũng có trường
hợp các công chức nhà nước làm lá chắn đứng đằng sau các doanh nghiệp, bảo trợ
về uy tín và các mối quan hệ trong việc làm ăn của các doanh nghiệp [78, tr. 34].
Trong một nghiên cứu khác, TS. Đặng Vũ Huân đã cho rằng, "hầu hết các
doanh nghiệp độc quyền ở Việt Nam được hình thành không phải do kết quả của
quá trình tích tụ tập trung vốn và các yếu tố sản xuất, mà là sản phẩm của ý thức
chủ quan thông qua chính sách tập trung hóa sản xuất của nhà nước" [21, tr. 170].
Tác giả cũng nhận định: "Độc quyền nhà nước dẫn đến hậu quả nhiều mặt về kinh
tế, ngăn cản, hạn chế sự cạnh tranh và gia nhập thị trường của các doanh nghiệp
thuộc thành phần kinh tế khác" [21, tr. 175]. Cũng cần lưu ý là, cùng với sự phát
triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, các hình thức cạnh tranh trở nên rất đa
dạng, nhiều quy định trong Luật Cạnh tranh (2004) tỏ ra lạc hậu, thậm chí chưa bao
quát hết các hành vi cạnh tranh cần can thiệp.
Phản ánh sự phát triển ngày càng tinh vi của tính chất cạnh tranh có thể
vượt khỏi tầm kiểm soát của nhà nước, tạo ra bất BĐGCDN, Phó tiến sĩ Afanas'eva
Juliaja Andreevna, trường đại học Kinh tế cao cấp Moscow khuyến cáo: "Nếu như
trong các lĩnh vực truyền thống, tổ chức độc quyền làm tăng lợi nhuận bằng cách
hạn chế mức cung và tăng giá vọt lên thì trên thị trường các công nghệ thông tin, nó
hành xử theo cách khác: đó là mở rộng sản xuất và giảm giá". Điều này được giải
thích là, giá của việc sản xuất (thu nhận) tri thức là rất đắt nhưng chi phí cho việc
sản xuất và phổ biến nó lại rất thấp [2].
Nghiên cứu của TS. Lê Anh Tuấn cũng cho thấy, nền kinh tế xuất hiện
nhiều trường hợp ép buộc trong kinh doanh, bán hàng đa cấp bất chính, phân biệt
đối xử hiệp hội, gièm pha doanh nghiệp khác, xâm phạm bí mật kinh doanh, Một

×