Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Quan niệm nhân sinh trong thơ Nguyễn Bĩnh Khiêm pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.58 KB, 25 trang )

Quan niệm nhân sinh trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm
MỤC LỤC
Trang
Quan niệm nhân sinh trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh ra trong thời kỳ cực thịnh của triều Hậu Lê
nhưng lại trưởng thành ở thời kỳ rối ren nhất của lịch sử nước nhà. Những trang
lịch sử nữa thế kỷ XV-XVI đã ghi lại nhiều biến động về chính trị, nhiều bất công
trong xã hội và kéo theo đó là những suy đồi về đạo đức. Hầu như những nguyên
tắc đạo lý của Khổng giáo bị sa sút trầm trọng, thói đời đen bạc được phơi bày
làm cho những ai có tâm huyết với đời, có kỳ vọng trung hưng về một xã hội
phong kiến càng thêm ngao ngán chán chường.Toàn bộ bức tranh xã hội hiện
thực thời ấy đã tác động sâu sắc lên những trang đời và trang thơ của nhà thơ, ảnh
hưởng mạnh mẽ đến tư tưởng, tình cảm, đặc biệt là thái độ xuất xử của ông trước
thời cuộc. Ông nhập thế là để giúp nước cứu đời. Ông lui về ở ẩn là để giữ vững
khí tiết, thực hiện thú nhàn tản. Thế nhưng thái độ ẩn dật của tác giả không trầm
tư, mặc tưởng như những nhà Nho thời Lý - Trần mà chứa đựng một “nỗi đau
tình đời, vận nước” (Năm trăm năm Nguyễn Bỉnh Khiêm một nỗi đau tình đời,
vận nước, Nguyễn Phan Quang), thái độ nhàn của ông là thể hiện cái dũng khí “dỉ
bất biến ứng vạn biến” của những bậc chân Nho. Vì thế các nhà nghiên cứu cho
rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm xuất hiện không chỉ là một cây đại thụ của nền thơ ca
mà còn là cây đời tỏa bóng đạo đức. Ông sống giữa cuộc đời đảo điên nhưng lại
là tấm gương sáng về nhân nghĩa. Tất cả những điều ấy đều xuất phát từ một quan
niệm nhân sinh với những triết lý vô cùng sắc sảo, thâm sâu vượt thời gian của
tác giả. Bình về những triết lý này là điều bao năm qua các nhà nghiên cứu, phê
bình đã làm và ngày nay là điều mà chúng tôi mong muốn đóng góp một chút gì
đó vào việc tìm hiểu thêm về nhà hiền triết.
1.2. Ngày nay, đất nước Việt Nam đang vận động trong thế kỷ XXI, tuy
không có những phong ba về mặt chính trị nhưng mấy ai dám khẳng định trong
cuộc sống hiện tại không có cảnh con người chạy theo vật chất mà quên đi nét


đẹp tâm hồn. Cuộc sống tinh thần, đạo lý thánh hiền, truyền thống dân tộc có bị
SVTH: Trần Văn Dương – MSSV: 0911507 Trang
2
Quan niệm nhân sinh trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm
lung lay hay không giữa một xã hội đang hội nhập về mọi mặt ? Khi công cuộc
toàn cầu hóa văn hóa đang diễn ra rất phức tạp, khi cơn bão táp của nền kinh tế
thị trường đang làm cho không ít người chỉ biết lấy vật chất làm thước đo giá trị
con người, thì lúc ấy mấy ai quan tâm đến đạo lý làm người. Khi thế lực đồng
tiền và văn hóa thực dụng lên ngôi, thì mấy ai sẽ còn nhớ đến những tinh hoa dân
tộc ẩn dưới lớp bụi thời gian. Vì vậy việc đi vào tìm hiểu quan niệm nhân sinh
trong thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhu cầu bức thiết của cuộc sống. Bởi
cái nhìn triết lý về cuộc đời của ông ngày xưa vẫn còn ảnh hưởng đến hậu thế,
vẫn có tác dụng hữu hiệu cho sự phân định những điều thật - giả; tốt - xấu; thiện -
ác; đúng - sai; đang diễn ra hàng ngày hàng giờ trong cuộc sống của chúng ta.
Tất cả những vấn đề trên đều là những vấn đề lý thú cần nghiên cứu để hiểu
sâu hơn về nhà hiền triết Nguyễn Bỉnh Khiêm, để bày tỏ tinh thần trân trọng di
sản văn hóa quá khứ, trân trọng một tấm gương cao quí xưa. Đó là lý do mà tôi
chọn đề tài trong tiểu luận này.
2. Ý nghĩa của đề tài
Ta sẽ lấy những giá trị truyền thống văn hóa dân tộc làm chuẩn, để soi vào
những tác phẩm thơ ca của Nguyễn Bỉnh Khiêm và tìm hiểu sâu hơn quan niệm
nhân sinh của ông như một giá trị văn hóa quý báu của dân tộc Việt Nam. Đồng
thời góp thêm một số ý kiến về ý nghĩa tích cực và tiêu cực trong quan niệm nhân
sinh của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
3. Phương pháp thực hiện đề tài
3.1. Phương pháp lịch sử - xã hội
Phương pháp Mác-xít khẳng định mối quan hệ giữa văn học và xã hội, giữa
văn học và thời đại, giữa cá nhân và thời đại. Tham khảo những tài liệu có độ
chính xác cao, có sự đồng tình của nhiều nhà nghiên cứu, phê bình qua quá trình
tiếp nhận.

SVTH: Trần Văn Dương – MSSV: 0911507 Trang
3
Quan niệm nhân sinh trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm
3.2. Phương pháp hệ thống
Phương pháp này giúp cho người nghiên cứu có cái nhìn tổng quan đối với
vấn đề đang nghiên cứu ở đây, quan niệm nhân sinh trong thơ Nguyễn Bỉnh
khiêm được biểu hiện cụ thể qua cuộc đời, tư tưởng, cách sống và tình cảm trước
hiện thực khách quan.
3.3. Phương pháp phân tích - tổng hợp
Trong quá trình khảo sát, sẽ đi tìm những yếu tố lặp đi lặp lại, xác định những
yếu tố nỗi bật làm nên quan niệm nhân sinh. Phân tích từng câu thơ, bài thơ nhằm
làm nỗi bật lên tư tưởng, tình cảm của tác giả.
4. Lịch sử vấn đề
Nguyễn Bỉnh Khiêm được người đời xưng tụng là “cây đại thụ tỏa bóng gần
suốt cả thế kỷ XVI” . Cuộc đời và thơ văn của ông là đề tài khá hấp dẫn cho các
nhà nghiên cứu. Cho nên tính đến thời điểm ngày hôm nay, ngoài một số bài viết
lẻ tẻ trên Tạp chí Văn học, còn có nhiều công trình nghiên cứu về thời kỳ lịch sử
phức tạp và cuộc đời có nhiều mâu thuẫn của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Nguyễn Bỉnh Khiêm về tác gia và tác phẩm (Trần Thị Thanh Băng - Vũ
Thanh tuyển chọn và giới thiệu) Gồm 67 bài viết tập trung nghiên cứu theo từng
phương diện : Nguyễn Bỉnh Khiêm giữa thế kỷ XVI đầy biến động ; Triết nhân
Nguyễn Bỉnh Khiêm - Tư tưởng và nhân cách ; Nguyễn Bỉnh Khiêm nhà thơ ;
Nguyễn Bỉnh Khiêm trong tâm thức thế nhân xưa và nay.
Nguyễn Bỉnh Khiêm trong lịch sử phát triển văn hóa dân tộc (Viện khoa học
xã hội - Trung tâm nghiên cứu Hán Nôm) đóng góp 28 bài viết có chiều sâu, với
nhiều tư liệu có giá trị về Nguyễn Bỉnh Khiêm : Thân thế và hoàn cảnh lịch sử ;
Tư tưởng và thơ văn ; Một số vấn đề khác có liên quan đến Trạng Trình.
Nguyễn Bỉnh Khiêm qua Bạch Vân am thi tập (Nguyễn Khuê). Đây là một
công trình nghiên cứu có giá trị mới mẻ. Công trình gồm bốn phần. Phần thứ
nhất, tác giả đã trình bày những nét đại cương về hoàn cảnh lịch sử, về cuộc đời,

