Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Tiểu luận thực trạng của nền kinh tế tri thức ở việt nam và giải pháp khắc phục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.01 KB, 17 trang )

A, PHẰN MỞ ĐẦU.
1, Tính cấp thiết của đề tài.
Đối với nước ta, sự xuất hiện của nền kinh tế tri thức là cơ hội lớn đế đây nhanh công
nghiệp hóa hiện đại hóa, phát triến lực lượng sản xuất đi lên xã hội chủ nghĩa. Neu như
không biết tận dụng cơ hội này đế đối mới cách nghĩ cách làm, nâng cao năng lực nội sinh,
bắt kịp tri thức của thời đại, thì không thế đi tắt đón đầu và sẽ tiếp tục tụt hậu xa.
Vỡ vậy, việc tìm hiểu khái niệm, bản chất và xu hướng phát triển của kinh tế tri thức
đồng thời tìm hiểu thực trạng,cơ hội, thách thức và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam
trước xu thế phát triển của kinh tế tri thức, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp để phát
triển nền kinh tế tri thức ở Việt Nam.
2, Nhiệm vụ của đề tài:
- Luận giải những vấn đề lý luận về kinh tế tri thức.
+ Khái niệm của kinh tế tri thức
+ Đặc điểm của nền kinh tế tri thức.
- Đánh giá thực trạng về nền kinh tế tri thức của Việt Nam.
+ Những việc đó làm được.
+ Những việc có thế làm nhưng chưa làm được.
+ Triển vọng từng bước phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam.
- Đề xuất những giải pháp nhằm phát triển nền kinh tế tri thức ở Việt Nam.
+ Thứ nhất, phải đổi mới cơ chế và chính sách, tạo lập một khuôn khổ pháp lý mới,
phù hợp với sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa.
+ Thứ hai, chăm lo phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài.
+ Thứ ba, tăng cường năng lực khoa học và công nghệ quốc gia.
+ Thứ tư, đấy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá.
B, NỘI DUNG
I, Những vấn đề lý luận chung về kinh tế tri thức .
LL Khái niệm và đặc điểm của kinh tế tri thức.
L /. /. Khái niệm.
ở Việt Nam, từ cuối những năm 90 của thế kỷ trước, chủ đề “kinh tế tri thức” đã được đề
cập, bàn bạc rộng khắp, đặc biệt là trong giới các nhà nghiên cứu, các nhà hoạch định chính


sách, các nhà quản lý “Kinh tế tri thức” đã được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau,
với những chiều kích, tầm mức, phạm vi khác nhau. Trong không ít hội nghị, hội thảo,
bài vở, sách báo và cả các công trình nghiên cứu khoa học, người ta đã bàn đến nhiều định
nghĩa khác nhau về kinh tế tri thức, tuy nhiên trong các văn bản chính thức của Đảng và
Nhà nước ta, chưa có văn bản nào nêu ra định nghĩa về kinh tế tri thức. Mặc dù vậy, trong
sổ những định nghĩa về kinh tế tri thức được bàn đến, dường như có một định nghĩa nối lên
và được công nhận bởi nhiều người. Đó là định nghĩa do OECD và APEC nêu ra năm
1
2000, định nghĩa rằng: “Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, truyền bá và
sử dụng tri thức là động lực chủ yếu nhất của sự tăng trưởng, tạo của cải, tạo việc làm
trong tất cả các ngcmh kinh tế”. Định nghĩa này nhấn mạnh việc sử dụng tri thức trong tất
cả các lĩnh vực kinh tế. Nhiều người cho rằng sự xuất hiện của kinh tế tri thức đánh dấu sự
chấm hết của xã hội công nghiệp hiện đại lấy “tư bản” làm hạt nhân, và báo hiệu sự ra đời
của xã hội hậu công nghiệp lấy “tri thức” làm hạt nhân.
Tuy hiện nay Việt Nam chưa xây dựng một chiến lược phát triển kinh tế tri thức,
giống như một số nước khác trong khu vực và trên thế giới, song một số văn bản chính thức
của Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước ta
rất coi trọng vận dụng các yếu tố của kinh tế tri thức. Vì vậy, nhiều nhà nghiên cứu và nhà
hoạch định chính sách cho rằng quá trình phát triến kinh tế tri thức và quá trình đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta có mối gắn kết chặt chẽ với nhau. Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 7 Khoá VII của Đảng ta đã chỉ rõ: “Công nghiệp hoá, hiện đại hoả là quá
trình chuyến đôi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý
kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phô biến sức
lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự
phát triến của công nghiệp và tiến bộ khoa học- công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã
hội cao”. Định nghĩa này đã nêu rõ mức độ (căn bản, toàn diện), phạm vi (sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội), phương tiện (công nghệ hiện đại), cơ sở, tức là
chỗ dựa (công nghiệp và công nghệ), mục đích trực tiếp (năng suất lao động xã hội cao)
của công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta, nhằm đạt mục tiêu nước ta cơ bản trở thành
một nước công nghiệp vào năm 2020.

Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ IX của Đảng đã nhận định: “Thế kỷ 21 sẽ tiếp
tục có nhiều biến đôi. Khoa học và công nghệ sẽ cỏ bước tiến nhảy vọt. Kinh tế tri thức có
vai trò ngày càng nôi bật trong quá trình phát triển ỉực lượng sản xuất”. Chiến lược phát
triển kinh tế- xã hội giai đoạn 2001-2010 của nước ta được thông qua tại Đại hội IX của
Đảng đã xác định: “Co/7 đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước ta cần và có thê
rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Phát triền những lợi
thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng đê đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là
công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở
mức cao hơn và phô biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước
phát triến kinh tế tri thức”, vấn đề cốt lõi và thiết thực ở đây là làm rõ mối quan hệ hai
chiều giữa công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân với phát triển kinh tế tri
thức. Có mạnh dạn đi ngay vào phát triển kinh tế tri thức mới có khả năng thay đổi phương
thức và đấy nhanh tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thực hiện được các mục tiêu phát
triến kinh tế- xã hội đến năm 2020. Hay nói cách khác, phát triến kinh tế tri thức tạo điều
kiện cho việc thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá “rút ngắn” ở nước ta. Ngược lại, việc
thực hiện các bước đi và mục tiêu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá tạo ra kết cấu
hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội cho phát triển kinh tế tri thức, tăng thêm điều kiện phát
triển kinh tế tri thức.
Cũng như vậy, phát triến kinh tế tri thức có quan hệ khăng khít với phát triến nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN. Kinh tế tri thức mang lại chất lượng, năng suất, hiệu
quả và sức cạnh tranh cao cho kinh tế thị trường, và kinh tế thị trường cởi mở cả trong nước
2
và với thế giới qua việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là khung khổ thuận lợi cho sự
phát triến kinh tế tri thức.
Xét trong điều kiện thực tế của nước ta hiện nay, giữa công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước với phát triến kinh tế tri thức và phát triến nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN có mối quan hệ tương tác, thúc đấy lẫn nhau chặt chẽ.
1.1.2. Đặc điếm của kinh tế tri thức.
1.1.2.1 Lao động cơ bắp từng bước được thay thế bằng lao động trí tuệ, nhưng
lao dộng cơ bắp không mất di.

