Tải bản đầy đủ (.pdf) (148 trang)

Nghiên cứu, đánh giá nguồn lợi sứa vùng ven biển việt nam, đề xuất giải pháp khai thác và bảo vệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (9.14 MB, 148 trang )


BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
VIỆN NGHIÊN CỨU HẢI SẢN
224 Lê Lai, Hải Phòng








BÁO CÁO
TỔNG KẾT KHOA HỌC KỸ THUẬT ĐỀ TÀI

NGHIÊN CỨU, ĐÁNH GIÁ NGUỒN LỢI SỨA VÙNG VEN BIỂN
VIỆT NAM, ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP KHAI THÁC VÀ BẢO VỆ

(Đề tài độc lập cấp Bộ)





Chủ nhiệm đề tài: TS. Nguyễn Dương Thạo




9211




Hải Phòng, tháng 12 năm 2011


BNN&PTNT
VNCHS
BNN&PTNT
VNCHS

BNN&PTNT
VNCHS

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
VIỆN NGHIÊN CỨU HẢI SẢN
224 Lê Lai, Hải Phòng








BÁO CÁO
TỔNG KẾT KHOA HỌC KỸ THUẬT ĐỀ TÀI

NGHIÊN CỨU, ĐÁNH GIÁ NGUỒN LỢI SỨA VÙNG VEN BIỂN
VIỆT NAM, ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP KHAI THÁC VÀ BẢO VỆ


(Đề tài độc lập cấp Bộ)




Chủ nhiệm đề tài: TS. Nguyễn Dương Thạo







Hải Phòng, tháng 12 năm 2011

© Bản quyền thuộc Viện Nghiên cứu Hải sản.
Đơn xin sao chép toàn bộ hoặc từng phần tài liệu này phải được gửi đến Viện
trưởng VNCHS trừ trường hợp sử dụng bởi mục đích nghiên cứu.
BNN&PTNT
VNCHS
BNN&PTNT
VNCHS

BNN&PTNT
VNCHS
i
DANH SÁCH NHỮNG NGƯỜI THỰC HIỆN CHÍNH ĐỀ TÀI
TT Họ và tên Cơ quan công tác
1 TS. Nguyễn Dương Thạo Viện Nghiên cứu Hải sản, Bộ NN&PTNT
2 ThS. Nguyễn Công Thành - nt -

3 KS. Nguyễn Xuân Phúc - nt -
4 KS. Trương Văn Tuân - nt -
5 KS. Nguyễn Văn Quảng - nt -
6 KS. Vũ Minh Hào - nt -
7 KS. Thái Thị Kim Thanh - nt -
8 KS. Đỗ Thị Tuyết - nt -
9 KS. Nguyễn Đắc Thắng - nt -
10 ThS. Từ Hoàng Nhân - nt -
11 ThS. Trần Văn Cường - nt -
12 ThS. Nguyễn Phi Toàn - nt -
13 ThS. Phạm Văn Tuyển - nt -
14 KS. Phan Đăng Liêm - nt -
15 KS. Bùi Nam Thanh - nt -
16 KS. Nguyễn Ngọc Sửa - nt -
17 KS. Lại Huy Toản - nt -
18 KS. Phạm Văn Long - nt -
19 KS. Đỗ Văn Thành - nt -
20 ThS. Nguyễn Hoàng Minh - nt -
21 ThS. Nguyễn Văn Hướng - nt -
22 TS. Chu Văn Thuộc Viện Tài nguyên và Môi trường biển,
Viện KH&CN Việt Nam
ii
TÓM TẮT BÁO CÁO TỔNG KẾT
Nhóm Sứa có giá trị kinh tế (Sứa thủy sản) là động vật phù du biển thuộc
ngành Xoang tràng, có trữ lượng khá lớn ở biển nước ta. Sứa dùng để chế biến
đặc sản có giá trị kinh tế cao. Những năm gần đây, Sứa đã trở thành nguồn lợi
hải sản quan trọng, là đối tượng khai thác với vốn đầu tư thấp nhưng cho thu
nhập cao c
ủa ngư dân nhiều tỉnh ven biển. Tuy nhiên, những nghiên cứu về Sứa
còn rất hạn chế; hiện chưa có được thông tin đầy đủ về thành phần loài Sứa kinh

tế quan trọng, chưa có được số liệu
về nguồn lợi và hiện trạng khai thác Sứa ở
vùng ven biển Việt Nam.
Đề tài “Nghiên cứu, đánh giá nguồn lợi Sứa vùng ven biển Việt Nam, đề
xuất giải pháp khai thác và bảo vệ” được thực hiện từ tháng 1/2009 - 12/2011.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là toàn bộ vùng ven biển Việt Nam từ độ sâu 30m
trở vào bờ. Mục tiêu chính của đề tài là đánh giá được nguồn lợi và hiện trạng
khai thác nhóm Sứ
a kinh tế (chủ yếu là Sứa trắng, Sứa rô, Sứa đỏ,…) ở vùng ven
biển Việt Nam, đề xuất được các giải pháp về quản lý, khai thác hợp lý và bảo vệ
nguồn lợi Sứa biển.
Các phương pháp điều tra, nghiên cứu, tính toán mà đề tài sử dụng là
chuyên ngành, theo các quy trình, quy phạm, tiêu chuẩn của quốc gia, của ngành
thủy sản.
Kết quả nghiên cứu của đề tài đã xác định được thành phần, phân b
ố, trữ
lượng, mùa vụ và khả năng khai thác 4 loài Sứa kinh tế quan trọng ở vùng ven
biển nước ta là Sứa trắng (Rhopilema hispidum), Sứa rô (Crambione
mastigophora), Sứa đỏ (Rhopilema esculentum) và Sứa Lobonema smithii; đã xác
định được 4 yếu tố sinh thái của môi trường có liên quan từ tương đối mật thiết
đến mật thiết với nguồn lợi Sứa biển; đó là nhiệt độ không khí, nhiệt độ nước
biể
n, độ muối nước biển và số lượng động vật phù du. Đề tài đã tiến hành điều
tra, đánh giá được hiện trạng khai thác Sứa ở các tỉnh ven biển Việt Nam, đánh
giá được hiệu quả kinh tế của các đội tàu và các nghề khai thác; tìm hiểu ảnh
hưởng của Sứa đối với hoạt động du lịch - tắm biển. Dựa trên kết quả điều tra,
nghiên cứu,
đề tài đã đề xuất được các giải pháp khai thác hợp lý và bảo vệ
nguồn lợi Sứa biển, đề xuất các biện pháp hạn chế tác hại của Sứa và bảo đảm an
toàn cho du khách khi tắm biển.

Nhìn chung, đề tài đã hoàn thành toàn bộ nội dung nghiên cứu theo tiến độ
và đạt được mục tiêu đề ra, các số liệu điều tra khảo sát có độ tin cậy cao. Kết
quả nghiên cứu của đề tài có ý ngh
ĩa quan trọng, là cơ sở khoa học và thực tiễn
cho việc khai thác hợp lý và bảo vệ nguồn lợi Sứa biển, góp phần phát triển kinh
tế - xã hội, phân công lại lao động, chuyển dịch nhiều nghề khai thác hải sản ở khu
vực gần bờ sang khai thác Sứa để bảo vệ và tái tạo nguồn lợi.

iii
MỤC LỤC
Nội dung Trang
BẢNG CHÚ GIẢI CÁC CHỮ VIẾT TẮT vi
DANH MỤC CÁC BẢNG vii
DANH MỤC CÁC HÌNH ix
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
1
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU NGOÀI NƯỚC 2
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC 9
2. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI
11
3. CÁCH TIẾP CẬN
11
4. VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
12
4.1. VẬT LIỆU NGHIÊN CỨU 12
4.2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 14
4.3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 15
5. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
23
5.1. HIỆN TRẠNG MÔI TRƯỜNG VÙNG VEN BIỂN VIỆT NAM TRONG

MÙA KHAI THÁC
23
5.1.1. Khí tượng - thủy văn
23
5.1.2. Môi trường nước biển
25
5.1.2.1. Các thông số môi trường cơ bản
25
5.1.2.2. Hàm lượng N-NO
2
-
, N-NO
3
-
, N-NH
4
+

29
5.1.2.3. Hàm lượng P-PO
4
3-

30
5.1.2.4. Hàm lượng Si-SiO
3
2-

30
5.1.2.5. Hàm lượng tổng nitơ (T-N), tổng phôtpho (T-P)

31
5.1.3. Thủy sinh vật
32
5.1.3.1. Thực vật phù du
32
5.1.3.2. Động vật phù du
34
5.1.3.3. Trứng cá - cá con
37
5.2. THÀNH PHẦN, ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC HÌNH THÁI VÀ PHÂN BỐ
CỦA MỘT SỐ LOÀI SỨA KINH TẾ QUAN TRỌNG
39
5.2.1.Thành phần
39
5.2.1.1 Thành phần khu hệ Sứa biển Việt Nam
39
5.2.1.2. Thành phần nhóm Sứa kinh tế quan trọng ở vùng ven biển Việt Nam
39
iv
5.2.2. Đặc điểm sinh học hình thái của một số loài Sứa kinh tế quan trọng


40
5.2.2.1. Đặc điểm sinh học hình thái theo bậc phân loại
40
5.2.2.2. Đường kính dù, tương quan giữa đường kính dù và khối lượng
45
5. 2.3. Phân bố
48
5.2.3.1. Mật độ nguồn lợi

