Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.38 KB, 28 trang )

***
Đề tài: Vai trò kinh tế của Nhà nớc trong nền kinh tế thị trờng định hớng xã
hội chủ nghĩa
***
I- Đặt vấn đề:
Sau 40 năm xây dựng nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, gần 20 năm qua
Đảng và Nhà nớc ta đã tiến hành xây dựng nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trờng
có sự quản lý của Nhà nớc theo định hớng xã hội chủ nghĩa. Trong thời gian đó,
chúng ta đã đạt đợc rất nhiều thành tựu quan trọng, không chỉ ở trong nớc mà còn
trong quan hệ quốc tế. Đồng thời chúng ta cũng phải đang đối mặt với những vấn đề
không nhỏ, có vấn đề chịu sự tác động của bên ngoài, mà cũng có vấn đề do nguyên
nhân từ bên trong, nhng chủ yếu vẫn do nguyên nhân từ bản thân nền kinh tế nớc ta,
từ bộ máy tổ chức, cán bộ của Đảng và Nhà nớc ta. Nếu chúng ta không sớm khắc
phục những nguyên nhân bên trong thì đó không chỉ là lực cản đối với sự phát triển
mà nguy hiểm hơn là nó làm suy yếu nền kinh tế đất nớc. Đây là điều mà chúng ta
phải hết sức quan tâm khi mà các nớc khác trong khu vực đang phát triển và hội nhập
quốc tế ngày càng sâu rộng.
Nền kinh tế Việt Nam tuy đã qua gần 20 năm đổi mới nhng vẫn còn những
vấn đề cần lu ý:
Mặc dù nền kinh tế nớc ta chuyển sang vận hành theo cơ chế thị trờng định h-
ớng xã hội chủ nghĩa nhng đến nay phát triển hàng hoá vẫn còn khá chênh lệch giữa
các vùng, các ngành, giữa nông thôn và thành thị, giữa công nghiệp, dịch vụ và nông
nghiệp.
Kinh tế thị trờng trong nớc mới sơ khai lại gắn với kinh tế thị trờng thế giới
hiện đại do chủ nghĩ t bản chi phối. Chúng ta còn lúng túng trong việc hoạch định cơ
1
chế chính sách và tổ chức chỉ đạo thực hiện. Do đó sức cạnh tranh và hiệu qua kinh
tế thấp, dễ rới vào tình trạng bị động, phụ thuộc, dễ phát sinh nợ nần.
Kinh tế thị trờng mới bớc đầu phát triển ở nớc ta nhng đã chịu tác động khá
mạnh cả về mặt tích cực và tiêu cực. Tuy chúng ta có khả năng đạt mức tăng trởng
cao trong thời kì đầu, nhng nếu không có định hớng đầu t tốt sẽ có khó khăn trong


thời kì tiếp theo.Hiện tợng lừa đảo, gian lận trong kinh doanh phát sinh và phát triển
ngày càng sâu rộng đã gây nhiều thiệt hại và sẽ ngày càng lớn nếu không có biện
pháp ngăn chặn kịp thời và hiệu quả.
Lĩnh vực bộ máy tổ chức cán bộ còn nhiều bất cập cả về chính sách, cơ chế và
tổ chức thực hiện, việc tuyển dụng, sắp xếp và đào tạo nâng cao năng lực của đội ngũ
cán bộ, viên chức ở các ngành, các cấp từ trung ơng đến địa phơng còn nhiều yếu
kém.
Để khắc phục khó khăn và sửa chữa những sai lầm, chúng ta cần phải nắm rõ
và vận dụng đúng đắn vai trò quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nớc, chính vì thế mà em
chọn đề tài: Vai trò kinh tế của Nhà nớc trong nền kinh tế thị trờng định hớng xã
hội chủ nghĩa.
