Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Điều kiện để chuyển biến giai đoạn cách mạng ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.96 KB, 18 trang )

Câu 3: [Chủ nghĩa xã hội khoa học] Điều kiện để chuyển biến giai đoạn
cách mạng ở nước ta. Nhiệm vụ (Nội dung) thời kỳ quá độ. Đặc trưng của
chủ nghĩa xã hội.
(Khi đề thi ra trúng môn này, cần nghiên cứu, trả lời những nội dung
mà đề thi hỏi, không nên ghi hết nội dung này).
VẤN ĐỀ 1: ĐIỀU KIỆN ĐỂ CHUYỂN BIẾN GIAI ĐOẠN CÁCH
MẠNG Ở NƯỚC TA
Cũng như các cuộc cách mạng xã hội đã từng diễn ra trong lịch sử, cách
mạng xã hội chủ nghĩa là kết qủa tất yếu của sự phát triển các mâu thuẫn và con
đường giải quyết mâu thuẫn trong lòng xã hội tư bản. Động lực tổng hợp của
cách mạng xã hội chủ nghĩa không chỉ là phép cộng đơn giản các thành phần
của động lực mà phải nó thành sức mạnh, trở thành cấp số nhân, trở thành làng
sóng mạnh mẽ phát huy tác dụng to lớn đối với sự phát triển của xã hội. Nó chỉ
được như vậy khi Đảng của giai cấp công nhân có chiến lược, sách lược đúng
đắn, biết giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa các lợi ích chung và riêng, quốc gia
và quốc tế, lợi ích trước mắt và lâu dài theo hướng độc lập, tự do, dân chủ và
cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là một quá trình cải biến toàn diện, triệt để,
lâu dài, nó diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: chính trị, kinh tế,
văn hoá và tư tưởng. Quá trình này bắt đầu từ khi giai cấp công nhân thông qua
chính Đảng của nó là Đảng cộng sản lãnh đạo các tầng lớp nhân dân lao động và
các tầng lớp tiến bộ, dùng sức mạnh lật đổ ách thống trị của giai cấp tư sản,
giành lấy chính quyền, thiết lập chính quyền mới. Tiếp đó là thời kỳ sử dụng
chính quyền mới làm phương tiện chủ yếu để tiến hành cải tạo xã hội cũ, xây
dựng xã hội mới. Quá trình cải biến cách mạng sau này chỉ kết thúc khi xã hội
mới được xây dựng xong và phát triển trên cơ sở của chính nó. Nếu như các
cuộc cách mạng trước kết thúc bằng việc giành chính quyền, thì đối với cách
mạng vô sản việc giành chính quyền chỉ mới là bước đầu cho quá trình biến đổi
toàn bộ đời sống xã hội.
Lý luận Mác-xít chi rằng tất cả các cuộc cách mạng đều diễn ra trong lịch
sử đều bắt nguồn từ nhu cầu khách quan giải phóng lực lượng sản xuất khỏi sự


kìm hãm của quan hệ sản xuất lỗi thời. Sự phù hợp với tính chất xã hội hoá ngày
càng ở trình độ cao của lực lượng sản xuất chỉ có thể là sự thay thế quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa bằng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa thông qua cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Trong lý luận của chủ nghĩa Mác Lê nin về cách mạng xã hội chủ nghĩa, lý
luận về sự phát triển cuộc cách mạng dân chủ tư sản theo một Cương lĩnh mang
tính triệt để rồi chuyển biến lên cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa do Lênin nêu
lên có 1 vị trí nỗi bật. Để có lý luận này, Lênin đã kế thừa những thành quả của
lý luận Mác - Ăng ghen về cách mạng không ngừng. Mác - Ăng ghen xem cách
mạng như 1 qúa trình gồm 2 giai đoạn phát triển liên tục. Thông qua việc hoàn
thành mục tiêu của giai đoạn thứ nhất rồi tiến tới mục tiêu cuối cùng, giai đoạn
cách mạng xã hội chủ nghĩa. Lênin cho rằng thắng lợi triệt để của cách mạng
dân chủ phải được đấu tranh bằng sự ra đời của 1 thiết chế chính trị mang tính
quá độ, đó là nền chuyên chính của giai cấp công nhân, thiết chế chính trị mang
tính mềm dẻo, hoạt động của nó vừa đáp ứng những nhiệm vụ mà cách mạng
dân chủ đặt ra 1 cách trực tiếp, vừa thể hiện được xu thế phát triển của cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Khi chuyển lên cách mạng xã hội chủ nghĩa nền chuyên
chính này mới chuyển thành nền chuyên chính vô sản. Cách mạng dân chủ đã
giải quyết 1 số nhiệm vụ nhằm chuẩn bị tiền đề trực tiếp cho cách mạng xã hội
chủ nghĩa. Để chuyển từ cách mạng dân chủ lên cách mạng xã hội chủ nghĩa
thắng lợi triệt để cần có sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua chính
đảng của họ là Đảng cộng sản được đảm bảo và không ngừng củng cố, hoàn
thiện. Đảng phải có đường lối cách mạng đúng đắn để lãnh đạo và thực hiện
đường lối cách mạng.
Do mục đích của cách mạng xã hội chủ nghĩa và do địa vị kinh tế xã hội
của mình mà giai cấp công nhân là giai cấp giữ vai trò động lực chủ yếu-giai cấp
công nhân đại diện cho lực lượng sản xuất hiện đại, phương thức sản xuất tiên
tiến, có hệ tư tưởng riêng và lý luận cách mạng, đồng thời là đại biểu cho lợi ích
tất cả những người lao động. giai cấp công nhân vừa là động lực, vừa là người tổ
chức và lãnh đạo chân chính của nhân dân lao động trong sự nghiệp cách mạng

xã hội chủ nghĩa. Để có lý luận hùng hậu giai cấp công nhân phải không ngừng
củng cố và phát triển khối liên minh công-nông-trí thức. Khối liên minh đó phải
được giữ vững và pát triển trên cơ sở 1 đường lối thích hợp với từng giai đoạn
cụ thể. Ở các nước có nền kinh tế chậm phát triển, nông dân là chủ yếu thì giai
cấp nông nhân là lực lượng cách mạng hết sức to lớn. Vì vậy, giai cấp công nhân
liên minh với giai cấp nông dân hợp thành động lực trong cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân và tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trí thức là một bộ
phận tiêu biểu cho đất nước, có vai trò hết sức to lớn và là lực lượng quan trọng
trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nhưng trí thức không thể phát huy tác dụng
tích cực trong cách mạng xã hội chủ nghĩa nếu không chịu sự lãnh đạo của giai
cấp công nhân và Đảng Cộng sản.
Nắm vững chủ nghĩa M-L với thực tiễn nước ta, Đảng ta đã vận dụng linh
hoạt vào CMVN. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là hạt nhân tư tưởng Hồ
Chí Minh, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình cách mạng Việt nam từ khi có
Đảng, là cơ sở để Đảng ta giải quyết đúng đắn một loạt vấn đề chiến lược,
phương pháp cách mạng trong cách mạng dân tộc dân chủ cũng như trong cách
mạng xã hội chủ nghĩa, là nguồn gốc sức mạnh bách chiến bách thắng của cách
mạng Việt nam.
Dưới chế độ thuộc địa nữa phong kiến yêu cầu bức thiết của dân tộc là giải
phóng khỏi ách thống trị tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc và địa chủ phong kiến,
xây dựng một chế độ xã hội mới đảm bảo độc lập tự do và hạnh phúc của nhân
dân. Để giành lại độc lập dân tộc xây dựng cuộc sống mới phong trào yêu nước
của nhân dân ta diễn ra rất sôi nỗi và liên tục, nhưng thiếu đường lối và sự lãnh
đạo đúng đắn. Các phong trào cứu nước từ lập trường Cần vương đến lập trường
tư sản, tiểu tư sản qua khảo nghiệm lịch sử đều lần lượt thất bại. Tình hình đó
đòi hỏi phải có đường lối cách mạng đúng đắn và một tổ chức cách mạng có khả
năng lãnh đạo phong trào cứu nước đi đến thắng lợi.
Phải qua tìm tòi, nghiên cứu nhiều cuộc cách mạng, từ Mỹ, sang Anh đến
Pháp, qua nhiều nước thuộc địa, cuối cùng với cách mạng tháng mười Nga,
Nguyễn Ái Quốc mới đi đến kết luận: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc

không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản.
Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt nam là sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin
với phong trào công nhân và phong trào yêu nước, là hiện thân quan trọng nhất
của sự kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh đầu tiên của
Đảng đã xác định cách mạng Việt nam trải qua hai giai đoạn trước hết là cách
mạng dân tộc dân chủ sau đó đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoan phát triển
tư bản chủ nghĩa. Tùy hoàn cảnh cụ thể của từng giai đoạn cách mạng, nhiệm vụ
trọng tâm có khác nhau, nhưng trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt
nam Đảng ta luôn luôn kết hợp hai nhiệm vụ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội.
Đảng ta xác định động lực cách mạng chính là liên minh công, nông trí
thức và tiểu tư sản. giai cấp công nhân Việt nam vào những năm đầu TK XX với
số lượng không đông nhưng đã đc sinh ra và lớn lên trong 1 nước thuộc địa, nữa
phong kiến, bị 3 tầng lớp áp bức là ĐQ, ĐC và TS. Nỗi uất hận của người dân
mất nước, bên cạnh mối thù của người lao động bị bóc lột, kế thừa truyền thống
yêu nước của cha ông đã sớm làm cho giai cấp công nhân Việt nam trưởng
thành về ý thức giai cấp và ý thức dân tộc, tạo nên ở giai cấp này sự nhạy cảm
trong nhận thức về mối quan hệ giữa cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc với cuộc
đấu tranh giải phóng giai cấp mình. Lúc đầu, vì ý thức đó biểu hiện dưới dạng tự
phát, nhưng kể từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh tìm ra con đường cứu nước sau bao
năm bôn ba ở Hải ngoại trở về nước, lúc giai cấp công nhân Việt nam tổ chức đc
chính đáng của mình, ý thức cáh mạng đã trở thành tự giác. Đó là nguyên nhân
sâu xa làm cho giai cấp công nhân Việt nam không trải qua thời kỳ đấu tranh
dưới ngọn cờ của giai cấp tư sản mà sớm lãnh đạo phong trào đấu tranh vì độc
lập dân tộc với những yêu cầu riêng, trong đó nêu cao ngọn cờ độc lập dân tộc
dân chủ mang tính triệt để và hướng tới mục tiêu chủ nghĩa xã hội.
Nông dân VN chiếm hơn 90% dân số, họ bị thực dân, phong kiến bóc lột
nặng nề, một số lớn bị bần cùng hoá và trở thành vô sản. Người nông dân cùng 1
lúc đứng trước 2 kẻ thù là thực dân và dân chủ phong kiến, đồng thời cũng từ đó
gắn bó hơn số phận người nông dân vào vận mệnh dân tộc, làm xích lại trong họ

nguyện vọng giành lấy chính quyền dân chủ-trước hết là ruộng đất với nguyện
vọng giải phóng dân tộc. Xét từ góc độ ấy nguyện vọng dân tộc dân chủ của
nhân dân đã có nội dung mới vượt ra ngoài khuôn khổ của các cương lĩnh tư sản
và gần gũi hơn với lập trường của giai cấp công nhân.
Cùng với sự đô hộ của thực dân Pháp ở nước ta, một số thành thị được mở
rộng, tầng lớp tiểu tư sản tăng thêm về số lượng, nhưng chính họ cũng cùng
chung cảnh bị bóc lột cả vật chất và tinh thần của thực dân, phong kiến. Những
người tiểu tư sản, học sinh, trí thức lại có trình độ văn hoá để hiểu đc truyền
thống tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu nhanh những giá trị tiến bộ từ nước ngoài.
Cùng với giai cấp công nhân và ND, tầng lớp tiểu tư sản ngay từ đầu đã tham
gia tích cực vào phong trào đấu tranh thành một lực lượng to lớn trong cuộc CM
vì độc lập và dân chủ hướng tới chủ nghĩa xã hội. Có thể nói trong XH thuộc
địa, nữa phong kiến những yêu cầu dân tộc, dân chủ của CN, ND, TTS, tức là
của đại đa số dân cư đã theo con đường diễn biến tự thân mà hướng tới chủ
nghĩa xã hội.
Thời kỳ 1930-1954 Thời kỳ nầy độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội được
thể hiện giải phóng dân tộc, giành độc lập và dân chủ là nhiệm vụ trực tiếp, chủ
nghĩa xã hội là phương hướng tiến lên. là thời kỳ thủ thách quyết liệt đầu tiên về
vai trò nền tảng tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở nước
ta.
Thời kỳ 1954-1975: thời kỳ cả nước tiến hành đồng thời hai chiến lược
cách mạng. Trong thời kỳ nầy sự kết hợp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội thể
hiện tập trung ở việc xác định nhiệm vụ mỗi miền và việc giải quyết đúng đắn
mối quan hệ giữa hai miền hướng tới mục tiêu chung của cách mạng cả
nước,miền Bắc tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, miền Nam tiến hành cách
mạng dân tộc dân chủ. Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có vị trí quyết
định nhất sự nghiệp cách mạng cả nước, cách mạng miền Nam có vị trí quyết
định trực tiếp sự nghiệp giải phóng miền Nam, cách mạng cả hai miền đều nhằm
mục tiêu chung là hoàn thành độc lập dân tộc, thống nhất tổ quốc.
Với đại thắng mùa xuân năm 1975, nước ta đã bước sang một thời kỳ mới-