48
5.2.3.2. Phân bố nguồn lợi
51
5.3. TRỮ LƯỢNG, MÙA VỤ, KHẢ NĂNG KHAI THÁC CÁC LOÀI SỨA
KINH TẾ Ở VÙNG VEN BIỂN VIỆT NAM
58
5.3.1. Trữ lượng
58
5.3.2. Mùa vụ
59
5.3.3. Khả năng khai thác
60
5.4. MỐI LIÊN QUAN GIỮA MỘT SỐ YẾU TỐ KHÍ TƯỢNG, HẢI DƯƠNG,
THỦY SINH VẬT VỚI NGUỒN LỢI SỨA
62
5.4.1. Phân tích tương quan
62
5.4.2. Phân tích hồi quy
63
5.5. HIỆN TRẠNG KHAI THÁC SỨA Ở CÁC TỈNH VEN BIỂN VIỆT NAM 64
5.5.1 Cơ cấu đội tàu khai thác
64
5.5.2. Đặc điểm mùa vụ và ngư trường khai thác
67
5.5.2.1. Ven biển Bắc Bộ
67
5.5.2.2. Ven biển Trung Bộ 67
5.5.2.3. Ven biển Tây Nam Bộ
68
5.5.3. Đặc điểm kỹ thuật tàu và trang thiết bị

68
5.5.3.1. Ven biển Bắc Bộ
68
5.5.3.2. Ven biển Trung Bộ
70
5.5.3.3. Ven biển Tây Nam Bộ
70
5.5.4. Đặc điểm kỹ thuật ngư cụ khai thác
71
5.5.4.1. Ven biển Bắc Bộ
71
5.5.4.2. Ven biển Trung Bộ
72
5.5.4.3. Ven biển Tây Nam Bộ
73
5.5.5. Ước tính sản lượng khai thác Sứa ở ven biển Việt Nam
74
5.5.5.1. Ven biển Bắc Bộ
74
5.5.5.2. Ven biển Trung Bộ
76
5.5.5.3. Ven biển Tây Nam Bộ
77

v
5.5.6. Hiệu quả kinh tế của các đội tàu khai thác Sứa
78
5.5.6.1. Ven biển Bắc Bộ
78
5.5.6.2. Ven biển Trung Bộ

80
5.5.6.3. Ven biển Tây Nam Bộ
80
5.5.7. Tìm hiểu ảnh hưởng của nghề khai thác và chế biến Sứa đối với môi
trường biển
81
5.6. TÌM HIỂU ẢNH HƯỞNG CỦA SỨA ĐẾN CÁC HOẠT ĐỘNG DU LỊCH -
TẮM BIỂN, CÁC BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM TOÀN CHO DU KHÁCH
83
5.6.1. Những tác động có hại của Sứa biển
83
5.6.2. Sự bùng phát của Sứa biển
83
5.6.3. Ảnh hưởng của Sứa đến ngành du lịch biển
84
5.6.4. Các tai nạn do Sứa biển gây ra
85
5.6.5. Các biện pháp phòng tránh và xử lý tác hại của Sứa khi tắm biển
89
5.6.5.1. Phòng tránh để không bị Sứa đốt
89
5.6.5.2. Xử lý tác hại khi bị Sứa đốt
90
5.7. CÁC GIẢI PHÁP KHAI THÁC VÀ BẢO VỆ NGUỒN LỢI SỨA BIỂN 93
5.7.1. Một số vấn đề tồn tại chủ yếu cần giải quyết
93
5.7.1.1. Tồn tại các vấn đề liên quan đến nguồn lợi Sứa
93
5.7.1.2. Tồn tại các vấn đề liên quan đến khai thác Sứa
93

5.7.1.3. Tồn tại các vấn đề liên quan đến chế biến Sứa 94
5.7.2. Các giải pháp khai thác và bảo vệ nguồn lợi Sứa biển
95
5.7.2.1. Các giải pháp bảo vệ nguồn lợi Sứa biển
95
5.7.2.2. Các giải pháp khai thác nguồn lợi Sứa biển
96
5.7.2.3. Các giải pháp bảo quản, chế biến Sứa
96
5.7.2.4. Các giải pháp tổ chức và quản lý
97
5.7.2.5. Áp dụng nghiêm chỉnh Luật Thuỷ sản trong quản lý khai thác Sứa
97
5.7.2.6. Giải pháp sắp xếp lại cơ cấu nghề nghiệp
97
5.7.2.7. Giải pháp về chính sách, tài chính
98
5.7.2.8. Giải pháp hợp tác quốc tế
98
6. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
99
TÀI LIỆUTHAM KHẢO
101
PHỤ LỤC
106

vi
BẢNG CHÚ GIẢI CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TT Chữ viết tắt Chú giải
1 2a Kích thước mắt lưới

2 BTNMT Bộ Tài nguyên Môi trường
3 cv Mã lực
4 CV Hệ số phân tán
5 ĐVPD Động vật phù du
6 FAO Tổ chức nông lương Liên hiệp quốc (Food and
Agriculture Organization of the United Nations)
7 GHCP Giới hạn cho phép
8 KT&BVNLTS Khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản
9 KHKT Khoa học kỹ thuật
10 LNTB Lợi nhuận trung bình
11 QT&PT Quan trắc và Phân tích
12 QCVN Quy chuẩn Việt Nam
13 r Hệ số tương quan
14 S Độ muối nước biển (‰)
15 Std Độ lệch chuẩn
16 T
kk
Nhiệt độ không khí (
o
C)
17 T
nước
Nhiệt độ nước biển (
o
C)
18 TB Trung bình
19 TCCC Trứng cá - cá con
20 TNMT Tài nguyên Môi trường
21 TT-BTS Thông tư - Bộ Thuỷ sản
22 TVPD Thực vật phù du

vii
DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG BÁO CÁO
TT Tên bảng Trang
Bảng 1. Tần suất hướng gió (%) trong các đợt khảo sát ở vùng ven biển Việt Nam 24
Bảng 2. Tần suất cấp sóng (%) trong các đợt khảo sát ở vùng ven biển Việt Nam 24
Bảng 3. Giá trị trung bình một số thông số môi trường nước biển 26
Bảng 4. Hàm lượng N-NO
2
-
, N-NO
3
-
, N-NH
4
+
(mg/l) trong nước biển 29
Bảng 5. Hàm lượng P-PO
4
3-
(mg/l) trong nước biển 30
Bảng 6. Hàm lượng Si-SiO
3
2-
(mg/l) trong nước biển 31
Bảng 7. Hàm lượng T-N và T-P (mg/l) trong nước biển 31
Bảng 8. Mật độ Thực vật phù du ở vùng ven biển Việt Nam 32
Bảng 9. Sinh vật lượng Động vật phù du ở vùng ven biển Việt Nam 35
Bảng 10. Mật độ trứng cá - cá con ở vùng ven biển Việt Nam 37
Bảng 11. Cấu trúc quần xã Sứa ở vùng ven biển Việt Nam 39
Bảng 12. Mật độ nguồn lợi các loài Sứa kinh tế ở vùng ven biển Việt Nam 48

Bảng 13. Mật độ trung bình Sứa kinh tế theo dải độ sâu ở vùng ven biển Vịnh Bắc Bộ 49
Bảng 14. Mật độ trung bình Sứa kinh tế theo dải độ sâu ở vùng ven biển Trung Bộ 50
Bảng 15. Mật độ trung bình Sứa kinh tế theo dải độ sâu ở vùng ven biển Đông Nam Bộ 50
Bảng 16. Mật độ trung bình Sứa kinh tế theo dải độ sâu ở vùng ven biển Tây Nam Bộ 51
Bảng 17. Trữ lượng nguồn lợi Sứa kinh tế ước tính ở các vùng ven biển Việt Nam 58
Bảng 18. Mùa vụ xuất hiện và độ sâu nơi phân bố của các loài Sứa kinh tế 59
Bảng 19. Khả năng khai thác nguồn lợi Sứa kinh tế ước tính ở vùng ven biển Việt Nam 61
Bảng 20. Phương trình hồi quy giữa nguồn lợi Sứa và một số yếu tố môi trường 63
Bảng 21. Cơ cấu đội tàu khai thác hải sản ở một số tỉnh ven biển 64
Bảng 22. Nghề khai thác Sứa theo nhóm công suất tàu ở từng địa phương 65
Bảng 23. Số lượng tàu khai thác Sứa ở ven biển Bắc Bộ 66
Bảng 24. Số lượng tàu khai thác Sứa ở ven biển Trung Bộ 66
Bảng 25. Số lượng tàu khai thác Sứa ở ven biển Tây Nam Bộ 66
Bảng 26. Đặc điểm kỹ thuật tàu khai thác Sứa ở ven biển Bắc Bộ 69
Bảng 27. Trang thiết bị trên tàu khai thác Sứa ở ven biển Bắc Bộ 69
viii
Bảng 28. Đặc điểm kỹ thuật tàu khai thác Sứa ở ven biển Trung Bộ 70
Bảng 29. Trang thiết bị trên tàu khai thác Sứa ở ven biển Trung Bộ 70
Bảng 30. Đặc điểm kỹ thuật tàu khai thác Sứa ở ven biển Tây Nam Bộ 71
Bảng 31. Trang thiết bị trên tàu khai thác Sứa ở ven biển Tây Nam Bộ 71
Bảng 32. Đặc điểm kỹ thuật ngư cụ khai thác Sứa ở ven biển Bắc Bộ 72
Bảng 33. Đặc điểm kỹ thuật ngư cụ khai thác Sứa ở ven biển Trung Bộ 73
Bảng 34. Đặc điểm kỹ thuật ngư cụ khai thác Sứa ở ven biển Tây Nam Bộ 73
Bảng 35. Năng suất khai thác Sứa ở ven biển Bắc Bộ 74
Bảng 36. Cường lực khai thác Sứa của các đội tàu ở ven biển Bắc Bộ 75
Bảng 37. Sản lượng khai thác Sứa ở ven biển Bắc Bộ 76
Bảng 38. Năng suất khai thác Sứa ở ven biển Trung Bộ 76
Bảng 39. Cường lực khai thác Sứa của các đội tàu ở ven biển Trung Bộ 76
Bảng 40. Sản lượng khai thác Sứa ở ven biển Trung Bộ 77
Bảng 41. Năng suất khai thác Sứa ở ven biển Tây Nam Bộ 77