về những tác phẩm chữ Hán, tác phẩm chữ Nôm, Sấm ký. Phần thứ hai, tác giả đi
SVTH: Trần Văn Dương – MSSV: 0911507 Trang
4
Quan niệm nhân sinh trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm
vào khai thác tư tưởng, tình cảm của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Phần thứ ba là những
nhận xét về hình thức nghệ thuật và giá trị nội dung của Bạch Vân am thi tập,
đồng thời khẳng định vị trí và ảnh hưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong lịch sử
văn hóa dân tộc, trong lòng dân tộc Việt Nam. Phần thứ tư là 102 bài thơ trong
“Bạch Vân am thi tập” đã được tuyển dịch khá công phu.
Thơ văn Nguyễn Bỉnh khiêm, Đinh Gia Khánh (chủ biên), tập trung trích 161
bài thơ Nôm và gần 100 bài thơ văn Việt Hán của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tập sách
có lời giới thiệu của tác giả với những lời nhận xét chung khá thuyết phục về nội
dung tư tưởng và nghệ thuật thơ của Nguyễn Bỉnh khiêm.
Riêng Lê Trọng Khánh- Lê Anh Trà có những ý tưởng trân trọng khi phát
hiện quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm, “tính chất nhàn tản của
Nguyễn Bỉnh Khiêm thực chất không phải yếm thế, xu thời, ích kỷ và hoàn toàn
hưởng lạc… tư tưởng nhàn tản của Nguyễn Bỉnh Khiêm có những khía cạnh tích
cực phù hợp với tư tưởng hành đạo của Nho giáo. Cái nhàn của Nguyễn Bỉnh
Khiêm là một lối phản ứng của tầng lớp nho sĩ bất lực trước thời cuộc lúc bấy
giờ, phản ứng bằng hình thức tiêu cực, nhưng vẫn bao hàm một nội dung đấu
tranh bằng phương pháp theo lẻ tự nhiên” (Nguyễn Bỉnh Khiêm - Nhà thơ triết lý)
Còn Nguyễn Khuê nhận định : “Thơ ông là tiếng nói rất chân thực rất nhân
bản của một nhà hiền triết trước cảnh ngộ, nhân sinh, thiên nhiên vũ trụ ; là một
nổ lực hướng tới chân, thiện, mỹ. Vì thế tiếng nói ấy mãi mãi vang vọng trong
tâm hồn dân tộc” (Nguyễn Bỉnh Khiêm qua Bạch Vân am thi tập)
Trong Nguyễn Bỉnh Khiêm - nhà thơ lớn thế kỷ XVI, Nguyễn Phương Chi có
lời bình khá thuyết phục về Nguyễn Bỉnh Khiêm : “Thơ văn ông là khát vọng hòa
bình, là nỗi lo lắng về tương lai của đất nước, là nỗi hoài nghi trật tự phong kiến,
một trật tự mà đến thế kỷ XVI đã bị xáo trộn”
Và khi bàn về Bạch Vân quốc ngữ thi tập, Nguyễn Quân cũng có khẳng

định : “Lại nữa cụ có chủ trương là chủ trương vô sự, nghĩa là không để có sự gì
rắc rối, chớ đâu phải là chủ trương vô vi nghĩa là không làm gì hết, cứ việc phó
SVTH: Trần Văn Dương – MSSV: 0911507 Trang
5
Quan niệm nhân sinh trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm
mặc cho con tạo xoay vần… Có thể nói sự lánh đời, nhưng còn khuyên đời, còn
mong ước đời và vẫn không quên ơn vua chúa, không phụ tình nước non”
CHƯƠNG I
NHỮNG TIỀN ĐỀ CỦA QUAN NIỆM NHÂN SINH
TRONG THƠ NGUYỄN BỈNH KHIÊM
1. Hoàn cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa
Ra đời vào thập niên cuối thế kỷ XV, Nguyễn Bỉnh Khiêm sống gần trọn cả
thế kỷ XVI. Cuộc đời cũng như thơ văn của ông mang dấu ấn thời cuộc khá sâu
đậm, vì thế muốn hiểu rõ ông trước hết người ta không thể không biết qua tình
trạng xã hội Việt Nam nữa sau thế kỷ XV và thế kỷ XVI mà nó đã ảnh hưởng
mạnh mẽ đến tình cảm, tư tưởng và thái độ xuất xử của ông.
Sau hơn một thế kỷ trị vì, đem lại sự hưng thịnh cho đất nước Đại Việt, ở thế
kỷ XV, chuyển sang thế kỷ XVI, triều Lê nhanh chóng rơi vào tình trạng suy
thoái. Chế độ phong kiến Việt Nam trong sự tranh chấp quyền lực căng thẳng,
khốc liệt, giữa các tập đoàn phong kiến, vận hành phát triển với tất cả sự phức tạp
không thể tránh khỏi của thiết chế chính trị này. Trở lại thế kỷ XV, triều Lê với
sự xác lập tối đa quan hệ sản xuất phong kiến sau một thời gian phát triển thịnh
đạt, trước những yêu cầu mới của nền sản xuất, đã dần bộc lộ sự trì trệ và thoái
hóa. Tầng lớp phong kiến thống trị dần đánh mất vai trò tích cực, sa đọa vào cuộc
sống hưởng lạc, xa hoa. Đời sống mọi tầng lớp nhân dân ngày càng thêm khó
khăn bởi sự bóc lột tô, thuế. Nguy hiểm hơn là sự suy thoái trầm trọng của triều
Lê đã khoét sâu thêm mâu thuẫn nội bộ của giai cấp phong kiến thống trị, mâu
thuẫn giữa nhà nước phong kiến với mọi tầng lớp nhân dân.
Thế kỷ XVI chứng kiến sự bùng nổ của nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân nổi
dậy. Nạn tranh chấp quyền lực giữa các phe phái, gây ra những cuộc nội chiến

