Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Chất triết học trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.61 KB, 12 trang )

Chất triết học trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm
PHẦN MỞ ĐẦU
Nhắc tới Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhắc tới một “nhà tư tưởng tỏa bóng suốt thế kỉ XVI”. Đó
là một bậc hiền triết, bậc chính khách, nhà tiên tri, người thầy được vua chúa và nhân dân
xem trọng coi là bậc phu tử - Tuyết Giang phu tử (cùng với Chu Văn An và Nguyễn
Thiếp). Cuộc đời Nguyễn Bỉnh Khiêm trải gần trọn thế kỉ XVI, ông là người đã chứng kiến
bao đau thương, tang tóc từ cuộc chiến “nồi da xáo thịt” của dân tộc. Với nhân cách của
bậc cao sĩ cùng với “tấm lòng tiên ưu đến già chưa thôi” ông đã trở thành một bậc thánh
nhân lập đức. Với nhân sinh quan sáng suốt, Nguyễn Bỉnh Khiêm còn là nhà lập ngôn
được người đời ngưỡng mộ. Lập đức và lập ngôn là hai lĩnh vực đan xen, hòa quyện lẫn
nhau tạo nên thành công của Nguyễn Bỉnh Khiêm – một danh nhân văn hóa lớn của dân
tộc.
Nguyễn Bỉnh Khiêm còn là nhà thơ tiêu biểu của văn học trung đại Việt Nam thế kỉ XVI.
Sáng tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm đã ghi một mốc lớn trên con đường phát triển của lịch
sử văn học Việt Nam, là một trong những chiếc cầu nối giữa hai thời đại văn học – thời đại
Nguyễn Trãi trước đó và thời đại Nguyễn Du sau này. Thơ ông như “cây thông chót vót
cao trăm thước” tỏa bóng rợp cả một giai đoạn văn học. Thơ ông là tiếng nói của tầng lớp
trí thức bất mãn với hiện thực xã hội lúc bấy giờ và tư tưởng an nhàn thoát tục nhưng vẫn
đau đáu một tấm lòng lo cho dân cho nước. Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm đã vẽ nên bức tranh
hiện thực khá sâu sắc về đất nước, xã hội và con người Việt Nam trong một giai đoạn lịch
sử đầy biến động – thế kỉ XVI.
Chất triết học là đặc điểm nổi bật trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Chất triết học trong thơ
Nguyễn Bỉnh Khiêm là sự kết hợp từ chiều sâu chất trí tuệ và thi ca. Những triết lí trong
thơ của ông có tầm ảnh hưởng không nhỏ đến lối suy nghĩ, cách nhận thức của dân tộc ta
trong một thời gian khá dài. Bởi tìm hiểu “chất triết học trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm”
cũng chính là tìm về một giai đoạn văn học để khẳng định những giá trị thơ văn Nguyễn
Bỉnh Khiêm – một đỉnh cao của thi ca văn học trung đại.
PHẦN NỘI DUNG
I. NGUYỄN BỈNH KHIÊM – MỘT BẬC CAO SĨ TRONG THỜI LOẠN
1.1 Thế kỷ XVI – Một thời đại lịch sử đầy biến động
Thế kỷ XVI là một giai đoạn lịch sử đầy biến động, đất nước sống trong cảnh loạn lạc kéo


dài. Đặc biệt trong vòng 24 năm ( 1503-1527) nhà Lê đã phải thay đổi đến 6 ông vua, có
người ở ngôi được 6 tháng (Lê Túc Tôn), có người ở ngôi đúng 3 ngày (Quang Trị). Tình
hình chính trị rối ren, các phe phái tranh giành quyền lực đến một mất một còn. Bản thân
1
những người đứng đầu vương triều – các hoàng đế nhà Lê đều bất tài vô hạnh. Trong đó 2
ông vua Lê Uy Mục và Lê Tương Dực nổi tiếng ăn chơi xa xỉ không quan tâm đến triều
chính nên vương triều nhà Lê khép lại.
Sau khi Mạc Đăng Dung dẹp yên các cuộc chiến tranh chống đối, Mạc Đăng Dung lập
hoàng đế Xuân lên làm Cung Hoàng, mượn tay Cung Hoàng để giết Chiêu Tông. Năm
1527, Mạc Đăng Dung ép Cung Hoàng thoái vị nhường ngôi cho mình rồi lên làm vua, lấy
hiệu là Minh Đức.