Bảng 42. Cường lực khai thác Sứa của các đội tàu ở ven biển Tây Nam Bộ 78
Bảng 43. Sản lượng khai thác Sứa ở ven biển Tây Nam Bộ 78
Bảng 44. Doanh thu, chi phí và LNTB/ mùa của đội tàu khai thác Sứa ở ven
biển Bắc Bộ 79
Bảng 45. Doanh thu, chi phí và LNTB/ mùa của đội tàu khai thác Sứa ở ven
biển Trung Bộ 80
Bảng 46. Doanh thu, chi phí và LNTB/ mùa của đội tàu khai thác Sứa ở ven
biển Tây Nam Bộ 81
Bảng 47. Thống kê một số tai nạn vì Sứa đốt ở các nước châu Á 87





.




ix
DANH MỤC CÁC HÌNH TRONG BÁO CÁO
TT Tên hình Trang
Hình 1. Phân bố độ muối nước biển (‰) vùng ven biển phía tây Vịnh Bắc Bộ 27
Hình 2. Phân bố độ muối nước biển (‰) vùng ven biển Đông Nam Bộ 27
Hình 3. Phân bố độ muối nước biển (‰) vùng ven biển Tây Nam Bộ 28
Hình 4. Phân bố mật độ TVPD ở vùng ven biển phía tây Vịnh Bắc Bộ 33
Hình 5. Phân bố mật độ TVPD ở vùng ven biển Đông Nam Bộ 34
Hình 6. Phân bố mật độ TVPD ở vùng ven biển Tây Nam Bộ 34
Hình 7. Phân bố khối lượng ĐVPD ở vùng ven biển phía tây Vịnh Bắc Bộ 35
Hình 8. Phân bố khối lượng ĐVPD ở vùng ven biển Đông Nam Bộ 36

Hình 9. Phân bố khối lượng ĐVPD ở vùng ven biển Tây Nam Bộ 36
Hình 10. Phân bố mật độ TCCC ở vùng ven biển phía tây Vịnh Bắc Bộ 37
Hình 11. Phân bố mật độ TCCC ở vùng ven biển Đông Nam Bộ 38
Hình 12. Phân bố mật độ TCCC ở vùng ven biển Tây Nam Bộ 38
Hình 13. Tương quan giữa đường kính dù và khối lượng của Sứa trắng ở vùng
ven biển phía tây Vịnh Bắc Bộ và Trung Bộ 45
Hình 14. Tương quan giữa đường kính dù và khối lượng của Sứa trắng ở vùng
ven biển Tây Nam Bộ
46
Hình 15. Tương quan giữa đường kính dù và khối lượng của Sứa đỏ ở vùng ven
biển phía tây Vịnh Bắc Bộ
47
Hình 16. Tương quan giữa đường kính dù và khối lượng của Sứa rô ở vùng ven
biển Trung Bộ
47
Hình 17. Tương quan giữa đường kính dù và khối lượng của Sứa Lobonema
smithii ở vùng ven biển Đông - Tây Nam Bộ
48
Hình 18. Phân bố khối lượng Sứa kinh tế (tấn/km
2
) ở vùng ven biển phía tây Vịnh Bắc Bộ 53
Hình 19. Phân bố khối lượng Sứa trắng (tấn/km
2
) ở vùng ven biển phía tây Vịnh Bắc Bộ 53
Hình 20. Phân bố khối lượng Sứa đỏ (tấn/km
2
) ở vùng ven biển phía tây Vịnh Bắc Bộ 54
Hình 21. Phân bố khối lượng Sứa kinh tế (tấn/km
2
) ở vùng ven biển Trung Bộ 54

Hình 22. Phân bố khối lượng Sứa trắng (tấn/km
2
) ở vùng ven biển Trung Bộ 55
Hình 23. Phân bố khối lượng Sứa rô (tấn/km
2
) ở vùng ven biển Trung Bộ 55
Hình 24. Phân bố khối lượng Sứa kinh tế (tấn/km
2
) ở vùng ven biển Đông Nam Bộ 56
x
Hình 25. Phân bố khối lượng Sứa trắng (tấn/km
2
) ở vùng ven biển Đông Nam Bộ 56
Hình 26. Phân bố khối lượng Sứa L. smithii (tấn/km
2
) ở vùng ven biển Đông Nam Bộ 56
Hình 27. Phân bố khối lượng Sứa kinh tế (tấn/km
2
) ở vùng ven biển Tây Nam Bộ 57
Hình 28. Phân bố khối lượng Sứa trắng (tấn/km
2
) ở vùng ven biển Tây Nam Bộ 57
Hình 29. Phân bố khối lượng Sứa L. smithii (tấn/km
2
) ở vùng ven biển Tây Nam Bộ 57
Hình 30. Thời gian khai thác Sứa ở ven biển Bắc Bộ 67
Hình 31. Thời gian khai thác Sứa ở ven biển Trung Bộ 67
Hình 32. Thời gian khai thác Sứa ở ven biển Tây Nam Bộ 68
Hình 33. Sứa biển chết dạt vào bãi tắm Cửa Lò 85
Hình 34. Sứa ngứa (Chrysaora sp) 88

Hình 35. Muống biển ở bãi tắm Đồ Sơn - Hải Phòng 92


1
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhóm Sứa có giá trị kinh tế (edible jellyfish) là động vật phù du biển thuộc
ngành Xoang tràng có trữ lượng khá lớn ở biển nước ta. Sứa dùng để chế biến
đặc sản có giá trị kinh tế cao. Những năm gần đây, Sứa đã trở thành nguồn lợi
hải sản có giá trị, là đối tượng khai thác với vốn đầu tư thấp nhưng cho thu nhập
cao của ngư dân nhiều t
ỉnh ven biển Bắc Bộ. Một số địa phương mà nguồn lợi
hải sản đã cạn kiệt như Thịnh Long (Nam Định), Quảng Xương (Thanh Hóa),
nghề khai thác và chế biến Sứa đã làm đổi mới cả một vùng quê nghèo. Nhiều hộ
ngư dân chuyển nghề từ khai thác tôm cá ven bờ sang khai thác hay chế biến Sứa
đã trở lên khá giả; trong vụ khai thác nhiều hộ ngư dân có mức thu nhập từ 15 -
30 triệu đồng/tháng. Phần lớn sản phẩm Sứa qua sơ chế được bán cho thương
nhân Trung Quốc tại Việt Nam hoặc xuất khẩu sang Trung Quốc bằng đường
tiểu ngạnh. Thị trường tiêu thụ Sứa trên thế giới hiện đã mở rộng sang Hàn
Quốc, Nhật Bản v.v. Nhu cầu các sản phẩm chế biến từ Sứa của thị trường ngày
một gia tăng, đặc bi
ệt là ở Trung Quốc. Ngoài giá trị làm thực phẩm, một số sản
phẩm chiết xuất từ Sứa còn được sử dụng trong dược phẩm, các sản phẩm mỹ
phẩm, chất phụ gia của thức ăn và một số sản phẩm giá trị khác. Trên thế giới,
nghiên cứu về Sứa được coi trọng trong nhiều thập niên gần đây. Tuy nhiên, đến
nay ở nước ta Sứa mớ
i bắt đầu được quan tâm nghiên cứu, chủ yếu là thành phần
loài; hiện chưa có các công trình nghiên cứu chuyên sâu về nhóm Sứa kinh tế,
chưa có được dữ liệu về nguồn lợi Sứa làm cơ sở khoa học cho khai thác hợp lý và
bảo vệ nguồn lợi.
Nguồn lợi hải sản ở vùng biển ven bờ Việt Nam đã suy giảm nghiêm trọng.

Ngành thủy sản đang cố gắng phát triển năng lự
c khai thác ra xa bờ, tìm thêm
ngư trường và đối tượng khai thác mới nhằm giảm bớt sức ép của việc khai thác
cạn kiệt, cơ cấu lại ngành nghề để bảo vệ và tái tạo nguồn lợi hải sản. Nghiên
cứu nguồn lợi Sứa biển sẽ góp phần giải quyết các vấn đề cấp bách nêu trên của
ngành thủy sản.
Sứa là thủy sinh vật biển rất nhạy cả
m với sự thay đổi của môi trường. Mùa
vụ xuất hiện Sứa thường ngắn và thay đổi theo từng vùng địa lý. Hàng năm, mùa
vụ khai thác Sứa ở từng vùng có thể đến sớm hay muộn tùy theo điều kiện thời
tiết, điều kiện môi trường nước biển. Một số công trình trên thế giới đã nghiên
cứu sự xuất hiện và phân bố của Sứa theo các điều ki
ện hải dương học, sử dụng
Sứa như vật chỉ thị môi trường. Ở Việt Nam còn thiếu các thông tin về sinh thái
môi trường liên quan đến Sứa biển. Việc nghiên cứu các điều kiện môi trường
liên quan đến sự xuất hiện, phân bố của Sứa sẽ là cơ sở khoa học cho việc dự báo
nguồn lợi.
Sứa là sinh vật tiêu thụ trong chuỗi thức ăn của h
ệ sinh thái biển ven bờ.
Chúng phàm ăn nên sinh trưởng rất nhanh, từ ấu trùng dạng đĩa 2 - 3gam sau 3
tháng khối lượng có thể đạt tới 10 kg. Trong quá trình sinh trưởng, Sứa ăn rất
nhiều động vật phù du cỡ nhỏ trong đó có trứng cá và cá con trôi nổi ở lớp nước
tầng mặt. Vì vậy, sự phát triển quá mức của Sứa có thể dẫn đến làm suy giảm

