Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

” vai trò và ảnh hưởng của các công ty đa quốc gia trong nền kinh tế việt nam, giải pháp để các doanh nghiệp việt nam trước áp lực cạnh tranh của các công ty đa quốc gia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (255.07 KB, 25 trang )

Chuyên đề tổng hợp GVHD: PGS. TS Nguyễn Khắc Hoàn
MỞ ĐẦU
Nền kinh tế ngày càng phát triển không ngừng và ngày càng đa dạng hóa. Quá
trình toàn cầu hóa, hội nhập đang diễn ra mạnh mẽ hầu hết tất cả quốc gia trên toàn thế
giới cùng với sự phát triển của khoa học kĩ thuật làm xuất hiện nhiều loại hình kinh
doanh mới như là các công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia; nhóm công ty; franchise…
trong đó, các công ty đa quốc gia là lực lượng chủ chốt trong truyền tải khoa học, kĩ
thuật và công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế thế giới và là mẫu hình thực hiện kiểu tổ
chức sản xuất hàng hóa hiện đại.Các công ty đa quốc gia tác động mạnh mẽ đến nền
kinh tế của các nước, trong đó có Việt Nam. Sự thâm nhập ngày càng nhiều vào nền
kinh tế Việt Nam nhất là từ khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của tổ chức
thương mại thế giới WTO. Điều này góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển
nền kinh tế của nước nhà đồng thời cũng đặt nền kinh tế Việt Nam trước những thách
thức. Với các câu hỏi đặt ra như vai trò của các công ty đa quốc gia trong nền kinh tế
Việt Nam là gì? Các ảnh hưởng của các công ty đa quốc gia tới nền kinh tế Việt Nam?
Phải làm gì để doanh nghiệp Viêt nam có thể tồn tại và phát triển trước áp lực cạnh
tranh mà các công ty đa quốc gia mang lại? Làm rõ những vấn đề này là rất quan
trọng và cấp thiết trong công cuộc mở rộng và phát triển nền kinh tế Việt Nam trong
xu thế quốc tế hóa, toàn cầu hóa. Chính vì điều này mà tôi chọn đề tài nghiên cứu:”
Vai trò và ảnh hưởng của các công ty đa quốc gia trong nền kinh tế Việt Nam, giải
pháp để các doanh nghiệp Việt Nam trước áp lực cạnh tranh của các công ty đa quốc
gia.”
SVTH: Đinh Thị Hiểu
1
Chuyên đề tổng hợp GVHD: PGS. TS Nguyễn Khắc Hoàn
I. Những vấn đề chung và hoạt động thực tiễn của các công ty đa quốc gia
1. Khái niệm
Trong các tài liệu về công ty đa quốc gia, có nhiều thuật ngữ được sử dụng như:
công ty quốc tế (International Enterprise/Firm), công ty đa quốc gia
(Multinational Corporations/Enterprises – MNCs/MNEs), công ty xuyên quốc gia
(Transnational Corporations -TNCs), gần đây lại xuất hiện thuật ngữ công ty toàn cầu


(Global Firm). Nhưng chung quy lại, đó chỉ là cách tiếp cận, sử dụng thuật ngữ trong
từng giai đoạn.
Đến năm 2003, Hội nghị của Liên Hiệp Quốc về thương mại và phát triển
(UNCTAD) đã đưa ra định nghĩa chung như sau: Công ty đa quốc gia là các công ty
liên doanh hoặc độc lập bao gồm các công ty mẹ và các chi nhánh nước ngoài của
chúng. Công ty mẹ là công ty thực hiện quyền kiểm soát toàn bộ tài sản của các thực
thể kinh tế khác ở nước ngoài thuộc quyền quản lý của chúng thông qua hình thức sở
hữu vốn tư bản cổ phần. Có tỷ lệ góp vốn cổ phần là 10% so với cổ phần gốc hoặc cao
hơn, hay mức cổ phần khống chế đối với các công ty liên doanh, hoặc tương ứng đối
với các công ty độc lập, thường được xem là ngưỡng để giành quyền kiểm soát tài sản
của các công ty khác.
2. Bản chất của các công ty đa quốc gia
Bản chất của các công ty đa quốc gia là sự tập trung tư bản rất cao trong tay một
số công ty có tư cách pháp nhân hoạt động ở nhiều quốc gia nhằm chi phối nền kinh tế
toàn cầu bằng cách luôn sản xuất ra khối lượng hàng hoá và dịch vụ ngày càng lớn với
công nghệ và kỹ thuật mới để thu lợi nhuận độc quyền.
3. Nguồn gốc hình thành của các công ty đa quốc gia
Sự ra đời của các công ty đa quốc gia gắn liền với sự ra đời và phát triển của nền
sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa; chúng là sự phát triển cao của chế độ xí nghiệp tư bản
chủ nghĩa , là sự vận động mở rộng và sâu sắc hơn của các quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa. Khi các mối quan hệ kinh tế vượt khỏi phạm vi quốc gia thì sự ra đời của công
ty đa quốc gia đã đem lại cho chủ nghĩa tư bản một hình thức tổ chức sản xuất mới.
4. Các dấu hiệu nhận biết của các công ty đa quốc gia
•Phạm vi hoạt động rộng.
•Năng lực tổ chức sản xuất lớn.
SVTH: Đinh Thị Hiểu
2
Chuyên đề tổng hợp GVHD: PGS. TS Nguyễn Khắc Hoàn
•Tiềm lực khoa học lớn.
• Sức cạnh tranh và khả năng thích ứng cao.

•Có mạng lưới phân phối rộng rãi.
5. Một số đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam hiện nay
•Việt Nam là quốc gia nền kinh tế nhiều thành phần.bao gồm:
 Doanh nghiệp tư nhân: là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ sở hữu và cá
nhân chủ sở hữu đó chỉ được làm chủ sở hữu một doanh nghiệp tư nhân; không được
đồng thời làm chủ sở hữu của doanh nghiệp tư nhân khác hoặc chủ sở hữu hộ kinh
doanh và thành viên hợp danh của công ty hợp danh.
 Công ty hợp danh: là doanh nghiệp có ít nhất hai thành viên là cá nhân, trong
đó phải có ít nhất một thành viên hợp danh; ngoài thành viên hơp danh có thể có thành
viên góp vốn; thành viên hợp danh phải là cá nhân, còn thành viên góp vốn có thể là cá
nhân, tổ chức; thành viên hợp danh chịu trách nhiệm liên đới và vô hạn bằng toàn bộ
tài sản của mình đối với các khoản nợ và nghĩa vụ khác của doanh nghiệp; còn thành
viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi giá trị số vốn góp vào công ty.
 Công ty TNHH: được chia thành 02 loại: Công ty TNHH 1 thành viên và công
ty TNHH 2 thành viên trở lên.
Công ty TNHH 1 thành viên là doanh nghiệp do một tổ chức hoặc một cá nhân
làm chủ sở hữu (sau đây gọi là chủ sở hữu công ty); chủ sở hữu công ty chịu trách
nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn điều
lệ của công ty.
Công ty TNHH 2 thành viên là doanh nghiệp trong đó thành viên có thể là tổ
chức hoặc cá nhân, số lượng không được vượt quá 50.
 Công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó: Vốn điều lệ được chia thành nhiều
phần bằng nhau gọi là cổ phần; Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông
tối thiểu là ba và không hạn chế số lượng tối đa; Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các
khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào
doanh nghiệp; Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người
khác, trừ trường hợp quy định của Luật doanh nghiệp 2005.
 Nhóm công ty: là tập hợp các công ty có mối quan hệ gắn bó lâu dài với nhau
về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ kinh doanh khác.
SVTH: Đinh Thị Hiểu