II- Giải quyết vấn đề:
1- Cơ sở lý luận :
* Khuyết tật của cơ chế quản lý cũ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao
cấp:
Năm 1976, đất nớc ta thống nhất về mặt nhà nớc, cả nớc cùng tiến lên chủ
nghĩa xã hội trên cơ sở thực hiện cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp.
Trong thời kì này nớc ta đạt đợc nhiều thành tựu kinh tế quan trọng nhng cũng có rất
nhiều hạn chế. Sở dĩ chúng ta gặp nhiều khó khăn là do chúng ta tiến lên chủ nghĩa
xã hội từ một nền kinh tế còn phổ biến là sản xuát nhỏ, lại bị 30 năm chién tranh tàn
phá nạng nề với hạu quả rất nghiêm trọng. Trong khi cha khác phục đợc hậu quả
chiến tranh trớc đây thì năm 1979 chiến tranh biên giới lại xảy ra, đồng thời chúng ta
còn phải đa quân đội đi giúp đỡ nhân dân Campuchia loại trừ thảm hoạ diệt chủng.
2
Cũng từ đó nền kinh tế nớc ta bị bao vây cấm vận của các thế lực thù địch từ bên
ngoài, và chịu nhiều hậu quả của chủ nghĩa thực dân cũ và mới.
Qua 10 năm quản lý nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung thì cơ chế
này đã bộc lộ nhiều khuyết tật:
- Nhà nớc quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu với hệ
thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết từ trên xuống dới. Do đó hoạt động của các doanh

nghiệp chủ yếu phải dựa vào các chỉ tiêu pháp lệnh hoặc là quyết định của cơ quan
quản lý nhà nớc cấp trên, từ phơng hớng sản xuất, nguồn vật t, địa chỉ tiêu thụ sản
phẩm, đến việc định giá, sắp xếp bộ máy.
- Các cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất kinh
doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở, nhng lại không chịu trách nhiệm gì về vật chất
đối với các quyết định của mình. Những thiệt hại do các quyết định không đúng gây
ra thì ngân sách nhà nớc phải gánh chịu.
Hậu quả do hai điểm nói trên mang lại là cơ quan quản lý nhà nớc làm thay
chức năng quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Còn các doanh nghiệp vừa
bị trói buộc vì không có quyên tự chủ, vừa ỷ lại vào cấp trên, vì không bị ràng buộc
đối với kết quả sản xuất kinh doanh.
- Quan hệ hàng hoá - tiền tệ bị coi thờng, nhà nớc quản lý nền kinh tế và kế
hoạch hoá bằng chế độ cấp phát và giao nộp sản phẩm, quan hệ hiện vật là chủ yếu,
do đó hạch toàn kinh tế chỉ là hình thức. Chế độ bao cấp đợc thực hiện dới các hình
thức: bao cấp qua giá, bao cấp qua chế độ tem phiếu, bao cấp theo chế độ cấp phát
vốn của ngân sách.
- Bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều cấp trung gian kém năng động, đội ngũ
cán bộ kém năng lực quản lý, phong cách cửa quyền quan liêu. Mô hình kinh tế chỉ
huy mà điển hình là nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp... với những đặc trng
nêu trên có những u điểm là tập trung đợc nguồn lực vào những mục tiêu chủ yếu,
nhng nó lại thủ tiêu cạnh tranh nên đã kìm hãm tiến bộ khoa học kỹ thuật. Mô
hình kinh tế đó không có tiêu chuẩn khách quan đánh giá hiệu quả hoạt động kinh tế,
bởi lẽ giá cả hầu nh không có quan hệ gì với giá trị hàng hoá, cũng nh là tơng quan
3
cung cầu, nên mọi sự tính toán đều sai lệch. Làm mất đi động lực của sự phát
triển kinh tế, làm triệt tiêu tính năng động sáng tạo của các đơn vị kinh tế, hình thành
cơ chế kìm hãm sự phát triển kinh tế xã hội.