2
nguồn lợi biển do chúng cạnh tranh thức ăn với cá hoặc trực tiếp tiêu thụ trứng
cá, cá con, cạnh tranh không gian sống với các động vật biển khác. Việc khai
thác cạn kiệt nguồn lợi hải sản ven bờ cũng như ảnh hưởng của một số chất thải
từ hoạt động kinh tế của con người đổ ra biển đã tạo điều kiện cho Sứ
a phát triển

quá mức có thể dẫn đến làm mất cân bằng tự nhiên đối với quần xã sinh vật biển.
Vì vậy, xác định được trữ lượng và khả năng khai thác nhóm Sứa kinh tế sẽ làm
cơ sở khoa học cho việc khai thác hợp lý, vừa tận dụng tối đa nguồn lợi Sứa
biển, vừa bảo vệ được nguồn lợi hải sản.
Việc khai thác Sứa không hợ
p lý ở một số địa phương dẫn đến nguy cơ cạn
kiệt nguồn lợi, ô nhiễm môi trường biển, ảnh hưởng nghiêm trọng đến một số
hoạt động kinh tế biển. Xây dựng được các giải pháp khai thác hợp lý để bảo vệ
nguồn lợi và môi trường biển là vấn đề có ý nghĩa khoa học và thực tiễn rõ rệt
cho ngành thủy sản và các địa phương ven biển.
Từ cơ sở khoa học và thực tiễn nêu trên, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài
“Nghiên cứu, đánh giá nguồn lợi Sứa vùng ven biển Việt Nam, đề xuất giải pháp
khai thác và bảo vệ”; thời gian thực hiện trong 3 năm (2009 - 2011) do Viện
Nghiên cứu Hải sản là cơ quan chủ trì. Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là cơ sở
khoa học góp phần phát triển kinh tế - xã hội, phân công lại lao động, chuyể
n dịch
nhiều nghề khai thác hải sản ở khu vực gần bờ sang khai thác Sứa để bảo vệ và tái
tạo nguồn lợi.
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU NGOÀI NƯỚC
Trên thế giới, nghiên cứu về Sứa đã có từ hàng trăm năm nay, chủ yếu là
thành phần khu hệ. Những năm gần đây, Sứa biển bắt đầu được quan tâm nghiên
cứu nhiều hơn do vai trò quan trọng của chúng trong hệ sinh thái. Những thông tin
chung về Sứa như hệ thống phân loại, đặc điểm sinh học, vòng đời, phân bố, độc
tính, tầm quan trọng đối với con người, v.v. được công b
ố trong nhiều công trình
nghiên cứu sinh học biển.
Về thành phần khu hệ, người có công trình nghiên cứu khá đầy đủ thành
phần khu hệ Sứa ở vùng biển ôn đới là Yamaji. Năm 1973, ông đã công bố 133
loài Sứa sinh sống ở vùng biển Nhật Bản thuộc lớp Thủy tức (Hydrozoa) và lớp
Sứa chính thức (Scyphozoa). Bouillon (1995) tìm thấy 47 loài Sứa ở vùng biển

ven bờ New Zealand, trong đó có 15 loài mới đã được mô tả chi tiết. Hơn 100 loài
S
ứa sinh sống ở vùng biển phía nam Đại Tây Dương cũng được Boltovskoy
(1999) thống kê và mô tả trong công trình nghiên cứu chung về động vật phù du
của vùng biển này. Phân bố địa lý của 11 loài Sứa ăn được trên thế giới được
thông báo và mô tả vắn tắt trong công trình nghiên cứu của Kramp (1961), Omori
& Nakano (2001).
Ngoài những nghiên cứu về thành phần loài, đã có nhiều công trình nghiên
cứu chuyên sâu về đặc điểm hình thái, vòng đời, tập tính sống, bắt mồi, sinh
trưởng, sinh s
ản, mùa vụ xuất hiện, độc tính, vai trò của Sứa trong hệ sinh thái v.v.
Sứa là sinh vật phân tính, ít khi tìm thấy cá thể lưỡng tính. Khi sinh sản hầu
hết chúng đều phóng tinh trùng và trứng vào trong nước, khi đó trứng sẽ được

3
thụ tinh và phát triển qua một số giai đoạn để trở thành cá thể trưởng thành.
Trong vòng đời, phần lớn các loài Sứa đều trải qua 2 giai đoạn. Giai đoạn đầu
tiên là polyp, trứng thụ tinh trong nước phát triển thành một dạng ấu trùng gọi là
planula. Planula là một ấu trùng nhỏ được bao bọc bởi các tiêm mao. Nó định cư
trên một bề mặt chắc chắn và phát triển thành một polyp. Polyp này có xúc tu
bao quanh miệng để bắ
t thức ăn trôi qua. Miệng và các xúc tu của polyp hướng
lên trên, trông giống với loài Thủy tức. Sau một thời gian phát triển, polyp bắt
đầu sinh sản vô tính bằng cách mọc chồi và ở lớp Sứa chính thức được gọi là một
polyp phân đoạn (hay ấu trùng dạng chén). Các ấu trùng dạng chén có thể sinh
sản bằng cách mọc chồi và phát triển thành ấu trùng sống phù du được gọi là
ephyra (ấu trùng dạng đĩa). Giai đoạn thứ hai là medusa (Sứ
a), được phát triển
từ ephyra có cơ thể hình dù, tỏa tròn. Các xúc tu của medusa là các tua mọc ra từ
viền mép chuông. Một số ít loài Sứa có thể sinh sản ra các medusae mới bằng

cách mọc chồi trực tiếp từ cơ thể mẹ. Các vị trí nảy chồi cũng khác nhau tùy theo
loài, từ các mấu lồi trên xúc tu, từ cán dù phía trên miệng hoặc từ tuyến sinh dục
thấy ở lớp Hydrozoa (Mills, 1987).

Minh họa vòng đời của Sứa biển (Nguồn: www.infovisual.info/jellyfish)
Những năm gần đây, đã có một số công trình nghiên cứu về vòng đời và sinh
sản của Sứa được công bố. Eggers & Jarms (2007) nghiên cứu sự phát triển giai
đoạn ấu trùng ephyra của 2 loài Atorella vanhoeffeni và Nausithoe maculata
trong quá trình hình thành chuỗi đốt sinh sản. Holst (2007) nghiên cứu vòng đời
của Rhizostoma octopus trong phòng thí nghiệm từ giai đoạn ấu trùng planula
đến giai đoạn medusa. Calder (1973) cũng công bố kết quả quan sát vòng đời
Rhopilema verrilli từ giai đoạn ấ
u trùng planula đến giai đoạn medusa. Ohtsu và
cs. (2007) đã kích thích chín muồi sinh dục và cho đẻ thành công loài
Nemopilema nomurai trong phòng thí nghiệm.
Tuổi thọ của Sứa có thể kéo dài từ vài giờ (ở một số loài thuộc lớp Thủy
tức) đến vài tháng. Loài Turritopsis dohrnii có thể coi là “bất tử” do khả năng
biến đổi giữa medusa và polyp (Piraino và cs, 1996). Đa số các loài Sứa lớn sống
ở vùng nước ven bờ đều có thể sống từ 2 - 6 tháng, trong thời gian đó
đường

4
kính thân của chúng phát triển từ 1 - 2mm đến hàng chục cm. Chúng ăn liên tục
và phát triển đến kích thước trưởng thành khá nhanh. Sau khi đạt đến kích thước
trưởng thành, nếu đủ thức ăn chúng sẽ đẻ trứng hàng ngày. Hầu hết các loài đẻ
trứng đều bị ảnh hưởng bởi ánh sáng, do đó toàn bộ quần thể Sứa đều đẻ trứng
vào cùng một thời gian trong ngày, thường vào lúc tối trời hoặc bình minh (Mills
& Claudia, 1983).
Sứa phàm ă
n và sinh trưởng nhanh, đối với các loài thuộc bộ Rhizostomeae,

chúng ăn các thức ăn là sinh vật phù du (Omori và cs, 2001). Các loài tảo cát, tảo
lông và giáp xác phù du kích thước nhỏ được tiêu hóa ngoại bào bởi Rhopilema
esculenta. Sứa biển cũng là vật dữ tiêu thụ trứng cá và cá con (Holst và cs, 2006).
Các loại thức ăn chính của Sứa là động vật phù du cỡ nhỏ như Oithona nana,
Paracalanus parvus,… và ấu trùng động vật phù du trong bộ Calanoida và
Cyclopoida của phân lớp Copepoda (Malej và cs, 2006).
Finenco (2003) nghiên cứu biến động quần th
ể loài Beroe ovata và tác động
của chúng lên quần xã sinh vật phù du ở vịnh Sevastopol của biển Đen. Kết quả
nghiên cứu cho biết, sự xuất hiện và tác dụng ăn thịt loài Nemiopsi leidyi (Sứa
lược) của Sứa Beroe ovata đã làm phong phú trở lại quần xã sinh vật phù du trong
đó có cá con.
Theo Boltovskoy (1999), có 2 yếu tố quan trọng liên quan tới sự phân bố
của Sứa ở vùng biển ven bờ, đó là hướng gió và dòng chảy mùa hè, tiếp theo là
các yếu tố khác như sự tập trung của thức ăn là động vật phù du.
Sparks và cs. (2001) đã thông báo kết quả quan sát về phân bố số lượng
theo thời gian và không gian của 2 loài Chrysaora hysoscella và Aequorea
aequorea ở vùng biển phía bắc Bengula (Namibia); trong đó, sinh khối của Sứa
được ước tính và sử dụng như một thông số đầu vào quan trọng trong mô hình
năng lượng của hệ sinh thái.
Sotje và cs. (2006) sử dụng thiết bị vận hành t
ừ xa để quan sát sự phân bố
và tập tính của Sứa Periphylla periphylla ở 3 vịnh hẹp thuộc biển Nauy. Kết quả
nghiên cứu cho thấy, động vật phù du có liên quan mật thiết đến độ phong phú
của Sứa. Phần lớn động vật phù du có xu hướng phân bố bên trên tập hợp loài P.
Periphylla, thể hiện độ phong phú cao nhất ở độ sâu từ 100 - 200m. Từ ước tính
nhu cầu trao đổi chất của P. Periphylla,
đã xác định được tác động ăn thịt hàng
ngày lên quần thể con mồi trung bình là 13%. Quan sát trong phòng thí nghiệm
cũng cho biết cách thức săn mồi và phản ứng của cơ thể Sứa khi gặp các tác nhân

