Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Giới với vấn đề thu nhập và ra quyết định trong gia đình nông thôn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.05 KB, 18 trang )

PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết
Hiện nay có tới 78% tổng số phụ nữ sống trong nông thôn, họ chiếm tới
70% lực lượng lao động trong nông thôn và được đánh giá là tạo ra 60% sản
phẩm của xã hội nông thôn. Người phụ nữ không chỉ đóng vai trò là lực lượng
sản xuất chính trong gia đình mà còn tham gia tích cực vào các hoạt động xã hội.
Nhiều nghiên cứu nói lên rằng mặc dù phụ nữ là lực lượng lao động chính trong
gia đình tại nông thôn hiện nay nhưng quyền quyết định chính trong gia đình vẫn
là nam giới. Vấn đề đặt ra trong nghiên cứu này là thực trạng quyết định trong
gia đình nông thôn hiện nay như thế nào? Thu nhập có ảnh hưởng như thế nào
đến quyền quyết định của chồng và vợ? Phụ nữ cần làm gì để nâng cao vị thế của
mình trong gia đình cũng như tham gia vào việc ra quyết định trong gia đình?
Xuất phát từ những vấn đề trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài
“Giới với vấn đề thu nhập và ra quyết định trong gia đình nông thôn hiện nay”
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Tìm hiểu về vấn đề thu nhập và quyền ra quyết định trong gia đình nông
thôn hiện nay.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về thu nhập và quyền ra quyết định.
- Thực trạng thu nhập và quyền quyết định trong gia đình nông thôn hiện
nay.
- Giải pháp nâng cao vị thế của phụ nữ trong gia đình, cũng như tham gia
vào việc ra quyết định trong gia đình.
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động thu nhập của giới và sự ra quyết định trong gia đình đối với
mỗi giới
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: vấn đề giới với thu nhập và ra quyết định trong gia đình


nông thôn hiện nay
- Phạm vi không gian: xã Thụy Dân, huyện Thái Thụy – Thái Bình
- Phạm vi thời gian: năm 2006 - 2008
PHẦN 2. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2
2.1 Các khái niệm
2.1.1 Giới
Là phạm trù chỉ quan niệm, vai trò và mối quan hệ xã hội giữa nam giới
và phụ nữ. Xã hội tạo ra và gán cho trẻ em gái và trẻ em trai, cho phụ nữ và nam
giới các đặc điểm giới khác nhau. Bởi vậy, các đặc điểm giới rất đa dạng và có
thể thay đổi được.
2.1.2 Thu nhập
Thu nhập là số lượng tiền, hàng hoá hoặc dịch vụ mà một cá nhân, công ty
hay một nền kinh tế nhận trong một khoảng thời gian nhất định (quý, tháng,
năm).
2.1.3 Ra quyết định
Ra quyết định là một quá trình lựa chọn có ý thức giữa hai hoặc nhiều
phương án để chọn ra một phương án và phương án này sẽ tạo ra được một kết
quả mong muốn trong các điều kiện ràng buộc đã biết.
2.1.4 Bình đẳng giới
- Bình đẳng giới được hiểu nam giới và nữ giới được coi trọng như nhau,
cùng được công nhận và có vị thế bình đẳng trong XH.
- Bình đẳng giới không đơn thuần chỉ là việc phụ nữ có nhiều vai trò giống
nam giới hơn mà còn là nam giới cũng sẽ có nhiều vai trò giống phụ nữ hơn.
2.2 Giới và vấn đề thu nhập
2.2.1 Nguồn thu nhập của gia đình
* Thu nhập bằng tiền
- Tiền lương: Mức thu nhập này tùy thuộc vào kết quả lao động của mỗi người
và điều kiện kinh doanh của doanh nghiệp.
- Tiền thưởng: Phần thu nhập bổ sung cho những người lao động tốt, có năng