thời kỳ hòa bình, độc lập, thống nhất, cả nước quá độ lện chủ nghĩa xã hội trong
điều kiện đất nước nghèo nàn lạc hậu, không qua chủ nghĩa tư bản, với hậu quả
nghiêm trọng do chiến tranh để lại.
Do nhận thức đặc điểm dân tộc và quy luật chủ nghĩa xã hội không chuyển
biến kịp với bước ngoặc của cách mạng nên trong lãnh đạo Đảng phạm sai lầm
chủ quan duy ý chí, thể hiện ở cả hai mặt: vừa nóng vội vừa bảo thủ trì trệ, chủ
nghĩa giáo điều và lạc hậu về nhận thức lý luận Mác Lênin là nguồn gốc của sai
lầm,làm cho Đảng bất cập trong xác định những chủ trương, chính sách lớn và
chỉ đạo chiến lược. Trong giai đoạn nầy cách mạng ở nước ta đứng trước những
khó khăn và thách thức cực kỳ to lớn.
Ở trong nước, khó khăn lớn nhất là nền kinh tế - xã hội lâm vào khủng
hoảng trầm trọng. Sản xuất trì trệ, năng suất lao động và hiệu quả kinh tế bị
giảm sút. Đời sống nhân dân, cán bộ viên chức và lực lượng vũ trang trở nên rất
khó khăn. Nhu cầu tối thiểu như lương thực, hàng thiết yếu thiếu gay gắt. Nạn
đói diễn ra nhiều nơi. Vấn đề công ăn việc làm, tệ nạn xã hội trở nên nhức nhối.
Trên trường quốc tế, đế quốc Mỹ và bọn phản động quốc tế cấu kết nhau lại
bao vây cô lập Việt nam.Lợi dụng khó khăn về đời sống kinh tế-xã hội của nước
ta sau chiến tranh, chính quyền Mỹ kích động lôi kéo hàng nghìn đồng bào ra đi
bất hợp pháp, hòng tạo nên sự mất ổn định ở nước ta. Cùng với một số nước
đồng minh, Mỹ vu cáo Việt nam vi phạm "nhân quyền" tại một số hội nghị quốc
tế.
Những năm cuối của thập kỷ 70, nền kinh tế Liên xô và một số nước xã hội
chủ nghĩa Đông âu đã có những biểu hiện trì trệ khủng hoảng, bước vào đầu
thập kỷ 80 của thế kỷ XX, quan hệ hợp tác giữa các nước xã hội chủ nghĩa đã có
sự thay đổi.
Nhờ kiên định với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mà toàn
Đảng và toàn dân đã từng bước tìm tòi, thể nghiệm để phát hiện những hình
thức, bước đi phương pháp mới của con đường xã hội chủ nghĩa nhằm vượt qua
khủng hoảng.
Mốc chuyển biến nầy được đánh dấu bằng Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ VI của Đảng. Đại hội đã đề ra đường lối đổi mới: đổi mới tư duy, trước hết
là tư duy kinh tế; đổi mới tổ chức; đổi mới đội ngũ cán bộ, đổi mới phong cách
lãnh đạo và công tác. Quá trình đổi mới tư duy trên thực tế là quá trình đấu tranh
về mặt lý luận và tư tưởng nhằm đạt đến nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội và
về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt nam. Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI của Đảng đã hoạch định đường lối đổi mới toàn diện, sâu sắc và triệt để.
Đó là sự kết tinh trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân và cũng là tinh thần trách nhiệm
cao của Đảng trước đất nước và dân tộc và đã mở ra thời kỳ mới của cách mạng
nước ta trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Đổi mới không có nghĩa là thay
đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu
quả bằng những quan niệm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội, những hình thức,
bước đi và biện pháp thích hợp.
Trong quá trình thực thực hiện công cuộc đổi mới không phải lúc nào cũng
dễ dàng và thuận lợi. Nhất là vào cuối những năm 80, tình hình các nước xã hội
chủ nghĩa có những diễn biến phức tạp, nhiều nước xã hội chủ nghĩa lâm vào
cuộc khủng hoảng toàn diện và nghiêm trọng nhất là vào năm 1991 sự tan rã của
Liên xô đã tác động sâu sắc đến nước ta. Sự kiện đó đã làm cho một số cán bộ
và nhân dân ta lo lắng, một số dao động hoài nghi về tiền đồ của chủ nghĩa xã
hội. Quan hệ kinh tế giữa nước ta với các thị trường truyền thống bị đảo lộn.
Một số thế lực thù địch đẩy mạnh những hoạt động gây mất ổn định chính trị và
gây bạo loạn lật đổ. Nước ta một lần nữa lại đứng trước thủ thách hiểm nghèo.
Trước tình hình đó, Đảng ta và nhân dân ta vẫn khẳng định đi lên chủ nghĩa xã
hội là con đường tất yếu của nước ta, là sự lựa chọn sáng suốt của Bác Hồ, của
Đảng ta. Xây dựng nước Việt nam xã hội chủ nghĩa là mục tiêu, lý tưởng của
Đảng và nhân dân ta.
Kết quả sau 10 năm đổi mới toàn diện, đất nước đã vượt qua một giai đoạn
gay go, phức tạp, nhân dân ta không những đứng vững mà còn vươn lên đạt
những thắng lợi nỗi bật trên nhiều mặt. Đại hội VIII (1996) của Đảng xác định:
Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội. Nhiệm vụ đề ra cho chặng
đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa đã cơ bản

hoàn thành cho phép chuyển sang thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ
hơn. Đại hội khẳng định tiếp tục đổi mới sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc,
vì hạnh phúc của nhân dân.
Tổng kết 20 năm đổi mới, Đại hội X của Đảng đã rút ra 5 bài học, trong đó
bài học: "Trong quá trình đổi mới, phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh". Đổi
mới không phải là từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà làm cho chủ nghĩa xã hội
được nhận thức đúng đắn hơn và được xây dựng có hiệu quả hơn. Đổi mới
không phải là xa rời mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó là nền tảng tư tưởng và kim chỉ
nam cho hành động của Đảng và nhana dân ta.
Thành công của công cuộc đổi mới mang lại đã tạo ra cho Việt nam thế và
lực phát triển mới, là kết quả mang tính tổng hợp của đổi mới, có giá trị định
hướng tương lai. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội một lần nữa được thực tiển
của cách mạng Việt nam và thế giới bổ sung làm vững vàng thêm nhận thức của
Đảng và nhân dân ta về lý tuận, chính trị. Nhờ đó, những âm mưu của kẻ thù
không lay chuyển được con đường cách mạng Việt nam.
Hiện nay, Độc lập dân tộc ở Việt nam là vừa bảo vệ lãnh thổ thiêng liêng
của tổ quốc, vừa giữ vững chủ quyền, giữ vững bản sắc văn hóa Việt nam, vừa
tạo sức mạnh mới để xây dựng đất nước trong mọi hoàn cảnh nhằm đạt tới dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,văn minh. Chủ nghĩa xã hội hiện nay phải
xây dựng trên cơ sở của độc lập dân tộc. Chủ nghĩa xã hội mà chúng ta đang xây
dựng là của Việt nam, mang bản sắc Việt nam. Không thể nói độc lập dân tộc ở
Việt nam mà không có chủ nghĩa xã hội; không thể nói xã hội chủ nghĩa ở Việt
nam mà không có độc lập dân tộc.
VẤN ĐỀ 2: NHIỆM VỤ (NỘI DUNG) THỜI KỲ QUÁ ĐỘ Ở NƯỚC TA
Khi phân tích những mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản và những đặc
trưng của xã hội cộng sản, C.Mác đã chỉ ra rằng: Từ xã hội tư bản lên Chủ nghĩa
xã hội, Cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ lịch sử lâu dài, từ khi giai cấp công