SVTH: Trần Văn Dương – MSSV: 0911507 Trang
6
Quan niệm nhân sinh trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm
triền miên, tổn thất xương máu nặng nề. Năm 1527 Mạc Đăng Dung, con người
nổi tiếng “vũ dũng khôn ngoan”, trong cảnh tranh chấp hổn loạn hạ sát lẫn nhau
giữa các phe phái đối lập đã thao túng được binh quyền phế truất vua Lê, lên ngôi
trị vì đất nước thay thế triều Lê tha hóa, đổ nát như một tất yếu lịch sử. Với
những cố gắng nhất định, nhà Mạc đã tạo được sự ổn định, phát triển cho đất
nước Đại Việt trong thời gian đầu nắm quyền. Nhưng sau đó cũng lâm vào tình
trạng suy thoái, các cuộc nội chiến “nồi da nấu thịt” lại tiếp diễn. Tập đoàn phong
kiến Lê - Trinh ráo riết phản công nhà Mạc, quyết lập vương triều. Kết cục là vào
thế kỷ XVI (1592), vương triều Mạc bị đánh bật khỏi kinh thành Thăng Long,
thiết chế Lê -Trịnh được thành lập. Họ Trịnh với công lao phò Lê trở lại ngôi báu
nhưng cũng tỏ ra chuyên quyền đẩy vua Lê vào tình trạng hư danh mà không có
thực quyền.
Sự tranh chấp trong nội bộ tập đoàn phong kiến Trịnh - Nguyễn trước khi
cuộc chiến Nam - Bắc Triều kết thúc đã khiến Nguyễn Hoàng (con Nguyễn Kim,
người khởi nghiệp giúp Lê) vào trấn thủ (thực chất là xây dựng cơ sở cát cứ) ở
Thuận Quảng (1558). Khi lực lượng đủ mạnh, con cháu Nguyễn Hoàng bắt đầu
bộc lộ thái độ đối kháng với Lê - Trịnh. Từ năm 1627 đến năm 1672, liên tục diễn
ra những cuộc đụng độ, tranh chấp quyết liệt giữa các tập đoàn phong kiến Lê -
Trịnh và Nguyễn. Cuộc chiến giằng co khó phân thắng bại, đã chia cắt nước Đại
Việt làm hai nữa, Đàng Trong và Đàng Ngoài. Tình trạng cát cứ phân tranh kéo
dài, bạo lực triền miên làm cho đời sống nhân dân vô cùng cực khổ.
Tuy vậy về mặt kinh tế, văn hóa…vẫn duy trì được sự mở mang đổi mới.
Công cuộc khai khẩn đất đai, xây dựng xóm làng đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp
vẫn diễn ra mạnh mẻ. Song với sự phát triển kinh tế nông nghiệp (trồng trọt và
chăn nuôi), sản xuất thủ công nghiệp với nghề làm gốm, dệt ( vải, lụa, gấm vóc,
chiếu …) khắc chạm, thuộc da, làm giấy v.v… đã có bước phát triển mới, phục
vụ cho nhu cầu ngày càng phong phú của con người. Về lĩnh vực thương nghiệp

cũng được khai thông mở mang. Từ thế kỷ XVI, ngoài quan hệ buôn bán với các
SVTH: Trần Văn Dương – MSSV: 0911507 Trang
7
Quan niệm nhân sinh trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm
nước trong khu vực (Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan…), thường xuyên lui tới
buôn bán với Đại Việt còn có các thương nhân các nước phương Tây (Bồ Đào
Nha, Hà Lan, Pháp…). Sự phát triển của kinh tế thương nghiệp tác động sâu sắc
đến đời sống xã hội, làm thay đổi lối sống, suy nghỉ, tư duy của con người. Lĩnh
vực kinh tế thương nghiệp, tức kinh tế hàng hóa sẽ tấn công và phủ định nền kinh
tế tự cung tự cấp của chế đội phong kiến, dẫn đến sự suy thoái của chế độ này.
Về phương diện tư tưởng, Nho giáo vẫn khẳng định vị trí hàng đầu trong đời
sống xã hội. Hệ tư tưởng này là phương tiện đắc dụng nhất phục vụ sự thiết lập và
bảo vệ trật tự phong kiến, chỉ đạo tình cảm, đạo đức, tư duy và hoạt động của con
người. Gắn liền với địa vị to lớn của Nho giáo, là sự phát triển của nền giáo dục
theo Nho giáo. Việc học hành thi cử vẫn được duy trì, mở rộng trong điều kiện
chính trị mất ổn định. Các kỳ thi Hương, thi Hội vẫn được nhà Mạc, nhà Lê đều
đặn tổ chức. Nhà nước phong kiến vốn chú ý trọng dụng tầng lớp trí thức Nho
học trong xây dựng và bảo vệ chế độ. Tuy nhiên sự bất ổn về chính trị có thể nói
là hơn hai thế kỷ đã tác động sâu sắc đến đời sống tinh thần, tư tưởng và hành vi
của con người. Giáo dục Nho học đứng trước thử thách lớn của thời đại, dù được
mở rộng nhưng chất lượng giảm sút, tiêu cực trong học hành thi cử xuất hiện.
Tầng lớp trí thức Nho học phân hóa ( kẻ tham chính, người ẩn dật trốn đời hoặc
đơn thuần hành nghề dạy học, bốc thuốc…) Cuộc sống đất nước nhiễu nhương,
nội chiến liên miên gây nhiều đau thương cũng đã ảnh hưởng không nhỏ đến
cuộc đời nhà nho Nguyễn Bỉnh Khiêm.
2. Cuộc đời, sự nghiệp văn chương và tư tưởng chính trị của Nguyễn
Bỉnh Khiêm
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491- 1585), tự là Hạnh Phủ, hiệu Bạch Vân cư sĩ,
người làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, tĩnh Hải Dương (nay là xã Lý Học, huyện
Vĩnh Bảo, Hải Phòng). Sinh trưởng trong một gia trí thức Nho học. Cha là

Nguyễn Văn Định có văn tài, học hạnh, mẹ là Nhữ Thị Thục, con Thượng Thư
Nhữ Văn Lan, bà thông tuệ, giỏi văn chương, am tường lý số. Nguyễn Bỉnh
Khiêm sớm nổi tiếng thông minh, hiếu học, học giỏi. Ông từng được thụ giáo
SVTH: Trần Văn Dương – MSSV: 0911507 Trang
8
Quan niệm nhân sinh trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm
Bảng nhãn danh tiếng đương thời là Lương Đắc Bằng người Thanh Hóa. Nhưng
lớn lên vào thời buổi nhiễu nhương, ông “ẩn chí đợi thời”, không chịu ra thi. Mãi
đến năm 45 tuổi (1535), ông mới chịu ứng thí, đậu trạng nguyên rồi nhanh chóng
xuất chính, làm quan phụng sự nhà Mạc. Ban đầu hoạn lộ thông suốt, trải thăng
từ Thị lang, Lại bộ thượng thư, Thái phó Trình truyền hầu ; nhưng chỉ độ tám
năm sau tham dự triều chính, ông đã tận mắt chứng kiến cảnh gian thần lũng
đoạn, tình hình ngày càng rối loạn. Việc ông dâng sớ đề nghị chém 18 tên lộng
thần (Phả ký Vũ Khâm Lân thế kỷ XVIII) xảy ra như một điều tất yếu (và như
một huyền thoại) đối với một con người chân chính, cương trực như ông. Mong
muốn chấn chỉnh cục diện nhà Mạc không thành, ông thác cớ xin về trí sĩ, nhưng
uy vọng và nhiệt tình với nước khiến ông không dứt hẳn việc phò Mạc.
Nguyên do đặc biệt khác nữa, Mạc triều biết đến là một triều đại trọng dụng
nhân tài, có ý thức tranh thủ sự ủng hộ của giới sĩ phu nhằm tạo sự ổn định cho
đất nước. Đó là điều khiến Nguyễn Bỉnh Khiêm đứng về triều đại này với hy
vọng lớn lao sẽ thực hiện được lý tưởng “Trí quân trạch dân” tha thiết của mình.
Việc Nguyễn Bỉnh Khiêm cho đến năm 70 tuổi vẫn đeo đẳng công cuộc phò Mạc
chống Lê với vai trò là một cố vấn là điều dể hiểu. Dù thế quảng thời gian trí sĩ,
dạy học, sống cuộc sống hòa nhập với muôn dân đối với Hạnh Phủ vẫn là phần
đời có sức nặng và ý nghĩa. Bên bờ sông Tuyết Hàn, cư sĩ dựng am Bạch Vân,
mở trường dạy học, lập quán, mở chợ, xây cầu làm những việc hữu ích, thỏa
nguyện. Học trò của ông có nhiều người nổi tiếng như Giáp Hải, Phùng Khắc
Khoan, Lương Hữu Khánh, Nguyễn Dữ,…trong số họ người theo Mạc, Người
phò Lê, người như thầy nuôi chí ẩn dật… Uyên thâm trên nhiều lĩnh vực tri thức
thời đại, người đương thời gọi ông là Trạng Trình, học trò tôn vinh ông là Tuyết