suất cao, kỉ luật tốt.
3
- Tiền phúc lợi: Do cơ quan, trường học… chi cho cán bộ viên chức trong những
dịp lễ tết, thăm hỏi, hiếu hỉ… từ quỹ phúc lợi.
- Tiền bán sản phẩm
- Tiền lãi tiết kiệm
* Thu nhập bằng hiện vật
Tùy từng địa phương mà có mỗi hình thức thu nhập riêng phù hợp với
điều kiện khí hậu, địa hình
2.2.2 Đặc điểm thu nhập của hộ nông dân
Thu nhập, đời sống của nông dân còn thấp và tăng chậm so với dân cư
thành thị. Nông hộ chủ yếu sống ở nông thôn, nơi có nhiều điều kiện khó khăn
như cơ sở hạ tầng, trình độ dân trí thấp, dân trí tăng nhanh và thiếu việc làm.
Theo thống kê của Tổng cục thống kê Việt Nam thì khoảng cách về thu nhập
bình quân của 1 người 1 tháng giữa dân cư thành thị và dân cư nông thôn có xu
hướng gia tăng năm 1993 là 2 lần, năm 1994 tăng lên 2,55 lần, năm 1995 là 2,63
lần, năm 1996 là 2,7 lần, năm 1999 là 3,7 lần, năm 2001 là 4 lần đến 2003 giảm
xuống nhưng vẫn ở mức 2,3 lần.
Nguồn thu nhập của hộ nông dân phong phú đa dạng: hoạt động sản xuất
kinh doanh của hộ nông dân bao gồm các hoạt động sản xuất nông nghiệp và sản
xuất phi nông nghiệp trong nông hộ: trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản,
kinh doanh, buôn bán, tiểu thủ công nghiệp, làm thuê, xuất khẩu lao động…
Thu nhập của nông hộ vẫn chủ yếu từ hoạt động nông nghiệp.
Thu nhập của hộ nông dân không đều do mỗi vùng có 1 nguồn tài nguyên,
điều kiện kinh tế, xã hội, môi trường, tổ chức quản lý khác nhau. Sự đa dạng về
quy mô và trình độ phát triển đã tạo ra sự khai thác nguồn lực không đồng đều
giữa các hộ nông dân trong vùng. Những hộ biết tận dụng mọi khả năng sẵn có,
biết học hỏi kinh nghiệm và có khả năng đầu tư sẽ đem lại hiệu quả cao và thu
nhập cao, ngược lại.
4

Thu nhập của hộ nông dân chưa loại trừ hết chi phí sản xuất. Trong nông
hộ thu nhập không chỉ là lợi nhuận kinh doanh mà nó bao gồm cả chi phí lao
động gia đình. Nguồn lao động sử dụng 1 cách linh hoạt 1 người có thể làm được
nhiều công việc, tuỳ theo thời vụ, công việc mà sắp xếp nên khó tính chi phí lao
động của gia đình.
2.2.3 Vai trò đóng góp kinh tế của phụ nữ đối với gia đình
Chức năng kinh tế là một chức năng đặc biệt và quan trọng nhất ở thiết
chế gia đình. Người phụ nữ có đặc trưng về sinh học: là mẹ, là vợ, họ đảm trách
các công việc thường nhật của gia đinh, tuy nhiên họ cũng còn phải đóng góp thu
nhập vào kinh tế gia đình. Có quan điểm cho rằng công việc nhà là công việc
“đương nhiên” của phụ nữ. Tuy nhiên chúng ta biết rằng sự phân công lao động
theo giới là một sản phẩm xã hội. Ph.ăng-ghen trong tác phẩm nổi tiếng Nguồn
gốc của gia đình của chế độ tư hữu và của nhà nước, khi nói về sự phân công lao
động theo giới trong thời kỳ bộ lạc đã cho rằng: “ Sự phân công lao động là hoàn
toàn có tính chất tự nhiên, nó chỉ tồn tại giữa nam và nữ. Đàn ông đi đánh giặc,
đi săn bắt và đánh cá, tìm nguyên liệu dùng làm thức ăn và kiếm những công cụ
cần thiết cho việc đó. Đàn bà chăm sóc việc nhà, chuẩn bị cái ăn và cái mặc, họ
làm bếp và may vá (trích nguồn Các Mác và Ph.ăng-ghen, 1984:243-). Trong kết
quả điều tra gia đình Việt Nam năm 2006, quan niệm mức độ hài lòng về hôn
nhân của người phụ nữ cũng nhấn mạnh tới chức năng kinh tế của bất hoà về
ứng xử và dẫn đến rạn nứt gia đình. Có đến 46,1% đưa ra lý do khó khăn về kinh
tế khi được hỏi về nguyên nhân dẫn tới bất hoà trong gia đình (trích nguồn Bộ
văn hoá thể dục thể thao và du lịch, Tổng cục thống kê, Viện gia đình và giới,
Unicef 2008 ).
(Nguồn: Tạp chí nghiên cứu giới và gia đình số 4 năm 2010)
Quyền quyết định của người phụ nữ trong gia đình cũng ngày càng được
tăng lên. Có nhiều người vợ quyết định cùng chồng những công việc quan trọng
5
trong gia đình. Trong “Kết quả điều tra gia đình năm 2006” cho thấy đến 53% số
phụ nữ ở thành thị đứng tên một giấy tờ đăng ký sản xuất kinh doanh (trích