kích thích hóa học và cơ học trong nước.
Barz và cs. (2007) khi nghiên cứu chu kỳ xuất hiện hàng năm của Sứa ở khu
vực phía nam biển Bắc nhận thấy có 3 kiểu xuất hiện theo mùa: (1) xuất hiện
sớm Cyanea lamarckii (tháng 2 - tháng 8), (2) xuất hi
ện vào thời gian giữa năm
C. capillata và A. aurita (tháng 4 - tháng 8), (3) xuất hiện muộn C. hysoscella
(tháng 7 - tháng 9). Cyanea lamarckii là loài bắt gặp thường xuyên và phong phú
nhất trong năm ở phía nam biển Bắc.
Malej và cs. (2006) công bố mô hình di cư thẳng đứng và các mối tương tác

5
về dinh dưỡng của Sứa Aurelia sp ở vùng biển hồ Mljet thuộc biển Adriatic. Đa
phần thời gian Aurelia phân bố ở đáy của tầng nước có sự thay đổi nhiệt độ đột
ngột (tầng nhảy vọt), ở nhiệt độ thấp hơn 19
0
C. Khi trời tối, Aurelia di cư thẳng
đứng lên tầng mặt, tập trung ở tầng nhiệt nhảy vọt hoặc ngay trên tầng nước này;
đêm đến, chúng di chuyển xuống tầng nước sâu hơn, dưới 25m.
Sự phát triển bùng nổ của Sứa trong tự nhiên được sinh sản từ những polyp
sống đáy thường vào mùa xuân khi có nhiều ánh sáng mặt trời và sinh vật phù
du, cho nên Sứa xuất hiện khá đột ngột và thường vớ
i số lượng lớn, thậm chí
ngay cả khi một hệ sinh thái đang trong trạng thái cân bằng (Mills, 2001).
Sứa cũng có nhiều địch hại. Các động vặt ăn Sứa bao gồm các loài cá ngừ,
cá mập, cá kiếm và rùa biển. Chim biển đôi khi cũng ăn các loại giáp xác cộng
sinh sống trên dù Sứa gần bề mặt nước biển, chắc chắn cũng ăn luôn động vật
chủ là Sứa.
Về tác hạ
i của Sứa biển, bao gồm khả năng gây hại của một số loài Sứa độc
hoặc làm cản trở hoạt động sản xuất ở một số lĩnh vực như sản xuất điện, nuôi

trồng và đánh bắt thủy sản v.v; đặc biệt là sự cạnh tranh thức ăn, chiếm lĩnh không
gian sống hay gây hại đối với ấu trùng cá.
Theo Titelman & Hansson (2005) S
ứa là vật dữ trong chuỗi thức ăn, chúng
chọn ăn ấu trùng tôm, cá trước các loại thức ăn khác.
Uye & Shimauchi (2005) đã nghiên cứu sự biến động quần thể, khả năng
ăn, tiêu hoá, sinh trưởng và nguồn cácbon của Sứa Aurelia aurita ở vùng biển
ven bờ Nhật Bản. Khi đánh giá phổ và lượng thức ăn trong dạ dày của 71 cá thể
A. aurita có trọng lượng mỗi con từ 20 - 100g thấy rằng thức
ăn của chúng trong
giai đoạn này chủ yếu là động vật phù du cỡ nhỏ cùng với một số lượng lớn ấu
trùng phù du. Đó là các loại Copepoda giai đoạn con non và trưởng thành của
một số loài chiếm ưu thế trong thuỷ vực. Số lượng con mồi mà Sứa tiêu thụ tỷ lệ
thuận với kích thước, trung bình có 8.289 cá thể động vật phù du bị ăn bởi
1.260g Sứa. Thời gian tiêu thụ th
ức ăn của Sứa với thức ăn là Copepoda mất từ
1- 2 giờ.
Barz & Hirche (2007) nghiên cứu phổ thức ăn của Sứa ở khu vực phía nam
biển Bắc cho biết, thức ăn của 3 loài Cyanea lamarckii, C. capillata và
Chrysaora hysoscella là một số loài động vật chân chèo và giáp xác, và vì thế
làm cho chúng trở thành đối thủ cạnh tranh tiềm năng của ấu trùng cá. Kết quả
phân tích thành phần thức ăn cho biết, Sứa cũng
ăn trứng cá và cá con ở tất cả
các tháng trong năm.
Một trong các đặc điểm hình thái của sinh vật trong nhóm động vật Xoang
tràng là có các tế bào châm (thích ty bào) để bắt mồi và tự vệ. Việc khó phát hiện
ra sự có mặt của Sứa cùng với tính độc cao của dịch phóng ra từ các tế bào châm
đã làm cho một số loài Sứa trở thành mối nguy hiểm tiềm tàng. Đến nay, các nhà
sinh học biển trên thế giới đã thông kê được gần m
ột chục loài Sứa có độc tính

thực sự gây nguy hiểm cho con người như Physalia physalis (Sứa lửa) sống ở
vùng biển ấm Nhật Bản, Chironex fleckeri (Sứa kim) phân bố từ Thái Bình Dương

6
đến Ấn Độ Dương, Chiropsalmus quadrigatus phân bố ở vùng biển Australia. 3
loài Sứa độc khác cũng thường gặp ở một số vùng biển trên thế giới là Chrysaora
quinquecirrha, Stomolophus meleagris, Pilema pulmo. Nagai (2003) đã thông báo
những tiến bộ gần đây trong nghiên cứu độc tố của Sứa; công bố những loại chất
độc, khả năng gây độc đối với người và động vật được tìm thấy trong một s
ố loài
như Chiropsalmus quadrigatus, Chironex fleckeri v.v.
Sự phát triển quá mức của Sứa trong những năm gần đây ở nhiều nơi trên thế
giới đã gây thiệt hại cho nhiều ngành kinh tế biển, ảnh hưởng đến hoạt động du
lịch - tắm biển. Ở nhiều nước châu Âu và châu Á như Tây Ban Nha, Pháp, Nhật
Bản, Philippin, Malaysia, … và cả ở Việt Nam hàng năm vào mùa du lịch có rất
nhiều du khách bị bỏng hay bị
dị ứng do chạm phải Sứa khi tắm biển.
Ở vùng biển Địa Trung Hải thuộc Tây Ban Nha, Sứa Pelagia noctiluca xuất
hiện dày đặc trong một vài năm gần đây được nhiều nhà khoa học cho rằng là do
sự thay đổi của khí hậu. Các vùng nước ưu dưỡng có hàm lượng oxy thấp thường
là vùng Sứa ưa thích, vì vậy chúng phát triển mạnh hơn các loài cá. Sự gia tăng
của Sứa là dấu hiệu củ
a một số biến cố đã xảy ra trong hệ sinh thái (The
Washington Post, May 6, 2002).
Holst & Jarms (2007) từ nghiên cứu tập tính định cư của ấu trùng planula
và sự phát triển của chúng đến thời kỳ polyp của 5 loài Sứa là Aurelia aurita,
Cyanea capillata, C. lamarckii, Chrysaora hysoscella và Rhizostoma octopus đã
nhận định, việc ngày càng có nhiều các loại chất nền nhân tạo được thải ra biển
và các hoạt động xây dựng công trình dưới biển đã làm tăng diện tích phân bố
của polyp Sứa cả ở khu vực ven bờ và ngoài khơi. Theo đó, sự tăng số lượng ấu

trùng ephyra từ các polyp có thể là nguyên nhân dẫn đến việc ngày càng có nhiều
đợt Sứa xuất hiện với số lượng lớn trên khắp thế giới trong vài thập kỷ qua.
Về vai trò tích cực của Sứa trong hệ sinh thái biển, những nghiên cứu gần
đây cho thấy Sứa đóng một vai trò chủ đạo trong vi
ệc chuyển cacbon giữa mạng
thức ăn tầng mặt và tầng đáy ở các hệ sinh thái ven bờ (Pitt và cs, 2007). Một số
loài Sứa liên quan trực tiếp đến sự sống sót của cá con. Loài cá Tuyết (Merlangius
merlangus) sống ở biển Bắc; cá con thường sống ẩn náu dưới dù Sứa để tránh bị
ăn thịt bằng cách trú ẩn giữa các xúc tu. Kết quả tính toán đã chỉ ra mối tương
quan có ý nghĩa thố
ng kê giữa sự sống sót của cá Tuyết và độ phong phú của 2
loài Sứa Cyanea lamarckii và C. capillata (Lynam và cs, 2006).
Với giá trị làm thực phẩm, tất cả các loài Sứa ăn được đều thuộc bộ
Rhizostomeae đặc biệt là loài Rhopilema esculentum rất được ưa chuộng. Cơ thể
của các loài này lớn, dai và cứng với phần thân dày (Omori và cs, 2001). Hơn
một nghìn năm qua, người Trung Quốc coi Sứa như một loại thức ă
n quan trọng.
Sứa khô nửa chừng tiêu biểu cho ngành hải sản hàng triệu đô la ở châu Á.
Phương pháp chế biến truyền thống bao gồm các công đoạn ngâm trong hỗn hợp
muối ăn và phèn, sau đó khử muối. Quá trình chế biến làm cho Sứa khô hơn và
chua hơn, đồng thời làm cho miếng Sứa cứng và giòn. Gần đây, lợi tức của Mỹ
từ việc dùng Sứa Stomolophus meleagris làm thức ăn tă
ng lên do nhu cầu tiêu
dùng cao ở Châu Á. Với độ phong phú của S. meleagris ở khu vực ven bờ nước