Năm 1553, An Thanh Hầu Nguyễn Cam – em thuộc dòng thứ 2 của Nguyễn Hoằng Dụ lại
trưng hưng cho nhà Lê ở Thanh Hóa, chống lại nhà Mạc. Sau khi Nguyễn Kim bị giết, năm
1585 Nguyễn Hoàng sợ bị hãm hại nên xin vào trấn phủ Thuận Hóa, con rể là Trịnh Kiểm
nắm quyền tập hợp hào kiệt bốn phương nhưng mãi đến năm 1592 Trịnh Tùng mới khôi
phục lại kinh thành Thăng Long đẩy nhà Mạc lên Cao Bằng. Đến đây cục diện Nam – Bắc
phân tranh chính thức mở màn cuộc nội chiến của 3 nhà Lê – Trịnh – Nguyễn. Cuộc chiến
tranh nội bộ kéo dài khiến đất nước rơi vào cảnh loạn li. Vua chúa chỉ lo ăn chơi xa hoa,
trụy lạc, quan lại thì tranh đua quyền lực, ra sức bóc lột nhân dân để phục vụ cho những
nhu cầu của chúng làm cho đời sống nhân dân dưới thời kì này vô cùng cực khổ.
1.2 Nguyễn Bỉnh Khiêm – một cuộc đời thanh cao và mang nặng nỗi “tiên ưu”.
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) húy là Văn Đạt, tên chữ là Hanh Phủ, hiệu là Bạch Vân
Cư Sĩ, người làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, Hải Dương, nay là xã Lý Học, huyện Vĩnh
Bảo, Hải Phòng. Sinh trưởng trong một gia đình vọng tộc (cháu ngoại quan thượng thư
Nhữ Văn Lan) có học vấn, cả 2 thân mẫu đều những người có văn tài học hạnh nên
Nguyễn Bỉnh Khiêm từ sớm đã hấp thụ truyền thống gia giáo kỉ cương. Nhất là phụ mẫu
của Nguyễn Bỉnh Khiêm, tương truyền bà là người giỏi giang văn tài và tinh thong địa lý,
tướng số. Ngay từ khi Nguyễn Bỉnh Khiêm cất tiếng khóc chào đời, thấy con mình có
tướng mạo khác thường, bà đã dốc lòng đào tạo con trai thành một tài năng giúp nước cứu
đời. Với trí tuệ mẫn tiệp, thông minh từ nhỏ lại gặp được thầy giỏi như cụ bảng nhãn

Lương Đắc Bằng khác nào như rồng gặp được mây, Nguyễn Bỉnh Khiêm sớm trở thành
một tài năng kiệt xuất nổi tiếng.
Lớn lên trong một giai đoạn lịch sử nhà Lê suy thoái, các phe phái trong triều đó kị, chém
giết lẫn nhau.Năm 1572, Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê lập ra một triều đại mới.Thế là
suốt cuộc đời thanh niên trai trẻ, Nguyễn Bỉnh Khiêm phải sống trong ẩn dật, không thi thố
tài năng. Mãi đến năm ông 44 tuổi mới đi thi. Ba lần thi Hương, thi Hội, thi Đình ông đều
đỗ đầu và đỗ Trạng Nguyên. Triều đình nhà Mạc rất coi trọng Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông hi
vọng triều đại nhà Mạc có thể xây dựng lại đất nước. Lúc này Mạc Đăng Dung đã nhường
ngôi cho con là Mạc Đăng Doanh và rút về làm Thái thượng hoàng.Doanh là người có chí
khí đảm lược. Nguyễn Bỉnh Khiêm, một nhà học giả uyên thâm, một trí thức dân tộc đã
nhìn thấy điều đó. Và ông hi vọng với nhân vật này, triều đại mới có thể đưa đất nước
thoát khỏi tình trạng rối ren mà vua tôi nhà Lê và các tập đoàn phong kiến trước đó gây ra.
Nhưng niềm tin ấy không được đền đáp, chỉ được một thời gian ngắn (8 năm) ông đành
phải từ quan về ở ẩn. Cũng như Nguyễn Trãi trước kia, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã lánh đục
về trong bảo toàn danh tiết và chí khí.