3
Chuyên đề tổng hợp GVHD: PGS. TS Nguyễn Khắc Hoàn
Nhóm công ty bao gồm các hình thức sau đây: Công ty mẹ - công ty con;Tập
đoàn kinh tế; Các hình thức khác.
 Doanh nghiệp nhà nước: là là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn
điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức công ty nhà
nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn.
 Hợp tác xã: là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân
(sau đây gọi chung là xã viên) có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức
lập ra theo quy định của Luật này để phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên tham
gia hợp tác xã, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh
doanh và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước.
 Kinh doanh hộ gia đình: do một cá nhân là công dân Việt Nam hoặc một
nhóm người hoặc một hộ gia đình làm chủ chỉ được đăng kí kinh doanh tại một địa
điểm, sử dụng không quá mười lao động, không có con dấu và chịu trách nhiệm bằng
toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh.
•Hàng tồn kho, giống như nợ xấu, được coi là một “cục máu đông”, rất nguy hại
cho lưu thông kinh tế. Ôm một khối lượng lớn hàng tồn kho, doanh nghiệp không thu
hồi được vốn, không thể trả nợ ngân hàng, từ đó, nợ xấu gia tăng. Mặt khác, hàng tồn
kho luôn là yếu tố triệt tiêu động lực sản xuất của doanh nghiệp. Năm 2012, tồn kho
lớn kéo dài đang là yếu tố chính làm suy yếu hệ thống doanh nghiệp, đẩy nhiều doanh
nghiệp vào tình trạng phá sản hoặc đóng cửa. Trên bình diện vĩ mô, hàng tồn kho cản
trở mạnh mẽ sự lưu thông trong nền kinh tế, đúng với tên gọi “cục máu đông”.
•Hệ thống ngân hàng thừa thanh khoản, nhưng một bộ phận rất lớn doanh nghiệp
vẫn thiếu vốn đầu tư nghiêm trọng do không thể (do nợ xấu), hoặc do khó tiếp cận vốn
vay (do lãi suất quá cao), thậm chí, hoặc do không muốn vay (do không tiêu thụ được
sản phẩm, hàng tồn kho lớn). Sự ách tắc này đang đe dọa sự tồn vong của các doanh
nghiệp lẫn hệ thống ngân hàng.
•Công cuộc tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại cũng đang được triển khai.

•Nguồn vốn chủ yếu huy động từ nguồn vốn ODA, FDI, đầu tư của các công ty
đa quốc gia.
•…………
SVTH: Đinh Thị Hiểu
4
Chuyên đề tổng hợp GVHD: PGS. TS Nguyễn Khắc Hoàn
II. Vai trò của các công ty đa quốc gia trong nền kinh tế Việt Nam
1. Thúc đẩy hoạt động thương mại phát triển
Trong quá trình hoạt động của mình các công ty đa quốc gia đã thúc đẩy hoạt
động xuất nhập khẩu giữa các quốc gia và gia công quốc tế. Hay nói cách khác là các
công ty đa quốc gia thúc đẩy thương mại phát triển với ba dòng lưu thông hàng hoá cơ
bản là: hàng hoá xuất nhập khẩu từ công ty mẹ, hàng hoá bán ra từ các chi nhánh ở
nước ngoài và hàng hoá trao đổi giữa các công ty trong cùng một tập đoàn. Các công
ty đa quốc gia chi phối hầu hết chu chuyển hàng hoá giữa các quốc gia bởi các kênh
lưu thông xuyên quốc gia của mình.
Thật vậy, Sau khi chính phủ mở cửa hội nhập với các nước trên thế giới, nhất là
sau khi Việt Nam trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO vào ngày
11/01/2007 đánh dấu một mốc phát triển trong lĩnh vực ngoại thương của Việt
Nam.Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan ghi nhận tổng giá trị xuất nhập
khẩu hàng hóa của Việt Nam năm 2007 đã tăng mạnh 31,3%, mức tăng về số tương
đối cao nhất trong giai đoạn 2003-2012, tương đương tăng 26,52 tỷ USD so với năm
2006. Sau 6 năm là thành viên của WTO, thương mại hàng hóa của Việt Nam trong
năm 2012 đã đạt 228,31 tỷ USD, cao gấp hơn 2 lần so với kết quả thực hiện của năm
2007. Trước đó xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam đã cán mốc 200 tỷ USD
vào những ngày cuối cùng của năm 2011.
SVTH: Đinh Thị Hiểu
5
Chuyên đề tổng hợp GVHD: PGS. TS Nguyễn Khắc Hoàn
2. Làm thay đổi cơ cấu thương mại
Như chúng ta đã biết, Sự gia nhập của các công ty đa quốc gia vào nước ta nhằm

đầu tư khai thác tài nguyên và thị trường đồng thời mang theo máy móc thiết bị, công
nghệ hiện đại vào đầu tư, sản xuất làm thay đổi cơ cấu thương mại. Các công ty đa quốc
gia có những lợi thế đặc thù (chẳng hạn năng lực cơ bản) cho phép công ty vượt qua
những trở ngại về chi phí ở nước ngoài nên họ sẵn sàng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Khi chọn địa điểm đầu tư, những công ty đa quốc gia sẽ chọn nơi nào có các điều kiện
(lao động, đất đai,chính trị) cho phép họ phát huy các lợi thế đặc thù nói trên. Những
công ty đa quốc gia thường có lợi thế lớn về vốn và công nghệ đầu tư ra các nước sẵn có
nguồn nguyên liệu, giá nhân công rẻ và thường là thị trường tiêu thụ tiềm năng
Trên thực tế, tái cấu trúc nền kinh tế đã được tích tụ từ lâu và thể hiện ngày càng
rõ qua “sốt nóng” giá nguyên liệu thế giới kéo dài gần 5 năm trước, nhưng do những
cảnh báo cần đổi mới cơ cấu kinh tế còn thiếu “sức nặng”, nên vấn đề này đã không
được chú ý. Nếu coi cơ cấu của nền kinh tế như một “chiếc hộp đen” và quan sát ở hai
đầu: ra và vào, thì thấy rõ điều này. Quan sát “rổ hàng hóa và dịch vụ” phía đầu ra của
nền kinh tế, bao gồm ba bộ phận hợp thành là thị trường xuất khẩu, thị trường bán lẻ
SVTH: Đinh Thị Hiểu
6
Chuyên đề tổng hợp GVHD: PGS. TS Nguyễn Khắc Hoàn
và thị trường đầu tư, có thể thấy thực tế khách quan không thể phủ nhận là, càng ngày,
quy mô của chúng càng phải phình to so với rổ GDP.
Từ năm 2000 đến nay, để GDP trong 4 năm đầu tăng 7%/năm, ba đầu ra này chỉ
phải tăng 12,35%/năm và hệ số giữa hai nhịp độ tăng này là 1,76 lần. Nhưng GDP trong
5 năm gần đây tăng 7,79%/năm, ba đầu ra này đã vọt lên 22,20%/năm; khiến cho hệ số
liên quan cũng tăng vọt lên 2,85 lần, tức là tăng cao gấp 1,62 lần. Ở phía đầu vào nhập
khẩu của nền kinh tế, tình hình còn nghiêm trọng hơn. Nhịp độ tăng nhập khẩu hàng hóa
và dịch vụ trong 4 năm đầu chỉ là 15,46%/năm, cho nên chỉ cao gấp 2,21 lần nhịp độ
tăng GDP. Nhưng trong 5 năm gần đây, hai con số tương ứng đều tăng vọt lên
26,90%/năm và 3,45 lần, tức là phải tăng cao gấp 1,74 lần. Sự chênh lệch lớn này được
thể hiện qua các con số nhập siêu ngày càng lớn. Cụ thể, năm 2000, con số nhập siêu
tuyệt đối chỉ là 1,154 tỷ USD và chỉ bằng 3,70% GDP; năm 2004 tăng lên 5,484 tỷ USD
và 12,09% GDP; còn năm 2008 vừa qua tăng phi mã lên 18,029 tỷ USD và 20,43%