Lao động là hoạt động có ý thức của con người nhằm tạo ra những giá trị sử dụng đáp ứng
nhưng nhu cầu đa dạng của con người. Bởi vậy, ngay khi có con người, hoạt động sản xuất
của họ đó cú hai phần: lao động cơ bắp và lao
động trí tuệ. Cùng với sự phát triển của xó hội, đặc biệt là sự phát triển của cách mạng
công nghiệp, cách mạng khoa học, kỹ thuật rồi của cách mạng khoa học, công nghệ, cũng
như đế sử dụng có hiệu quả những thành tựu do các cuộc cách mạng đó mang lại, năng lực
trí tuệ của người lao động không ngừng được nâng cao, phần giá trị do lao động trí tuệ của
họ tạo ra trong qỳa trỡnh sản xuất và được kết tinh ở sản phẩm ngày càng tăng. Từ chỗ
chiếm một tỷ trọng rất không đáng kế ớ các thời kỳ tiền cách mạng công nghiệp, ngày nay,
ở các nước phát triển, đối với một số loại sản phẩm có hàm lượng trí tuệ cao, hàm lượng
giá trị do trí tuệ tạo ra và được kết tinh trong sản phẩm có thế đạt tới 80 - 90% tổng giá trị
sản phẩm. Đối với các loại sản phẩm đó, nguyên vật liệu, năng lượng, lao động cơ bắp chỉ
tạo thành từ 10% - 20% giá trị sản phẩm.
Không chỉ như vậy, hoạt động trục tiếp tạo ra sản phấm khụng cũn là cụng việc của
riờng người lao động, mà của cả một bộ phận ngày càng tăng lên những người trực tiếp
quản lý quỏ trỡnh sản xuất, những kỹ sư, những nhà công nghệ
Sự thay đối đó là xu thế khách quan, mang tính tiến bộ và ngày càng mở rộng. Nó làm
cho tài nguyên thiên nhiên, lao động cơ bắp mặc dù vẫn là nhưng thứ không thế thiếu trong
nền sản xuất xó hội, nhưng ngày càng mất giá.
Mức đóng góp của tri thức và kỹ thuật đối với tăng trưởng kinh tế ngày càng lớn. Do vai
trũ và vị trớ ngày càng lớn của tri thức trong nền kinh tế, do thụng tin và tri thức ngày càng
trở thành nguồn lực phỏt triển kinh tế chủ yếu, nờn cơ cấu đầu tư để phát triển lực lượng
sản xuất có những thay đối rất lớn. Ở Hoa Kỳ, mỗi năm số tiền chi vào việc sản xuất tri
thức và các hoạt động liên quan khác chiếm khoảng 20% GDP, trong đó, chi phí cho giáo
dục chiếm 10% GDP. Ngày càng có nhiều giá trị gia tăng kinh tế do trí tuệ tạo ra.
1.1.2.2 Yếu tố trở tuệ quan trọng hơn yếu tố vật liệu tự nhiên trong tư liệu sản
xuất
Trong nền kinh tế tri thức, mối tương quan giữa các yếu tố cơ bản cấu thành tư liệu sản
xuất có sự thay đối rất lớn.
Tư liệu sản xuất bao gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động. Trong các nền kinh tế

trước, đối tượng lao động chủ yếu là những bộ phận của tự nhiên, trong nền kinh tế tri
3
thức, đối tượng lao động ngày càng là sản phẩm của lao động, của khoa học, công nghệ mà
hàm lượng vật liệu tự nhiên trong đó ngày càng giảm. Do vậy, đó sẽ là một nền kinh tế tiết
kiệm tài nguyên, không phụ thuộc một cách tiên quyết vào nguồn tài nguyên thiên nhiên,
mà phụ thuộc chủ yếu vào tài nguyên con người với năng lực trí tuệ cao.
Lao động quá khứ được kết tinh trong máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu Liên quan tới
những nhân tố này, trong nền kinh tế tri thức, có hai điểm đáng chú ý. Một là, hàm lượng
trí tuệ trong những nhân tố đó ngày một gia tăng,
Hai là, nhiều máy móc do lao động quá khứ đó được vật hoá thực hiện. Khi tính đến hai sự
kiện đó, chúng ta thấy dường như vai trũ của lao động sống có sự suy giảm tương đối.
Nhưng, nếu xét tới sự phát trien thắng tiến của sản xuất, lao động sống vẫn có giá trị quyết
định - "quyết định" không phải theo nghĩa chiếm tỷ trọng lớn so với lao động quá khứ khi
tạo ra sản phẩm ở chu kỳ mới, mà theo nghĩa không có lao động sống và mọi lao động vật
hoá không thế phát huy vai trũ của mỡnh trong quỏ trỡnh sản xuất. Mởy múc hiện đại như
thế nào chăng nữa cũng do con người làm ra và vận hành, cải tiến nú. Mặt khỏe, trỡnh độ
của máy móc, thiết bị, trờnh độ trí tuệ được kết tinh trong chúng lại đóng vai trũ quyết định
hiệu quả của lao động sổng, quy định xu hướng vận động của chính lao động sống. Chỉ
trong chừng mực đáp ứng nhu cầu đó, chu kỳ sản xuất tiếp theo mới có sự phát triển tương
ứng với xu thế khách quan của lực lượng sản xuất.
1.1.2.3 Lao động quản lý dần chiếm ưu thế so với lao động sản xuất trực tiếp
Sự phỏt trien của sản xuất xó hội luụn diễn ra theo quy luật phủ định của phủ định. Trước
kia, người sản xuất và người quản lý là một, song cựng với sự phỏt trien của lực lượng sản
xuất, sự tách rời giữa người sản xuất và người quán lý ngày một gia tăng, sự khác biệt phát
triển thành sự đối lập gay gắt. Giờ đây, chính sự phát triển cao của lực lượng sản xuất, ở
trỡnh độ trí tuệ hoá cao quá trỡnh sản xuất, đó và đang diễn ra sự xích lại gần nhau giữa
người lao động sản xuất và nhà quản lý. Trong nền kinh tế tri thức, ở khụng ớt trường hợp,
người sản xuất và người quản lý hội tụ trong một cá thể mà ở đó, mặt quản lý ngày càng cú
ưu thế hơn mặt laođộng trong việc tạo ra sản phấm.
Những thay đổi ấy làm cho những yếu tố tạo ra giá tri mới được kết tinh trong sản phẩm

thặng dư mà biểu hiện dưới hờnh thức giỏ trị là giỏ trị thặng dư cũng không hoàn toàn như
cũ. Giá trị thặng dư được tạo ra không cũn chỉ do lao động sống của người công nhõn trực
tiếp sản xuất, mà cũn do lao động vật hoá, do lao động quản lý Lao động quản lý nói ở
đây bao gồm cả lao động quản lý của các chuyờn gia quản lý (khi đó, họ thuộc về người lao
động theo nghĩa hiện đại của tù’ này) và lao động quần lý của người sở hữu tư liệu sản xuất
nếu họ tham gia quản lý doanh nghiệp. "Quản lý" lại là loại hỡnh lao động phức tạp, nó là
"bội số của lao động giản đơn" như C.Mác nói.
Trớ tuệ tự nú mang tớnh xó hội rất cao và thậm chớ, cũn mang tớnh nhõn loại. Do vậy,
khi núi về những bộ phận cấu thành lực lượng sản xuất trong nền kinh tế trí tuệ, chúng ta
thấy nối lên một đặc điểm hết sức quan trọng là tính xó hội hoỏ, quốc tế húa rất cao của nú.
1.1.2.4 Nội dung và tỉnh chất mới của vẩn đề sở hữu tư liệu sản xuất
4
Tri thức hiện nay đang được coi là nguồn lực kinh tế chủ yếu. Các nhân tố sản xuất truyền
thống là đất đai, lao động và tư bản không biến mất, nhưng tầm quan trọng của nó không
cũn như cũ. Một điều quan trọng hơn rất nhiều là tri thức tạo ra được cơ chế lợi nhuận tăng
dần, trong khi các yếu tố sản xuất truyền thống (đất đai, vốn, lao động), như chúng ta đó
biết, lại tuõn theo quy luật lợi nhuận giảm dần. Đó là một xu hướng thực tế, bới chính công
nghệ thông tin - một bộ phận quan trọng của nền kinh tế tri thức đó trở thành phương tiện
giải phóng các tiềm năng sáng tạo và tri thức tiềm ẩn trong mỗi người, thành công cụ
"khuếch đại sức mạnh của nóo giống như công nghệ của cuộc cách mạng công nghiệp
khuếch đại sức mạnh của cơ bắp " (Brad de Long). Bắt đầu từ giữa những năm 80 của thế
kỷ XIX, một bộ phận quan trọng của nền kinh tế đó tuõn theo cơ chế lợi nhuận tăng dần, đó
là khu vực công nghệ cao. Các nền kinh tế phát triến như các nước OECD đang phụ thuộc
rất nhiều vào việc sản xuất phân phối và sử dụng tri thức. Sản lượng và việc làm được mở
rộng rất nhanh ở các ngành công nghệ cao. Trên 50% GDP của các nền kinh tế OECD là
dựa trên tri thức (Candie Stevens).
Sở hữu trong nền kinh tế tri thức trước hết và chủ yếu là sở hữu trí tuệ. Trong nền kinh tế
đó, trí tuệ là nguồn lực cơ bán nhất của quốc gia. Ai nắm được trí tuệ, có khả năng điều tiết,
chi phối nó, kẻ đó có sức mạnh chi phối sự phát triển xó hội theo mục tiờu và lợi ớch của
mỡnh. Trong khi đó, như đó đề cập trên đây, tri thức mang tính xó hội hoỏ, quốc tế húa cao.