Hạn chế của cơ chế quản lý kinh tế cũ đòi hỏi phải chuyển đổi sang cơ chế
quản lý mới tiến bộ hơn, văn kiện Đại hội VII Đảng ta đã xác định rõ: Xoá bỏ triệt
để cơ ché quản lý tập trung quan liêu, bao cấp, hình thành cơ chế thị trờng có sự quản

lý của nhà nớc bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác . Xem
xét ở góc độ khoa học, việc chuyển đổi này là hoàn toàn đúng đắn phù hợp với thực
trạng nền kinh tế nớc ta lúc đó, cũng nh phù hợp với quy luật kinh tế và xu thế thời
đại.
* Kinh tế thị tr ờng: Kinh tế thị trờng xuất hiện nh một yêu cầu khách quan của
nền kinh té hàng hóa và là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hoá. Vậy nền
kinh tế thị trờng là gì?
Kinh tế thị trờng là cách tổ chức nền kinh tế xã hội trong đó quan hệ kinh tế của các
cá nhân, các doanh nghiệp đều biểu hiện qua mua bán hàng hoá, dịch vụ trên thị tr-
ờng và thái độ c xử của từng thành viên chủ thể kinh tế là hớng vào việc tìm kiếm lợi
ích của chính mình theo sự dẫn dắt của giá cả thị trờng.
Kinh tế thị trờng là kinh tế hàng hoá phát triển ở trình độ cao, khi tất cả các quan hệ
kinh tế trong quá trình tái sản xuất xã hội đều đợc tiền tệ hoá; các yếu tố của sản xuất
nh đất đai và tài nguyên, vốn bằng tiền và vốn vật chất, sức lao động, công nghệ và
quản lý; các sản phẩm và dịch vụ tạo ra; chất xám đều là đối tợng mua bán, là hàng
hoá.
* Đặc tr ng chung của nền kinh tế thị tr ờng : qua quá trình phát triển kinh tế thị
trờng ở một số nớc có thể nêu ra một số dặc trng chung nh sau
4
- Các chủ thể kinh tế có tính độc lập, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh
doanh
- Giá cả do thị trờng quyết định, hệ thống thị trờng ngày càng phát triển đầy
đủ và có tác dụng làm cơ sở cho việc phân phối nguòn lực về kinh tế vào trong các
ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế.
- Nền kinh tế thị trờng vận động theo quy luật vốn có của thị trờng nh quy
luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh...
- Nếu là nền kinh tế thị trờng hiện đại thì còn có sự điều tiết vĩ mô của nhà
nớc thông qua các pháp luật kinh tế, kế hoạch hoá, các chính sách kinh tế.
* Đặc tr ng của kinh tế thị tr ờng định h ớng xã hội chủ nghĩa:
- Mục tiêu phát triển kinh tế thị trờng:

Mục tiêu hàng đầu của phát triển kinh tế thi trờng ở nớc tiên là giải phóng sản xuất,
động viên mọi nguồn lực trong nớc và ngoài nớc để thực hiện công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao hiệu quả
kinh tế xã hội, cải thiện từng bớc đời sống nhân dân. Có những nớc đặt vấn đề
tăng trởng kinh tế trớc, giải quyết công bằng xã hội sau. Có những nớc lại muốn dựa
vào viện trợ và vay nợ nớc ngoài để cải thiện đời sống nhân dân rồi sau đó mới thúc
đẩy tăng trởng kinh tế. ở nớc ta, thực hiện t tởng Hồ Chí Minh và đờng lối đổi mới
của Đảng, lấy sản xuất gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, tăng trởng kinh tế đi
đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, khuyến khích làm giàu hợp pháp, gắn liền với
xoá đói giảm nghèo.
- Nền kinh tế gồm nhiều thành phẩn, trong đó thành phần kinh tế Nhà nớc
giữ vai trò chủ đạo:
Trong nền kinh tế nớc ta tồn tại nhiều loại hình sở hữu cơ bản là sở hữu toàn dân, sở
hữu tập thể, sở hữu t nhân (gồm sở hữu các thể sở hữu tiểu chủ, sở hữu t nhân t bản).