nguồn Bộ văn hoá thể dục thể thao và du lịch, Tổng cục thống kê, Viện gia đình
và giới, Unicef 2008 ).Ở các thành phố vai trò trụ cột kinh tế hiện nay đã không
còn là đặc quyền của chồng. Các số liệu của Nguyễn Thị Hoà và Trần Thị Vân
Anh,2007 đã góp phần chứng minh điều đó. Ví dụ nghiên cứu của Nguyễn Thị
Hoà cho thấy 64,5% người vợ đóng góp công sức nhiều nhất cho kinh tế gia đình
so với 30,8% là người chồng. Sự đóng góp của người vợ không có gì khác biệt
theo vùng miền. Tương tự kết quả nghiên cứu của Trần Thị Vân Anh cho thấy tỷ
lệ nữ tự đánh giá về việc có đóng góp vào thu nhập gia đình của bản thân là
92,5%. Và đánh giá của những người chồng về việc có đóng góp vào thu nhập
gia đình của phụ nữ cũng chiếm tỷ lệ tương tự là 94,5%. Như vậy con số thống
kê này cho thấy người vợ có xu hướng đóng góp nhiều cho kinh tế gia đình.
Nhìn nhận vai trò kinh tế một cách thoả đáng giúp phụ nữ thể hiện rõ vai trò kinh
tế của họ. Xã hội Việt Nam có nhiều biến đổi đặc biệt là giai đoạn đổi mới năm
1986. Những thay đổi xã hội tác động tới vai trò của giới trong gia đình. Các kết
quả nghiên cứu về phân công lao động trong gia đình đã phản ánh khá rõ vai trò
của phụ nữ và chức năng kinh tế của gia đình. Một câu hỏi được đặt ra như
người phụ nữ Việt Nam có vai trò như thế nào trong không gian một gia đình?
Một kết quả nghiên cứu của trung tâm nghiên cứu dân số gia đình thuộc Đại học
Michighen của Hoa Kỳ công bố trước đây cho thấy ở Việt Nam người vợ là
người chủ yếu nắm giữ “túi tiền’’ của gia đình. Mặc dù người phụ nữ được nắm
giữ tài chính nhưng họ không phải là người đưa ra các quyết định quan trọng
trong gia đình.
2.2.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập
6
Giáo dục - đào tạo: Vẫn còn những thách thức lớn trong công tác giáo dục
và phát triển nguồn nhân lực. ở khu vực miền núi, vùng nông thôn, sự chệnh lệch
về giới trong tỷ lệ học sinh đến trường cao hơn những vùng khác, đặc biệt đối
với các dân tộc thiểu số. Mặc dù đã có nhiều cố gắng lớn về đào tạo cho dân số
nông thôn, trình độ chuyên môn và trình độ kỹ thuật của họ vẫn còn ở mức thấp.
Năm 2002, cứ 100 dân số nữ từ 15 tuổi trở lên thì có 25,5 người tốt nghiệp tiểu

học, 25,8 người tốt nghiệp THCS và 9,4 người tốt nghiệp THPT; các tỷ lệ tương
ứng ở dân số nam là 27,3; 29,5 và 12. Bậc trung học chuyên nghiệp không có sự
khác biệt lớn, nữ đạt 2,9% và nam 2,8%; bậc cao đẳng và đại học nữ đạt 2,7% và
nam đạt 4,2%. Riêng bậc trên đại học, tỷ lệ nữ thấp hơn 3 lần so với nam, cụ thể
nữ đạt 0,04% và nam 0,13%.
Lao động và việc làm: Về ngành nghề lao động, thống kê cho thấy lao
động nữ có xu hướng tập trung lao động ở các ngành nông nghiệp và dịch vụ,
trong khi lao động nam lại tập trung cao ở ngành thuỷ sản và xây dựng.
Trình độ chuyên môn, phụ nữ ít có cơ hội tiếp cận với công nghệ, tín dụng
và giáo dục đào tạo, thường gặp nhiều khó khăn do gánh nặng công việc gia
đình, điều kiện để nâng cao chuyên môn ít hơn nam giới. Có số liệu cho thấy lao
động nữ qua đào tạo chỉ bằng 30% so với lao động nam. Bồi dưỡng nghiệp vụ về
quản lý nhà nước đối với nữ cũng chỉ chiếm tỷ lệ 30%. Do đó trong đa số trường
hợp lao động nữ không có trình độ chuyên môn cao bằng nam giới nên dễ dẫn
đến chênh lệch trong thu nhập so với nam giới.
Vùng địa lý: Tỷ lệ nữ tham gia hoạt động kinh tế ở nước ta duy trì ở mức
cao, năm 2003, tỷ lệ này ở nữ là 68,5%, còn ở nam là 75,8%. Giữa các vùng có
sự khác biệt lớn về tỷ lệ nữ tham gia hoạt động kinh tế. Năm 2003, tỷ lệ nữ hoạt
động kinh tế là cao nhất ở Tây Bắc, đạt 80%, tiếp theo là Tây Nguyên, đạt 78%.
Tỷ lệ nữ tham gia hoạt sđộng kinh tế thấp nhất được ghi nhận ở Đông Nam Bộ,
đạt 60%, theo sau là đồng bằng sông Cửu Long, đạt 64%. Đặc biệt, đây cũng là
7

×