Theo Joseph Stigliz, nhà kinh tế học Mỹ được nhận giải Nobel năm 2001 đồng thời là cố
vấn kinh tế trưởng của Ngân hàng thế giới, thỡ tri thức và thụng tin là loại hàng hoỏ đặc
biệt, nó hoàn toàn khác các loại hàng hoá thông thường khác: nó thuộc về không phải của
một cá nhân nào đó, mà thuộc về quyền sở hữu của toàn xó hội, là một hàng hoỏ xó hội và
hơn thế nữa, nó thực sự là một hàng hoá mang tính toàn cầu.
Trong nền kinh tế tri thức, tri thức trở thành nhân tố sản xuất quan trọng hàng đầu trong
lực lượng sản xuất, quyết định lợi thế so sánh của một nước. Neu doanh nghiệp nào nắm
được quyền sở hữu trí tuệ, ứng dụng công nghệ mới, tạo ra sản phấm mới sẽ thu được tỷ
suất lợi nhuận cao hơn mức trung bỡnh. Thớ dụ: Nhờ luụn tạo ra cỏc bộ vi xử lý trước một
thế hệ, lợi nhuận của hóng Intel trong nhiều năm là 23% doanh thu. Cũng với cách thay đối
luôn như vậy lợi nhuận của hóng Microsoft đạt 24% doanh thu vào năm 1994. Lợi nhuận
cao như thế tuy không thế tồn tại mói, nhưng có thế duy trỡ trong nhiều năm, như hóng
Intel duy trỡ tỷ suất lợi nhuận cao trong một thập kỷ. Như vậy, quy luật bỡnh quõn hoở tỷ
suất lợi nhuận bị cản trở, khụng thế phỏt huy tỏc dụng mạnh mẽ. Bởi vỡ, tiền đề đế quy luật
này hoạt động là môi trường cạnh tranh tự do hoàn háo, nhưng trong nền kinh tế tri thức,
việc bảo hộ quyến sở hữu trí tuệ đó làm tăng tính độc quyền, khiến cho người nắm quyền
chiếm hữu đối với tri thức thu được lợi nhuận siêu ngạch.
So với sở hữu các giá trị vật chất, sở hữu tri thức có những đặc điếm hết sức riêng biệt:
Sở hữu tri thức bao gồm quyền sở hữu cụng nghiệp (quyền về phỏt minh - sỏng chế, về
nhón hiệu thương mại, bản quyền và các kiếu dáng công nghiệp ), ngày nay cũn tớnh thờm
phương pháp gây giống các loài cây, quyền về các hỡnh vẽ, mẫu vẽ, quyền về cỏc bản đồ vẽ
địa hỡnh, về cỏc chất bỏn dẫn Ngoài ra, cũn quyền về bớ mật thương mại.
5
Với tư cách là đối tượng sở hữu, tri thức là một sản phấm có đặc tính lũy tiến và rất khó
kiếm soát. Tri thức là một sản phấm không bị cạn kiệt khi sử dụng, có thể vô số người cùng
sử dụng một tri thức mà không ai mất phần. Một tri thức có thế thuộc quyền sở hữu của
nhiều người, một người có thể dùng nhiều lần mà không phái trả thêm tiền. Hơn nữa, càng
nhiều người sử dụng càng tăng hiệu quả (như mạng Internet). Người sau có thế kế thừa tri
thức của người đi trước đế sần xuất ra tri thức mới. Bởi vậy, tri thức cũng là một tài sản khó
kiếm soát nhất. Chi phí cho phát triến tri thức rất lớn, nhưng sản phẩm càng về sau càng rẻ.

Vớ dụ, chi phớ cho việc nghiên cứu đĩa chương trỡnh Window đầu tiên tổn phí hết 50 triệu
USD, nhưng đĩa thứ hai và các đĩa tiếp theo chỉ tốn 3 USD.
Khác với "lao động" và "vốn", việc sử dụng tri thức không làm nó mất đi và vỡ vậy, càng
nhiều người sử dụng càng đem lại lợi ích nhiều mà không tốn thêm chi phí. Người này sử
dụng không làm giảm khả năng sử dụng của người khác, vỡ vậy, tri thức cú tớnh khụng
cạnh tranh trong sử dụng.
Tri thức có tính không loại trừ với nghĩa là khi truyền bá và chuyển giao tri thức không
làm tri thức mất đi, vỡ vậy, một tri thức được xó hội hoỏ (nhiều người biết), người ta không
thể loại trừ người này sử dụng trong khi cho phép người khác được sử dụng (theo nghĩa tự
nhiên của nó). Trên thực tế, người ta có thề thông qua bản quyền đế cấm áp dụng.
Tri thức cũng có tính tích luỹ cao. Tri thức và thông tin không bị giảm đi theo thời gian sử
dụng (không khấu hao), mà luôn được tích luỹ thêm.
Trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế, dũng tri thức lưu chuyển nhanh khắp thế giới, lợi
ích thu được từ tri thức mới không nhất thiết sẽ thuộc về nơi đó phỏt minh ra chỳng, mà tuỳ
thuộc vào tri thức và kỹ năng tố chức sản xuất với chi phí thấp nhất và gắn kết được toàn bộ
các hoạt động của hệ thống tổ chức sản xuất. Thí dụ, Hoa Kỳ đó phỏt minh ra mỏy quay
phim và mỏy ghi õm, mỏy Fax, Hà Lan phỏt minh ra mỏy CD, nhưng phần lớn lợi nhuận
của sản phẩm này lại rơi vào tay Nhật Bản.
Các tính chất nêu trên của tri thức với tư cách là bộ
phận chủ yếu của lực lượng sản xuất trong nền kinh tế
tri thức quy định tính tất yếu phải có hỡnh thức sở hữu
tương ứng Dưới một hờnh thức nào đó, chế độ sở hữu phải
mang
tính chất xó hội. Tuy chưa phải la xó hội hoỏ sở hữu với nghĩa đen của từ này, nhưng sự
ra đời và ngày càng phát triển của những Công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia trong những
thập kỷ gần đây phần nào do tính tất yếu khách quan đó quy định. Đành rằng giò' đây, ở
một sổ nước rất coi trọng việc phát triển các doanh nghiệp vừa và nhở, nhưng xét về tính
chất sở hữu và quản lý, cỏc doanh nghiệp vừa và nhỏ đó vẫn nằm trong một hệ thống
chung, có sự liên kết và hỗ tương nhau rất chặt chẽ, chúng phụ thuộc vả ràng buộc lẫn nhau
tạo thành một chỉnh thể không phải chỉ ở quy mô quốc gia, mà cá quy mô quốc tế. Trong