Từ mỗi loại hình sở hữu cơ bản đó lại hình thành nhiều thành phần kinh tế, nhiều tổ
5
chức sản xuất kinh doanh. Các thành phần kinh tế đó là kinh tế nhà nớc, kinh tế tập
thể, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế t bản t nhân, kinh tế t bản nhà nớc, kinh tế có vốn
đầu t nớc ngoài, trong đó kinh tế nhà nớc giữ vai trò chủ đạo. Các thành phần kinh tế
tồn tại một cách khách quan và là những bộ phận cần thiết của nền kinh tế trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy phát triển nền kinh tế thị trờng là một tất yếu
đối với nớc ta. Chỉ có vậy mới khai thác đợc mọi nguồn lực kinh tế, nâng cao hiệu
quả kinh tế, phát huy đợc tiểm năng của các thành phần kinh tế vào phát triển chung
nền kinh tế đất nớc nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của nhân dân.
Do đó không chỉ củng cố và phát triển các thành phần kinh tế dựa trên chế độ công
hữu mà còn phải khuyến khích các thành phần kinh tế dựa trên chế độ t hữu phát
triển để hình thành nền kinh tế thị trờng rộng lớn bao gồm các đơn vị kinh tế thuộc
chế độ t hữu, các đơn vị kinh tế thuộc chế độ công hữu, các hình thức hợp tác liên
doanh giữa trong và ngoài nớc Các đơn vị kinh tế thuộc mọi thành phần đều bình
đẳng với nhau trớc pháp luật, vừa hợp tác vừa cạnh tranh với nhau để phát triển.

Trong nền kinh tế thị trờng nhiều thành phần ở nớc ta, kinh tế nhà nớc giữ vai trò
chủ đạo. Việc xác lập vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nớc và vấn đề có tính nguyên
tắc và là sự khác biệt có tính bản chất giữa kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ
nghĩa với kinh tế thị trờng t bản chủ nghĩa. Tính định hớng xã hội chủ nghĩa của nền
kinh tế thị trờng ở nớc ta đã quyết định kinh tế nhà nớc phải giữ vai trò chủ đạo. Bởi
lẽ một chế độ xã hội đều có một cơ sỏ kinh tế tơng ứng với nó, kinh tế nhà nớc cùng
với kinh tế tập thể tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới xã hội chủ nghĩa ở nớc ta.
- Trong nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa, thực hiện nhiều
hình thức phân phối thu nhập trong đó phân phối theo lao động là chủ yếu:
Phù hợp với sự phát triển của lực lợng sản xuất trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, nhiều chế độ sở hữu cùng tồn tại. Mỗi chế độ sở hữu có nguyên tắc phân phối t-
6
ơng ứng với nó, vì thế trong thời kỳ quá độ tồn tại cơ cấu đa dạng về hình thức phân
phối thu nhập.
Trong nền kinh tế thị trờng ở nớc ta, tồn tại các hình thức phân phối thu nhập sau
đây: phân phối theo lao động, phân phối theo vốn hay tài sản đóng góp, phân phối
theo giá trị sức lao động, phân phối thông qua các quỹ phúc lợi tập thể xã hội.
Phân phối theo lao động là đặc trng bản chất của kinh tế thị trờng định hớng xã hội
chủ nghĩa, nó là hình thức thực hiện về mặt kinh tế của chế độ công hữu. Vì thế phân
phối theo lao động đợc xác định là hinmhf thức phân phối chủ yếu trong thời kì quá
độ lên chủ nghĩa xã hội.
- Cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc
xã hội chủ nghĩa:
Trong điều kiện ngày nay, hầu nh tất cả các nền kinh tế của các nớc trên thế giới
đều có sự quản lý của nhà nớc để sửa chữa một mức độ nào đó những thất bại của
thị trờng. Tức là cơ chế vận hành nền kinh tế của tất cả các nớc đều là cơ chế thị tr-
ờng có sự quản lý của nhà nớc. Trong cơ chế vận hành nền kinh tế của nớc ta nhà nớc
quản lý nền kinh tế là nhà nớc xã hội chủ nghĩa, nhà nớc của dân, do dân và vì dân
đặt dới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự quản lý của nhà nớc xã hội chủ
nghĩa nhằm sửa chữa những thất bại của thị trờng, thực hiên các mục tiêu xã hội,

nhân đạo mà bản thân cơ chế thị trờng không làm đợc, đảm bảo cho nền kinh tế thị
trờng phát triển theo định hớng xã hội chủ nghĩa. Vai trò quản lý của Nhà nớc chủ
nghĩa là hết sức quan trọng. Nó đảm bảo cho nền kinh tế tăng trởng ổn định, đạt hiệu
quả cao, đặc biệt là đảm bảo công bằng xã hội.
Nhà nớc quản lý nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa theo nguyên tắc
kết hợp kế hoạch với thị trờng. Thị trờng là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế,
nó tồn tại khách quan, tự vận động theo những quy luật vốn có của nó. Còn kế hoạch
7
hoá là hình thức thực hiện của tính kế hoạch, nó là sản phẩm chủ quan của chủ thể
quản lý. Kế hoạch và cơ chế thị trờng là hai phơng tiện khác nhau để phát triển điều
tiết nền kinh tế. Kế hoạch là sự điều chỉnh có ý thức của chủ thể quản lý đối với nền
kinh tế, còn cơ chế thị trờng là sự điều tiết của bản thân nền kinh tế.
- Nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế mở, hội
nhập:
Đặc điểm này phản ánh sự khác biệt giữa nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ
nghĩa với nền kinh tế đóng, khép kín, đồng thời phản ánh xu hớng hội nhập của nền
kinh tế trong điều kiện toàn cầu hoá quốc tế.
Do sự tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, đang diễn ra quá trình
quốc tế hoá đời sống kinh tế, sự phát triển của mỗi quốc gia trong sự phụ thuộc lẫn
nhau. Vì vậy, mở cửa kinh tế, hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới là tất yếu. Chỉ
có nh vậy mới thu hút đợc vốn, kỹ thuật công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý
tiên tiến của các nớc để khai thác tiềm năng và thế mạnh của đất nớc, thực hiện phát
huy nội lực, tranh thủ ngoại lực để xây dựng và phát triển kinh tế thị trờng hiện đại
theo kiểu rút ngắn.
Thực hiện mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hớng đa phơng hoá và đa dạng
hoá các hình thức đối ngoại, gắn thị trờng trong nớc với thị trờng khu vực và thế giới,
thực hiện những thông lệ trong quan hệ kinh tế quốc tế, nhng vẫn giữ đợc dộc lập chủ
quyền và bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc trong quan hệ kinh tế đối ngoại.
* Khuyết tật của kinh tế thị tr ờng:
Kinh tế thị trờng có những u điểm nh : đáp ứng nhu cầu thanh toán của xã hội

một cách tự động; huy động tối đa tiềm năng của xã hội; tạo ra động lực mạnh để
thúc đẩy hoạy động của các doanh nghiệp đạt hiệu quả cao và đào thải các doanh
8
nghiệp yếu kém; phản ứng nhanh nhạy trớc các thay đổi trong nhu cầu xã hội Tuy
vậy nó cũng bộc lộ không ít khuyết tật, có thể điểm qua một số điểm chính nh:
- Tạo ra bất bình đẳng và tái sản sinh ra các bất bình đẳng về thu nhập.
- Động lực lợi nhuận tạo ra môi trờng thuận lợi dẫn đến nguy cơ vi phạm luật
pháp, thơng mại hoá các giá trị đạo đức và tinh thần.