Giang phu tử. Các tập đoàn phong kiến Lê, Mạc, Nguyễn… đều tôn kính ông, sai
người tham bác ý kiến ông mỗi khi có việc hệ trọng. Các truyền thuyết về ông
liên quan đến vận mệnh các phe phái lúc bấy giờ là xuất phát từ uy tín, đức độ
hiếm có của chính ông.
Sự gắn bó với thời cuộc là ngọn nguồn cho sự nghiệp văn thơ sáng giá của
Hạnh Phủ. Tác phẩm chính của ông còn lại đến nay có : Bạch Vân quốc ngữ thi
SVTH: Trần Văn Dương – MSSV: 0911507 Trang
9
Quan niệm nhân sinh trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm
(Thơ Nôm còn lại độ 170 bài), Bạch Vân am thi tập (Thơ chữ Hán còn lại độ 600
bài) cùng một số bài văn chữ Hán như Trung Tân quán bi ký, Thạch khánh ký.
Ngoài ra, một vài tập sấm ký Nôm như Trình quốc công sấm ký, Trình tiên sinh
quốc ngữ tương truyền là của ông nhưng điều này đến nay vẫn chưa được xác
định chắc chắn. Nghiên cứu thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm chủ yếu vẫn là trên cơ
sở những bài thơ còn lại của hai thi tập trên.
CHƯƠNG II
CÁC KHÍA CẠNH CỦA QUAN NIỆM NHÂN SINH
TRONG THƠ NGUYỄN BỈNH KHIÊM
Để đi vào vấn đề chúng ta cần hiểu : Nhân sinh quan là gì?
Nhân : Người
Sinh : Sự sống
Quan : Quan niệm
Nhân sinh quan : Quan niệm về sự sống con người.
Vậy “Nhân sinh quan” là sự xem sét, suy nghĩ về sự sống của con người,
hoặc nói văn vẻ hơn, “Nhân sinh quan” là quan niệm của chúng ta về những định
luật diễn hóa trong đời sống nhân loại và sự sống của con người.
1. Cái nhìn hiện thực
Chiến tranh xảy ra liên miên, tàn khốc, nhân dân li tán, đói khổ, chết chóc.
Xót xa trước thảm họa chiến tranh. Trước thế kỷ XVI có nhiều giặc giả biến
loạn. Thời Lê trung suy (1505-1527), trong triều thì rối ren lục đục, các quyền

thần tự ý phế lập, mưu phản đem quân đánh lẩn nhau; bên ngoài các cuộc nổi dậy
của nhân dân dấy lên khắp nơi. Sau khi họ Mạc cướp ngôi, đất nước được tạm
thời yên ổn dưới thời Mạc Đăng Doanh. Từ đời Phúc Hải, cảnh bất hòa tranh
chấp giữa các quyền thần tái diễn và nhất là nhà Lê lại bắt đầu trung hưng, tạo
nên cục diện Nam, Bắc triều. Cuộc nội chiến tương tranh giữa hai họ Mạc và Lê
kéo dài đến cuối thế kỷ mới chấm dứt. Trong cảnh binh đao khói lửa dai dẳng
liên tục ấy, tất nhiên là dân chúng vô cùng khốn đốn. Sống gần trọn thế kỷ XVI,
SVTH: Trần Văn Dương – MSSV: 0911507 Trang
10
Quan niệm nhân sinh trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm
Nguyễn Bỉnh Khiêm là chứng nhân của một xã hội đầy máu lửa. Ông đã hơn một
lần bày tỏ sự chán ghét chiến tranh :
Giặc giả lan tràn, khổ chữa thôi.
(Tự thuật, bài 3)
Gặp mãi làm chi cảnh loạn này.
(Tùng tây chinh, bài 2)
Chiến tranh đã gây ra biết bao tai họa thảm khốc cho lương dân vô tội. Nhà bị
giặc phá làm củi, trâu cày bị giặc giết làm thịt, của cải bị cướp đoạt, vợ con bị
hiếp dụ. Người dân lâm vào vòng lầm than gai góc, kêu van thảm thiết cũng
chẳng được giặc xót thương, bằng những nét hiện thực Nguyễn Bỉnh Khiêm đã
mô tả cái cảnh sinh dân đồ thán đến cùng cực ấy :
Làm củi nhà ở tan
Làm thịt trâu cày bắt.
Cướp đoạt của người ta,
Hiếp dụ vợ kẻ khác.
Bùn than thấy vây quanh,
Gai góc sinh không dứt.
Chịu tiều tụy quá chừng,
Kêu van cũng chẳng được.
(Thương loạn)

Vì giặc giả ly loạn mà dân chúng phải từ bỏ ruộng vườn thôn xôn xóm, lưu
lạc tha phương. Họ thiết tha mong mỏi chiến tranh chấm dứt để quay về quê cũ.
Cảm thông nỗi cơ cực của người dân lưu ly thất sở và sự gian hiểm của quân sĩ
vào sinh ra tử, tác giả đã nhiều lần nói lên khát vọng hòa bình :
Bao giờ lại thấy đời Nghiêu Thuấn,
Như cũ nơi nơi được thái hòa.
(Ngụ hứng, bài 2)
Bao giờ lại gặp đời Nghiêu Thuấn,
SVTH: Trần Văn Dương – MSSV: 0911507 Trang
11
Quan niệm nhân sinh trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm
Chúa thánh dân lành thỏa ý ta.
(Tân niên hí tác)
Đời Nghiêu Thuấn mà Nguyễn Bỉnh Khiêm mơ ước chính là cảnh thái bình
thịnh trị trên đất nước ta thời Lê Thánh Tông và đời Mạc Đăng Doanh.
Đạo đức xã hội suy đồi, thế lực đồng tiền chi phối cuộc sống và những mối
quan hệ gia đình- xã hội
Một thực tế làm khuấy động tâm hồn nhà thơ : sự đen bạc của cảnh đời. Con
người tham lam hám tiền, trọng lợi hơn nghĩa, coi rẻ tình nghĩa, kể cả tình cha
con, anh em, vợ chồng, bà con :
Còn bạc còn tiền còn đệ tử,
Hết cơm hết rượu hết ông tôi.
(Thơ Nôm, bài 71)
Đời nay nhân nghĩa tựa vàng mười,
Có của thời hơn hết mọi lời.
(Thơ Nôm, bài 74)
Giàu sang người trọng khó ai nhìn,
Mấy dạ yêu vì kẻ lở hèn.
Thủa khó dẫu chào, chào cũng lặng,
Khi giàu chẳng hỏi, hỏi thì quen.