giới hạn của chế độ sở hữu tư nhân, "xó hội húa về sở hữu”, với nghĩa là số người tham gia
vào sở hữu ngày càng táng, quy mô sở hữu ngày càng mở rộng đang là một xu thế phố biến,
nó làm cho việc sở hữu ấy mang tính xá hội (mặc dù vẫn thuộc những cá nhân cụ thể) và tri
6
thức được vận hành vỡ sự phỏt trien chung của toàn xó hội, tuy lợi ớch trục tiếp thuộc về
một số người.
Đối với trí tuệ, vấn đề bản quyền chỉ có giá trị trên phương diện pháp lý nhằm bảo đảm
lợi ích của chủ thể sáng tạo ra tri thức mới, của phát minh, sáng tạo chứ không làm cho trí
tuệ đó mang tính cá nhân. Nó chỉ thuộc cá nhân khi mới sáng tạo ra, sau đó nhanh chóng trở
thành của xó hội.
1.1.2.5. Đặc điếm mới của quan hệ tổ chức, quản lý trong nền kinh tế tri thức
Tác động của kinh tế tri thức đối với tố chức và quản lý rất rộng, trong đó, nổi bật nhất là
một số điểm chính sau đây:
Chủ thể và đối tượng quản lý: đại bộ phận là cụng nhõn cú học vấn.
Việc ỏp dụng cỏc thành tựu của cỏch mạng khoa học - cụng nghệ (nhất là cụng nghệ
thụng tin) vào quản lý đũi hởi chủ thế quản lý phải nõng cao trỡnh độ hiếu biết về nhiều
mặt. Cũn về đối tượng chịu sự quản lý, đúng như dự báo của C.Mác "toàn bộ quá trỡnh sản
xuất thỡ biếu hiện ra khụng phải như là một quá trỡnh phụ thuộc vào tài nghệ trực tiếp của
người công nhân, mà với tư cách là sự ứng dụng khoa học trong “lĩnh vực công nghệ" và
"biến quá trỡnh sản xuất từ chỗ là quo trờnh lao động giản đơn thành quá trỡnh khoa
học ", "do đó đến một giai đoạn nào đó, guồng máy có thể thay thế công nhân" và "theo đà
phát triển của đại công nghiệp, việc tạo ra của cải thực tế trở nên ít phụ thuộc vào thời gian
lao động và vào số lượng lao động đó chi phớ hơn là vào sức mạnh của những tác nhân
được khơi động trong thời gian lao động và bản thân những tác nhân ấy, đến lượt chúng
(hiệu quả to lớn của chúng) tuyệt đối không tương ứng với thời gian lao động trực tiếp cần
thiết đế sản xuất ra chúng, mà đúng hơn, chúng phụ thuộc vào trỡnh độ chung của khoa học
và vào sự tiến bộ của kỹ thuật, hay là phụ thuộc vào việc ứng dụng khoa học ấy vào sản
xuất". Vỡ thế, "lao động biếu hiện ra không phải chủ yếu là lao động được nhập vào quá
trỡnh sản xuất, mà chủ yếu là một loại lao động trong đó con người, trái lại, là người kiếm
soát và điều tiết bản thân quá trỡnh sản xuất" và "thay vỡ làm tởc nhõn chủ yếu của quở

trỡnh sản xuất, người công nhân lại đứng bên cạnh quá trỡnh ấy”.
Như trong bất kỳ nền kinh tế nào, đối tượng quản lý là quỏ trỡnh sản xuất, nhưng trong
nền kinh tế tri thức, quản lý trước hết và chủ yếu là quá trỡnh ứng dụng khoa học trong lĩnh
vục cụng nghệ, trong đó máy móc đó thay thế hầu hết lao động chân tay, cũn lao động sống
chủ yếu là lao động trí óc kiếm soát và điều tiết bản thõn quỏ trỡnh sản xuất.
1.1.2.6. Một phương thức to chức sản xuất mới ra đời
Đe thích ứng với đối tượng quán lý là cụng nhõn tri thức, sự thay đổi về phương pháp tố
chức công việc đó được tiến hành thử nghiệm:Sản xuất vừa đủ bắt nguồn tù' kiếu sản xuất
của hóng Toyota (triệt tiờu tồn kho, sản xuất theo đơn đặt hàng, thông tin, báo cáo theo
chiều dọc và nhân viên có thế đề xuất ý kiến cải tiến kết quả cụng việc và chất lượng).
Cơ cấu lại là lý thuyết nhằm vào cắt giảm chi phớ và hướng ngoại, liên quan chủ yếu đến
đội ngũ cán bộ khung, trong đó ứng dụng công nghệ thông tin đế tạo ra những dịch vụ mới,
7
phối họp kiếm tra công việc thông qua các mạng nội bộ chứ không cũn thụng qua cỏn bộ
trung gian.
Quản lý toàn diện chất lượng là lý thuyết phỏt triển sâu hơn một số điểm của lý thuyết sản
xuất vừa đủ như thoả món toàn bộ nhu cầu khỏch hàng và xoở bở tỡnh trạng lóng phớ.
Nhưng sáng tạo đa dạng về cơ cấu tổ chức đó đều tỡm cỏch đoạn tuyệt với với cái logic
của mô hỡnh kiểu Taylor (lợi ớch kinh tế nhờ quy mô, tiêu chuẩn hoá sản phẩm, mỗi nhân
viên một phận sự). Chính các phương thức linh hoạt đó tham gia trực tiếp vào quở trờnh
nõng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nhiều mụ hỡnh lý thuyết chứng minh
rằng, cụng nghệ thụng tin đang tạo điều kiện cho việc cấu trúc lại doanh nghiệp, đặc biệt là
khuyên khích phân cấp chức năng, hoặc tăng cường hiệu quả của tính đa năng trong doanh
nghiệp. Nói một cách khái quát, toàn bộ những lựa chọn của doanh nghiệp về chiến lược, tố
chức công việc hay về công nghệ sẽ mang tính chất bố sung, hồ trợ lẫn nhau. Như vậy, ý
tưởng, tố chức nhân lực triến khai ý tưởng, tố chức cách thức đùng vật lực (công nghệ) thực
hiện ý tưởng luôn có mối quan hệ biện chứng với nhau.
Đe kinh tế tri thức phát triển, phương pháp tố chức sản xuất mới từng bước thay thế
phương pháp Taylor trước đây. Đó là việc tổ chức ở cấp kinh tế vi mô, kết nối các Xí
nghiệp, Công ty, doanh nghiệp thành mạng lưới.

Từ đó giảm các khâu trung gian, chuyển giao nhiều trách nhiệm hơn cho cấp dưới và
ngược lại, cũng đũi hởi người lao động phải có năng lực cao hơn.
Trong thời đại hiện nay, sự phát triển của công nghệ thông tin đang tạo điều kiện cho việc
thực hiện các chu trỡnh sản xuất phi tập trung hơn, sự phối hợp giữa các công đoạn sản xuất
kinh doanh trở nên mềm dẻo hơn so với thời kỳ trước đây trong nền sản xuất đại trà.
1.1.2.7. Đặc điếm mới của quan hệ phân phối trong nền kinh tế tri thức
Khoảng cách giữa nước nghèo nhất và nước giàu nhất về thu nhập, tuổi thọ, giáo dục và
chất lượng cuộc sống đó ngày một rộng hơn trong quá trỡnh phỏt triển của nền kinh tế tri
thức. 20% dõn sổ thế giới hiện đang sống ở những nước có thu nhập cao nhất (hưởng 86%
GDP, 82% thị trường xuất khẩu hàng hoá và địch vụ, 68% đầu tư tù’ nước ngoài trực tiếp,
93,3% mạng lưới viễn thông toàn cầu).Trong khi đó, 20% dân số là những người nghèo khó
của thế giới chỉ được hưởng chưa đầy 1% thành quả trên.
Riêng về thu nhập, khoảng cách giữa 1/5 số người giàu nhất và 1/5 số người nghèo nhất
tăng tù' 30 lần (thập niên 60) lờn 74 lần (thập niờn 60).
Những nước phát triến mạnh kinh tế tri thức thường có tăng trưởng GDP cao, tỷ lệ thất
nghiệp giảm và đời sống của người lao động được nâng cao. Chang hạn, Oxtrâylia đó cú lỳc
là một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất thế giới (năm 1998 GDP tăng
4,9%). Một trong những nguyên nhân của thành công trên là Ôxtrâylia đó đi đầu trong ứng
đụng công nghệ cao, nhất là công nghệ thông tin. Vào tháng giêng 1999, trên 48. 000 doanh
nghiệp ở Ôxtrâylia đó cú cỏc địa chỉ miền riờng với mỏy chủ là cởc nhà cung cấp dịch vụ
Internet (ISP), ngoài ra cũn 50.000 địa chỉ Web thuộc các trang chủ khác trong các thư mục
8
cửa hàng hoặc khu buôn bán trên mạng. Hiện có hơn 640 ISP đang hoạt động ở Ôxtrâylia.
Doanh thu của các ngành công nghiệp thông tin của Ôxtrâylia trong những năm 1995 -
1996 là 47 tỷ USD Ôxtrâylia. Ôxtrâylia hiện chỉ tạo ra 1,2% GDP toàn cầu, nhưng lại tạo ra
tới 2,3% giá trị của ngành công nghiệp thông tin toàn cầu. Xuất khẩu công nghệ thông tin
đạt 4 tỷ USD Ôxtrâylia một năm.
Tỷ trọng các ngành công nghệ cao trong GDP của Phần Lan đó tăng gấp 5 lần trong 10
năm qua, và GNP trên đầu người tăng vọt. Đó là do Phần Lan đó đi nhanh vào công nghệ
thông tin, công nghệ sinh học. Phần Lan đạt tiêu chuẩn cao về giáo dục - đào tạo. Học sinh