Treo ấn từ quan, ông sống một cách lạc quan và hòa hợp với thiên nhiên. Giống như
Nguyễn Trãi, ông cũng bầu bạn với gió trăng,rượu ‘’ Đêm đợi trăng cài bong trúc / Ngày
chờ gió thổi tin hoa’’ (Thơ Nôm, bài 17). Ông lấy mừng vì thoát khỏi vòng danh lợi : ‘’
2
Thoát chân giữa chốn chốn giàu sang / Tuổi già mong được tuổi già thong dong / Hương
lan gồm từ thơ nồng / Tiếng chim gọi khách ngoài song ngọt ngào’’ (Ngụ hứng, bài 6).
Phải chăng Nguyễn Bỉnh Khiêm đã chọn cách sống phóng khoáng như Nguyễn Công Trứ
‘’ ngoài vòng cương tỏa chân cao thấp’’ ? Nhưng không, lúc ông lạc quan nhất với thiên
nhiên cũng chính là lúc ông phiền muộn nhất về việc dân, về việc nước. Có thể nói,
Nguyễn Bỉnh Khiêm ẩn nhưng không lánh mặt với đời. Ông lui về sống ở quê một thời
gian khá dài mà vẫn mang ước vọng về một xã hội vua sáng tôi hiền như thời vua Nghiêu,
vua Thuấn xưa:
Đã ngoài mọi việc chăng còn ước,
Ước một tôi hiền, chúa thánh minh.
(Thơ Nôm, bài 26)

Ông luôn mong muốn đất nước thịnh vượng, thái bình và đời sống nhân dân no đủ và yên
bình. Tương truyền, hình như để tránh những cuộc binh đao khói lửa, tương tàn cho chúng
dân và nhìn thấy trước thời cuộc nên khi các tập đoàn phong kiến đến hỏi kế sách, ông đều
bày cho họ những phương sách khác nhau để giữ thế “chân vạc”.
Đọc thơ ông là thấy cả tấm lòng lo cho nước, thương đời, thương dân và một tâm hồn sáng
suốt da diết với đạo lý:’’Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu,hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc’’(lo trước
cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ).Vì thế mà sau khi về ở ẩn, ông vẫn mở
trường dạy học mong đào tạo cho đời những tài năng ‘’kinh bang tế thế’’. Học trò của ông
cũng có những người trở thành danh tướng, Trạng nguyên: Phùng Khắc Khoan, Lương
Hữu Khánh, Nguyễn Quyền…Khi tuổi đã cao, sức đã yếu, Nguyễn Bỉnh Khiêm còn mong
mỏi được đem tài đức của mình lo dân giúp đời. Chế độ phong kiến khủng hoảng, không
có đường lập công, ông đã chọn con đường lập ngôn, hi vọng những câu thơ tuyên truyền
đạo đức, bằng uy vọng của mình, ông có thể góp phần vào việc “phù nghiêng, đỡ lệch”.
Tấm lòng ưu ái rừng rực của ông đến già chưa thôi.
1.1 Nguyễn Bỉnh Khiêm đã để lại cho đời một sự nghiệp thơ ca có giá trị.
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, Nguyễn Bỉnh Khiêm được nhìn nhận là một trong những
nhà văn hóa lớn của dân tộc. Ông là một chính khách có uy tín, bậc hiền triết, nhà tiên tri…
nhưng nổi bật trên tất cả Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhà thơ có những đóng góp quan
trọng trong sự phát triển của văn học dân tộc.
Sự nghiệp văn học Nguyễn Bỉnh Khiêm khá phong phú với một số lượng tác phẩm lớn.
Sáng tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm gồm cả chữ Hán và chữ Nôm.
Về chữ Hán có Bạch Vân am thi tập, Trung Tân quán bi kí, Thạch khánh kí và một số bài
văn tế. Theo Bạch Vân am thi tập tiền tự do chính tác giả viết thì thơ chữ Hán có khoảng
một nghìn bài. Hiện nay số còn lại chỉ khoảng hai phần ba.
Về chữ Nôm có Bạch Vân quốc ngữ thi tập (còn gọi là Trình quốc công Bạch Vân quốc
ngữ thi tập) với khoảng 170 bài thơ. Thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm làm theo thể Đường
luật và Đường luật xen lục ngôn. Thơ không có đề mục cho từng bài và từng môn loại.
Ngoài thơ Nôm, trong dân gian còn lưu hành nhiều câu sấmTrạng. Các tập sấm kí Nôm
thường mang tên Trạng Trình và phần lớn viết theo thể lục bát như Trình quốc công sấm
kí, Trình tiên sinh quốc ngữ. Sấm Trạng Trình là một hiện tượng văn học cần phải được

tìm hiểu và xác minh thêm.