7
Mỹ thì việc đánh bắt loài Sứa này đã mang lại nhiều lợi ích to lớn về kinh tế và
môi trường (Hsieh và cs, 2001).
Các sản phẩm chế biến từ 2 loài Sứa Stomolophus meleagris và Rhopilema
sp ngày càng được ưa chuộng trên thị trường vì cơ thể chúng chứa khoảng 95%

nước và 3 - 6% protein, cung cấp một lượng calo thấp rất thích hợp với nhu cầu
cuộc sống hiện đại của con người (Hsieh và cs, 2001).
Trong ngành công nghệ sinh học và dượ
c phẩm, ngay từ năm 1961, khi
nghiên cứu về sự phát quang sinh học, các nhà khoa học đã phát hiện ra protein
GFP (green fluorescent protein) ở loài Sứa Aequorea victoria. Từ đó, loại protein
này trở thành một công cụ cực kỳ hữu ích, được sử dụng chủ yếu trong các
nghiên cứu khoa học về mô và gen, tạo ra bước ngoặt lớn trong khoa học đánh
dấu. Kỹ thuật cấy gen liên quan đến gen tạo GFP (Pieribone & Gruber, 2006).
Nọc độc của một số loài S
ứa đang là mối quan tâm để tìm hiểu bản chất độc tố,
tạo tiền đề cho các nghiên cứu tìm kiếm các hoạt chất từ sinh vật biển và ứng
dụng chúng, đặc biệt trong việc nghiên cứu vacxin kháng lại chất độc của Sứa.
Một số nghiên cứu sinh hóa học cho thấy, thịt Sứa tuy chứa chất dinh
dưỡng thấp song có một số chất rất quý, đặc biệt là các loại vitamin không thay
th
ế và axit nicitinic. Lượng cholesterol có trong Sứa là rất thấp, < 0,35mg/100g
Sứa tươi. Sứa tươi lại rất giàu khoáng chất như Na, Ca, K, Mg (Hsied và cs,
1996). Chất tạo keo (colagen) chiết xuất từ Sứa được sử dụng trong nhiều ứng
dụng khoa học khác nhau, bao gồm cả việc điều trị bệnh viêm khớp mãn tính,
thuốc chữa trị bỏng và làm da nhân tạo (Pieribone & Gruber, 2006).
Về khai thác và tiêu thụ Sứa, ít nhất có 11 loài thuộc 5 họ Cepheidae,
Catostylidae, Lobonematidae, Rhizostomatidae và Stomolophidae c
ủa bộ
Rhizostomeae được khai thác làm thực phẩm trên khắp thế giới. Lượng Sứa đánh
bắt trung bình hàng năm giai đoạn 1988 - 1999 ở Đông Nam Á ước tính là
169.000 tấn Sứa tươi và trên thế giới ước khoảng 321.000 tấn. Mùa khai thác đối
với mỗi loại Sứa khác nhau ở từng vùng biển với các bãi khai thác chính nằm ở
Đông Nam Á. Ở Thái Lan, Sứa được khai thác dọc theo vịnh Thái Lan từ
Rayong đến Songkla từ tháng 5 đến tháng 7 và xung quanh Ranong nằm trong

biển Andaman từ tháng 12 đến tháng 3 năm sau. Ở Trung Quốc, Sứa được khai
thác từ hơn 1.700 năm qua, việc khai thác được tiến hành dọc theo vùng biển ven
bờ. Sứa đã trở thành một mặt hàng hải sản quan trọng của các nước Đông Nam
Á do nhu cầu ngày càng tăng của thị trường Nhật Bản. Gần đây, hàng năm Nhật
Bản nhập khẩu từ 5.400 - 10.000 tấn các sản phẩm Sứa, giá trị kho
ảng 25,5 triệu
đô la Mỹ từ Philippine, Việt Nam, Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Singapore và
Myanmar. Các loại Sứa ăn được ở Đông Nam Á được khai thác gồm khoảng hơn
8 loài (Omori và cs, 2001). Từ năm 1970 việc đánh bắt Sứa ngày càng tăng, gần
như theo cấp số nhân và trong những năm gần đây, lượng đánh bắt hàng năm
trên thế giới đã vượt quá 500.000 tấn. Mặc dù theo truyền thống lượng Sứa đánh
bắt đượ
c giới hạn chủ yếu trong các vùng nước châu Á, nhưng một lượng Sứa
nhỏ cũng được khai thác bởi các nước Australia, Mỹ, Anh, Namibia, Thổ Nhĩ Kỳ
và Canada (FAO, 2000).

8
Sản lượng nhập khẩu Sứa của Nhật Bản từ 5 nước Đông Nam Á (Việt Nam,
Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Myanmar) và Trung Quốc hàng năm là rất lớn
đến hàng chục nghìn tấn nhưng sản lượng nhập khẩu từ Việt Nam lại rất nhỏ so
với các nước khác, chiếm khoảng 1% (Omori và cs, 2001).
Sứa có thể được đánh bắt bởi nhiều loại dụng cụ nghề cá, bao gồm lưới
đăng, lưới rê trôi, l
ưới kéo, lưới vây, vợt, te xiệp, lưới rùng bãi biển và móc câu.
Loại lưới đăng điển hình có miệng hình chữ nhật, được đặt ở độ sâu 2 - 10m
ngang qua một dòng thuỷ triều. Các lưới rê trôi, lưới kéo cũng được sử dụng kéo
ngang qua dòng chảy với hệ thống phao nổi và chì. Các vợt hoặc cần câu với
lưỡi sắt sắc nhọn ở đầu cũng được sử dụng phổ biến cho việ
c đánh bắt. Không có
sự khác biệt nào trong phương pháp khai thác Sứa áp dụng cho các loài hay các

địa phương. Việc khai thác được ngư dân thực hiện vào ban ngày khi Sứa xuất
hiện nhiều trên bề mặt nước biển. Về tự nhiên, điều kiện thời tiết và thủy triều
ảnh hưởng nhiều đến các hoạt động khai thác vì Sứa tập trung trên bề mặt nước
khi biển lặng. Đặc điểm của nghề
Sứa là có sự biến đổi bất thường của việc đánh
bắt hàng năm với một mùa đánh bắt ngắn (Omori và cs, 2001).
Những năm gần đây, một số công trình nghiên cứu về Sứa ở các nước châu Á,
tập trung vào các lĩnh vực khai thác, nuôi và tái tạo nguồn lợi đã được công bố.
Muhammed và cs (2007) cho biết những thông tin về 2 loài Sứa ăn được
Catostylus mosaicus và Rhizostoma pulmo ở các vùng biển gần bờ
của Pakistan.
Chúng rất phong phú trong suốt thời gian từ tháng 3 đến tháng 8, đỉnh cao vào
tháng 6 và tháng 7. Kết quả khảo sát cho biết Catostylus mosaicus phong phú
hơn Rhizostoma pulmo. Nghề khai thác thương mại ở Pakistan chỉ mới bắt đầu
với quy mô nhỏ, cả 2 loài Sứa trên đều được khai thác, chế biến và xuất khẩu
sang các nước Đông Nam Á.
Ở Trung Quốc, do nhu cầu của thị trường ngày một tăng nên nhiều nghiên
cứu về sinh học, kỹ
thuật sinh sản và nuôi đang tập trung vào loài Sứa đỏ (You
và cs, 2007).
Với mục đích tạo nguồn lợi và tăng sản lượng đánh bắt, các nhà sinh học
biển Trung Quốc trong nhiều năm đã nghiên cứu làm gia tăng nguồn lợi Sứa đỏ
(Rhopilema esculentum) ở vịnh Liaodong của Trung Quốc. Năm 2005 - 2006, sự
tái tạo nguồn lợi được thực hiện lần đầu tiên trên quy mô lớn với 414 triệu ấ
u
trùng juvenile (đường kính dù >1cm) được thả vào vịnh Liaodong. Tỷ lệ bắt lại
trong số Sứa thả ra là 3,0% và 3,2% và ngư dân đã thu được 159 triệu nhân dân
tệ trong thời gian này. Tỷ lệ đầu vào (chi phí nuôi ấu trùng juvenile) và đầu ra
(giá trị bán được) vào khoảng 1/18. Giá trị thương mại cao của sự tái tạo nguồn
lợi Sứa đỏ đã tạo ra một công việc kinh doanh rất thành công ở vịnh Liaodong

(Dong và cs, 2009).
Trong công trình nghiên cứu mới nhất về nhóm S
ứa kinh tế, Kitamura
&Omori (2010) đã xác định tên khoa học 6 loại Sứa thương mại ở các nước
Malaysia, Indonesia và Myanma và thông báo một số kết quả tìm hiểu về nghề
Sứa ở các nước Đông Nam Á.