tiếp cận với cụng nghệ thụng tin tù' khi cũn nhỏ. Tất cả cỏc trường đều truy cập mạng
Internet với tốc độ nhanh. Phần Lan đó đào tạo số cử nhân khoa học và công nghệ gấp 5 lần
số cử nhân luật.
Sigapore là một trong những bước đầu tiên hướng đến nền kinh tế tri thức. Năm 1992, kế
hoạch IT2000 được ban hành nhằm chuyến Singapore thành một “hũn đảo thông minh".
Ngày nay, một nửa số gia đỡnh đó cú mỏy vi tớnh cở nhõn và 1/5 số người dân dùng
Internet. Năm 1997, ngành công nghiệp thông tin Singapore có doanh thu 7,3 tỷ USD
(không tính các sản phẩm chế tạo và doanh thu của các nhà phân phối), 98% các gia đỡnh
Singapore đó truy cập mạng Internet Singapore one mạng kết nối toàn quốc duy nhất trờn
thế giới.
Các nước lạc hậu không vận dụng được công nghệ mới thường tăng trưởng chậm, thậm
chí suy thoái. Bởi vậy, cái gọi là sự phân cách về kỹ thuật số càng rộng và sự phân cực giàu
nghèo giữa các nước tiến lên kinh tế tri thức với các nước kém phát triến có khuynh hướng
ngày càng ra xa. Sự bất bỡnh đắng trong phân phối “cái bánh” toàn cầu hóa kinh tế tăng
lên.
1.1.2.8. Đặc điếm mới của cơ cẩu kinh tế trong nền kinh tế tri thức
Sự thay đổi về đổi tượng sở hữu, về tổ chức việc quản lý quỏ trỡnh sản xuất cú tỏc động
rất lớn tới sự chạy đối cơ cấu của nền kinh tế tri thức. Theo lý luận về kết cấu cỏc ngành
(khu vực) sản xuất của kinh tế truyền thống, cơ cấu nền kinh tế bao gồm: ngành sản xuất
thứ nhất là nông nghiệp, ngành sản xuất thứ hai là công nghiệp và ngành sản xuất thứ ba là
địch vụ. Dịch vụ đang nói ở đây là một khái niệm rộng, bao gồm dịch vụ đối với các ngành
sản xuất vật chất và bao gồm các loại dịch vụ đổi với đời sống và tiêu đùng của nhân dân
(như thương nghiệp, tiền tệ, vận tải, thông tin, thậm chí cả những hoạt động của khoa học,
giáo dục, những hoạt động của Chính phủ, toà án đều được gọi là ngành sản xuất thứ ba).
Sự phân loại ngành sản xuất thứ nhất, thứ hai, thứ ba và sự ra đời, sự tiến triển của các
ngành đó cung phản ánh một xu thế lịch sử, tức cái sau hơn cái trước - cả về chất lượng và
tốc độ. Riêng về tốc độ, chúng ta thấy rằng ngành sản xuất thứ hai có nhịp độ phát triển
nhanh hơn so với ngành sản xuất thứ nhất, ngành sản xuất thứ ba có nhịp độ tăng trưởng
nhanh hơn ngành thứ hai. Tỡnh hỡnh thực tế hiện nay của cỏc nước phát triển là tỷ trọng
ngành sản xuất thứ ba có thể chiếm tới 66,7% GDP. Dư luận chung hiện nay cho thấy, nhịp

độ tăng trưởng của giáo dục và khoa học trong ngành sản xuất thứ ba là hết sức nhanh, vị trí
ngày càng quan trọng. Cho nên có thế tách giáo đục, khoa học tù’ ngành sản xuất thứ ba ra
thành ngành sản xuất thứ tư.
9
Theo thống kờ của Tổ chức Hợp tỏc Phỏt triển Kinh tế ( OECD), tỷ lệ đóng góp của
ngành dịch vụ Hoa Kỳ vào GNP từ 50% tăng lên 80%, trong đó 63% dịch vụ là thuộc dịch
vụ kỹ thuật cao. Cũn theo đánh giá của Ngân hàng thế giới, 64% của cải thế giới hiện nay là
do “vốn nhân lực" cấu thành. Trên 80% công việc trong các ngành của Hoa Kỳ về bản chất
là công việc "lao động trí óc". Trong nền kinh tế tri thức, hàm lượng tri thức trong các yếu
tổ sản xuất ngày càng tăng, các ngành kinh tế tri thức (những ngành dựa vào các thành tựu
mới nhất của khoa học và công nghệ) và cả nhưng ngành truyền thống (như nông nghiệp,
công nghiệp, dịch vụ, được cải tạo bằng ứng đụng thành tựu khoa học và công nghệ) ngày
càng chiếm tỷ trọng cao trong nền kinh tế quốc dân. Sản xuất công nghệ trở thành loại hỡnh
sản xuất quan trọng nhất, tiờn tiến nhất, tiờu biểu cho nền kinh tế tri thức. Ớ những nước
công nghiệp phát triển cao (ở Bắc Mỹ và Tây Âu), những ngành chủ yếu dựa vào công nghệ
thông tin đó chiếm khoảng 45% đến 50% GDP. Một số điều trỡnh bày trờn đây được rút ra
từ nhiều tư liệu khác nhau nhằm giúp bạn đọc có được một ý niệm nào đó về một lĩnh vực
mới mẻ đối với nước ta - kinh tế tri thức.
Như vậy cỏc nhà khoa học cũn cú những khỏi niệm khỏe nhau về kinh tế tri thức, nhưng
đó cú thế thống nhất với nhau về một số đặc điếm cơ bản, đó là:
- Trong nền kinh tế tri thức, cơ cấu sản xuất và nền tảng của sự tăng trưởng kinh tế
ngày càng dựa vào việc ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ, nhất là
công nghệ cao;
- Tỷ trọng GDP hoặc tỉ trọng ngành nghề đều có sự chuyển dịch dần từ sản xuất vật
chất sang hoạt động xử lý thông tin là chủ đạo.
- Sản xuất ra cụng nghệ trở thành sản xuất quan trọng nhất vad tiờu biếu nhất;
- Từ tổ chức sản xuất theo quy mụ lớn, nhất thể húa chuyển sang tổ chức sản xuất
phõn tỏn theo cấu trỳc mạng và linh hoạt theo yờu cầu của khởch hàng.
- Xu thế toàn cầu hóa, nhất thế các nền kinh tế quốc gia và khu vục tăng nhanh kèm
theo hai mặt: cạnh tranh khốc liệt và họp tác hiệu quả;