GDP. Xét về tương đối, nếu như tỷ lệ nhập siêu năm 2000 chỉ ở mức khá khiêm tốn
7,97% thì năm 2004 đã tăng vọt lên 20,71%; còn năm 2008 đạt kỷ lục 28,76%. Cho nên
các mục tiêu sớm cân bằng cán cân thương mại và chuyển sang xuất siêu đã được hoạch
định vào năm nay hoặc một hai năm tới đều bị tréo ngoe so với thực tế.
Nguyên nhân dẫn đến nhập siêu tăng vọt không phải do tăng cường nhập khẩu
máy móc, thiết bị để công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước giống như hàng loạt các
quốc gia đi trước chúng ta, mà là do phụ thuộc ngày càng nặng nề vào thị trường
nguyên, nhiên, vật liệu thế giới. Điều này thể hiện cực kỳ rõ ở tình trạng “vỏ ta, ruột
ASEAN + 3”, rất phổ biến không chỉ trong hàng loạt hàng hóa phục vụ tiêu dùng trong
nước, mà cả trong các hàng hóa “Made in Vietnam” xuất khẩu ra thị trường thế giới.
Như vậy, trong cơ cấu của hàng loạt ngành kinh tế nước ta hiện nay, thay vì đầu
tư phát triển đồng bộ trong khuôn khổ có thể các công đoạn sản xuất, như trồng bông,
kéo sợi, dệt vải, nhuộm và sản xuất các phụ liệu khác, rồi đến công đoạn sau cùng là
may mặc phục vụ xuất khẩu và tiêu dùng trong nước, thì khâu duy nhất mà chúng ta
phát triển rất mạnh chính là khâu cuối nguồn. Thực tế này đã quyết định thương mại,
không những chỉ ở phía đầu vào, mà cả ở phía đầu ra đều phải tăng bùng nổ, nhưng
nhịp độ tăng trưởng kinh tế không thể đạt mức như chúng ta mong muốn trong hàng
chục năm qua. Thêm vào đó, ở đầu ra xuất khẩu, dù tỷ trọng hàng chế biến và tinh chế
SVTH: Đinh Thị Hiểu
7
Chuyên đề tổng hợp GVHD: PGS. TS Nguyễn Khắc Hoàn
đã tăng từ 44,17% năm 2000, lên 53,33% năm 2008 là hết sức đáng mừng, nhưng việc
hàng thô và sơ chế vẫn còn chiếm tỷ trọng 46,6% hàng xuất khẩu vẫn là một bất cập
rất lớn nhất.
Nói cách khác, không ít nguồn nguyên liệu sẵn có hoặc sản xuất được thì chúng
ta lại xuất thô, tức là mới chú trọng phát triển khâu đầu nguồn, nên giá trị gia tăng quá
thấp. Còn hàng loạt ngành sản xuất của chúng ta lại chỉ phát triển mạnh ở khâu cuối
nguồn. Do vậy, thương mại ở cả đầu ra và đầu vào đều phát triển bùng nổ, nhưng nền
kinh tế từ nhiều năm qua không thể phát triển nhanh như mong muốn, mặc dù chúng ta
vẫn còn ở trình độ phát triển rất thấp. Rõ ràng, trong điều kiện nguyên liệu ngày càng

đắt đỏ, cũng như việc giành được thị trường ngày càng khó, thì cả hai hướng đi nói
trên có ý nghĩa đặc biệt trong tái cấu trúc nền kinh tế.
3. Thúc đẩy lưu thông dòng vốn đầu tư
Trên thực tế, hầu hết các hoạt động đầu tư nước ngoài được thực hiện qua kênh
của các công ty đa quốc gia. Các công ty đa quốc gia hiện chi phối trên 90% Tổng FDI
trên toàn thế giới. Cơ cấu dòng vốn FDI đã thay đổi do có sự điều chỉnh trong chiến
lược kinh doanh của các công ty đa quốc gia. Cũng chính nhờ mở rộng chính sách tự
do hoá FDI, các công ty đa quốc gia ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với thúc
đẩy dòng vốn FDI vào các nước đang phát triển. Nếu trước đây, hầu hết nguồn vốn
FDI được thực hiện bởi các công ty đa quốc gia của các nước phát triển thì ngày nay
số lượng các công ty đa quốc gia của các nước đang phát triển cũng tăng lên và có
ngày càng nhiều vốn FDI đến từ các nước đang phát triển.
4. Làm tăng tích luỹ vốn
Thông qua nhiều cách thức huy động vốn từ các nguồn: vốn tự có, vốn đi vay,
vốn huy động từ nền kinh tế nước chủ nhà, thị trường tài chính thế giới và thông qua
các tổ chức tiền tệ quốc tế (WB, IMF), TNCs thể hiện vai trò lực lượng nòng cốt trong
quá trình tích luỹ vốn phục vụ phát triển kinh tế của các nước chủ nhà. Vai trò này
được thể hiện một số khía cạnh như sau:
Thứ nhất: Bản thân các công ty đa quốc gia khi đến hoạt động ở các quốc gia đều
mang đến cho nước này một số lượng vốn nào đó. Hơn nữa, trong quá trình hoạt động
các công ty đa quốc gia cũng đóng cho ngân sách của nước chủ nhà qua các khoản
như: thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế xuất nhập khẩu, chi phí về viễn thông, điện
SVTH: Đinh Thị Hiểu
8
Chuyên đề tổng hợp GVHD: PGS. TS Nguyễn Khắc Hoàn
nước…. Mặt khác, nhờ có các công ty đa quốc gia mà một bộ phận đáng kể người dân
có thêm thu nhập do làm việc trực tiếp trong các công ty chi nhánh nước ngoài hoặc
gián tiếp thông qua việc cung cấp các dịch vụ cho các công ty đa quốc gia và hoặc
những người lao động khác. Tại các nước có thị trường chứng khoán phát triển thì các
công ty đa quốc gia làm ăn hiệu quả chính là kênh để thu hút tiền nhãn rỗi của người

dân và của các nhà đầu tư trong việc mua cổ phiếu của các công ty này.
Thứ hai: Ngoài việc vốn ban đầu để đầu tư cho các hoạt động sản xuất kinh
doanh các công ty đa quốc gia còn thực hiện các biện pháp huy động thêm vốn từ
Công ty mẹ, từ các chi nhánh thành viên của tập đoàn, từ các đối tác, các tổ chức tài
chính và tín dụng thế giới… Đây chính là hình thức thu hút đầu tư của các nước đang
phát triển hiện nay.
Thứ ba: Các công ty đa quốc gia góp phần cải thiện cán cân thanh toán của các
nước thông qua việc tích luỹ ngoại hối nhờ các hoạt động xuất khẩu. Như đã phân tích
ở trên. Hoạt động xuất khẩu của các công ty đa quốc gia chiếm một tỷ trọng đáng kể
trong tổng kim ngạch xuất khẩu của các nước. Điều đó không chỉ thể hiện ở vai trò thúc
đẩy thương mại thế giới của các công ty đa quốc gia mà còn đem lại một nguồn ngoại
tệ quan trọng, góp phần tạo thế cân bằng cho cán cân thanh toán của nước chủ nhà.
5. Góp phần phát triển và chuyển giao công nghệ
Công ty đa quốc gia là chủ thể chính trong phát triển công nghệ trên thế giới.
Nắm giữ hơn 80% số bằng phát minh sáng chế, với năng lực tài chính và khoa học
mạnh, công ty đa quốc gia luôn dùng vốn, công nghệ mới…để giảm thiểu chi phí,
chuyển giao những công nghệ cũ, với chi phí cao sang các nước đang phát triển.
Nhưng với các nước đang phát triển, những công nghệ này vẫn là cần thiết trong quá
trình thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trong chiến lược cạnh tranh, các công ty xuyên quốc gia luôn coi công nghệ là
yếu tố quan trọng, giữ vị trí hàng đầu. Do đó, thúc đẩy đổi mới công nghệ bằng hoạt
động nghiên cứu và phát triển (R&D) là nhiệm vụ sống còn của các công ty. Đi đầu
trong đổi mới công nghệ đồng nghĩa với nâng cao năng lực cạnh tranh, chiếm lĩnh thị
trường và giữ vị trí độc quyền.
Ngày nay, nhận thức của các công ty đa quốc gia về khoa học công nghệ đã
chuyển biến. Nếu như trước đây, các công ty đa quốc gia thường đầu tư lớn cho các
SVTH: Đinh Thị Hiểu
9
Chuyên đề tổng hợp GVHD: PGS. TS Nguyễn Khắc Hoàn
phòng thí nghiệm, các viện nghiên cứu để các cơ sở này tạo ra các phát minh sáng chế