nhân dành được chính quyền đến khi giai cấp công nhân xây dựng thành công
Chủ nghĩa cộng sản. Trong quan niệm đó thời kỳ qua đã được coi là thời kỳ quá
độ từ xã hội tư bản chủ nghĩa lên xã hội Cộng sản chủ nghĩa, từ xã hội khác biệt,
kể cả đối kháng giai cấp, lên xã hội không còn sự khác biệt giai cấp.
Do đó thời kỳ quá độ là thời kỳ đấu tranh giai cấp chưa kết thúc, thời kỳ
này là thời kỳ đấu tranh giữa giai cấp vô sản và tư sản vẫn diễn ra để xác định
con đường phát triển đất nước lên chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa tư bản. Song
đây là cuộc đấu tranh diễn ra trong những điều kiện mới (giai cấp công nhân đã
trở thành giai cấp cầm quyền). Thời kỳ quá độ cũng là thời kỳ xét trên mọi
phương diện còn tồn tại nhiều yếu tố khác nhau, thâm nhập vào nhau. Tuy xét
về tính tất yếu, thời kỳ này cái cũ đã bị đánh bại nhưng chưa bị tiêu diệt hoàn
toàn. Tuy vậy vẫn có lúc cái cũ tạm thời lấn át cái mới. Tính khó khăn phức tạp
đó của thời kỳ quá độ bắt đầu từ khi thiết lập chuyên chính vô sản và được kết
thúc khi xây dựng xong kiến trúc xã hội (quan hệ sản xuất) và cơ sở vật chất kỹ
thuật (lực lượng sản xuất), như vậy độ dài của thời kỳ quá độ chỉ được định tính
chứ không thể định lượng được.
Ðây là vấn đề lý luận và thực tiễn của tính tất yếu đối với các nước lên chủ
nghĩa xã hội trong đó có Việt Nam nằm trong quy luật phát triển chung đó.
Ngay sau 1975, sau khi hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ trên phạm
vi cả nước mở ra giai đoạn lịch sử cho dân tộc, cả nước bước vào thời kỳ xây
dựng xã hội mới, thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội.
Chúng ta bước vào thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội với những thời cơ
và thách thức mới đó là sự giúp đỡ có hiệu quả về vật chất và tinh thần của các
nước xã hội chủ nghĩa anh em, cũng như sự cổ vũ của phong trào đấu tranh của
nhân dân tiến bộ trên thế giới, thêm vào đó cuộc Cách mạng khoa học công nghệ
đã tạo cho chúng ta những tiền đề khách quan thuận lợi để bước vào thời kỳ
mới. Bên cạnh những yếu tố quốc tế, chúng ta có thuận lợi với kinh nghiệm 20
năm cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới ở miền Bắc. Những yếu tố đó
cộng với lợi thế của một nước đi sau, chúng ta hoàn toàn có khả năng tận dụng
triệt để thành tựu của nhân loại để đi tắt đón đầu trong công cuộc xây dựng Chủ

nghĩa xã hội.
Song phải nhìn nhận rằng, chúng ta quá độ đi lên Chủ nghĩa xã hội từ một
nước thuộc địa nửa phong kiến bỏ qua chế độ Tư bản chủ nghĩa với điểm xuất
phát thấp về kinh tế (một nước nông nghiệp lạc hậu). Nền sản xuất nhỏ với đại
diện đông đảo là nông dân và bộ phận tiểu tư sản nông thôn, thành thị. Khuynh
hướng phát triển tư bản chủ nghĩa tồn tại trong hầu hết các nhân tố đó, tạo khả
năng khách quan cho sự phát triển của Chủ nghĩa tư bản của nước ta.
Như vậy, xét trên mọi phương diện, tất cả các nhân tố của tư bản chủ nghĩa
và xã hội chủ nghĩa cùng tồn tại, đan xen vào nhau tạo nên hai khuynh hướng
đối lập nhau: khuynh hướng tư bản chủ nghĩa và khuynh hướng xã hội chủ
nghĩa. Trạng thái đó của xã hội được khái quát thành "thời kỳ quá độ lên Chủ
nghĩa xã hội ở nước ta" và mối liên hệ tác động đan xen của các khuynh hướng
đối lập tạo nên bản chất của toàn bộ thời kỳ quá độ ở nước ta.
Nhận thức được tính phức tạp của vấn đề này, Ðảng ta đã có nhiều chủ
trương chính sách phát triển kinh tế, cải tiến xã hội nhằm tăng cường sức mạnh
cho khuynh hướng xã hội chủ nghĩa. Trải qua nhiều thử nghiệm, tìm tòi trong
nhận thức bước đi, nội dung của thời kỳ quá độ chúng ta đã vấp phải không ít
những sai lầm nghiêm trọng, kéo dài do nhận thức chưa đầy đủ về hình thức,
bước đi Tuy nhiên Ðảng ta đã nhận ra sai lầm, khuyết điểm và chủ động khắc
phục, tìm hướng đi mới mà cụ thể là công cuộc đổi mới toàn diện trong hơn 15
năm qua kể từ Ðại hội VI (1986) của Ðảng. Công cuộc đổi mới đã đem lại cho
chúng ta những thành tựu to lớn cả về nhận thức và thực tế đó là về lý luận con
đường đi lên Chủ nghĩa xã hội ngày càng được làm sáng tỏ hơn, về chính trị:
định hướng xã hội chủ nghĩa được giữ vững, vai trò lãnh đạo của Ðảng được
tăng cường; Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân do dân và vì dân ngày
càng được củng cố; quan hệ quốc tế ngày càng mở rộng. Về kinh tế: chúng ta đã
từng bước chuyển từ kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị
trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh
có sự phát triển nhanh và liên tục. Về văn hóa - tinh thần: Chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng tỏ rõ sức sống bền vững, nhiều nét mới