- Sự cạnh tranh không tổ chức dẫn đến mất cân đối vĩ mô và dẫn đến lạm
phát, thất nghiệp chu kỳ.
- Cạnh tranh dẫn đến độc quyền, do đó làm hạn chế nghiêm trọng các u
điểm của kinh tế thị trờng.
- Lợi ích dài hạn, lợi ích chung của xã hội không đợc chăm lo.
- Tài nguyên thiên nhiên và môi trờng bị tàn phá trong khi các nhu cầu
không có khả năng thanh toán tăng lên.
Để hạn chế những khuyết tật đó cần phải có sự can thiệp của một thế lực, đó
chính là nhà nớc. Sự phát triển của lịch sử chứng tỏ rằng xã hội không chỉ dựa vào thị
trờng khi giải quyết nhiều vấn đề kinh tế và nhất là các vấn đề xã hội. Trong những
trờng hợp mà thị trờng không thoả mãn đợc những nhu cầu của xã hội hay trực tiếp
làm hại cho xã hội và xuất hiện cái gọi là những thất bại thị trờng thì sự can thiệp
của nhà nớc vào các quá trình kinh tế trở nên cần thiết và không thể tránh khỏi.
* Vai trò của Nhà n ớc nói chung trong lịch sử:
Lịch sử cho thấy không phải khi nào xã hội cũng có nhà nớc. Trong xã hội
nguyên thuỷ, kinh tế còn thấp kém, cha có sự phân hoá giai cấp, cho nên cha có nhà
nớc. Đứng đầu các thị tộc, bộ lạc là các tộc trởng do nhân dân bầu ra.
Lực lợng sản xuất phát triển đã dẫn đến sự ra đời chế độ t hữu và từ đó xã hội
phân chia thành các giai cấp đối kháng và cuộc đấu tranh giai cấp không thể điều hoà
đợc xuất hiện. Điều đó dẫn đến nguy cơ các giai cấp chẳng những tiêu diệt lẫn nhau
mà còn tiêu diệt luôn cả xã hội. Để thảm hoạ đó không diễn ra, một cơ quan quyền
lực đặc biệt ra đời. Đó là nhà nớc. Nhà nớc đầu tiên trong lịch sử là nhà nớc chiếm

hữu nô lệ, tiếp đó là nhà nớc phong kiến, nhà nớc t sản.
9
Nhà nớc ra đời tựa hồ nh đứng ngoài xã hội, làm cho xã hội tồn tại trong trật tự
nhng thực tế chỉ có giai cấp có thế lực nhất hay chính là giai cấp thống trị về kinh tế
mới có đủ điều kiện lập ra và sử dụng bộ máy nhà nớc.
Chức năng ban đầu của nhà nớc là quản lý hành chính, bao gồm các lĩnh vực
chủ yếu nh:
- Quản lý lãnh thổ, thiết lập quan hệ bang giao với các nớc láng giềng (chức
năng đối ngoại).
- Quản lý trật tự xã hội, sắp xếp mối quan hệ giữa các cá nhân, các giai cấp,
các tầng lớp, các cộng đồng dân tộc sao cho phù hợp với ý chí của giai cấp đã sản
sinh ra nó (chức năng đối nội).
Để thực hiện hai chức năng này các Nhà nớc đều phải có những cơ sở kinh tế nhất
định. Trong lịch sử phát triển các Nhà nớc đã có các phơng pháp khác nhau để nắm
giữ kinh tế nhằm phục vụ chức năng quản lý của mình.
* Vai trò của Nhà n ớc trong quản lý kinh tế:
Lịch sử xã hội loài ngời chứng tỏ rằng: trong sự phát triển của mình, do yêu cầu của
quản lý xã hội, chức năng quản lý kinh tế của Nhà nớc luôn gắn liền với chức năng
quản lý hành chính. Trong các Nhà nớc đơng đại không có Nhà nớc nào đứng trên
kinh tế hay ngoài kinh tế.