Theo Phả kí, Nguyễn Bỉnh Khiêm còn có bài phú bằng quốc âm. Bài phú này hiện nay vẫn
chưa được tìm thấy.
3
Nguyễn Bỉnh Khiêm có phong cách thơ rất riêng không lẫn với các nhà thơ cùng thời mặc
dù vẫn tuân theo nguyên tắc sáng tác thơ văn trung đại. Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm
mang đậm chất triết học nhưng vẫn gần gũi và dễ tiếp nhận.
II. CHẤT TRIẾT HỌC TRONG THƠ BẠCH VÂN CƯ SĨ
2.1 Chất triết học trong thơ văn dân tộc
Trong văn học Việt Nam từ thời xưa, ngay những sáng tác dân gian, nhân dân lao động đã
đúc kết những kinh nghiệm có được trong cuộc sống lao động sản xuất và đấu tranh của
mình ‘’Chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bay cao thì nắng, bay vừa thì râm’’, lý giải được
những hiện tượng thiên văn ‘’Trăng quầng thì hạn, trăng tán thì mưa’’… Nội dung của
các tư tưởng, triết lý đó cũng đề cập đến nhiều lĩnh vực, như nhận thức luận: “Trăm hay
không bằng tay quen”; mỹ học: “Cái nết đánh chết cái đẹp; Tốt gỗ hơn tốt nước sơn;
Người đẹp vì lụa, lúa tốt vì phân”; biện chứng pháp: “Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”,
“Không ai giàu ba họ không ai khó ba đời”; đạo đức học: “Thương người như thể thương
thân”, “Dẫu xây chín đợt phù đồ/ Sao bằng làm phúc cứu cho một người”; xã hội học:
“Một người làm quan cả họ được nhờ”. “Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp”;
logic học: “Thịt chó ăn được, thịt cầy thì không”, “Đậu phụ làng cắn đậu phụ chùa”; tâm
lý học: “Cầm vàng mà lội qua sông/ Vàng rơi chẳng tiếc, tiếc công cầm vàng”; khẳng
định vai trò quyết định của lao động (lời trăng trối của người cha bảo các con thửa ruộng
nhà có vàng), tầm quan trọng của công cụ sản xuất (truyện “thần sắt”)...
Đến văn học cổ trung đại, các tác giả thời kì này thể hiện quan điểm của mình về lẽ sinh –
tử, tương sinh - tương khắc: ‘’Xuân qua trăm hoa rụng / Xuân tới trăm hoa nở / Trước mắt
việc đi mãi / Trên đầu già đến rồi / Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết / Đêm qua xuân
trước một nhành mai’’.
Chất triết học cũng được thể hiện trong thơ Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh
Khiêm…trong đó đa số đượm màu sắc Lão – Trang, tư tưởng yếm thế của Phật giáo và
thoát tục của đạo tiên. Như vậy, chất triết học cũng đã thể hiện một cách sâu sắc trong văn

học dân gian và văn học trung đại tuy nhiên đều mang tính duy tâm, siêu hình.
Văn học hiện đại, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin và nhãn quan duy vật biện
chứng, cách nhìn nhận về thế giới và vũ trụ đa chiều, đa màu sắc.Vũ trụ không tuần hoàn,
‘’Xuân đương tới nghĩa là xuân đã qua / Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già’’. Chế Lan
Viên thể hiện những quan điểm nhân sinh mới mẻ ‘’ Khi ta ở chỉ là nơi đất ở / Khi ta đi
đất đã hóa tâm hồn’’. Chất triết học thể hiện trong suốt tiến trình lịch sử văn học dân tộc