9
● Có thể thấy, các nhà khoa học trên thế giới ngày càng quan tâm nghiên cứu
Sứa biển ở mọi lĩnh vực, từ nghiên cứu cơ bản,… đến công nghệ sinh học.
Những năm gần đây, một số hướng nghiên cứu được chú trọng với một số công
trình nghiên cứu mang lại nhiều lợi ích kinh tế - xã hội như nghiên cứu nhóm
Sứa độc, nghiên cứu tìm kiếm các hoạt chất sinh học từ
Sứa biển, nghiên cứu kỹ
thuật nuôi và tái tạo nguồn lợi v.v. Tuy vậy, trên thế giới vẫn còn ít các thông tin,
các công trình nghiên cứu về nguồn lợi và khai thác Sứa biển.
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC
Ở Việt Nam, Sứa biển bắt đầu được nghiên cứu trong khoảng 50 năm trở lại
đây, song cho đến nay cũng chưa được coi trọng đúng mức, chỉ có một số công bố
về thành phần loài do nhiều tác giả coi Sứa không phải là thức ăn của cá, chưa coi
trọng vai trò của chúng trong hệ sinh thái biển.
Shirota (1966), trong công trình nghiên cứu sinh vật phù du ở các vùng
nước nội địa và vùng biển ven bờ miền Nam Vi
ệt Nam, lần đầu tiên công bố
danh mục 98 loài Sứa nằm trong 2 phân ngành, 2 lớp và 10 bộ. Ngành Sứa lược
(Ctenophora) hiện nay được tác giả xếp vào phân ngành của ngành Xoang tràng
(Coelenterata). Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu cũng chỉ dừng lại ở việc xác định
thành phần loài và cung cấp hình ảnh minh họa về hình dạng bên ngoài của Sứa.
Cũng tương tự như nghiên cứu của Shirota (1966), một số công trình nghiên
cứu động vật phù du biển tiếp sau cũ

ng chỉ công bố thành phần loài Sứa trong
các đợt khảo sát; thiếu các nghiên cứu về đặc điểm sinh học, đặc trưng phân bố
v.v. Trong báo cáo của một số dự án và đề tài điều tra biển, Sứa chỉ được thống
kê trong thành phần khu hệ động vật phù du.
Chương trình NAGA (1959-1961) đã ghi nhận được 31 loài Sứa ống
(Siphonophora) và 17 loài Sứa dù (Scyphozoa) ở vùng biển phía nam Biển
Đông, trong khi vịnh Thái Lan chỉ bắt gặp 7 loài Sứ
a ống và 13 loài Sứa dù
(Alvarino, 1963). Trong báo cáo kết quả điều tra tổng hợp Vịnh Bắc Bộ của Đội
điều tra liên hợp Việt - Trung (1965) đã thống kê được 16 loài Sứa ống. Đề tài
điều tra sinh vật vùng triều và vùng cửa sông Hồng, sông Ninh Cơ và sông Đáy
tỉnh Hà Nam Ninh (1970 - 1971) đã thống kê được 6 loài Sứa trong tổng số 104
loài động vật phù du (Nguyễn Văn Khôi & Dương Thị Thơm, 1980). Chương
trình điều tra t
ổng hợp biển Thuận Hải - Minh Hải (1978 - 1980) đã thống kê
được 20 loài Sứa biển (Nguyễn Văn Khôi và cs, 1991) v.v.
Những năm gần đây ở Việt Nam, Sứa biển bắt đầu được chú ý do vai trò
quan trọng của chúng trong hệ sinh thái và giá trị kinh tế.
Một số đặc điểm sinh học cơ bản của nhóm Sứa kinh tế đã được tổng hợp
trong các tài liệu “Sổ tay nuôi một số độ
ng vật thủy sản nước mặn” của Trung
tâm Khuyến ngư Quốc gia (2005) và “Bách khoa thủy sản” của Hội nghề cá Việt
Nam (2007):
- Hình thái ngoài: Cơ thể nhóm Sứa biển ăn được có cấu tạo gồm 2 phần, phần
dù (thân) và phần tay. Thân Sứa hình bán cầu hơi dẹp, trong suốt, phía lưng lồi
cao và mỏng dần từ đỉnh ra xung quanh tạo thành mép dù hay vạt bờ dù. Mép dù

10
mỏng, uốn lượn và tạo thành các thùy nhỏ đều đặn. Mặt dưới thân (mặt bụng) có
nhiều nếp cơ vòng như những vòng tròn đồng tâm. Hoạt động của các nếp cơ

giúp cho Sứa di chuyển phù phiêu trong nước. Sứa có 8 tay, cứ 2 tay chập lại ở
một gốc chung. Các gốc của 4 đôi tay tạo thành tấm đáy của xoang sinh dục ở
giữa mặt bụng. Mỗi tay của Sứa biển g
ồm 3 thùy (cánh): 1 thùy bụng (cánh
trong) và 2 thùy lưng (cánh ngoài). Thùy bụng dài và mép ngoài của các thùy
bụng ở từng đôi tay chập lại với nhau ở gốc tay. Từ 4 gốc tay, các thùy bụng gặp
nhau tại giao điểm chung ở chính giữa mặt ngoài tấm đáy xoang sinh dục. Hai
thùy lưng ngắn hơn và gốc của mép ngoài tự do. Dọc theo mép ngoài, các thùy
tay gấp nếp nhiều và có các cơ quan bám. Đầu ngọn các tay có tua cảm giác hình
sợi mảnh. Trên các tay Sứa có các gai chứa chất có thể gây mẩ
n ngứa hay dị ứng.
Xen kẽ giữa các đôi tay có 4 lỗ sinh dục thông với khoang sinh dục. Giữa mỗi
cửa sinh dục có một mấu lồi nhỏ gọi là gờ sinh dục.
- Tập tính sống: Sứa sống phù phiêu trên mặt nước ở vùng cửa sông, ven biển,
nơi có độ sâu từ 5 - 30m, có khi đến 40m. Di chuyển của Sứa trong môi trường
nước thường cả chủ động và bị động; di chuyển chủ độ
ng dựa vào sự vận động
của các cơ và sự uốn lượn của mép dù; di chuyển bị động là phù phiêu, bị cuốn
theo dòng nước. Khi biển êm, ban ngày có nhiều mây Sứa thường nổi trên mặt
nước. Khi biển động, nắng gắt hay vào lúc xẩm tối Sứa thường di chuyển xuống
tầng nước sâu hơn.
- Sinh sản: Sứa biển là động vật phân tính, tuy nhiên khó phân biệt được giới tính
trong tự nhiên. Sứa có 2 phương th
ức sinh sản là hữu tính khi sống trôi nổi và vô
tính khi sống cố định.
- Bắt mồi và sinh trưởng: Cơ quan bắt mồi của Sứa là các tay miệng. Sứa bắt
sinh vật phù du cỡ nhỏ làm thức ăn như các loài giáp xác Chân chèo (Copepoda),
Râu ngành (Cladocera), Luân trùng (Rotifera), ấu trùng của động vật 2 mảnh vỏ
(Bivalvia) và một số loài sinh vật phù du khác. Khi tuyến sinh dục chín muồi là
lúc Sứa có tốc độ sinh trưởng lớn nhất. Sau khi bắt đầu sinh sản, tốc độ

sinh
trưởng của Sứa giảm xuống trị số âm, cơ thể co lại, khối lượng giảm dần cho đến
khi chết. Sứa có thể sống được tới 6 tháng.
Theo Nguyễn Dương Thạo (2008), Sứa Diphyes chamissonic là một trong 7
loài ưu thế của quần xã động vật phù du ở vùng nước khơi biển Tây Nam Bộ
thuộc vịnh Thái Lan, chúng xuất hiện nhiều ở các bãi cá truyền thống trong vịnh.
Nguy
ễn Thị Thu và cs. (2008) đã thống kê được 121 loài Sứa phân bố ở
vùng biển Việt Nam, xác định được thành phần hóa học của loài Sứa trắng gồm
5 hợp chất thiên nhiên có thể dùng làm nguyên liệu cho sản xuất mỹ phẩm. Về
ảnh hưởng của Sứa đối với nguồn lợi thủy sản, các quan sát cho thấy trung bình
một con Sứa roi sống trong các đầm quảng canh khu vực Phù Long và Tiên Lãng
(Hải Phòng) có đường kính 4 - 7cm tương ứng với khối lượng 50 - 100g ăn hết
128 cá thể động vật phù du, trong đó có từ 15 - 20 cá bột trong một ngày. Sứa
trắng và Sứa đỏ có kích thước từ 20 - 40cm tương ứng với khối lượng từ 5 - 8kg
ăn hết từ 7 - 11 cá thể tôm con hay cá con trong một ngày.

11
Về nguồn lợi Sứa biển Việt Nam, các thông tin, số liệu hiện có rất tản mạn
và sơ lược. Mùa vụ khai thác Sứa có thể là quanh năm ở vùng biển ven bờ Việt
Nam; tuy nhiên, theo các vùng địa lý lại có sự khác biệt. Mùa vụ của nhóm Sứa
kinh tế bước đầu được ghi nhận ở vùng biển phía tây Vịnh Bắc Bộ thường từ
tháng 3 đến tháng 6, vùng ven biển Trung Bộ thường từ tháng 2 - 5 và tháng 7 -
10, vùng ven biển Đ
ông Nam Bộ thường từ tháng 8 - 10, vùng biển Tây Nam Bộ
thuộc Vịnh Thái Lan từ tháng 11, tháng 12 đến tháng 3 năm sau (Omori và cs,
2001; Nguyễn Thị Thu và cs, 2008).
Hiện có 2 loài Sứa được khai thác ở các tỉnh phía Bắc là Sứa trắng và Sứa đỏ.
Mùa vụ khai thác Sứa tập trung từ tháng 3 đến tháng 5 với sản lượng khai thác
trung bình hàng năm tới hàng trăm nghìn tấn, nghề khai thác chính là vợt xúc và