này. Tại các công ty đa quốc gia đang diễn ra quá trình quốc tế hoát hoạt động R&D
một cách mạnh mẽ. Công nghệ mới ra đời không chỉ từ các phòng thí nghiệm, các viện
nghiên cứu, các trường đại học mà còn từ chính các cơ sở sản xuất của công ty đa
quốc gia. Thí dụ Motorola đã thiết lập hệ thống R&D của mình bao gồm 14 cơ quan
tại 7 quốc gia, tập đoàn Bristol Myer Squibb có 12 cơ sở hoạt động R&D tại 6 quốc
gia [5]. Bước chuyển quan trọng trong chính sách hoạt động R&D của công ty đã có
những thay đổi căn bản. Nếu trước đây các công ty đầu tư cao cho công tác R&D tại
công ty mẹ thì nay đang thực hiện chính sách phi tập trung hoá.
6. Góp phần tạo việc làm, thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực
Tạo khối lượng việc làm khổng lồ: Với hệ thống sản xuất, kinh doanh khổng lồ,
các công ty đa quốc gia có nhu cầu nhân lực rất lớn. Với chiến lược kinh doanh tại mỗi
thị trường, các công ty đa quốc gia có ảnh hưởng khác nhau đến khối lượng công việc
tạo ra ở mỗi nước. Thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực thông qua đào tạo: Với nhu cầu
sử dụng lao động chất lượng cao, các công ty đa quốc gia đã thúc đẩy người lao động
không ngừng phấn đấu học tập, tự nâng cao trình độ tay nghề, qua đó đã góp phần thúc
đẩy và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực làm việc cho các công ty đa quốc gia nói
riêng và lực lượng lao động xã hội nói chung.
Các công ty đa quốc gia tác động đối với phát triển nguồn lực và tạo việc làm
qua hai cách trực tiếp và gián tiếp. Cách trực tiếp là thông qua các dự án công ty đa
quốc gia góp phần tạo ra một khối lượng công việc khổng lồ. Cách gián tiếp là công
ty đa quốc gia đã tạo ra nhiều cơ hội cho việc phát triển nguồn lực.
Là những công ty có quy mô lớn nên nhu cầu về lao động của các công ty đa
quốc gia cũng rất lớn. Thông qua việc thiết lập các chi nhánh ở nước ngoài công ty đa
quốc gia đã trực tiếp tạo ra một khối lượng đáng kể việc làm cho các nước tiếp nhận
đầu tư. Một cách gián tiếp công ty đa quốc gia cũng tạo ra một khối lượng lớn việc
làm thông qua việc liên doanh với các đơn vị khác để cùng phát triển. Thông qua việc
liên kết với các nhà cung cấp, các nhà phân phối từ đó mở rộng phạm vi hoạt động của
những đơn vị này và chính những đơn vị này lại tạo ra thêm nhiều công ăn việc làm
cho người lao động.
SVTH: Đinh Thị Hiểu

10
Chuyên đề tổng hợp GVHD: PGS. TS Nguyễn Khắc Hoàn
III. Ảnh hưởng của các công ty đa quốc gia trong nền kinh tế Việt Nam
Như chúng ta đã biết, Việt Nam là một trong những quốc gia có nền chính trị ổn
định, đây là điều kiện quan trọng thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt
Nam. Bởi đây là điều làm cho các nhà đầu tư yên tâm việc phát triển hoạt động kinh
doanh của mình.Đồng thời đường lối mở rộng hội nhập của Đảng và nhà nước ta đa
phương hoá, đa dạng hoá; là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc
tế. Năm 1990 đã bình thường hóa quan hệ với EU (ngày 22-10-1990); 28/7/1995 là
thành viên chính thức của ASEAN; 3/1996 tham gia ASEM với tư cách là thành viên
sáng lập; 11/1998 là thành viên của APEC; năm 2000 ký hiệp định thương mại Việt -
Mỹ; 7/11/2006 chính thức là thành viên thứ 150 của WTO. Chính vì vậy càng ngày
càng có nhiều công ty đa quốc gia đầu tư mở rộng chi nhành, thị trường tại Việt Nam
dưới nhiều hình thức. Một số công ty đa quốc gia như: Unilever của Mỹ, Toyota của
Nhật, sam sung của Hàn quốc, Mabuchi của Nhật… Sự gia nhập vào Việt Nam của
các công ty đa quốc gia đã ảnh hưởng đến nền kinh tế nước nhà.
1. Tích cực
•Cung cấp nguồn vốn quan trọng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
của đất nước
Nguồn vốn của các công ty đa quốc gia là một nguồn lực quan trọng trong việc
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế nước ta. Việt Nam tiến hành công nghiệp
hóa trong điều kiện tích lũy còn thấp, nhu cầu về vốn lớn đòi hỏi phải khai thác cả
trong và ngoài nước. Nhưng điều quan trọng hơn của nguồn vốn này đó là nhờ có nó,
nhiều nguồn lực trong nước ngày càng giữ vai trò quan trọng trong tổng đầu tư xã hội:
vốn đầu tư nước ngoài, vốn của các doanh nghiệp trong nước có thể khơi dậy để đầu
tư nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường nội địa. Nhờ nguồn vốn này, nhiều
ngành mới đã được hình thành và phát triển đồng thời nguồn vốn công nghệ cũng đã
giúp chúng ta tiếp cận được với một số lĩnh vực hiện đại.
SVTH: Đinh Thị Hiểu
11

Chuyên đề tổng hợp GVHD: PGS. TS Nguyễn Khắc Hoàn
Đối với Việt Nam, thu hút nguồn vốn FDI mang một ý nghĩa rất quan trọng. Để
thực hiện thành công sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, Việt Nam cần một lượng vốn
đầu tư rất lớn (khoảng 140 tỷ USD) cho giai đoạn (2006-2010) để xây dựng, từng
bước hoàn thiện kết cấu hạ tầng kinh tế và hạ tầng xã hội. Các doanh nghiệp Việt Nam
đang trong quá trình cải cách và cổ phần hóa nhằm gia tăng năng lực và hiệu quả cạnh
tranh khi gia nhập WTO. Cổ phần hóa phải đi đôi với việc hình thành các thị trường
vốn, các kênh huy động vốn (hạt nhân là thị trường chứng khoán (TTCK). Các mối
quan hệ kinh tế gia tăng, dòng vốn lưu chuyển nhanh sẽ góp phần tạo ra các hiệu ứng
tốt tác động đến các doanh nghiệp. Vì lợi ích của hội nhập không những được đánh giá
thông qua sự luân chuyển (vào, ra) dễ dàng của dòng hàng hóa, dòng người mà còn có
cả dòng vốn.Việc tham gia của các nhà đầu tư FDI sẽ có tác động mạnh mẽ đến thị
trường tài chính, giúp cho thị trường tài chính minh bạch và hoạt động hiệu quả hơn,
xác lập giá trị thị trường của các cổ phiếu niêm yết một cách chuyên nghiệp, giảm
thiểu những dao động “phi thị trường” và góp phần giải quyết một cách cơ bản các
mối quan hệ kinh tế (vốn, công nghệ, quản lý…). Hơn nữa, FDI có thể giúp vốn cho
doanh nghiệp trong nước, giúp doanh nghiệp tăng trưởng và nâng cao năng lực cạnh
tranh, do vậy FII rất quan trọng đối với các doanh nghiệp trong nước đang thiếu vốn.
SVTH: Đinh Thị Hiểu
12
Chuyên đề tổng hợp GVHD: PGS. TS Nguyễn Khắc Hoàn
•Góp phần thực hiện sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế
Các công ty đa quốc gia góp phần tích cực thực hiện sự chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo yêu cầu công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Sự tiến bộ trong việc chuyển
dịch cơ cấu kinh tế từ một nước nông nghiệp chuyển dần thành một nước công nghiệp
của nước ta trong thời gian qua có đóng góp không nhỏ của các Các công ty đa quốc
gia . Các công ty đa quốc gia giúp tăng nhanh tỷ trọng của sản xuất công nghiệp, đặc
biệt là của các ngành dịch vụ trong tổng sản phẩm quốc dân. Các công ty đa quôc gia
chiếm tỷ trọng cao trong các ngành sản xuất công nghiệp. (gần 35% giá trị sản xuất
toàn ngành công nghiệp), tạo ra nhiều ngành công nghiệp mới, góp phần tạo ra bước