trong giá trị văn hóa và đạo đức từng bước được hình thành. Ðất nước bước vào
giai đoạn mới: giai đoạn phát triển công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
* Vậy, nội dung của thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện
nay là gì?
Chúng ta biết rằng, xây dựng Chủ nghĩa xã hội là xây dựng xã hội mới,
trong đó hình thành một cách đồng bộ các phương diện cơ bản của xã hội chủ
nghĩa - đây là nhiệm vụ xuyên suốt trong thời kỳ quá độ của nước ta.
Từ những lý luận và những đặc trưng cơ bản của mô hình xã hội xã hội chủ
nghĩa,những luận điểm của Lênin về thời kỳ quá độ cũng như thực tiễn những
năm đầu xây dựng đất nước,đặc biệt là thời kỳ đổi mới,có thể thấy những nội
dung cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là thời kỳ cải
biến cách mạng xã hội toàn diện từ xã hội “nọ” đến xã hội “kia” thích ứng với
thời kỳ đó.
Đặc điểm và thực chất của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
xã hội là sự tồn tại đan xen giữa những yếu tố của xã hội cũ bên cạnh những
nhân tố mới của chủ nghĩa xã hội trong mối quan hệ vừa thống nhất vừa đấu
tranh với nhau trên tất cả các lĩnh vực (kinh tế, chính trị, tư tưởng – văn hóa) của
đời sống xã hội.
2. Nội dung của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
- Trên lĩnh vực kinh tế: thực hiện việc sắp xếp, bố trí lại các lực lượng sản
xuất hiện có của xã hội; cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất
mới theo hướng tạo ra sự phát triển cân đối của nền kinh tế, bảo đảm phục vụ
ngày càng tốt đời sống nhân dân lao động.
Việc sắp xếp, bố trí lại các lực lượng sản xuất của xã hội nhất định không
thể theo ý muốn nóng vội, chủ quan mà phải tuân theo tính tất yếu khách quan
của các quy luật kinh tế, đặc biệt là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Đối với những nước chưa trải qua quá trình công nghiệp hoá tư bản chủ
nghĩa, tất yếu phải tiến hành công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa nhằm tạo ra được
cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ trọng tâm của những

nước này trong thời kỳ quá độ là phải tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá xã hội chủ nghĩa diễn ra ở các nước khác nhau với những điều kiện lịch
sử khác nhau có thể được tiến hành với những nội dung cụ thể và hình thức,
bước đi khác nhau. Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa, chưa trải qua quá trình công nghiệp hoá tư bản chủ nghĩa, nên trong
thời gian qua, Đảng ta chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tạo
nền tảng để đi lên chủ nghĩa xã hội; bên cạnh đó là chủ trương phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng là để giải phóng sức sản xuất, tiến
tới một nền sản xuất lớn.
- Trong lĩnh vực chính trị: tiến hành cuộc đấu tranh chống lại các thế lực
thù địch chống phá sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng, củng cố nhà
nước và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng vững mạnh, bảo đảm quyền
làm chủ trong hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của nhân dân lao
động, xây dựng các tổ chức chính trị - xã hội thực sự là nơi thực hiện quyền làm
chủ của nhân dân lao động; xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh
ngang tầm với các nhiệm vụ của mỗi thời kỳ lịch sử.
- Trong lĩnh vực tư tưởng – văn hóa: tuyên truyền, phổ biến những tư tưởng
khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân trong toàn xã hội; khắc phục
những tư tưởng và tâm lý có ảnh hưởng tiêu cực đối với tiến trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội; xây dựng nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa, tiếp thu giá trị tinh
hoa các nền văn hóa trên thế giới.
- Trong lĩnh vực xã hội: khắc phục những tệ nạn xã hội do xã hội cũ để lại;
từng bước khắc phục sự chênh lệch phát triển giữa các vùng miền, các tầng lớp
dân cư trong xã hội nhằm thực hiện mục tiêu bình đẳng xã hội; xây dựng mối
quan hệ tốt đẹp giữa người với người theo mục tiêu lý tưởng: tự do của người
này là điều kiện, tiền đề cho sự tự do của người khác.
Tóm lại, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một thời kỳ lịch sử tất yếu
trên con đường phát triển của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Đó
là thời kỳ lịch sử có đặc điểm riêng với những nội dung kinh tế, chính trị, văn

hóa và xã hội đặc thù mà giai đoạn xã hội xã hội chủ nghĩa trên con đường phát
triển của hình thái kinh tế - xã hội CSCN chỉ có thể đạt được trên cơ sở hoàn
thành các nội dung đó.
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là quá trình đòi hỏi tính tự giác
cao,bảo đảm vai trò lãnh đạo vững chắc của Ðảng cộng sản là nhân tố hàng đầu
mang lại tính tự giác đó.Cho nên cần xây dựng Ðảng thật sự trong sạch vững
mạnh,Ðảng phải vững mạnh về tư tưởng và tổ chức để đủ sức hoàn thành nhiệm
vụ là người lãnh đạo chính trị đối với quá trình XD chủ nghĩa xã hội ở nước
ta,không chấp nhận đa nguyên chính trị,đa đảng đối lập để phủ nhận vai trò lãnh
đạo của đảng ta.
Bằng sự nổ lực trên tất cả những lĩnh vực đó, nắm vững định hướng xã hội
chủ nghĩa trên cơ sở định hướng đó để có hình thức và bước đi thích hợp,xa rời
định hướng xã hội chủ nghĩa;sai lầm trong hình thức và bước đi trong sự nghiệp
đổi mới đều có thể trả giá rất đắc là không bao giờ đạt được mục tiêu xã hội chủ
nghĩa.Chúng ta nhất định sẽ thực hiện thành công vượt qua thời kỳ quá độ đi lên
chủ nghĩa xã hội theo mục tiêu đã đề ra./.
Trên cơ sở vận dụng sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin,
tổng kết kinh nghiệm thành công và cả kinh nghiệm chưa thành công trong thực
tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta và các nước khác, đặc biệt là những
kinh nghiệm của những năm đổi mới, Đảng ta đã nêu ra những phương
hướng cơ bản xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, gồm:
Một là, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển
kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng
con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn
xã hội.
Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị,
hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.

Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn
dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân.
Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Đó là những định hướng lớn về chính sách kinh tế, xã hội, quốc phòng, an
ninh, đối ngoại, những quan điểm về hệ thống chính trị và vai trò lãnh đạo của
Đảng, đó là những định hướng, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Kết luận:
Chúng ta đang xây dựng chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh có những khó
khăn và thử thách rất lớn, nhưng chúng ta cũng có những thời cơ và thuận lợi rất
cơ bản:
Một là, chúng ta có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, một Đảng giàu tinh
thần cách mạng, vững vàng, sáng tạo, đã kế thừa và phát huy những truyền
thống quý báu của dân tộc, có kinh nghiệm lãnh đạo qua các thời kỳ cách mạng,
đặc biệt kinh nghiệm của những năm đổi mới vừa qua có ý nghĩa cực kỳ quan
trọng đối với sự phát triển và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta… Nhiệm vụ
đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ cơ bản hoàn thành cho phép ta
chuyển sang thời kỳ phát triển mới, thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất
nước. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng xác định rõ hơn.
Đó chính là cơ sở để chúng ta có thể khẳng định dưới sự lãnh đạo đúng đắn của
Đảng, nhân dân ta nhất định xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Hai là,đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng số đông đã trải qua rèn luyện
thử thách trong thực tiễn của cuộc đấu tranh cách mạng, gắn bó với Đảng, với
chế độ, trung thành với đường lối của Đảng, đang nỗ lực phấn đấu biến đường
lối của Đảng thành hiện thực sinh động. Đảng đã xây dựng được đội ngũ cán bộ
lãnh đạo đoàn kết, trung thành với sự nghiệp cách mạng, vững vàng về chính trị,
có khả năng lãnh đạo đất nước, đối phó với những khó khăn, thách thức để đưa
cách mạng tiếp tục đi lên theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Ba là, nhân dân ta có lòng yêu nước nồng nàn, cần cù, thông minh, sáng