Quen hiềm dan díu điều làm bạn,
Lặng kẻo lân la nỗi bạ men.
Đạo nọ nghĩa này trăm tiếng bướm,
Nghe thôi thinh thỉnh lại đồng tiền.
(Bạch Vân quốc ngữ thi tập, bài 5)
Tiền của như mật như mỡ, như nhị kết hoa thơm mà con người như ong kiến,
như ruồi :
Thớt có tanh tao ruồi đậu đến,
Gang không mật mỡ kiến bò chi.
SVTH: Trần Văn Dương – MSSV: 0911507 Trang
12
Quan niệm nhân sinh trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm
(Bạch Vân quốc ngữ thi tập, bài 53)
Người đời không những tham lam mà hiểm giảo :
Miệng nói sau lưng như dao nứa,
Lưỡi đưa trước mặt giống kim chì.
(Bạch Vân quốc ngữ thi tập, bài 102)
Con người ích kỷ, tự thiên, tham lam, gì cũng muốn vơ vét về mình “Lập
danh, cưỡi hạc lại đeo tiền”. Tác giả than thở :
Không gì hiểm bằng đường đời,
Không cắt thì toàn gai góc.
Không gì nguy bằng lòng người,
Buông lỏng ra thì đều là quỷ quái.
(Tân trung ngụ hứng, bài 124)
Đó không phải chỉ là những sự thật, những hiện tượng riêng lẻ, bất tương can
với nhau. Nhân tình đen bạc, cương thường điên đảo vốn là nguyên nhân của xã
hội loạn ly và vốn là hậu quả của sự suy thoái đạo đức của những người cầm
quyền. Nguyễn Bỉnh Khiêm tin tưởng ở kỷ cương làm người (nhân kỷ) tức là đạo
vua tôi, cha con, anh em, vợ chồng, bè bạn là do thánh nhân bắt chước trời mà đặt
ra cho muôn đời… Theo đúng thì đời trị, nhân dân được nhờ, không theo thì loạn

lạc nhân dân bị cực khổ. Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng tin ở lẻ trời, tin ở sự báo ứng.
Ông đã nêu lên quan niệm “Thiên nhân tương dữ”:
Trời người nào có khác xa đâu.
(Ngẩu thành, bài 5)
Ông tin rằng thiên lý sẳn có nơi lòng người và dù có bị lu mờ vì tư dục thì
cũng không bao giờ bị mất hẳn. Mặt khác do quan niệm “Vật ngã đồng nhất”
Nguyễn Bỉnh Khiêm có một cái nhìn về vạn vật giống như cái nhìn của Trang Tử.
Con người và muôn vật tuy hình chất không giống nhau, nhưng tính và phận vẫn
bình đẳng, vì không có vật nào là không có Đạo ở trong cả. Mỗi vật nếu biết
thuận theo cái tính tự nhiên và cái phận của mình mà sống thì sẽ có hạnh phúc
SVTH: Trần Văn Dương – MSSV: 0911507 Trang
13
Quan niệm nhân sinh trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm
ngay, không cần tìm đâu xa. Bởi vậy ta không nên xen vào làm trở ngại cuộc
sống tự nhiên của một vật nào mà hãy để nó tự do sống theo bản tính của nó. Tóm
lại Nguyễn Bỉnh Khiêm cho rằng con người sinh ra trong vũ trụ, có thể hòa hợp
cùng trời đất, cảm thông với muôn vật, và bình đẳng với nhau về tính và phận,
tức là đồng nhau ở chổ được tự do sống đời sống của mình.
2. Cách lý giải những vấn đề cuộc sống
Triết lý về qui luật xoay vần của cuộc sống.
Quan niệm về cuộc đời. Đời ngắn ngủi, nhân sinh chỉ là một hiện tượng trong
vũ trụ. Mọi sự vật trong vũ trụ đều biến dịch và vô thường, thì con người cố nhiên
không thể thoát ra ngoài công lệ ấy. Sinh, lão, bệnh, tử chỉ là một hệ luận hay một
sự suy diễn rút ra từ định luật “sinh, trụ, dị, diệt”.
Theo nhà Phật, thể xác con người chỉ là huyễn thân, do các chất, nước,và gió
kết hợp giả tạm mà thành, không phải là thực, nên còn đấy rồi mất đấy. Con
người cũng như cỏ cây và hết thảy sự vật trên thế gian, phàm có sinh tất phải có
diệt, không vật nào thường còn. Người ta dù sống đến trăm năm, thì quảng đời đó
so với dòng thời gian vô thủy vô chung cũng chẳng có nghĩa lý gì cả :
Vô cùng mọc lặn kia vầng nguyệt;

Mấy độ tươi khô nọ khóm hoa.
(Độc Phật kinh hữu cảm)
Hoa hồng cẩn sớm nở tối tàn là hình ảnh cụ thể của sự vô thường, của lẽ sắc
không, đồng thời cũng là biểu tượng của kiếp phù sinh ngắn ngủi chóng qua :
Cẩn kia ngắn ngủi nhất loài hoa,
Nở lúc ban mai héo xế tà.
Sắc tức là không, không ấy sắc,
Một cành đổi được mấy xuân qua.
(Hồng cẩn thi)
Ngoài tư tưởng Phật giáo, Nguyễn Bỉnh Khiêm còn tham bác cả bách gia chư
tử và chịu ảnh hưởng của các thi nhân Trung Quốc. Nhận thức về cuộc đời, triết
SVTH: Trần Văn Dương – MSSV: 0911507 Trang
14
Quan niệm nhân sinh trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm
nhân cũng như thi nhân đều coi nhân sinh là ảo mộng, phù du, tuy cách diễn đạt
của mỗi người có khác nhau. Trang Tử thấy cuộc đời ngắn ngủi như bóng câu
chạy qua khe cửa sổ. Hoài Nam vương cho rằng sống là gửi, chết là về. Với Lý
Bạch cuộc đời là một giấc mộng lớn, trời đất chẳng khác gì cái quán trọ và thời
gian là khách qua đường… Cũng vậy Nguyễn Bỉnh Khiêm nhận thấy nhân sinh
chỉ là giả huyễn, tạm bợ :
Xưa qua nay lại, sinh là ký.
(Mộ xuân cảm tác)
Và phú quý công danh khác nào chiêm bao:
Phú quý công danh là mộng cả,
Xưa nay cảnh đẹp chóng trôi qua.
(Bạch Vân am ngụ hứng)
Ông cho rằng sự được mất ở đời đều do thiên mệnh. Không những ngắn ngủi
chóng qua, cuộc đời còn là một chuỗi được mất, cùng thông nối tiếp :
Đường đời đừng lạ có cùng thông.
(Ngụ hứng, bài 5)

Được mất cùng thông nối tiếp nhau.
(Ngẫu thành, bài 5)
Những sự được mất cùng thông ấy đều do mệnh trời :
Cùng thông được mất đều do số.
(Tân quán ngụ hứng, bài 36)
Nhân sinh chỉ là ảo mộng đường đời lại lắm cùng thông, vậy thì thân phận
con người, dù nghèo hèn hay giàu sang, cũng đều bi đát như nhau. Người nghèo
khổ phải chịu bao nỗi đắng cay thì thở than một kiếp sống cũng đã là quá nhiều,
trong khi kẻ giàu sang lại thấy cuộc đời quá ngắn, không đủ để tận hưởng lạc thú.
Không ai bằng lòng cuộc sống của mình :
Nghèo khó một thân than đã lắm;
Giàu sang ngàn thuở sợ mau qua!
SVTH: Trần Văn Dương – MSSV: 0911507 Trang
15
Quan niệm nhân sinh trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm
(Độc Phật kinh hữu cảm)
Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng như những bậc chân nhân khác, nhận định thực
chất của cuộc đời không phải bi quan yếm thế, thở ngắn than dài hoặc buông lung
trong dục vọng, mà để bình thản chấp nhận sự biến chuyển vô thường theo quy
luật tự nhiên, không tham luyến và bám víu vào những gì có tính cách nhất thời
và mộng huyễn, đồng thời biết tìm ra một thái độ sống thích hợp với ý nghĩa đích
thực của cuộc đời.
Triết lý Vô sự, tư tưởng bất tranh, thái độ dĩ hòa vi quí.
Thản nhiên trước sự sống chết được mất cùng thông. Nhận thức cuộc đời là
ảo mộng vô thường, kiếp người ngắn ngủi phù du, sự được mất cùng thông ở thế
gian đều do số mệnh và theo lẻ tuần hoàn mà xoay vần không phải để đi đến thái
độ bi quan yếm thế hay vội vả tận hưởng khoái lạc như phần đông người đời. Là
một triết nhân, một chân nhân, Nguyễn Bỉnh Khiêm nhận định lẽ thật của nhân
sinh để không bám víu vào cái không thể bám víu được, không lấy cái tương đối
làm cái tuyệt đối và để biết điềm tỉnh thản nhiên trước những đổi thay của cuộc