ngoặt trong sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.
Bảng cơ cấu GDP theo ngành kinh tế qua các năm, đơn vị %
Năm 1985 1995 1997 2000 2001 2002 2003 2004 2011
GDP 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0
Nông - lâm - thủy sản 40,2% 27,18 25,77 24,53 23,24 23,03 22,54 21,8 22,02%
Công nghiệp và xây dựng 27,4% 28,76 32,08 36,73 38,13 38,49 39,47 40,2 40,79%
Dịch vụ 32,4% 44,06 42,15 38,73 38,63 38,48 37,99 38,0 37,19%
Nguồn: Tổng hợp số liệu của Tổng cục Thống kê
•Phát triển nguồn nhân lực, tạo việc làm
Các công ty xuyên quốc gia đã tác động đến việc phát triển nguồn nhân lực và tạo
việc làm theo cả hai cách trực tiếp và gián tiếp. Thông qua các dự án đầu tư, các công ty
xuyên quốc gia đã tạo ra nhiều việc làm cho lao động địa phương đồng thời đào tạo lực
lượng lao động địa phương để phục vụ cho nhu cầu hoạt động của công ty mình.
Bên cạnh đó, sự hoạt động của các công ty xuyên quốc gia đã tạo ra rất nhiều cơ
hội, động lực cho sự phát triển của lực lượng lao động theo đuổi mục tiêu có thu nhập
cao. Đặc biệt các nước đang phát triển như Việt Nam thì vai trò của các công ty xuyên
quốc gia lại càng trở nên quan trọng hơn, nó giúp chúng ta phát triển nguồn lực lao
động, nhất là đội ngũ có trình độ chuyên môn kĩ thuật và quản lý, từ đó tạo tiền đề
quan trọng để nâng cao năng suất lao động.
Ngoài ra các công ty xuyên quốc gia thường có các hoạt động trợ giúp tài chính
cho các chương trình nghiên cứu và đào tạo nguồn nhân lực, cung cấp các thiết bị khoa
học phục vụ cho việc đào tạo.
SVTH: Đinh Thị Hiểu
13
Chuyên đề tổng hợp GVHD: PGS. TS Nguyễn Khắc Hoàn
•Thúc đẩy tăng trưởng và hội nhập kinh tế quốc tế
Để có thể hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta cần có một nền kinh tế ổn định, tăng
trưởng đều. Các công ty đa quốc gia đã giúp chúng ta giải quyết được các vấn đề này.
Bên cạnh đó các công ty đa quốc gia cũng giúp tăng trưởng xuất khẩu, từ đó nhanh
chóng hội nhập vào thị trường quốc tế. Các công ty đa quốc gia, làm cho các doanh

nghiệp Việt Nam phải tự thay đổi để thích ứng và cạnh tranh tốt. Có thể nói các công
ty đa quốc gia đã góp phần đưa Việt Nam tham gia vào sự phân công lao động quốc tế,
đồng thời giúp các doanh nghiệp Việt Nam thích ứng cao nhất với các đòi hỏi của nền
kinh tế thị trường mở cửa và hội nhập.
2. Tiêu cực
•Phát triển không đồng đều giữa các ngành và các vùng miền.
Mục tiêu của các công ty đa quốc gia là lợi nhuận, doanh số và ưu thế cạnh
tranh. Nó thường xuyên mâu thuẫn với mục tiêu, chiến lược chung về phát triển kinh
tế xã hội của Việt Nam là tăng trưởng đồng đều, cao và bền vững. Vì vậy các công ty
đa quốc gia thường lựa chọn đầu tư vào các lĩnh vực, các vùng miền có thị trường lớn,
bảo toàn được vốn và thu được lợi nhuận cao, còn các ngành, các vùng có lãi suất
thấp, yêu cầu đầu tư vốn lớn, chuyển vốn chậm không thu hút được các công ty xuyên
quốc gia. Điều này dẫn đến sự phân bổ không đồng đều của sự đầu tư của công ty đa
quốc gia giữa các vùng miền và các ngành kinh tế. Dẫn đến sự phát triển kinh tế không
đồng đều giữa các vùng miền và các ngành kinh tế.
Ví dụ : Tỉ lệ đầu tư lớn nhất dành cho các vùng kinh tế trọng điểm phía Nam:
HCM, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa Vũng Tàu; phía Bắc: Hà Nội, Hải Dương, Hải
Phòng, Quảng Ninh.
•Áp lực cạnh tranh
Sự đầu tư của công ty đa quốc gia vào Việt Nam đã mang các mặt hàng kinh tế
vào thị trường Việt Nam. Các mặt hàng này có thể có chất lượng cao hơn, giá thành rẻ
hơn bởi vì họ sử dụng công nghệ cao hơn sẽ chèn ép, cạnh tranh với các mặt hàng
trong nước, làm cho sức tiêu các mặt hàng trong nước giảm dần và dần thay thế các
mặt hàng trong nước. Dẫn đến việc Việt Nam bị phụ thuộc vào nước ngoài về mặt
hàng kinh tế đó.
SVTH: Đinh Thị Hiểu
14
Chuyên đề tổng hợp GVHD: PGS. TS Nguyễn Khắc Hoàn
Ví dụ: khi vào chiếm lĩnh thị trường Việt Nam thì cocacola và pepsi đã giảm giá
về mức thấp nhất để hạ các đối thủ trong nước bởi họ có lợi thế về công nghệ và vốn

lớn nên dễ dàng chấp nhận lỗ ban đầu, còn các doanh nghiệp trong nước thì nhỏ bé cả
về tài chính và công nghệ lạc hậu nên không thể cạnh tranh nổi. Sau khi giành được thị
trường thì hai hãng này lập tức tăng giá.
•Một số công ty đa quốc gia lạm dụng ưu thế về vốn, công nghệ để thao túng và
gây hậu quả xấu, thậm chí gây sức ép với cơ quan quản lý nhà nước.
Trong một số liên doanh, các công ty đa quốc gia nước ngoài sử dụng các ưu thế
của mình để chèn ép các doanh nghiệp trong nước, hướng tới độc quyền trong nền
kinh tế tự do hóa hiện nay. Việc các mặt hàng của các công ty đa quốc gia độc chiếm
thị trường Việt Nam sẽ dẫn đến rất nhiều hệ quả, ví dụ trong trường hợp công ty xuyên
quốc gia đó lâm vào khủng hoảng thì nó sẽ làm ảnh hưởng đến nền kinh tế Việt Nam.
Sự khủng hoảng về kinh tế sẽ dẫn đến các bất ổn về chính trị. Vì vậy Việt Nam cần
phải cảnh giác với sự liên kết của các công ty đa quốc gia với các doanh nghiệp nhà
nước, tránh để xảy ra những tiêu cực.
Ví dụ: Trong thời gian vừa qua, việc công ty sản xuất thức ăn chăn nuôi của Trung
Quốc là C.P Pokphand (CPP) mua và giành quyền kiểm soát Công ty Cổ phần Chăn
nuôi CP Việt Nam dẫn đến mối lo ngại thị trường chăn nuôi bị nước ngoài thao túng.
•Công nghệ lạc hậu
Với mục tiêu giảm tối thiểu chi phí sản xuất và chi phí chuyển giao công nghệ,
các công ty đa quốc gia mang đến Việt Nam những công nghệ đã lỗi thời hoặc không
còn sử dụng được ở nước sở tại. Việt Nam trở thành nơi tiêu thụ cho các công nghệ hết
hạn đó,nhiều khi tốn chi phí nhập máy moc thiết bị về để chúng nằm một chỗ trong
kho không sử dụng được. Đồng thời việc chuyển giao công nghệ quá nhanh sẽ dẫn đến
việc lao động Việt Nam không thích ứng nhanh chóng được. Điều này đã làm cho Việt
Nam trở thành bãi rác của thế giới.
Ví dụ: Năm 2011, một số công ty may mặc của Trung Quốc chuyển giao công
nghệ lạc hậu vào Việt Nam bằng việc vận chuyển các máy móc đã lỗi thời hoặc đã quá
hạn sử dụng, sau một thời gian bỏ không vì không còn sử dụng được.
Ví dụ: Nhà máy Thủy Tinh Hà Nội, trước đây cũng mua dây chuyền về sản xuất
thủy tinh pha lê, mua lò về sản xuất phôi. Tuy nhiên, mua thiết bị mà không mua công
SVTH: Đinh Thị Hiểu