với những triết lý nhân sinh về con người, vũ trụ, về cuộc sống, thời thế…
2.2 Chất triết học trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm.
2.2.1 Bản chất, nguồn gốc tư tưởng triết học trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Có thể nói ở cuối thể kỷ XVI, Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà triết học lớn của Việt Nam. Tư
tưởng triết học của ông ‘’không bận tâm đi vào xu hướng duy lý …đi tìm khái niệm bản
thể luận như Lão Tử, như triết học Phật giáo hay cái phóng nhiệm nhiều lúc đến ngụy biện
của Trang Tử. Ông hiểu sâu sắc triết học Tống Nho nhưng không đi vào câu nệ vụn vặt,
không lý giải quá sâu cái lý, có khi chẻ làm tư sợi tóc để tìm hiểu, biện giải nhiều thứ mơ
hồ rối rắm trong những khái niệm hỗn tạp đó. Với sự uyên thâm vốn có đó, ông được triều
4
đình nhà Mạc và sĩ phu đương thời phong là Trình tuyền hầu, tức là một vị Hầu tước khơi
nguồn dòng suối triết học của họ Trình (tức Trình Di và Trình Hiền – 2 nhà triết học khai
phá đất Lạc Dương của Tống Nho) hoặc đời còn gọi ông là cụ Trạng Trình. Tuy vậy triết
học của ông là triết học đã được sống dậy, biểu hiện trong thơ như một sự mach bảo của
cuộc sống thực tiễn. Ông chắt lọc từ trong nhận thức triết học mà mình thu lượm được,
phép biện chứng nhìn bên ngoài có vẻ như thô sơ để giải đáp những hiên tượng tự nhiên và
xã hội nảy sinh quanh mình. Trong thơ ông, ngoài mặt triết lý nhân sinh, nổi bật lên những
suy ngẫm, chiêm nghiêm, đúc kết như muốn vươn lên khái quát ‘’ luật’’ đời bằng những
phạm trù triết học.Vì lẽ đó, ông rất hay dùng đến những cặp phạm trù:
Cát – hung tiến – thoái thái – bĩ
Phúc – họa thượng – hạ ích – tổn
Đại – tiểu đắc – táng âm – dương
Xuất – nhập sinh – tử tiêu – trương
Vãng – lai ngoại – nội danh – hư

Gốc rễ triết lý Nguyễn Bỉnh Khiêm là sự hiểu biết thấu đáo về con người và xã hội. Với
Nguyễn Bỉnh Khiêm, triết học vừa là công cụ để tư duy, để nhận thức vừa là công cụ để
giải quyết những vấn đề do tư duy, do nhận thức đặt ra. Nguyễn Bỉnh Khiêm dùng thơ để
triết lý cuộc sống, dùng thơ để tuyên truyền đạo đức.Bản chất lí học của Nguyễn Bỉnh
Khiêm là dựa vào nhận thức về logic cuộc sống (các quy luật tự nhiên và xã hội) áp dụng
vào nhữung trường hợp cụ thể. Mục tiêu lí học của ông là tạo nên sự cân bằng, hài hòa và
trung dung cho các sự vật, hiện tượng. Nhìn lại toàn bộ tiến trình lịch sử và con người
trong thế kỷ XVI, Nguyễn Bỉnh Khiêm xứng đáng là ‘’cây đại thụ’’, ‘’bậc sĩ phu tài
danh’’ của thế kỷ.
2.2.2 Biểu hiện của chất triết học trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm.
2.2.2.1 Chất triết học thể hiện trong ‘’Nhàn’’ của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Nguyễn Bỉnh Khiêm quan niệm ‘’vì con người để đáp ứng được lẽ biến dịch của tạo hóa
thì con người phải sống theo lẽ tự nhiên, đó là vui với đạo trời, biết số mệnh và ung dung
tự tại’’, triết lý nhàn, tiên, vô sự được thể hiện sâu sắc trong thơ ông. Đó là cuộc sống hòa
đồng với người dân nơi thôn dã và thiên nhiên…Nhàn với Nguyễn Bỉnh Khiêm là khép
cửa ải lợi danh ồn ào, phiền não lại, cái nhàn ở đây đã đạt đến sự cao đẹp. Chữ nhàn cũng
đã xuất hiện trong thơ Chu Văn An, Nguyễn Trãi và một số nhà thơ khác. Đây là một xu
hướng sáng tác văn chương của các sĩ phu ở nhiều thời kỳ, thể hiện sự bất hợp tác với
chính quyền phong kiến và sự phủ nhận hiện thực thối nát của xã hội đương thời. Vì thế,
giá trị khách quan của nó là tích cực. Trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, chữ nhàn trở thành
một ám ảnh nghệ thuật, bởi nó không chỉ bộc lộ những tâm trạng riêng của ông, gắn liền
với thời cuộc, mà còn thể hiện một quan niệm triết học của ông, một cách ứng xử của ông
trước cuộc đời:
Phiền hiêu bế khước lợi danh quan
Liêu ngụ nhàn trung dưỡng đắc nhàn
(Thơ chữ Hán: Trung tân quán ngụ hứng)
Khép cửa ải lợi danh, ồn ào phiền não lại
Hãy gửi gắm vào trong cảnh nhàn để nuôi dưỡng thân nhàn)
5

×