đời. Ông coi sự sống chết được mất là một quy luật của tự nhiên không thể tránh
được, nên không lấy làm lạ về những điều bất như ý :
Cùng thông số mệnh xoay vần,
Việc đời trái ý chẳng cần ngạc nhiên.
(Giang lâu thu nhật hiểu vọng)
Ông cũng coi thường mọi sự hơn thua ở đời :
Chán việc hơn thua đầy trước mắt,
Làm tiên nhàn nhả ở trên đời.
(Tự thuật, bài 1)
Phân biệt được sự giả chân, hiểu rõ lẻ tiêu trưởng biến dịch, Nguyễn Bỉnh
Khiêm nhìn sự vật bao giờ cũng thấy có hai mặt mâu thuẫn: sống chết, có không,
được mất, cùng thông, hơn thua, đầy vơi, tươi khô, nở tàn, thịnh suy… Sự chuyển
hóa các mặt mâu thuẫn ấy là quy luật, là vòng tuần hoàn, là số mệnh, con người
SVTH: Trần Văn Dương – MSSV: 0911507 Trang
16
Quan niệm nhân sinh trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm
không thể thay đổi được. Mùa thu và mùa đông ắt phải héo úa tàn tạ, nhưng khi
mùa xuân đến, sẽ lại đâm chồi nảy lộc :
Thu đông tàn sát đà qua hết,
Lại đến dương xuân cảnh thái hòa.
(Tức sự )
Đã biết vậy thì không việc gì phải bận tâm lo lắng, trái lại nên phóng nhiệm
tự nhiên, bình thản buông thuyền câu cá nơi khoảng núi lạnh để đắm mình vào
thiên nhiên. Vì thế cái nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là một thái độ triết lý :
Tiêu trưởng theo thời đà nhỏ lẻ,
Cùng thông có số há lo âu.
Giả chân bậc ấy nào ai hiểu?
Núi lạnh buông thuyền lặng thả câu.
(Tân quán ngụ hứng, bài 15)
Quan niệm sống nhàn và tình yêu cuộc sống.

“Nhàn” là cách xử thế quen thuộc của nhà nho trước thực tại, lánh đời thoát
tục, tìm vui trong thiên nhiên cây cỏ, giữ mình trong sạch. Hành trình hưởng nhàn
của Nguyễn Bỉnh Khiêm nằm trong qui luật ấy, tìm về với nhân dân, đối lập với
bọn người tầm thường bằng cách nói ngụ ý vừa ngông ngạo, vừa thâm thúy.
Cuộc sống nhàn tản hiện lên với bao điều thú vị :
Một mai, một cuốc, một cần câu,
Thơ thẩn dù ai vui thú nào.
(Thơ Nôm)
Ngay trước mắt người đọc sẽ hiện lên một Nguyễn Bỉnh Khiêm thật dân dã
trong cái bận rộn giống như một lão nông thực thụ. Nhưng đó là cả một cách
chọn lựa thú hưởng nhàn cao quí của nhà nho tìm về cuộc sống “ngư, tiều, canh,
mục” như một cách đối lập dứt khoát với các loại vui thú khác, nhằm khẳng định
ý nghĩa thanh cao tuyệt đối từ cuộc sống đậm chất dân quê này! Dáng vẻ thơ thẩn
được phác hoạ trong câu thơ thật độc đáo, mang lại vẻ ung dung bình thản của
SVTH: Trần Văn Dương – MSSV: 0911507 Trang
17
Quan niệm nhân sinh trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm
nhà thơ trong cuộc sống nhàn tản thật sự. Thực ra, sự hiện diện của mai, cuốc,
cần câu chỉ là một cách tô điểm cho cái thơ thẩn khác đời của nhà thơ mà thôi.
Những vật dụng lao động quen thuộc của người bình dân trở thành hiện thân của
cuộc sống không vướng bận lo toan tục lụy. Đằng sau những liệt kê của nhà thơ,
ta nhận ra những suy nghĩ của ông không tách rời quan điểm thân dân của một
con người chọn cuộc đời ẩn sĩ làm lẽ sống của riêng mình. Trạng Trình đã nhìn
thấy từ cuộc sống của nhân dân chứa đựng những vẻ đẹp cao cả, một triết lí nhân
sinh vững bền. Đó cũng là cơ sở giúp nhà thơ khẳng định một thái độ sống khác
người đầy bản lĩnh :
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn người đến chốn lao xao.
(Thơ Nôm)
Hai câu thực là một cách phân biệt rõ ràng giữa nhà thơ với những ai, những

vui thú nào về ranh giới nhận thức cũng như chỗ đứng giữa cuộc đời. Phép đối
cực chuẩn đã tạo thành hai đối cực : một bên là nhà thơ xưng Ta một cách ngạo
nghễ, một bên là Người ; một bên là dại của Ta, một bên là khôn của Người ; một
nơi vắng vẻ với một chốn lao xao. Đằng sau những đối cực ấy là những ngụ ý tạo
thành phản đề khẳng định cho thái độ sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bản thân
nhà thơ nhiều lần đã định nghĩa dại - khôn bằng cách nói ngược này. Bởi vì người
đời lấy lẽ dại - khôn để tính toán, tranh giành thiệt hơn, cho nên thực chất dại -
khôn là thói thực dụng ích kỷ làm tầm thường con người, cuốn con người vào dục
vọng thấp hèn. Mượn cách nói ấy, nhà thơ chứng tỏ được một chỗ đứng cao hơn
và đối lập với bọn người mờ mắt vì bụi phù hoa giữa chốn lao xao. Nguyễn Bỉnh
Khiêm cũng chủ động trong việc tìm nơi vắng vẻ, không vướng bụi trần. Nhưng
không giống lối nói ngược của Khuất Nguyên thuở xưa “ Người đời tỉnh cả, một
mình ta say” đầy u uất, Trạng Trình đã cười cợt vào thói đời bằng cái nhếch môi
lặng lẽ mà sâu cay, phê phán vào cả một xã hội chạy theo danh lợi, bằng tư thế
SVTH: Trần Văn Dương – MSSV: 0911507 Trang
18
Quan niệm nhân sinh trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm
của một bậc chính nhân quân tử không bận tâm những trò khôn - dại. Cũng vì thế,
nhà thơ mới cảm nhận được tất cả vẻ đẹp của cuộc sống nhàn tản :
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
(Thơ Nôm)
Khác hẳn với lối hưởng thụ vật chất đắm mình trong bả vinh hoa, Nguyễn
Bỉnh Khiêm đã thụ hưởng những ưu đãi của một thiên nhiên hào phóng bằng một
tấm lòng hoà hợp với tự nhiên. Tận hưởng lộc từ thiên nhiên bốn mùa Xuân - Hạ
-Thu - Đông, nhà thơ cũng được hấp thụ tinh khí đất trời để gột rửa bao lo toan
vướng bận riêng tư. Cuộc sống ấy mang dấu ấn lánh đời thoát tục, tiêu biểu cho
quan niệm “ độc thiện kỳ thân” của các nhà nho. Đồng thời có nét gần gũi với
triết lí “ vô vi ” của đạo Lão, “ thoát tục ” của đạo Phật. Nhưng gạt sang một bên
những triết lí siêu hình, ta nhận ra con người nghệ sĩ đích thực của Nguyễn Bỉnh