15
Chuyên đề tổng hợp GVHD: PGS. TS Nguyễn Khắc Hoàn
nghệ nên sản phẩm sản xuất ra, phôi vẫn có bọt nhưng chưa cho ra thủy tinh. Hay
trường hợp khi Trung Quốc có kế hoạch cấm xe máy hoạt động ở một số thành phố
lớn thì có một làn sóng DN Trung Quốc bán dây chuyền thiết bị cho Việt Nam. Thời
điểm đó có rất nhiều DN Việt Nam đổ xô vào lắp ráp xe máy Trung Quốc, tuy nhiên
đến nay chỉ có một DN còn sản xuất nhưng phải mua linh kiện từ Nhật về để cải tiến
mẫu mã. Còn phần lớn các nhà máy sản xuất xe máy Trung Quốc tại Việt Nam hiện đã
“chết yểu”.
•Ô nhiễm môi trường
Các công ty đa quốc gia nhiều lúc vẫn chưa chấp hành đúng các quy định của
Việt Nam về bảo vệ môi trường. Trong khi khai thác hay chế biến sản xuất, các một số
các công ty đa quốc gia vẫn bỏ qua các giai đoạn cần thiết cho việc bảo vệ môi trường
để đạt được chi phí lớn nhất. Việc đó đã làm ảnh hưởng đến môi trường sinh thái và
môi trường sống của các hộ dân xung quanh.
Ví dụ: Công ty Viguato: Gây ô nhiễm nghiêm trọng cho khu dân cư
(21/11/2012), Cư dân sinh sống tại khu dân cư (KDC) Nam Long (KP.1, P.Tân Thuận
Đông, Q.7, TP.HCM) phải chịu đựng tiếng ồn, mùi hôi khó chịu và nước thải từ Công
ty TNHH sản xuất nông dược vi sinh Viguato, Nhà máy bột ngọt VeDan nằm bên sông
Thị Vải, tháng 9/2008 bị phát hiện xả thải trực tiếp ra môi trường……
IV. Giải pháp để các doanh nghiệp Việt Nam trước áp lực cạnh tranh của
các công ty đa quốc gia
Xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu dịch vụ của con người ngày càng cao và
luôn luôn thay đổi nhanh chóng, đòi hỏi các doanh nghiệp phải nhanh chóng nắm bắt
được công nghệ, tận dụng nắm bắt cơ hội. Do đó, các doanh nghiệp cạnh tranh nhiều
hơn và khóc liệt hơn. Mà trong thời đại kỉ nguyên thông tin này, thời kì phát triển của
tri thức, thông tin thì ngườ nào có nhiều chất xám hơn, thông minh hơn, nhiều tài sản
vô hình( tạo ra thương hiệu, biết làm marketing…) thì người đó sẽ chiến thắng. Các
công ty đa quốc gia đến từ các nước có nền kinh tế phát triển, có tiềm lực vựng mạnh
cả về kinh tế lẫn công nghệ hiện đại nên họ có nhiều điều kiện, có đủ nguồn lực để tận

dụng cơ hội kinh doanh, một khi cơ hội kinh doanh đến thì họ như hổ thêm cánh, càng
hùng mạnh, càng bay xa hơn, họ sẽ giành được thành công cao hơn. Còn các doanh
nghiệp Việt Nam hầu hết là doanh nghiệp vừa và nhỏ, chẳng những quy mô nhỏ mà
SVTH: Đinh Thị Hiểu
16
Chuyên đề tổng hợp GVHD: PGS. TS Nguyễn Khắc Hoàn
cũng không đủ nguồn lực tài chính để cạnh tranh với các công ty đa quốc gia. Chính vì
vậy, chúng ta cần tìm giải pháp để các doanh nghiệp Việt Nam trước áp lực cạnh tranh
của các công ty đa quốc gia. Một số giải pháp như sau:
•Tiếp tục cải tiến: tức là dựa trên những cái củ, cái đã có sẵn để tiếp tục cải tiến.
Phương pháp này không có quá tốn kém nhưng phù hợp với người phương đông. Bởi
chúng ta không có đủ nguồn lực về tài chính để đầu tư phát triển công nghệ, mở rộng
quy mô sản xuất. Chính vì thế, sử dụng phương pháp này sẽ giúp cho các doanh
nghiệp có thể cạnh tranh với các thế lực hùng mạnh của các công ty đa quốc gia.
Đây là quan điểm của người Nhật. Quan điểm cải tiến của người Nhật rất đáng
để học hỏi đó là: “Làm tốt nhất những điều nhỏ” và trở thành “Người đứng đầu trong
thị trường nhỏ” thay vì các điều lớn lao khác.
Như chúng ta đã thấy thị trường bột giặt rất sôi động với đủ chủng loại khác
nhau. Với uy tín và thương hiệu của mình trên thị trường thì các công ty đa quốc gia
như unilever hay p&g đều chiếm lĩnh thị trường bột giặt Việt Nam, mỗi khi người ta
nhắc đến bột giặt là người ta nghĩ ngay đến omo. Tuy nhiên, mặc dù lép vế về mặt
thương hiệu nhưng công ty TNHH VICO luôn luôn thực hiện cải tiến công nghệ nên
đã tạo được chỗ đứng trên thị trường dành cho khách hàng bình dân với những sản
phẩm đủ chủng loại với giá cả phải chăng, là doanh nghiệp chuyên sản xuất, kinh
doanh chất tẩy rửa và hoá mỹ phẩm, nước uống tinh lọc và xuất nhập khẩu hoá chất
chuyên ngành. Sản phẩm của VICO chiếm 20-25% thị trường của Việt Nam không kể
hàng xuất khẩu.Phân khúc thị trường cho nguời nghèo là chính (85%), phân khúc thị
trường cho tầng lớp thượng lưu (15%).Liên tục hoàn chỉnh công nghệ sản xuất, cải
tiến bộ máy quản lý gọn nhẹ, năng động để : "Đảm bảo chất lượng - thoả mãn khách
hàng "Với định hướng trên VICO tin tưởng sẽ đạt được mục tiêu đề ra.

•Giảm thiểu tối đa những lỗi trong sản xuất sản phẩm, và loại bỏ lãng phí, bất
hợp lý trong sản xuất bằng cách sử dụng phương pháp six sigma và lean six sigma.
6-Sigma dạy cho người lao động biết cách cải thiện công việc một cách khoa học
và cơ bản, biết cách duy trì kết quả đã đạt được. 6-Sigma giúp duy trì kỉ luật, hệ thống
và cơ sở cho một quyết định chắc chắn dựa trên những thống kê đơn giản. 6-Sigma
cũng giúp đạt được tối đa hiệu quả đầu tư về vốn cũng như nguồn tài năng con người.
SVTH: Đinh Thị Hiểu
17
Chuyên đề tổng hợp GVHD: PGS. TS Nguyễn Khắc Hoàn
6-Sigma được hình thành ở Tập đoàn Motorola năm 1986 và sau đó được phổ
biến rộng rãi bởi thành công của Jack Welch, CEO của Tập đoàn General Electric
(GE) vào thập niên 90.
Các tổ chức như Honeywell, Citigroup, Motorola, Starwood Hotels, DuPont,
Dow Chemical, American Standard, Kodak, Sony, IBM, Ford, LG, Sam Sung,
Caterpillar đã triển khai các chýõng trình 6-Sigma xuyên suốt các hoạt động kinh
doanh đa dạng từ sản xuất công nghệ cao cho đến dịch vụ và các hoạt động tài chính.
Trong một khảo sát gần đây do Công ty DynCorp thực hiện đã cho thấy: khoảng
22% trong tổng số các công ty được khảo sát tại Mỹ đang áp dụng 6-Sigma; 38,2%
trong số các công ty đang áp dụng 6-Sigma là các công ty chuyên về các ngành dịch
vụ, 49.3% là các công ty chuyên về sản xuất và 12.5% là các công ty thuộc các lĩnh
vực khác. So sánh trên phương diện hiệu quả, 6-Sigma được đánh giá cao hơn đáng kể
so với các hệ thống quản trị chất lượng và công cụ cải tiến qui trình khác. Tuy chưa
được phổ biến rộng rãi ở Việt Nam, nhưng một vài công ty có vốn đầu tư nước ngoài
như American Standard, Ford, LG và Samsung, V-tract đã đưa chương trình 6-Sigma
vào triển khai áp dụng.
Ông Tim Tucker, Tổng giám đốc công ty Ford Việt Nam cho biết, nằm trong
chiến lược chung của Ford toàn cầu, Ford Việt Nam bắt đầu triển khai áp dụng 6-
Sigma từ năm 2000 bằng việc cử 2 nhân viên tham dự khóa đào tạo chuyên gia về 6-
Sigma - Black Belt ở nước ngoài do Ford toàn cầu tổ chức cho khu vực châu Á-Thái
Bình Dương.