- Quỏ trỡnh tin học húa cởc khõu sản xuất, dịch vụ và quản lý là cốt lừi của quỏ
trỡnh chuyến sang nền kinh tế tri thức;
- Tri thức là vốn quý giỏ nhất; quyền sơ hữu trí tuệ trở thành quan trọng nhất và sáng
tạo là động lực chủ yếu thúc đấy sự phát triển;
- Học tập và học tập thường xuyên, học tập suốt đời là đặc điếm nối bật của xó hội
và nền kinh tế tri thức.
Với cách hiếu như vậy, kinh tế tri thức sẽ làm cho diện mạo và cơ cấu kinh tế thế giới
thay đối một cách căn bản và sâu sắc trong thế kỷ tới. Các siêu cường quốc, đắc biệt là Hoa
Kỳ, với tiềm lực kinh tế, đặc biệt là tiềm lực khoa học và công nghệ hùng hậu của mỡnh
đang ráo riết tập trung phát triển nền kinh tế tri thức như một chiến lược đảm bảo vị thế
lónh đạo, chi phối trật tự thế giới. Các nước công nghiệp mới đang tỡm thấy trong nền kinh
tế tri thức một sung lực mới, động lực quyết định để đuổi kip các nước công nghiệp phát
triển. Các nước phương Nam nhỡn nhận kinh tế tri thức với cỏc nguy cơ và thách thức lớn
lao. Song cũng có nhiều nước vừa ý thức được rất rừ những thỏch thức thực sự, đồng thời
vừa nhận thấy nền kinh tế tri thức là một thời cơ chiến lược giúp họ thoát khỏi đói nghèo,
lạc hậu và chậm phát triển. Với quan niệm: kinh tế tri thức là sản phẩm của sự phát triển
1
0
chung của toàn nhân loại, xu hướng phát triển dựa trên tri thức - cái tinh túy nhất của Con
người, của
nhân loại, nguồn lực có khả năng tái sinh mạnh mẽ nhất - là một xu hướng tất yếu.
II.2. Thực trạng của nền kinh tế tri thức ở Việt Nam.
II.2.1. Những việc đã làm được
Đánh giá theo những đặc trung của kinh tế tri thức, trong gần 20 năm đối mới
vừa qua, Việt Nam đâ đạt được những kết quả, thế hiện chủ yếu như sau:
- Thứ nhất, tăng trưởng kỉnh tế và chuyến dịch cơ cấu kinh tế:
Liên tục trong nhiều năm, Việt Nam duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế
cao và ổn định, đạt trung bình khoảng hơn 8% hàng năm trong giai đoạn 1990- 2000
và hơn 7% trong giai đoạn từ năm 2001 đến nay. GDP thực tế trên đầu người đạt
trung bình hàng năm khoảng 5,9% trong giai đoạn 1990- 2002. Tăng trưởng cao và

ổn định đã có những tác động lan toả tích cực đến các khía cạnh khác của đời sống
kinh tế- xã hội.
Bên cạnh tốc độ tăng trưởng cao, cơ cấu kinh tế của nước ta trong những năm
qua đã có sự chuyển dịch, với tỷ trọng các lĩnh vực kinh tế có giá trị gia tăng cao,
trong đó có những lĩnh vực dựa nhiều vào tri thức, ngày càng tăng. Tỷ trọng nông-
lâm- ngư nghiệp trong GDP đã giảm đều đặn và tỷ trọng công nghiệp- xây dựng và
dịch vụ đã tăng lên tương ứng (Bảng 1). Một số lĩnh vực như công nghiệp thông tin,
công nghiệp công nghệ cao, các lĩnh vực dịch vụ dựa vào xử lý thông tin, tài chính
ngân hàng, giáo dục đào tạo, nghiên cứu phát triển công nghệ đã dần dần hình
thành và có bước phát triển đáng kế. Những lĩnh vực này được chờ đợi trở thành đầu
tàu thúc đấy phát triển, đối mới toàn bộ nền kinh tế.
Báng 1. Tỷ trọng các ngành trong GDP (%)
Các ngành/năm 1986 1990 1995 2000 2003
Nông - lâm- ngư nghiệp 38,06 38,74 27,18 24,30 21,80
Công nghiệp - xây dựng 28,88 22,67 28,76 36,61 40,00
Dich vu 33,06 38,59 44,06 39,09 38,20
Nguồn: Tống cục Thống kê.
- Thứ hai, xây dụng thê chế kinh tế thị trường, tạo điểu kiện thuận lợi cho sự
phát triến của khu vực kinh tế tư nhân:
Việt Nam đã đạt được những kết quả quan trọng trong việc xây dựng hệ
thống pháp luật kinh tế thị trường, cải cách tố chức và hoạt động bộ máy nhà nước,
tăng cường năng lực, tính năng động và tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ,
công chức, chú trọng hỗ trợ cho các doanh nghiệp mới và tạo cuộc sổng tổt hơn cho
người dân; cơ cấu lao động thay đối với sự từng bước
gia tăng của lực lượng lao động xử lý thông tin, làm dịch vụ, di chuyển sản phẩm, làm văn
phòng, (còn gọi là lao động tri thức).
Đặc biệt, trong những năm gần đây, với sự ra đời của Luật Doanh nghiệp, khu vực
kinh tế tư nhân đã có bước phát trien mạnh. Trong giai đoạn 2000- 2003, trung bình hàng
1
1

năm có khoảng 20.000 doanh nghiệp dân doanh thành lập mới, với số vốn đăng ký đầu tư
hơn 40.000 tỷ đồng và giải quyết việc làm cho hơn 1 triệu lao động. Các doanh nghiệp dân
doanh đã tham gia vào hầu hết các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế, với tổ chức sản
xuất- kinh doanh linh hoạt, nỗ lực cải tiến công nghệ, tăng năng suất, thâm nhập thị trường.
Tình hình đó càng đòi hỏi phát triển thị trường hàng hoá và thị trường vốn, thị trường sức
lao động, thị trường bất động sản, thị trường khoa học và công nghệ , góp phần làm tăng
phạm vi, quy mô và mức độ thị trường hoá nền kinh tế nước ta.
- Thứ ba,chủ động hội nhập kỉnh tế quốc tế:
Các quan hệ kinh tế song phương và đa phương của Việt Nam không ngừng được
mở rộng thông qua việc ký kết và tham gia vào các hiệp định và diễn đàn như: ký Hiệp định
khung với Liên minh Châu Au (EU) (1992); tham gia Khu vục Thương mại Tự do ASEAN
(AFTA) (1996); tham gia Diễn đàn Họp tác Kinh tế Châu á- Thái Bình Dương (APEC)
(1998); ký Hiệp định Thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ (2000); và từ năm 1995 đang trong
quá trình đàm phán gia nhập WTO.
Ket quả là cho đến nay, lần đầu tiên nước ta đã thiết lập được mối quan hệ bình
thường với tất cả các nước lớn, các nhóm nước và trung tâm kinh tế, tài chính lớn trên thế
giới. Điều này đã đóng góp đáng kế cho phát triển kinh tế, như: tiếp nhận một khối lượng
vốn lớn FDI, ODA; tiếp nhận chuyến giao công nghệ, tăng năng suất lao động; có nguồn
vốn để xoá đói giảm nghèo; mở rộng thị trường tiêu thụ, tăng kim ngạch xuất khẩu; tăng vị
thế của nước ta trên thị trường quốc tế Nước ta đang từng bước trở thành một mắt khâu
trong mạng lưới sản xuất- kinh doanh toàn cầu, trong đó có những hoạt động liên quan đến
sự sản sinh truyền bá và sử dụng tri thức.
- Thứ tư, từng bước hình thành kết cấu hạ tầng then chốt cho kinh tế tri
thức:
Mạng thông tin được đánh giá là một trong những kết cấu hạ tầng quan trọng nhất
của xã hội và nền kinh tế tri thức. Trong những năm qua, nhờ những nồ lực thực hiện
Chương trình quốc gia về công nghệ thông tin (từ năm 1995) và chiến lược đẩy nhanh phát
triển lĩnh vực viễn thông, mạng thông tin ở nước ta đã được hình thành và mở rộng nhanh
chóng, và viễn thông được đánh giá là một trong những lĩnh vục có tốc độ phát trien và đuối
kịp nhanh nhất của nền kinh tế. Hiện nay, mạng lưới viễn thông của Việt Nam đã được tụ’