Sự phát triển của sản xuất hàng hóa, sự ra đời của kinh tế thị trờng đã đặt
nhiệm vụ quản lý xã hội của Nhà nớc thành hai chức năng:
- Chức năng quản lý hành chính nhằm duy trì trật tự xã hội sao cho phù hợp
với nguyện vọng của các thành viên.
- Chức năng quản lý kinh tế nhằm duy trì các trật tự kinh tế với tính cách là
cơ sở của trật tự xã hội, sao cho phù hợp với lợi ích của các thành viên.
Lịch sử đã chứng minh chức năng kinh tế của Nhà nớc đợc phôi thai ngay từ buổi
10
ban đầu, khi Nhà nớc mới chỉ vừa xuất hiện. Sau đó mới đợc nhận thức vào thực tiễn
quản lý kinh tế xã hội.

Trong thời đại chiếm hữu nô lệ, Nhà nớc chủ nô là Nhà nớc đầu tiên trong lịch
sử đã trt dùng quyền lực của mình can thiệp vào việc phân phối của cải đợc sản xuất
ra. ở thời đại này, của cải đợc sản xuất ra bởi những ngời nô lệ dới sự chỉ huy điều
khiển quá trình sản xuất của giai cấp chủ nô, nhng khối lợng của cải ấy không đợc
phân phối mà bị giai cấp chủ nô chiếm đoạt bằng bạo lực, các thủ đoạn bạo lực phi
kinh tế ở đây đợc sử dụng làm công cụ chiếm đoạt, cỡng bức kinh tế.
Trong thời đại phong kiến, Nhà nớc phong kiến không chỉ can thiệp vào việc
phân phối của cải mà còn đứng ra tập hợp lực lợng nhân dân xây dựng kết cấu hạ
tầng cho sản xuất nông nghiệp, khuyến khích quan lại di dân đi mở mang các vùng
đất mới để ra các chính sách thích hợp với từng thời kỳ. Nhìn chung các hoạt động
này diễn ra một cách tự phát. Tuy nhiên trong sự khác biệt với các Nhà nớc phong
kiến phơng Tây chức năng quản lý kinh tế đợc các Nhà nớc phong kiến phơng Đông
nhận thức sớm hơn.
Trên thế giới vào thế kỷ XV, chủ nghĩa t bản đợc hình thành, quá trình tích luỹ
nguyên thuỷ t bản đợc thực hiện nền kinh tế thị trờng từng bớc đợc hình thành. Để
giúp cho kinh tế phát triển nhanh, giai cấp t sản cần có bà đỡ hay chính là cần có
sự giúp đỡ của Nhà nớc. Chính vì vậy vai trò quản lý của Nhà nớc đợc xác lập và
nâng cao.
Trớc hết Nhà nớc t sản thực hiện một chính sách tiền tệ hết sức nghiêm ngặt,
họ tìm mọi cách tích luỹ tiền tệ, không cho tiền chạy ra nớc ngoài. Nhà nớc của các
nớc t bản trong giai đoạn này đã đề ra luật buộc các thơng nhân nớc ngoài không đợc
mang tiền ra khỏi nớc họ, chỉ đợc phép mang hàng mà thôi. Nhà nớc còn quy định
những nơi đợc phép buôn bán, để dễ dàng cho việc kiểm tra kiểm soát. Trong chính
sách ngoại thơng họ dùng hàng rào thuế quan bảo hộ, đánh thuế nhập khẩu cao, và
thuế xuất khẩu các hàng sản xuất ở trong nớc thấp, chỉ xuất thành phẩm chứ không
xuất nguyên liệu, cấm nhập các mặt hàng xa xỉ phẩm. Mặt khác Nhà nớc còn thực
hiện hỗ trợ cho các thơng nhân trong nớc các phơng tiện vật chất và tài chính khi họ
11

×