tạo. Trải qua thực tiễn cách mạng, ý thức giác ngộ chính trị của nhân dân đã
được nâng cao, gắn bó với chế độ, với Đảng. Qua thực tiễn của tình hình chính
trị trên thế giới và trong nước những năm qua, nhân dân ta càng nhận rõ: Chỉ có
đi theo Đảng, đi theo con đường của chủ nghĩa xã hội mà Đảng và Bác Hồ đã
lựa chọn, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng thì đất nước mới phát triển,
cuộc sống của nhân dân mới được ấm no, tự do và hạnh phúc. Đó là cơ sở chính
trị quan trọng, quyết định sự thắng lợi của cách mạng.
Từ những bài học của cách mạng Việt nam trong mấy chục năm qua, nhất
là những kinh nghiệm thu được trong những năm đổi mới, chúng ta có cơ sở
khoa học để tin tưởng rằng: Với chủ nghĩa yêu nước, truyền thống quý báu của
dân tộc ta, với tinh thần chủ động sáng tạo, ý chí tự lực tự cường của nhân dân
ta, lại có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng cách mạng kiên cường, với sự giúp đỡ
và hợp tác của bạn bè quốc tế, nhân dân ta có đủ khả năng xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân
dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.
Sự nghiệp cách mạng vĩ đại đó, Đảng và nhân dân đặt niềm tin rất lớn ở
thanh niên vì thanh niên là người chủ tương lai của đất nước, người kế tục sự
nghiệp của cha anh. Với những truyền thống vẻ vang của mình, thanh niên Việt
nam sẽ cống hiến cho công cuộc đổi mới, xứng đáng với niềm tin của Đảng và
nhân dân.
Vấn đề 3: ĐẶC TRƯNG CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Chủ nghĩa xã hội là mục tiêu và lý tưởng của toàn Đảng và toàn dân ta. Từ
khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh
đạo toàn dân đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước, dựng nên nhà nước
dân chủ cộng hòa, tiến hành công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhằm thực
hiện lý tưởng cao đẹp của toàn Đảng, toàn dân: xây dựng Việt Nam thành một
nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh.
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội từ ngày lập nước đến nay của Đảng
và nhân dân ta là quá trình không ngừng vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-
nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong cách mạng Việt Nam. Đó cũng là quá trình

không ngừng tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận để vừa xây dựng chủ nghĩa xã
hội trong hiện thực, vừa hoàn thiện những đặc trưng xã hội xã hội chủ nghĩa về
mặt lý luận của Đảng qua mười một kỳ đại hội.
Tư tưởng về chủ nghĩa xã hội do các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác -
Lê-nin vạch ra đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo và có kết quả
vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tuy nhiên, đó cũng mới
chỉ là những nét khái quát: Xã hội không có áp bức bóc lột; con người có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc, làm theo năng lực, phân phối theo lao động; đời
sống vật chất và tinh thần cao; con người được phát triển toàn diện; xã hội công
bằng, bình đẳng; có chế độ công hữu về tư liệu sản xuất; nhà nước của toàn dân;
v.v Hơn nữa, trong một thời gian dài, chủ nghĩa xã hội được xây dựng theo mô
hình kế hoạch hóa tập trung đã bị biến dạng và tụt hậu không chỉ ở Việt Nam mà
cả ở các nước thành trì của chủ nghĩa xã hội.
Đường lối đổi mới (từ Đại hội VI) của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đột phá
vào những quan điểm sai lầm về chủ nghĩa xã hội, như tuyệt đối hóa vai trò của
chế độ công hữu; đối lập một cách máy móc sở hữu tư nhân với chủ nghĩa xã
hội; đồng nhất chế độ phân phối bình quân với chế độ phân phối xã hội chủ
nghĩa; phủ định chủ nghĩa tư bản một cách sạch trơn; phủ định kinh tế hàng hóa
trong chủ nghĩa xã hội; đồng nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản;
v.v
Tổng kết 5 năm đổi mới, Đại hội VII của Đảng (năm 1991) đã nêu 6 đặc
trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa: “Đó là xã hội: Do nhân dân lao động làm chủ;
Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ
công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc; Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo
năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều
kiện phát triển toàn diện cá nhân; Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và
giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả
các nước trên thế giới”
(1)

.
Đến Đại hội X (năm 2006), Đảng ta nhận định: “lý luận về xã hội xã hội
chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đã hình thành trên những nét cơ
bản”. Đặc trưng xã hội xã hội chủ nghĩa được Đảng nêu cụ thể hơn: “là một xã
hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ;
có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ
sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất
công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc
trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng
tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác
với nhân dân các nước trên thế giới”
(2)
.
“Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”
(bổ sung, phát triển năm 2011) đã điều chỉnh, chuẩn hóa một số nội dung và cô
đọng hóa một số đặc trưng: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng
là xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm
chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan
hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn
diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và
giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị
và hợp tác với các nước trên thế giới”
(3)
.
1 - Đặc trưng bao quát nhất của xã hội xã hội chủ nghĩa do nhân dân ta xây
dựng được Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã

hội (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định, là: “dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”.
Giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là những giá trị xã hội tốt đẹp
nhất, ước mơ ngàn đời của loài người, cho nên cũng là mục tiêu phấn đấu của
chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, đây là đặc trưng phổ quát, có tính bản chất của xã hội
xã hội chủ nghĩa, nó thể hiện sự khác nhau căn bản, sự tiến bộ hơn hẳn của chế
độ xã hội chủ nghĩa so với các chế độ xã hội trước đó. Xã hội tư bản có đời sống
vật chất và tiện nghi rất cao; dân có thể giàu, nước có thể mạnh, nhưng từ trong
bản chất của chế độ xã hội tư bản, ở đó không thể có công bằng và dân chủ: nhà
nước là nhà nước tư sản; giàu có là cho nhà tư bản; sự giàu mạnh có được bằng
quan hệ bóc lột. Trong xã hội như vậy, người dân không thể là chủ và làm chủ
xã hội.
Xây dựng xã hội “dân chủ, công bằng, văn minh” là quá trình vô cùng khó
khăn, gian khổ và lâu dài trong hoàn cảnh và điều kiện Việt Nam - một nước
còn nghèo, đang phát triển, chưa có “nền đại công nghiệp” (điều kiện cần thiết
để xây dựng chủ nghĩa xã hội như C.Mác đã chỉ rõ), v.v Nhưng để trở thành xã
hội xã hội chủ nghĩa với những đặc trưng nêu trên, không có cách nào khác là
toàn Đảng, toàn dân ta phải nỗ lực sáng tạo, chiếm lĩnh các đỉnh cao của xã hội.
Và, Việt Nam đang từng bước đạt tới các mục tiêu cần có trong hiện thực.
Đảng ta đã vạch ra phương hướng, chính sách cụ thể, có cơ sở lý luận -
thực tiễn để thực hiện trong hiện thực: “nước mạnh” gắn với “dân giàu”, “công
bằng” và “văn minh”, bảo đảm “dân chủ”; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa gắn với kinh tế tri thức; phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa; xây dựng văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; hoàn thiện nhà nước
pháp quyền với nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; v.v
2 - Xã hội “do nhân dân làm chủ”.
“Làm chủ” được coi là bản chất và quyền tự nhiên của con người, bởi xã
hội là xã hội của loài người, xã hội đó do con người tự xây dựng, tự quyết định
sứ mệnh của mình; tuy nhiên trong thực tiễn lại là chuyện khác. Lịch sử đấu
tranh cho tiến bộ của nhân dân các dân tộc trên thế giới chính là lịch sử đấu