động hoá hoàn toàn với 100% các hệ thống chuyến mạch sổ và truyền dẫn sổ trải rộng trên
toàn quốc và kết nổi với quốc tế. Một loạt các dịch vụ bưu chính, viễn thông và Internet đã
được tạo lập và mở rộng đế đáp ứng nhu cầu của khách hàng, phục vụ các hoạt động sản
xuất- kinh doanh, quản lý nhà nước, giáo dục, y tế, nghiên cứu, giải trí, giao tiếp
Nhiều doanh nghiệp đã nhận thấy cơ hội tốt của thương mại điện tử và đã bắt đầu áp
dụng phương thức kinh doanh mới này, như các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet,
các doanh nghiệp kinh doanh về dịch vụ và du lịch, các doanh nghiệp xuất nhập khấu, các
doanh nghiệp có nhu cầu thông tin nhanh, kịp thời về thị trường thế giới, và các doanh
nghiệp kinh doanh các dịch vụ sản phẩm công nghệ cao như tin học, điện tử viễn thông, tư
vấn, thị trường, giá cả Nhiều cơ quan nhà nước cũng từng bước nghiên cứu áp dụng công
nghệ thông tin vào hoạt động quản lý trong một số lĩnh vực, điển hình là đăng ký kinh
doanh.
1
2
II.2.2. Những việc có thể làm, nhưng chưa làm được.
Cũng đánh giá theo những đặc trung chủ yếu của kinh tế tri thức, trong những năm
qua, có những việc chúng ta có thế làm, hoặc có thế làm tốt hơn, nhưng chưa làm được thể
hiện chủ yếu như sau:
- Thứ nhất, chất lượng tăng trưởng kinh tế còn thấp và chưa được cải thiện nhiều:
Chất lượng tăng trưởng kinh tế chưa cao thế hiện ở chỗ hiệu quả nền kinh tế còn
thấp, năng lực cạnh tranh của các ngành kinh tế còn yếu, chuyến dịch cơ cấu kinh tế còn
chậm và chênh lệch về thu nhập giữa các bộ phận dân cư có xu hướng gia tăng. Môi trường
đầu tư không ốn định và năng lực yếu kém của bộ máy hành chính đã làm tăng đáng kể chi
phí giao dịch và chi phí đầu vào sản xuất- kinh doanh. Việc phân biệt đối xử trong thực tế
giữa các thành phần kinh tế, chậm cải cách và tiếp tục bao cấp cho doanh nghiệp Nhà nước,
duy trì nhiều độc quyền và bảo hộ không có thời hạn và mục tiêu cụ thế dẫn tới sử dụng
không hiệu quả các nguồn lực, giảm năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, tăng trưởng không
bền vũng, tạo điều kiện và sơ hở cho tệ nạn tham nhũng và những tiêu cực khác. Việc tiếp
tục theo đuối phương thức tăng trưởng chủ yếu dựa vào lợi thế so sánh tĩnh tăng vốn đầu tư
trong nhiều năm qua khó có thế bảo đảm được mức tăng trưởng cao trong dài hạn, nhất là

trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
- Thứ hai, nền kinh tế thị trường và thê chế kinh tế thị trường còn non yếu, thiếu sót
và nhiều méo mó
Hệ thống thể chế kinh tế thị trường ở nước ta nhiều mặt, nhiều lĩnh vực chưa theo
kịp diễn biến thực tế của các hoạt động kinh tế, chưa đầy đủ, chưa đồng bộ, mâu thuẫn,
chồng chéo, không minh bạch, và nhất là năng lực thực thi pháp luật còn yếu. Cải cách
hành chính diễn ra chậm chạp, khiến cho năng lực hỗ trợ của nền hành chính cho phát triến
kinh tế bị hạn chế nghiêm trọng, thậm chí trong nhiều trường hợp các thủ tục hành chính lạc
hậu, rườm rà còn gây cản trở cho công cuộc phát triển.
Một số thị trường rất quan trọng mới chỉ được hình thành rất sơ khai mà đã nhiều
méo mó, trong đó có thị trường khoa học và công nghệ. Hàng hoá trên thị trường khoa học
và công nghệ còn nghèo nàn, lượng giao dịch trên thị trường còn ít và đơn điệu. Các yếu tố
cấu thành của thị trường, đặc biệt là hàng hoá, các chủ thế cung, cầu và các dịch vụ hồ trợ
thị trường đều yếu. Thị trường khoa học và công nghệ Việt Nam chưa trở thành môi trường
cần thiết để khuyến khích sự sáng tạo và đổi mới.
- Thứ ba, quá trình chuẩn bị hội nhập kinh tế quốc tế chưa mạnh và chưa đồng đều:
Quá trình phát triển nhận thức về toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế còn chậm
trong các cấp, các ngành, thiếu sự thống nhất và quyết tâm cao từ trên xuống dưới. Việc chỉ
đạo và phối hợp thực hiện giữa các ngành, các cấp nhiều khi còn chệch choạc, thiếu nhất
quán; đặc biệt, nước ta chưa hình thành được một kế hoạch tống thế về hội nhập kinh tế
quốc tế cũng như chưa có lộ trình hợp lý thực hiện các cam kết quốc tế, do đó chưa gắn kết
được một cách hài hoà các lộ trình hội nhập ở các cấp độ và quy mô khác nhau: song
phương, tiểu khu vực, khu vực, liên khu vục và toàn cầu.
Tính chủ động của nhiều cấp, nhiều ngành cũng như của doanh nghiệp trong hội
nhập kinh tế quốc tế chưa cao, thậm chí còn khá bị động trong nhiều lĩnh vục, mong muốn
1
3
tiếp tục nhận được sự bảo hộ từ phía Nhà nước. Sự bảo hộ này đã hạn chế cạnh tranh, tăng
thêm sức ì và gánh nặng đối với nền kinh tế, đồng thời tác động bất lợi đến quá trình hoạch
định chính sách.

Thứ tư, các lĩnh vực biếu hiện đặc trưng của kinh tế tri thức chưa phát triển:
Các ngành mới, đại diện cho kinh tế tri thức (hay gòn gọi là các ngành công nghệ
cao) hoặc chưa hình thành hoặc mới ở trình độ phát triến rất sơ khai. Số doanh nghiệp đầu
tư mạo hiểm, đầu tư cho nghiên cứu và triển khai (R&D) nhằm tạo ra công nghệ mới là
không đáng kế. Đây chủ yếu là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, còn Việt Nam
chỉ có một số doanh nghiệp nhà nước lớn có cơ sở hoạt động và nghiên cứu phát triển công
nghệ, nhưng lượng vốn đầu tư cho R&D của các doanh nghiệp này chỉ đạt khoảng 0,2%
doanh thu, quá thấp so với tỷ trọng 5-10% của doanh nghiệp tại các nước phát triển. Trong
khi đó, khu vực doanh nghiệp tư nhân trong nước hầu như chưa tham gia hoạt động R&D.
Tri thức chưa thực sự trở thành nguồn vốn quý, ý thức xã hội và thể chế pháp lý về quyền
sở hữu trí tuệ còn quá kém, những người có khả năng tạo ra tri thức chưa hình thành được
thói quen đăng ký bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cho sản phâm khoa học và công nghệ của
mình.
ứng dụng công nghệ thông tin trong đời sống kinh tế- xã hội còn rất hạn chế. Mạng
thông tin đa phương tiện tuy đã và đang được mở rộng khá nhanh, nhưng chưa bao phủ
được khắp toàn quốc, chưa kết nối được đến hầu hết các tố chức và các hộ gia đình. Bên
cạnh đó, sự tiếp cận với mạng thông tin còn gặp phải nhiều ràng buộc liên quan đến các
khía cạnh về cơ sở vật chất kỹ thuật, các thủ tục hành chính, pháp lý, giá cước Điều này
ảnh hưởng lớn đến sự tiếp cận của các thành viên trong xã hội với những thông tin cần thiết.
Các phương thức kinh doanh mới như thương mại điện tử, thị trường ảo, tổ chức ảo, doanh
nghiệp ảo, làm việc từ xa còn ở trình độ manh nha, thậm chí mới có trong mong muốn,
trong lời nói, trong bài viết, chưa có trong thực tế.
Nen giáo dục, đào tạo của nước ta đang chứa đựng nhiều vấn đề bức xúc, bộc lộ những yếu
kém dai dẳng trong nhiều năm chưa khắc phục được. Sự chậm đối mới về phương pháp dạy
và học, nội dung chương trình, các hiện tượng chạy theo thành tích, dạy thêm học thêm tràn
lan đã được đề cập, bàn bạc nhiều, nhưng chưa có những giải pháp hữu hiệu. Công tác xã
hội hoá giáo dục diễn ra chậm, sự phân biệt đối xử đối với các cơ sở giáo dục ngoài công
lập góp phần kìm hãm sự phát triển giáo dục. Thực tế đó đã ảnh hưởng trực tiếp đến
nguồn nhân lực của Việt Nam, một nguồn nhân lực dồi dào về sổ lượng lao động nhưng lại
thiếu trầm trọng nguồn lao động có chất lượng. Trên thị trường lao động của Việt Nam đang