Hiện Ford Việt Nam đã có một đội ngũ đông đảo nhưng người tham gia làm các
dự án 6-Sigma, bao gồm 2 chuyên gia cao cấp (Master Black Belt), 8 chuyên gia chính
(Black Belt), và 300 nhân viên công ty được đào tạo trở thành các thành viên (Green
Belt, Yellow Belt) tham gia vào các dự án 6-Sigma.
Ông Lê Tấn Đức, Trưởng phòng Chất lượng và hài lòng khách hàng, kiêm
Trưởng phòng Triển khai 6-Sigma của Ford Việt Nam chia sẻ: “Để triển khai thành
công 6-Sigma, điều quan trọng nhất là phải có được sự cam kết cao từ ban lãnh đạo
công ty và công tác đào tạo nâng cao nhận thức của từng thành viên trong công ty về
việc ứng dụng 6-Sigma”.
SVTH: Đinh Thị Hiểu
18
Chuyên đề tổng hợp GVHD: PGS. TS Nguyễn Khắc Hoàn
Toyota, tập đoàn hàng đầu trong lĩnh vực sản xuất ô tô trên thế giới. Cho đến nay,
Toyota đã và đang chứng tỏ bản lĩnh của mình trong việc chinh phục đỉnh cao công
nghệ của nhân loại. Đây cũng chính là tiền đề đem lại sự phát triển vượt bậc thông qua
cắt giảm lãng phí, nâng cao hiệu quả sản xuất cũng như phát huy tối đa nguồn nhân lực
trong doanh nghiệp Nhật Bản. Từ triết lý sản xuất kiểu Toyota, nhiều công ty vừa và
nhỏ tại Nhật bản đã áp dụng thành công TPS, đem lại hiệu quả thiết thực như giảm hao
phí trong sản xuất, giảm thiểu sai lỗi trong quá trình, gia tăng giá trị và có lợi nhuận cao
hơn. Như chúng ta thấy, hiện nay việc quản lý nguyên liệu đầu vào của các doanh
nghiệp của chúng ta chưa hữu ích bởi còn lãng phí rất nhiều, nên tốn kém trong việc
mua nguyên liệu đầu vào làm tăng chi phí sản xuất làm giảm lợi nhuận của doanh
nghiệp. Matwtj khác, những lỗi trong sản xuất làm ảnh hưởng đến uy tín thương hiệu
của công ty. Đồng thời là nguyên nhân sụt giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. bài học từ
Toyota đã cho chúng ta thấy. Có thời gian, Toyota sản xuất ra các oto bị lỗi và bị khách
hàng phản ánh dự dội. Khi phát hiện ra lỗi, hãng buộc phải thu hồi lại tất cả các xe sản
xuất thời kì đó và phải bồi thường thiệt hại cho khách hàng. Điều này gây thiệt hại trầm
trọng cho hãng. Đối với các doanh nghiệp Việt Nam, họ có nguồn lực bị hạn chế nên
quá trình sản xuất gặp lỗi gây lãng phí thì doanh nghiệp Việt Nam không thể có thể
đứng vững và gây dựng lại từ đầu như các công ty lớn của nước ngoài.

Như chúng ta đã biết, cho đến hiện nay vấn đề quản lý sản xuất nguồn nguyên
liệu đầu vào của các doanh nghiệp trong nước chưa hiệu quả, còn gây nhiều lãng phí
nguồn nguyên liệu, tỷ lệ phế phẩm còn cao làm tăng chi phí sản xuất dẫn đến giá thành
cao nên không đủ năng lực cạnh tranh với các công ty đa quốc gia có công nghệ cao
nên sản phẩm họ làm ra tiết kiệm chí phí do đó giá thành rẻ hơn. Chính vì vậy, các
doanh nghiệp của chúng ta phải quản lý việc sản xuất sao cho có thể loại bỏ những
lãng phí, bất hợp lý trong sản xuất.
•Chú trọng, nâng cao chất lượng hàng hóa, dịch vụ: Điều này rất quan trọng vì nó
giúp cho các doanh nghiệp xây dựng uy tín thương hiệu riêng cho mình lấy được cảm
tình của khách hàng, có được vị trí quan trọng trong tâm trí khách hàng. Đây là một xu
hướng tất yếu trong thời đại cạnh tranh khốc liệt như hiện nay. Chất lượng nó không chỉ
dừng lại ở việc đảm bảo sự an toàn mà còn phải đảm bảo vấn đề về môi trường. Giống
như trong việc vệ sinh an toàn thực phẩm thì việc ăn ngon có nghĩa là chất lượng món
SVTH: Đinh Thị Hiểu
19
Chuyên đề tổng hợp GVHD: PGS. TS Nguyễn Khắc Hoàn
ăn tốt. Tuy nhiên chúng ta cần phải nghĩ đến món ăn đó có an toàn hay không. Vấn đề
này nghe có vẻ rất dễ làm nhưng không phải ai cũng có thể làm được. Bởi hiện nay vì
mục đích lợi nhuận mà hành vi đạo đức trong kinh doanh của doanh nghiệp ngày một
xuống cấp trầm trọng, họ bất chấp tất cả ngay cả việc sản xuất ra những loại hàng hóa
dịch vụ gây hại cho người tiều dùng. Đặc biệt ảnh hưởng tới sức khỏe và gây hại đến
tương lai con cháu sau này. Giống như một sự việc mà nhà chức trách mới phát hiện gần
đây. Công ty TNHH Minh Oanh và chi nhánh DNTN Hà Tiết đã liên kết sản xuất ra
thuốc chữa bệnh từ lòng thối, phân heo. Hai cơ sở nằm nằm biệt lập giữa khu rừng tràm
tại ấp 7, xã Lê Minh Xuân, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh. Hay việc
người ta làm bún người ta sử dụng chất tẩy trắng độc hại để làm bún sáng trắng hơn…
Tất cả những việc làm này đã tạo cho người tiêu dùng có suy nghĩ dùng hàng ngoại, sử
dụng sản phẩm của các công ty đa quốc gia bởi vì họ là những donh nghiệp có uy tín, có
tiềm lực nên sử dụng sản phẩm của họ sẽ yên tâm hơn.
•Xây dựng, đào tạo đội ngủ nhân viên làm việc chuyên nghiệp: Nhân viên là linh

hồn của công ty. Bởi con người là những người lập ra mục tiêu và thực hiện mục tiêu
đó. Công ty phải có chính sách thu hút nguồn lực, đào tạo bài bản để họ thích ứng
ngày càng cao đối với sự thay đổi của công nghệ thông tin, của môi trường biến động.
Giả sử như ở Đà Nẵng khi người ta muốn mua máy tính người ta sẽ nghĩ ngay tới Phi
Long Bởi phong cách làm việc chuyên nghiệp thân thiện của nhân viên đối với khách
hàng và chế độ bảo hành tốt mặc dù giá cả ở Phi Long đắt đỏ hơn những nơi khác.
Như khi ta mua một cái máy tính ở Phi Long thì cái máy đó luôn đắt hơn nơi khác
khoảng 1 triệu đồng. Mặc dù người ta biết vậy nhưng người ta vẫn chấp nhận vì niềm
tin vào uy tín chất lượng bấy lâu của Phi Long.
•Nâng cao năng lực của người quản lý: Họ là những người có tầm nhìn xa trông
rộng, vạch ra đường đi cho doanh nghiệp, là người quyết định sự thành bại của một
doanh nghiệp., chỉ cần họ phạm sai lầm dù là nhỏ cũng làm cho doanh nghiệp đi chệch
hướng. Chính vì vậy, chúng ta cần phải quan tâm tới việc không ngừng nâng cao đào
tạo nâng cao năng lực của người quản lý. Một nhà quản trị giỏi phải tập trung đầy đủ
các yếu tố:
 Trí tuệ( phải có kiến thức sâu rộng): Là một lãnh đạo không thể không có kiến
thức chuyên môn. Ngoài những kiến thức nền tảng, người lãnh đạo cần có kiến thức
SVTH: Đinh Thị Hiểu
20
Chuyên đề tổng hợp GVHD: PGS. TS Nguyễn Khắc Hoàn
chuyên môn, dành thời gian để đầu tư và đi sâu hơn vào chuyên môn của mình, biết
học hỏi và tự tin để trở thành một lãnh đạo giỏi. Điều đó sẽ góp phần quan trọng giúp
các nhà lãnh đạo đạt tới đỉnh cao và men say của sự thành công thay vì chỉ ngồi và mơ
màng một điều gì đó tốt đẹp sẽ đến với mình. Bên cạnh đó còn phải có các kiến thức
khác như: tâm lý học, xã hội học, thiên văn…
 Bản lĩnh, quyết đoán: Người lãnh đạo giỏi luôn biết đánh giá vấn đề, phân
tích, phán đoán và đưa ra quyết định. Đánh giá rủi ro, thuận lợi và lựa chọn cách giải
quyết hợp lý nhất có thể cho mọi việc thay vì trông chờ vào quyết định của người
khác. Sự quyết định của chính bản thân người lãnh đạo mới là quan trọng nhất.
 Quan hệ_ giao tiếp: Giúp cho nhà quản trị tạo dựng mối quan hệ, để từ đó có