lưới đăng (Nguyễn Thị Thu và cs, 2008). Năm 2011, với giá bán trên thị trường
của ngư dân cho các cơ
sở thu mua để sơ chế từ 15.000 - 30.000 đ/con Sứa trắng
(15 - 30kg/con), 80.000 - 150.000đ/con Sứa đỏ (5 - 10kg/con), giá trị sản lượng
hàng năm ở nhiều địa phương ven biển Bắc Bộ ước đạt hàng chục tỷ đồng. Sản
phẩm Sứa sau khi sơ chế được đưa sang Trung Quốc bán với giá đắt gấp nhiều
lần khi thu mua.
Qua tìm hiểu nghề Sứa ở miền Bắc Việt Nam, Nishikawan và cs. (2008) cho
r
ằng để đạt được sự bền vững và phù hợp hơn cho nghề khai thác cần phải tích
luỹ thêm những hiểu biết khoa học về các loài Sứa ăn được cũng như thiết lập
một hệ thống quan trắc các điều kiện lý - hoá của môi trường. Để hiểu được kích
thước quần đàn, các nghiên cứu về sinh sản vô tính như khả năng hình thành
đoạn mầm
ở polyp liên quan đến sự thay đổi của môi trường là rất cần thiết.
● Do vai trò quan trọng trong hệ sinh thái và lợi ích kinh tế - xã hội, Sứa biển
mới bắt đầu được quan tâm nghiên cứu ở Việt Nam trong một vài năm gần đây.
Tuy nhiên, các thông tin và số liệu hiện có về Sứa còn sơ lược, một số nghiên
cứu đã thực hiện còn hạn chế về nội dung, chủ yếu tập trung vào thành phần loài,
hiện chưa có số liệu về nguồn lợi và tình hình khai thác Sứa ở vùng ven biển.
2. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI
• Mục tiêu tổng quát
Có được cơ sở dữ liệu về nguồn lợi và hiện trạng khai thác Sứa ở vùng ven biển
Việt Nam, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp khai thác và bảo vệ hợp lý.
• Mục tiêu cụ thể
- Đánh giá được nguồn lợ
i và hiện trạng khai thác nhóm Sứa kinh tế (chủ yếu là
Sứa trắng, Sứa rô, Sứa đỏ, ) ở vùng ven biển Việt Nam.
- Đề xuất các giải pháp về quản lý, khai thác hợp lý và bảo vệ nguồn lợi Sứa biển.
3. CÁCH TIẾP CẬN

3. 1. Tiếp cận trên cơ sở khoa học
Cơ sở khoa học cho sử dụng hợp lý nguồn lợi Sứa dựa trên các luận cứ
khoa học cơ b
ản về:

12
- Phân tích, đánh giá hiện trạng và xu thế biến động nguồn lợi Sứa ở vùng biển
ven bờ; ước tính được trữ lượng, từ đó đề xuất khả năng khai thác bền vững.
- Phân tích, đánh giá hiện trạng khai thác nguồn lợi Sứa, xác định được hiệu quả
và ảnh hưởng của các ngư cụ và hình thức khai thác đến nguồn lợi Sứa; trên cơ
sở đó đề xu
ất các biện pháp khai thác hợp lý để bảo vệ nguồn lợi.
3. 2. Tiếp cận theo hướng sinh thái môi trường
Trong hệ sinh thái biển, Sứa là sinh vật rất nhạy cảm; sự xuất hiện, phân
bố của Sứa liên quan mật thiết với các yếu tố sinh thái của môi trường. Vì
vậy, nghiên cứu nguồn lợi Sứa biển cần gắn liền với nghiên cứu các yếu tố
sinh thái môi trường để phụ
c vụ công tác dự báo nguồn lợi.
3. 3. Tiếp cận theo hướng phối hợp liên ngành
- Đối tượng và phạm vi nghiên cứu có liên quan đến nhiều bộ, nhiều ngành; vì
vậy muốn bảo vệ nguồn lợi Sứa và khai thác hợp lý cần có sự phối hợp liên
ngành nhằm có được một cơ chế quản lý thống nhất, đồng bộ giữa các bộ, ngành
liên quan.
- Nghiên cứu nguồn lợi Sứa cần có s
ự phối hợp thực hiện của các cơ quan nghiên
cứu khoa học chuyên ngành, các cơ quan quản lý ở các địa phương để có được
các điều kiện thuận lợi khi triển khai đề tài, tận dụng được năng lực và kinh
nghiệm trong công tác điều tra, nghiên cứu.
3. 4. Tiếp cận chuyên ngành
- Điều tra trực tiếp nguồn lợi Sứa bằng tàu nghiên cứu: sử dụng tàu nghiên cứu

tiến hành
điều tra đánh giá nguồn lợi Sứa và các điều kiện môi trường liên quan
ở vùng ven biển Việt Nam. Điều tra trên diện rộng ở vùng ven biển phía tây
Vịnh Bắc Bộ, Trung Bộ, Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ trong khu vực có độ sâu
nhỏ hơn 30m nước để tìm hiểu thành phần loài, phân bố, trữ lượng, mùa vụ, khả
năng khai thác nguồn lợi Sứa, tìm hiểu mối liên quan giữa nguồn lợi và môi
trườ
ng.
- Điều tra, phỏng vấn các hoạt động khai thác Sứa ở các tỉnh có ngư trường khai
thác trọng điểm để thu thập số liệu; kết hợp với số liệu từ hoạt động khảo sát mặt
rộng trên biển để đánh giá được hiện trạng khai thác Sứa ở các tỉnh ven biển
nước ta.
- Xin ý kiến tư vấn và trao đổi các vấn đề nghiên cứu vớ
i các chuyên gia nhằm
chia sẻ kinh nghiệm, nâng cao năng lực nghiên cứu cho cán bộ tham gia đề tài.
4. VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4. 1. Vật liệu nghiên cứu
• Đối tượng và tàu nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: là các loài Sứa kinh tế (edible jellyfish - Sứa ăn được)
còn gọi là Sứa thủy sản nằm trong bộ Sứa miệng rễ (Rhizostomeae) của lớp Sứa
chính thức (Scyphozoa) phân bố ở biển Việt Nam.

13
- Tàu điều tra nguồn lợi Sứa và các điều kiện môi trường liên quan: sử dụng tàu
đánh cá của ngư dân có công suất 200cv để khảo sát và bảo đảm an toàn cho
người và thiết bị nghiên cứu trong các chuyến điều tra dài ngày trên biển.
• Địa điểm nghiên cứu:
- Không gian điều tra, nghiên cứu mặt rộng dọc theo vùng ven biển Việt Nam từ
Quảng Ninh đến Kiên Giang trong phạm vi có độ sâu nhỏ hơn 30m nước v
ới 156

trạm khảo sát nguồn lợi Sứa và quan trắc các thông số môi trường liên quan:
+ Vùng ven biển phía tây Vịnh Bắc Bộ: từ Quảng Ninh đến Quảng Trị (21
0
30’-
17
0
00’N) với 48 trạm khảo sát (Phụ lục 1: hình 1, bảng 1).
+ Vùng ven biển Trung Bộ: từ Quảng Trị đến Ninh Thuận (17
0
00’- 11
0
50’N)
với 40 trạm khảo sát (Phụ lục 1: hình 2, bảng 2).
+ Vùng ven biển Đông Nam Bộ từ Ninh Thuận đến Cà Mau (11
0
50’- 8
0
00’N)
với 44 trạm khảo sát (Phụ lục 1: hình 3, bảng 3).
+ Vùng ven biển Tây Nam Bộ: từ Cà Mau đến Kiên Giang (8
0
00’- 10
0
20’N) với
24 trạm khảo sát (Phụ lục 1: hình 3, bảng 3).
- Điều tra, đánh giá hiện trạng khai thác Sứa ở các tỉnh ven biển từ Quảng Ninh
đến Kiên Giang, tập trung vào 10 tỉnh trọng điểm có nghề Sứa biển là Quảng
Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Bình
Định, Phú Yên, Kiên Giang. Giám sát các hoạt động khai thác và thu số liệu về
Sứa ở 4 ngư trường khai thác Sứa trọng điểm là Quảng Ninh, Hải Phòng, Khánh

Hòa, Kiên Giang.
- Tìm hiểu ảnh hưởng của Sứa đối với hoạt động du lịch - tắm biển ở các bãi tắm
danh tiếng: Đồ Sơn (Hải Phòng), Sầm Sơn (Thanh Hóa), Nha Trang (Khánh
Hòa), Vũng Tàu (Bà Rịa - Vũng Tàu).
• Thời gian nghiên cứu và số liệu điều tra, khảo sát
- Đề tài được thực hiện trong 3 năm (2009 - 2011). Theo các thông tin và tài liệu
hiện có, hàng năm nhóm Sứa kinh tế có thể xuất hiện sớm hay muộn tùy đi
ều
kiện thời tiết, môi trường của từng vùng nên việc khảo sát nghiên cứu nguồn lợi
Sứa đã được tiến hành 2 lượt cho mỗi vùng biển vào thời gian xuất hiện của
nhóm Sứa kinh tế.
+ Vùng ven biển phía tây Vịnh Bắc Bộ: đã thực hiện 2 chuyến khảo sát vào
tháng 4-5/2009 và tháng 3-4/2010 trên hệ thống 48 trạm khảo sát với 96 mẻ lưới.
+ Vùng ven biển Trung Bộ: thực hiện 2 chuyến khảo sát vào tháng 5-6/2009 và
tháng 4-5/2010 trên hệ thống 40 trạm khảo sát với 80 mẻ lưới.
+ Vùng ven biển Đông Nam Bộ: thực hiện 2 chuyến khảo sát vào tháng 9-
10/2009 và tháng 10-11/2010 trên hệ thống 44 trạm khảo sát với 88 mẻ lưới.
+ Vùng ven biển Tây Nam Bộ: thực hiện 2 chuyến khảo sát vào tháng 10-
11/2009 và tháng 4-5/2011 trên hệ thống 24 trạm khảo sát với 48 mẻ lưới.
- Trong 3 năm (2009 - 2011) thực hiện 10 đợt giám sát khai thác và thu số liệu về

×