rất thiếu các chuyên gia về quản trị kinh doanh, các lập trình viên, kỹ thuật viên, các nhà
quản lý trung gian hiếu biết về tài chính và tiếp thị với yêu cầu cơ bản về tiếng Anh, những
công nhân có tay nghề cao, ham học hỏi. Với thực trạng yếu kém như vậy, rất khó có thế
hình thành được ở Việt Nam một xã hội học tập và một đội ngũ đông đảo các lao động tri
thức.
II.3. Triển vọng từng bước phát triển kinh tế tri thức ở Việt
Nam.
Vì là một nước đang phát triển và đang chuyên đổi, nên quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá ở nước ta là một quá trình thực hiện đồng thời ba nhiệm vụ: chuyên từ kinh tế nông
1
4
nghiệp sang kinh tế công nghiệp và từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức cùng một
lúc và trong quan hệ thúc đây lân nhau với việc chuyên từ kinh tế kế hoạch tập trung quan
liêu bao cấp sang kỉnh tế thị trường định hưóĩig XHCN. Ba nhiệm vụ ấy phải được thực
hiện đồng thời, lồng ghép vào nhau, hỗ trợ nhau, bố sung cho nhau. Định hướng cực kỳ
quan trọng là phải nắm bắt các tri thức và công nghệ mới nhất của thời đại để hiện đại hoá
nông nghiệp và các ngành kinh tế hiện có, đồng thời phát triển nhanh các ngành công
nghiệp và dịch vụ dựa vào tri thức, vào khoa học và công nghệ, chuyến dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng tăng nhanh các ngành kinh tế tri thức.
Như vậy, những nội dung công việc then chốt cần làm đế tòng bước phát triển kinh
tế tri thức ở nước ta đã phần nào được định hình. Nhóm công việc thứ nhất là thực hiện các
chủ trương và biện pháp công nghiệp hoá, hiện đại ho á đã được quyết định trong những
văn kiện chính thức của Đảng và Nhà nước ta. Nhóm công việc thứ hai, gắn kết mật thiết
với nhóm công việc thứ nhất, có phần hai nhóm lồng vào nhau, là tạo lập các yếu tố cơ bản
ban đầu đế “từng bước phát triển kinh tế tri thức” và đấy mạnh phát triển một số ngành, lĩnh
vực của kinh tế tri thức. Cách thức và bước đi của việc thực hiện hai nhóm công việc này sẽ
được trình bày rõ hơn dưới đây.
III, Một số đề xuất giải quyết nhằm phát triển nền kinh tế tri thức ỏ’ Viêt
Nam.
- Thứ nhất, về phương diện xây dựng, hoạch định chủ trương, chính sách, cần tiến

hành soát xét lại toàn bộ các chủ trương, chính sách đối mới và phát triển đất nước từ nay
đến năm 2010, từ đó điều chỉnh và bổ sung những điều cần thiết, đặc biệt là 7 loại việc quan
trọng:
(1) Xác định chủ trương và biện pháp công nghiệp hoá, hiện đại hoá rút ngắn
(2) Mở mang nền kinh tế thị trường văn minh.
(3) Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
(4) Phát triển khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ thông tin viễn thông và công nghệ
sinh học.
(5) Cải cách cơ bản và toàn diện giáo dục và đào tạo.
(6) Phát triển văn hoá và xã hội, phát huy mặt tốt đẹp, đẩy lùi các tệ nạn và hiện tượng tiêu
cực.
(7) Đổi mới thế chế quản lý và cải cách hành chính.
Thực hiện có hiệu quả những chủ trương vừa nêu trên là quá trình tiếp tục đối mới
chính sách, tạo lập khung khổ pháp lý mới, hình thành đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa; chăm lo nâng cao dân trí, phát triến nguồn nhân lực,
đào tạo nhân tài; tăng cường năng lực khoa học và công nghệ và thiết lập hệ thống đối mới
quốc gia hữu hiệu; đây mạnh ứng dụng và phát triến công nghệ thông tin phục vụ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Song hành với quá trình trên đây, chúng ta cần sớm nghiên cún, xây dựng và bắt tay
thực hiện một chiến lược, hoặc ít ra là khung chiến lược tòng bước phát triển kinh tế tri thức
ở Việt Nam.
1
5
- Thứ hai, chăm lo phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài. Trong
những năm tới phải tăng mạnh đầu tư để phát triển giáo dục và phải tiến hành một cuộc cải
cách giáo dục mới. Trong một thời gian ngắn phấn đấu để phổ cập giáo dục trung học cơ sở
trong toàn quốc, phổ cập trung học phố thông trong các thành thị, khu công nghiệp và vùng
đồng bằng đông dân, tăng nhanh đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật và công nhân
lành nghề, đội ngũ cán bộ quản lý, cỏc doanh gia.
- Thứ ba, tăng cường năng lực khoa học và công nghệ quốc gia đế có thế tiếp thu,

làm chủ, vận dụng sáng tạo các tri thức khoa học và công nghệ mới nhất của thế giới cần
thiết cho sự phát triển nước ta, từng bước sáng tạo những công nghệ mới đặc thù của nước
ta, xây dựng nền khoa học và công nghệ tiên tiến của Việt Nam.
Thứ tư, đay mạnh ứng dụng và phát triến công nghệ thông
tin phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Công nghệ
thông tin là chỡa khoở đế đi vào kinh tế tri thức. Muốn
rút ngắn quá trỡnh cụng nghiệp hoỏ, hiện đại hoá, rút
ngắn khoảng cách với các nước, phải khắc phục khoảng
cách về công nghệ thông tin. Trước năm 2010 trỡnh độ
công nghệ thông tin của Việt Nam phải đạt mức tiên tiến
trong khu vực.
c, KẾT LUẬN.
Sự trình bày trên đây làm nổi rõ một vấn đề quan trọng: Phải chăng chiến lược (hoặc
chủ trương và biện pháp) từng bước phát triển kinh tế tri thức ở Việt nam chính là toàn bộ
chiến lược (hoặc toàn bộ chủ trương và biện pháp) phát triến kinh tế, xã hội của Việt nam?
về vấn đề này, hiện nay trong các nhà nghiên cứu hoạch định chính sách của nước ta,
có hai ý kiến khác nhau: Một số nhà nghiên cứu cho là đúng như vậy, chỉ cần trong mọi
hoạt động phát triển kinh tế, xã hội, ở mọi ngành, mọi vùng, kể cả những ngành và vùng
đang kém phát triển nhất, chúng ta luôn luôn chú trọng tăng thêm hàm lượng tri thức, cả về
phần cứng của thiết bị, công cụ, phương tiện và về phần mềm của kỹ năng, bí quyết và quản
lý, cứ thế mà tiến dần lên. Một số nhà nghiên cứu khác cho rằng quan niệm và hành động
như vậy về từng bước phát triển kinh tế tri thức thì ôm đồm, tùm lum quá, mà ít nhất là
trong chừng 10 năm tới, chỉ nên coi chiến lược từng bước phát triến kinh tế tri thức ở nước
ta như một bộ phận, dù là một bộ phận rất quan trọng, song chỉ là một bộ phận, của chiến
lược tống thế phát triến kinh tế, xã hội; chiến lược bộ phận ấy nhằm cải cách cơ bản và phát
triến giáo dục, đấy mạnh nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ, tạo lập văn hoá
đối mới và sáng tạo trong xã hội ta, xây dựng hệ thống đối mới quốc gia, phát triển một số
ngành công nghệ cao có sức lan tỏa rộng.
1
6

Danh mục những tài liệu tham khăo
1, Phạm Ngọc Quang, Kinh tế tri thức xét từ giác độ QHSX và LLSX, Tạp chí
Triết Học, ngày 8/10/2006.
2, Trung tâm thông tin tư liệu KH&CN Quốc Gia, Kỷ yếu hội thảo khoa học
Kinh Tế Tri Thức, VDC Media, Năm 2001
3, Vũ Đỡnh Cự - Trần Xuõn sầm, Lực lượng sản xuất mới và kinh tế tri thức,
Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Tháng 11 năm 2006.
4, CIEM, Trung Tâm Thông Tin - Tư Liệu.

×