Khiêm, hoà hợp với tự nhiên một cách sang trọng bằng tất cả cái hồn nhiên trong
sạch của lòng mình. Không những thế, những hình ảnh măng trúc, giá, hồ sen còn
mang ý nghĩa biểu tượng gắn kết với phẩm chất thanh cao của người quân tử,
sống không hổ thẹn với lòng mình. Hoà hợp với thiên nhiên là một Tuyết Giang
phu tử đang sống đúng với thiên lương của mình. Quan niệm về chữ Nhàn của
nhà thơ được phát triển trọn vẹn bằng sự khẳng định :
Rượu đến cội cây ta sẽ uống,
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.
(Thơ Nôm)
Mượn điển tích một cách rất tự nhiên, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nói lên thái độ
sống dứt khoát đoạn tuyệt với công danh phú quý. Quan niệm ấy vốn dĩ gắn với
đạo Lão - Trang, có phần yếm thế tiêu cực, nhưng đặt trong thời đại nhà thơ đang
sống lại bộc lộ ý nghĩa tích cực.
Quan niệm về công danh, tinh thần “dĩ bất biến ứng vạn biến”
SVTH: Trần Văn Dương – MSSV: 0911507 Trang
19
Quan niệm nhân sinh trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm
Đối với bậc chân nho như Nguyễn Bỉnh Khiêm, làm quan là để hành đạo chứ
không phải là phương tiện để mưu cầu tước lộc, thế nên gặp khi đạo khó thực
hành, và công danh đã đến hồi bất trắc, ông nhận thấy ở lại với cảnh giàu sang
chẳng khác gì bước trên nguy hiểm. Bởi vậy tốt hơn là lui về ẩn dật để hưởng thú
thanh nhàn với tuổi già :
Giàu sang chẳng ở, hiểm nguy thôi,
Tuổi cả quay về sống thảnh thơi.
(Ngụ hứng, bài 12)
Ông xem phú quý chẳng qua là ảo mộng, cuộc sống ưu du phóng khoáng,
như đám mây trắng tự do lơ lửng bay, không chút buộc ràng câu thúc, còn hơn cả
tước hầu vạn mộ :
Kìa con thuyền thả, lưng vành nguyệt,
Nọ đám mây trôi, vạn hộ hầu.

(Ngẩu thành, bài 5)
Ông khinh bỉ bọn hám danh lợi, coi giàu sang là cái không đáng để tâm tới,
giàu sang cũng rất nguy hiểm, nhưng được giàu sang thì ông cũng không phải
muốn cự tuyệt. Có điều là ông có không mừng, mất không tiếc. Làm quan chức
tước cao thì chỉ càng thêm lo lắng cho người hết lòng vì nước, nhưng được về
nghỉ hưu nơi quê nhà thì cũng rất thú vị, có khi còn thú vị hơn. Toàn bộ tư tưởng
ấy có thể thấy trong thơ ông rất nhiều :
Đầu bạc vẫn chưa đền nợ nước,
Lưng vàng há phải thích quan cao.
(Trung tân ngụ hứng, bài 15)
Để chống lại lối sống danh lợi ích kỷ, Nguyễn Bỉnh Khiêm đề cao tư tưởng
an phận, ông khuyên người ta nên yên với mệnh trời :
Được thua phú quý dầu thiên mệnh,
Chen lấn làm chi cho nhọc nhằn.
(Thơ Nôm, bài 87)
SVTH: Trần Văn Dương – MSSV: 0911507 Trang
20
Quan niệm nhân sinh trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm
Ông rất mừng khi được thoát khỏi vòng danh lợi :
Thoát chân khỏi chốn giàu sang,
Tuổi già mong được chữ nhàn thong dong.
Hương lan gom tứ thơ hồng,
Tiếng chim gọi khách ngoài song ngọt ngào.
(Ngụ hứng, bài 6)
Chính vì quan niệm như vậy mà Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tùy thời xuất xử tùy
ngộ nhi an. Vận nước có khi thịnh khi suy, việc đời có lúc cùng lúc thông, người
quân tử phải biết thuận theo lẽ tự nhiên mà hành động, tùy thời mà ra giúp nước
hay rút lui, cậy tài ỉ sức mong cưởng lại cái tự nhiên thì chỉ nhọc xác tổn hơi một
cách vô ích :
Vạn dặm chim bằng sớm vượt mây,

Lúc cùng tạm xếp cánh thu vây.
(Tự thuật, bài 1)
Cuộc sống của những kẻ chạy theo công danh phú quý vốn dĩ ông căm ghét
và lên án trong rất nhiều bài thơ về nhân tình thế thái của mình :
Ở thế mới hay người bạc ác,
Giàu thì tìm đến, khó thì lui.
(Thói đời)
Phú quý đi với chức quyền đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ là cuộc sống của
bọn người bạc ác thủ đoạn, giẫm đạp lên nhau mà sống. Bọn chúng là bầy chuột
lớn gây hại nhân dân mà ông vô cùng căm ghét và lên án trong bài thơ Tăng thử
(Ghét chuột) của mình. Bởi thế, có thể hiểu thái độ nhìn xem phú quý tựa chiêm
bao cũng là cách nhà thơ chọn lựa con đường sống gần gũi, chia sẻ với nhân dân.
Cuộc sống đạm bạc mà thanh cao của người bình dân đáng quý, đáng trọng vì
đem lại sự thanh thản cũng như giữ cho nhân cách không bị hoen ố vẩn đục trong
xã hội chạy theo thế lực kim tiền. Cội nguồn triết lí của Nguyễn Bỉnh Khiêm gắn
liền với quan niệm sống lành vững tốt đẹp của nhân dân.
SVTH: Trần Văn Dương – MSSV: 0911507 Trang
21
Quan niệm nhân sinh trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm
Triết lý nhân sinh này khả dỉ giải thích sự ra làm quan và về ở ẩn của ông. Do
quan niệm tùy thời xuất xử, tùy ngộ nhi an mà vào thời Lê trung suy, ông ở ẩn
dạy học không chịu ra dự thi hai khoa Quý vị (1523) và Bính tuất (1526). Lúc
Mạc Đăng Doanh lên ngôi, trong nước tạm có cảnh thanh bình ông nghỉ rằng đó
là cơ hội có thể dùng sở học thực hiện những điều tốt đẹp, nên đã ra làm quan ;
đến khi dâng sớ hạch tội 18 tên lộng thần không có hiệu quả ông thác bệnh về ở
ẩn, không tham quyền cố vị. Như thế đủ thấy Nguyễn Bỉnh Khiêm ra làm quan là
muốn giúp cho tự nhiên phát triển, mà rút lui cũng là để cho tự nhiên tự do biến
chuyển theo lẻ “cùng tắc biến, biến tắc thông”.
3. Những ý nghĩa tích cực và tiêu cực trong quan niệm nhân sinh của
Nguyễn Bỉnh Khiêm