tranh giành và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Chỉ đến chủ nghĩa xã hội,
nhân dân mới thực sự có được quyền đó. Cho nên “nhân dân làm chủ xã hội” là
đặc trưng quan trọng và quyết định nhất trong những đặc trưng của xã hội xã hội
chủ nghĩa. Đặc trưng này không thể tách rời những yêu cầu “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Nói dân giàu, nước mạnh chính là thể
hiện vai trò chủ thể của nhân dân đối với nhà nước - dân là chủ. “Dân chủ” trong
đặc trưng nêu trên chính là nền dân chủ của xã hội - xã hội vận hành theo chế độ
và nguyên tắc dân chủ. Và chính nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cũng thể hiện xã
hội “do nhân dân làm chủ”. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta;
với bản chất nêu trên, nó vừa là mục tiêu, lại vừa là động lực của sự phát triển
đất nước. Để có một xã hội do nhân dân thực sự làm chủ, chúng ta phải nhanh
chóng xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa để bảo đảm “tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”; mọi đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân; cán bộ, công
chức phải là “công bộc” của nhân dân, hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được
giao, tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân; có cơ chế để nhân dân thực
hiện quyền làm chủ.
3 - “Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp”.
Để có được một xã hội giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, điều tiên
quyết là xã hội đó phải có một nền kinh tế phát triển. Bởi vì kinh tế là lực lượng
vật chất, nguồn sức mạnh nội tại của cơ thể xã hội, nó quyết định sự vững vàng
và phát triển của xã hội. Đến lượt mình, nền kinh tế đó chỉ có thể phát triển dựa
trên lực lượng sản xuất hiện đại. Mác đã khẳng định: chủ nghĩa xã hội chỉ thực
hiện được bởi “một nền đại công nghiệp”. Nền đại công nghiệp phát triển trên
cơ sở khoa học - công nghệ, là hiện thân và là yếu tố tạo nên lực lượng sản xuất
hiện đại. Lực lượng sản xuất hiện đại quyết định việc nâng cao năng suất của
nền sản xuất - yếu tố quy định sự phát triển lên trình độ cao của phương thức sản
xuất mới. Trên cơ sở đó thiết lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa tiến bộ phù
hợp để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Với các nội dung và lô-gíc vận

động như đã luận giải trên, Đảng ta đã tập trung phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, mà trước mắt là hoàn thiện thể chế của nó; đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, nhằm xây
dựng một lực lượng sản xuất hiện đại để có một nền kinh tế phát triển cao - điều
kiện bảo đảm cho sự phát triển bền vững xã hội xã hội chủ nghĩa.
4 - “Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”.
Nếu như “nền kinh tế phát triển cao” là nội lực, là sức mạnh vật chất cho
phát triển xã hội thì văn hóa là nguồn lực tinh thần bên trong của phát triển xã
hội. Văn hóa là tinh hoa con người và dân tộc, tinh hoa xã hội và thời đại; bởi
vậy, nó là sức mạnh con người và dân tộc, sức mạnh xã hội và thời đại. Mỗi nền
văn hóa phải kết tinh tinh hoa và sức mạnh thời đại để tiến tới đỉnh cao thời đại,
đồng thời phải chuyển hóa chúng thành các giá trị của dân tộc, làm đậm đà thêm
bản sắc riêng của mình. Nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, vì vậy,
chính là mục tiêu của xã hội xã hội chủ nghĩa, đồng thời là động lực và sức
mạnh thúc đẩy xã hội đó phát triển. Để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội,
chúng ta cần kế thừa và phát huy những giá trị, tinh hoa văn hóa tốt đẹp của
cộng đồng các dân tộc; đồng thời, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại và văn hóa
thời đại để phát triển văn hóa Việt Nam thực sự là nền văn hóa vừa tiên tiến, vừa
đậm đà bản sắc dân tộc, thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực và
sức mạnh cho xã hội phát triển. Hơn nữa, bản chất xã hội xã hội chủ nghĩa là
tiến bộ, khoa học và nhân văn. Cho nên, chủ nghĩa xã hội đồng chất và cùng
chiều với văn hóa; phấn đấu cho những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội cũng
chính là phấn đấu cho những giá trị văn hóa - xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội
văn hóa cao. Những phẩm chất, những giá trị của xã hội xã hội chủ nghĩa là
những phẩm chất và giá trị phổ quát của xã hội tương lai. Tuy nhiên, nói như
vậy không có nghĩa xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội đại đồng không tồn tại
những bản sắc riêng biệt. Xã hội xã hội chủ nghĩa là một vườn hoa muôn sắc các
phẩm chất, các giá trị, ở đó bản sắc văn hóa các dân tộc, cộng đồng người khác
nhau phải được độc lập tồn tại, tôn vinh, phát huy, phát triển. Chính vì vậy,
Đảng ta chủ trương phát triển nền văn hóa vừa tiên tiến, vừa đậm đà bản sắc dân

tộc; thống nhất trong đa dạng, làm phong phú diện mạo văn hóa Việt Nam.
5 - “Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát
triển toàn diện”.
Nói đến cùng, mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, quá trình phấn đấu đạt tới
những giá trị của xã hội xã hội chủ nghĩa đều là vì con người. Con người là thực
thể cao nhất của giới tự nhiên, nó là sản phẩm của thiên nhiên nhưng cao siêu và
bí ẩn gấp ngàn lần thiên nhiên. Bởi con người có trí tuệ và tình cảm, có khát
vọng và khả năng chiếm lĩnh những đỉnh cao hiểu biết để tạo cho mình một thế
giới Người - thế giới Văn hóa. Cho nên lịch sử của loài người là lịch sử con
người đấu tranh xóa bỏ mọi lực cản thiên nhiên và xã hội để vươn tới một xã hội
cao đẹp nhất - xã hội đó chính là xã hội xã hội chủ nghĩa. Bản chất xã hội xã hội
chủ nghĩa, trình độ phát triển của xã hội chủ nghĩa, rõ ràng, là bản chất và trình
độ phát triển Người, của Con người. Xã hội xã hội chủ nghĩa phải đem lại ấm no
cho con người như là đòi hỏi tiên quyết. Nhưng bản tính con người là không bao
giờ thỏa mãn với những gì đã đạt được. Con người phải được tự do - tự do
không chỉ bó hẹp trong nghĩa được giải phóng khỏi áp bức bóc lột, nô dịch, kìm
hãm về mặt xã hội. Điều quan trọng hơn là nó được thăng hoa tiềm năng trí tuệ,
tình cảm và năng lực vốn có để thực hiện những khát vọng cao đẹp của mình. Sự
phát triển toàn diện con người là ước mơ, khát vọng của con người tự do. Xã hội
xã hội chủ nghĩa chính là nơi: sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho
sự phát triển tự do của tất cả mọi người như C.Mác đã nói. Đặc trưng Người
nhất của khát vọng con người là hạnh phúc. Bởi có thể người ta giàu có, đầy đủ
tiện nghi, được phát triển, song vẫn bất hạnh. Hạnh phúc là trạng thái yên lành,
hài hòa, là tinh thần thoải mái biểu hiện sự mãn nguyện thanh cao nhất của con
người. Phấn đấu đạt tới một xã hội bảo đảm hạnh phúc cho con người, đó là một
xã hội văn hóa cao.
6 - “Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng
và giúp đỡ nhau cùng phát triển”.
Nếu như các đặc trưng nêu trên (kinh tế, văn hóa, con người) là những yếu
tố thuộc phẩm chất bên trong tạo nên một chỉnh thể xã hội, thì ở đặc trưng này