thể vận hành bộ máy quản lý một cách tốt đẹp. Đồng thời tận dụng, nắm bắt cơ hội
kinh doanh.
 Tổ chức_ phối hợp: Thay vì chỉ một mình mình suy nghĩ và đưa ra mệnh lệnh
cho mọi người thì người lãnh đạo giỏi phải biết huy động sức mạnh tập thể, vận động
tất cả mọi người trong tập thể của mình cùng suy nghĩ và đưa ra sáng kiến của họ. Một
lãnh đạo giỏi cũng cần có khả năng tập hợp và hiệu triệu mọi người, hướng dẫn mọi
người, mang đến công việc và trao quyền cho họ. Hãy biến họ thành những người
nhạy bén, mạnh mẽ, khiến họ phải suy nghĩ và đưa ra các phương án khả thi trong
công việc hơn là biến họ thành một cỗ máy không có khả năng tự giải quyết công việc.
 Năng động_ sáng tạo: Là nhà quản trị phải biết nhìn xa trông rộng, chuẩn bị
cho mình nhiều phương án để có thể thay thế một phương án cũ khi cần thiết, giúp cho
công ty không rơi vào thế bị động, tùy cơ ứng biến trước mọi tình huống xảy ra một
cách linh hoạt.
 Rộng lượng_ vị tha: là nhà quản trị phải khoan dung, tha thứ, rộng lượng,
không chấp nhất những sai lầm của người khác và cho họ có cơ hội để sửa chửa.
Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu trong quá trình tồn tại và phát triển của
các doanh nghiệp. Muốn tái tạo, gây dựng lại một doanh nghiệp thì đầu tiên phảỉ
người quản trị thiếu năng lực.
•Nhà nước có những chính sách hỗ trợ doanh nghiệp kinh doanh và phát triển:
 Đầu tư vào những lĩnh vực mà doanh nghiệp trong nước hạn chế về năng lực
thực hiện; phải đổi mới cơ chế, chính sách tín dụng liên quan đến xuất khẩu theo
SVTH: Đinh Thị Hiểu
21
Chuyên đề tổng hợp GVHD: PGS. TS Nguyễn Khắc Hoàn
hướng tạo điều kiện cấp tín dụng cho đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu, hướng tới các
dịch vụ tín dụng phục vụ người mua, thay vì chỉ phục vụ nhà xuất khẩu trong nước;
khuyến khích sự tham gia của các ngân hàng thương mại vào hoạt động sản xuất hàng
xuất khẩu, chuyển từ hình thức cho vay thương mại sang góp vốn tài trợ, hoặc nhiều
ngân hàng đồng thời tài trợ cho dự án sản xuất vì mục đích xuất khẩu.
 Thực hiện khẩn trương và đồng bộ các chính sách và biện pháp, nhằm đa dạng

hoá các hình thức đào tạo nghề theo chủ trương xã hội hoá giáo dục đào tạo.
 Đơn giản hoá những quy định về thủ tục và điều kiện tham gia kinh doanh dịch
vụ giáo dục, đào tạo để đẩy nhanh một bước chất lượng của công tác đào tạo nghề và
kiến thức kinh doanh vốn đang còn nhiều hạn chế trong các doanh nghiệp Việt Nam.
 Đẩy nhanh quá trình ra quyết định chính sách, thông qua cơ chế tăng cường
mối liên hệ giữa Nhà nước và doanh nghiệp, cũng như giữa các bộ, ngành với nhau.
 Các cơ quan quản lý nhà nước cần tăng cường áp dụng quy trình quản lý chất
lượng công việc và chất lượng cung cấp dịch vụ công, nhằm thường xuyên giám sát,
quản lý hiệu quả chất lượng các thủ tục hành chính cũng như dịch vụ công (ISO 9002,
quy chế cơ quan…). Bên cạnh đó, các hiệp hội ngành hàng cần nhanh chóng kiện toàn
bộ máy tổ chức, mô hình hoạt động theo hướng chuyên nghiệp hoá, thực hiện tốt vai
trò là người hỗ trợ doanh nghiệp tìm kiếm thị trường, nguồn nguyên liệu, giúp liên kết
các doanh nghiệp với nhau nhằm mở rộng năng lực sản xuất; là đại diện sở hữu để
phản ánh nhu cầu, yêu cầu của doanh nghiệp tới Chính phủ; cần tổ chức thu thập, phân
tích xử lý thông tin về thị trường, về yêu cầu của nhà nhập khẩu, về chính sách nhập
khẩu, về đối thủ cạnh tranh để tư vấn, hỗ trợ doanh nghiệp trong khâu tiếp cận thị
trường, tổ chức sản xuất và xuất khẩu.
SVTH: Đinh Thị Hiểu
22
Chuyên đề tổng hợp GVHD: PGS. TS Nguyễn Khắc Hoàn
KẾT LUẬN
Sự hình thành và phát triển của các công ty đa quốc gia là một tất yếu khách
quan trong xu thế phát triển kinh tế toàn cầu. Việc nghiên cứu vai trò và ảnh hưởng
của các công ty đa quốc gia có ảnh hưởng rất lớn đến mọi mặt của nền kinh tế thế giới:
thúc đẩy thương mại, đầu tư, phát triển và chuyển giao công nghệ, phân công lao động
…trên phạm vi toàn cầu. Sự phát triển mạnh mẽ của chúng góp phần thúc đẩy phát
triển kinh tế của nhiều quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển.
Đối với Việt Nam, sự thâm nhập của các công ty có vai trò đặc biệt quan trọng.
Sự có mặt của các công ty đa quốc gia không chỉ là nguồn cung cấp vốn mà cả công
nghệ và kỹ năng quản lý hiện đại…Hơn nữa, với khối lượng công việc mà các công ty

đa quốc gia tạo ra, Việt Nam không những giảm được mối lo về tình trạng thất nghiệp
mà thu nhập của người lao động còn được nâng cao, tạo ra nhu cầu lớn trong tiêu
dùng, do đó thúc đẩy sản xuất. Với việc tăng cường hoạt động xuất, nhập khẩu, các
công ty đa quốc gia góp phần không nhỏ trong việc thúc đẩy Việt Nam mở cửa hội
nhập vào nền kinh tế thế giới. Hoạt động của các công ty đa quốc gia tại Việt Nam đã
đem lại bộ mặt mới cho nền kinh tế Việt Nam xét một cách tổng thể.
Thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập, Việt Nam đã đạt được những thành tựu
nhất định trong việc thu hút vốn nước ngoài, trong đó phải kể đến thu hút sự thâm
nhập của các công ty đa quốc gia, với lượng vốn đầu tư chiếm khoảng 20-30% tổng
vốn FDI. Điều này chứng tỏ vai trò của các công ty đa quốc gia trong tổng FDI và
cũng chứng tỏ rằng thị trường Việt Nam có sức hút đối với các công ty đa quốc gia.
Tuy nhiên, nguồn vốn đầu tư của các công ty đa quốc gia vào Việt Nam còn thấp so
với các nước trong khu vực và chưa xứng với tiềm năng của nước ta. Trong khi các
nhà đầu tư chủ yếu là các công ty đa quốc gia châu Á thuộc các nước đang phát triển
với quy mô nhỏ nên hiệu quả hoạt động chưa cao.Vấn đề đặt ra hiện nay là làm thế
nào thu hút được nhiều các công ty đa quốc gia hơn nữa và nâng cao vai trò tích cực,
đồng thời cũng hạn chế những biểu hiện tiêu cực từ các công ty đa quốc gia. Đồng thời
có những giải pháp kịp thời để nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp
trong nước.

SVTH: Đinh Thị Hiểu
23
Chuyên đề tổng hợp GVHD: PGS. TS Nguyễn Khắc Hoàn
TÀI LIỆU THAM KHẢO
•Bài giảng chuyên đề tổng hợp- Pgs.Ts Nguyễn Khắc Hoàn;
• />• />• />•vnexpress.net;
• />SVTH: Đinh Thị Hiểu
24
Chuyên đề tổng hợp GVHD: PGS. TS Nguyễn Khắc Hoàn
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
SVTH: Đinh Thị Hiểu

×