Tích cực : Không phò tá vua theo kiểu trung thần mà biết phân biệt đúng sai,
chọn vua để phò và về ở ẩn. Mở trường dạy học, đào tạo người tài ra giúp nước.
Lên án vua quan tham ô, gây chiến tranh. Mong ước xây dựng một chế độ vua
theo thuyết chính danh của Nho giáo. Lối sống nhàn tản của ông có mục đích
giáo dục thiên hạ, thơ văn của ông là những bài khuyên răn đời theo chí hướng
của ông. Ông muốn đem đạo thánh hiền mà phổ cập trong nhân dân, làm cho con
người trở nên tốt. Phan Huy Chú từng nói “Thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm rất tự
nhiên, buông miệng là ra lời không cần gọt dũa, giản dị mà đủ ý, đạm mà có vị,
đều có quan hệ về dạy đời… Xem qua đại lược như là trăng sáng ban đêm, gió
mát ban ngày nghìn đời sau còn tưởng thấy được”. Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm
quyết liệt khi cần phê phán, sắc sảo khi cần chứng minh, hào hùng khi cần ca
ngợi. Nhưng bao giờ thì ông cũng biểu lộ thái độ an nhiên kết hợp với nỗi chân
tình, với niềm thương yêu con người. Ông làm thơ để nói chí mình, chí giúp
nước, giúp dân của ông không thực hiện được, nhưng tấm lòng son ưu thời mẫn
thế của ông thì không bao giờ phai nhạt. Tình đời trong thơ ông vì thế mà rất
thắm thiết. Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm giàu chất liệu hiện thực, mang tính triết lý
sâu xa của thời cuộc. Ông phê phán gay gắt bọn tham quan ô lại hút máu, hút mủ
của dân. Thơ ông còn truyền đạt cho đời một đạo lý đối nhân xử thế, đạo vua tôi,
cha con và quan hệ bầu bạn, hàng xóm láng giềng. Đọc thơ ông là thấy cả một
SVTH: Trần Văn Dương – MSSV: 0911507 Trang
22
Quan niệm nhân sinh trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm
tấm lòng lo cho nước, thương đời, thương dân, và một tâm hồn suốt đời da diết
với đạo lý : “Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc” (lo trước
cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ). Vì thế khi về ở ẩn, ông vẫn mở
trường dạy học, mong đào tạo cho đời những tài năng “kinh bang tế thế”. Học trò
của ông cũng có người trở thành danh tướng, Trạng nguyên như: Phùng Khắc
Khoan, Lương Hữu Khánh, Nguyễn Quyền
Tiêu cực : ông bị ảnh hưởng tư tưởng Nho giáo nên tin vào mệnh trời, làm
mọi thứ đều đỗ lỗi cho “trời”, còn bảo thủ, ra sức mạt sát thương nghiệp. Nguyễn

Bỉnh khiêm đã thấy được bản chất xấu xa, tính chất tha hóa của sức mạnh đồng
tiền, tuy nhiên ông chưa thấy được yếu tố tích cực và xây dựng xã hội mới của
đồng tiền. Cái đạo đức tha hóa tuy đã có triển vọng, nhưng chưa đến mức tạo nên
một giai cấp tư sản quan trọng và đưa vào ý thức hệ của nhân dân những quan
niệm mới về quy luật phát triển của xã hội dựa vào tiền bạc và hàng hóa. Ngày
nay tình thế đã đổi mới, tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm do đó có những chỗ
không thích hợp với xã hội Việt Nam hiện tại. Thái độ “nhàn” của ông chỉ có tác
dụng vào một thời đại nhất định mà thôi.
KẾT LUẬN
Như vậy là qua quá trình tìm hiểu và nghiên cứu về xã hội cho đến cuộc đời,
sự nghiệp và đặc biệt đáng để tâm là những quan niệm về triết lý nhân sinh trong
thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông đã nói lên những lẽ sống trong cuộc đời,
những mối quan hệ nhân sinh mà còn ảnh hưởng và có giá trị cho hậu thế ngày
nay và mãi mãi sau này. Và chúng ta càng trân trọng ông hơn, khi ông về ở ẩn
nhưng ông không ngoảnh đi, mà ngược lại ông chăm chú nhìn vào đời, sẳn sàng
làm những gì đời cần đến. Chỉ miễn là không phải lao vào vòng danh lợi làm
hoen ố tấm lòng trung trinh của một nhà nho chí sĩ. Ông là một con người trung
chính, thanh khiết, không chịu bó buộc luồn cúi trước một xã hội luôn xâu xé lẫn
nhau làm cho cuộc sống con người bị đảo lộn. Trái lại ông hướng đến những tình
cảm cao đẹp, là tìm cách cải tạo con người, giúp họ gạt bỏ những thói xấu, tăng
thêm những phẩm chất tốt đẹp, sống đúng với chức phận của mình, giữ vững kỷ
cương, đạo lý trong quan hệ ứng xử giữa con người với con người. Khuyên răn
con người đừng nên tham lam, ham sắc, ham cờ bạc, cậy giàu sang mà kiêu ngạo,
SVTH: Trần Văn Dương – MSSV: 0911507 Trang
23
Quan niệm nhân sinh trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm
coi thường người nghèo… Đó là những bài học đạo đức giản dị nhưng sâu sắc và
gần gủi mà chúng ta cần phải học tập và xác định đúng đắn hơn nữa. Cái đáng
trân trọng và đánh giá cao nhất ở Nguyễn Bỉnh Khiêm là dù xuất hay xử thì tấm
lòng ông luôn hướng về đất nước,về nhân dân. Tư tưởng và tình cảm cao đẹp đó

không đưa ông vượt qua được những hạn chế của thời đại, nhưng là nền tảng tinh
thần, là chất liệu cơ bản để cùng với trí thức uyên bác và tài năng của mình nâng
ông lên một danh nhân văn hóa lỗi lạc của dân tộc, một nhà thơ lớn của thế kỷ
XVI, với uy tín và ảnh hưởng rộng lớn bao trùm cả đất nước lúc đó. Và để tiếp
nối những truyền thống quý báu của dân tộc và những đức tính tốt đẹp ngày xưa
như Nguyễn Bỉnh Khiêm chúng ta sẽ tiếp thu những giá trị mà cho đến nay vẫn
còn tác dụng hữu hiệu cho cuộc sống. Đồng thời biết cách lựa chọn những gì còn
phù hợp với xã hội ngày nay để làm kinh nghiệm cho mình, là hành trang vững
tin trong trường học, vững bước vào trường đời, đang mở ra nhiều cơ hội nhưng
cũng đầy chông gai và thử thách, những cám dỗ về vật chất đã làm cho biết bao
người bị lu mờ về nhân cách, làm mất hết tính người và tình người. Vậy nên
chúng ta phải có cách nhìn nhận đánh giá thật khách quan, chúng ta sống không
phải chỉ cho bản thân mình mà là phải sống cho gia đình, cho bạn bè và cho toàn
xã hội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Thị Thanh Băng- Vũ Thanh tuyển chọn và giới thiệu, Nguyễn Bỉnh Khiêm
về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục.
2. Bộ văn hóa và Thông tin và thể thao, (1991), Nguyễn Bỉnh Khiêm danh nhân văn
hóa, Nxb Viện khoa học xã hội Việt Nam, (Nguyễn Huệ Chi chủ biên), tr 45-55.
3. Đinh Gia Khánh, (chủ biên) (1983), Thơ văn Nguyễn Bỉnh khiêm, Nxb Văn học.
4. Lê Trọng Khánh - Lê Anh Trà (1957), Nguyễn Bỉnh Khiêm - Nhà thơ triết lý,
Nxb Văn hóa, tr.58-83.
5. Nguyễn Khuê (1997), Nguyễn Bỉnh Khiêm qua Bạch Vân am thi tập, Nxb Thành
phố Hồ Chí Minh.
6. Phan Thị Hồng, Giáo trình tóm tắt Văn học Việt Nam thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ
XVIII, Trường đại học Đà Lạt.
SVTH: Trần Văn Dương – MSSV: 0911507 Trang
24
Quan niệm nhân sinh trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm
7. Nguyễn Quân (1974), Bạch Vân quốc ngữ thi tập, Nxb sức sống mới.

8. Nguyễn Phương Chi (1986), Nguyễn Bỉnh Khiêm - nhà thơ lớn thế kỷ XVI, Báo
văn nghệ, số 2.
9. Viện khoa học xã hội - Trung tâm nghiên cứu Hán Nôm,(200), Trần Khuê, (chủ
biên), Nguyễn Bỉnh Khiêm trong lịch sử phát triển văn hóa dân tộc, Nxb Đà
Nẵng.
10. Một số trang web: thivien.net, tailieu.vn
SVTH: Trần Văn Dương – MSSV: 0911507 Trang
25

×