đòi hỏi những yếu tố thiết yếu cho sự tồn tại bền vững của xã hội lành mạnh.
“Bình đẳng” là một phẩm chất và giá trị nhân quyền thể hiện trình độ phát triển
và chất nhân văn cao của xã hội. Một đòi hỏi quan trọng của xã hội chủ nghĩa là
bảo đảm bình đẳng không chỉ cho cá nhân người công dân, mà còn ở cấp độ cho
tất cả các cộng đồng, các dân tộc trong một quốc gia. Ngay trong xã hội hiện
đại, ở các nước phát triển, thực hiện bình đẳng giữa các tộc người, các dân tộc
cũng đang là vấn đề nan giải. Mặt khác, “đoàn kết” là sức mạnh - đó là một chân
lý. Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lê-nin, vì thắng lợi của sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội đã kêu gọi: Những người lao động ở tất cả các nước trên
thế giới đoàn kết lại (C.Mác); còn trong cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã
khái quát một chân lý: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành
công, đại thành công. Đồng thời đây cũng là một giá trị đặc trưng của xã hội xã
hội chủ nghĩa. “Bình đẳng” và “đoàn kết” chính là nền tảng của sự “tôn trọng và
giúp nhau cùng phát triển”. Tôn trọng và giúp nhau không chỉ là tình thương,
lòng nhân đạo, mà thực sự là đòi hỏi, yêu cầu, trách nhiệm và điều kiện thiết yếu
cho sự phát triển của từng cá nhân, cộng đồng, dân tộc; là một tiêu chuẩn quan
trọng của xã hội phát triển. Đoàn kết toàn dân, tôn trọng và giúp đỡ nhau giữa
các dân tộc đã làm nên thành công của cách mạng Việt Nam. Và giờ đây, tinh
thần đó, phương châm đó đang là những nét đặc sắc của giá trị xã hội xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
7 - “Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo”.
Nhà nước pháp quyền là một hình thức quản lý nhà nước trên một trình độ
cao và hiệu quả. Nó điều hành hoạt động của các cơ quan nhà nước và xã hội
bằng pháp luật. Nhưng vấn đề ở đây là pháp luật nào? Pháp luật của ai và vì ai?
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhà nước quản lý và điều hành
đất nước và xã hội bằng pháp luật thể hiện quyền lợi và ý chí của nhân dân; vì
vậy, là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Đây là nhà nước mà tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân với nền
tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí

thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát
giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Nhà nước ban hành pháp luật, tổ chức và quản lý xã hội bằng hệ thống pháp luật
đó và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có sự phân công,
phân cấp, đồng thời bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương. Tiếp tục
hoàn thiện và nâng cao chất lượng hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là đòi hỏi khách quan để thực hiện mục tiêu xã hội chủ
nghĩa hiện nay. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân không thể nào khác là dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản - đảng mang bản chất, lý tưởng, nội dung xã hội chủ nghĩa, là đảng
thực hiện mục tiêu và lý tưởng xã hội chủ nghĩa.
8 - “Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới”.
Theo nguyên lý phát triển xã hội, đặc biệt trong thế giới hiện đại, mỗi quốc
gia là một bộ phận hợp thành cộng đồng quốc tế. Sự phát triển quốc gia xã hội
chủ nghĩa Việt Nam chỉ có được khi đẩy mạnh “quan hệ hữu nghị và hợp tác với
các nước trên thế giới”. Quan hệ hữu nghị và hợp tác chính là thể hiện bản chất
hòa hảo, thiện chí và tạo điều kiện cho các quốc gia hội nhập, tiếp thu những
thành quả phát triển của mỗi bên, tích lũy kinh nghiệm và rút ngắn quá trình
phát triển của mỗi nước. Điều có ý nghĩa lớn lao hơn là ở chỗ, “hữu nghị”, “hợp
tác”, “phát triển” chính là bản chất, là khát vọng hòa đồng theo bản chất trí tuệ
và tình cảm nhân văn cao cả có tính nhân loại của con người, của loài người;
điều thể hiện bản chất cao đẹp nhất của xã hội xã hội chủ nghĩa.
Qua đó chúng ta thấy quan điểm, đường lối, chính sách xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam trước sau đều phù hợp với bản chất xã hội xã hội chủ nghĩa
nêu trên. Đây là một đặc trưng nổi bật của nội dung và mục tiêu xây dựng xã hội
xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Và chính nó là yếu tố, điều kiện để Việt Nam phát
triển nhanh chóng trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Để thực hiện được
đặc trưng nêu trên, Đảng ta vạch ra đường lối đối ngoại: độc lập, tự chủ, hòa
bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và

tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm
trong cộng đồng quốc tế, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã
hội chủ nghĩa giàu mạnh, văn minh.
Với tinh thần và tư duy biện chứng về phát triển xã hội, Đảng ta quan niệm:
Tiến lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình vận động, chuyển hóa liên tục, không
ngừng phát triển từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Các
đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa cũng luôn luôn vận động, chuyển hóa và
phát triển. Mười, mười lăm, hai mươi năm tới, các đặc trưng của xã hội xã hội
chủ nghĩa hiện nay chắc chắn sẽ có những bổ sung mới đáp ứng đòi hỏi mới của
phát triển xã hội. Điều đó đặt ra cho Đảng ta trọng trách là phải không ngừng
đổi mới tư duy, tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận để vừa tiếp tục khám phá ra
những vấn đề, những nội dung, những đặc trưng mới, vừa sáng suốt lãnh đạo
toàn dân ta xây dựng xã hội đạt tới các phẩm chất và các giá trị, vươn tới các đặc
trưng mới của xã hội xã hội chủ nghĩa trong tương lai./.
Những đặc trưng trên gắn bó mật thiết với nhau trong một chỉnh thể thống
nhất, vừa làm tiền đề, điều kiện, vừa tác động lẫn nhau trong quá trình phát
triển. Cùng với quan niệm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội, vấn đề có ý nghĩa quan
trọng là phải xác định được con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

×