Tải bản đầy đủ (.docx) (89 trang)

Lv ths kt phân công lao động xã hội theo hướng hình thành và hoàn thiện cơ cấu kinh tế nông công nghiệp dịch vụ ở tỉnh bến tre (2000 2010)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (299.81 KB, 89 trang )

Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Với đà phát triển đi lên của đất nước, đặc biệt là từ sau khi Đảng ta
tiến hành công cuộc đổi mới, chuyển hướng quản lý nền kinh tế từ cơ chế
kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, kết quả là hơn mười năm qua tình hình kinh tế xã hội của cả
nước nói chung và của Bến Tre nói riêng đã có bước phát triển mới. Đời
sống của nhân dân trong tỉnh đã có nhiều khởi sắc, thu nhập bình qn đầu
người từ 101,8 USD năm 1991 tăng lên 187,8 USD năm 1994 và chỉ tiêu
cuối năm 2000 là 280 USD. Tuy nhiên, sự chuyển biến đó đến nay vẫn cịn
chậm chạp, đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần của nhân dân vẫn ở vào
hạng "nghèo" trong khu vực mặc dù tiềm năng kinh tế - xã hội có thể cho là
khơng thua kém các tỉnh bạn bao nhiêu; có lẽ đây là tình trạng khá phổ biến
ở các tỉnh đa phần là nông nghiệp. Thực tế trên đã được Đại hội đại biểu
lần thứ VI của Đảng bộ tỉnh Bến Tre đánh giá: "Nền kinh tế tỉnh ta phát
triển chưa vững chắc một số mặt yếu kém chậm được khắc phục như công
nghiệp chế biến yếu, thiết bị lạc hậu. Cơ sở hạ tầng dù các năm qua ta có
nhiều cố gắng để xây dựng nhưng nhìn chung vẫn còn kém, chưa đáp ứng
được yêu cầu phát triển. Thiếu vốn đầu tư cho sản xuất và xây dựng. Thiếu
đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế, sản xuất kinh doanh và cán bộ kỹ thuật
giỏi" [3, 36]. Sự tăng trưởng kinh tế của tỉnh còn thấp so với khu vực đồng
bằng sông Cửu Long, theo số liệu thống kê cuối năm 1999, tỉnh Bến Tre có
gần 5,2% lực lượng lao động thất nghiệp, trong khi số lao động tăng bình
quân mỗi năm là 16.500 người và dân số phi nơng nghiệp lại giảm từ 8,9%
năm 1990 xuống cịn 3,2% năm 1998.
Vậy nguyên nhân từ đâu? Chúng tôi nghĩ rằng có nhiều nguyên
nhân, nhưng quan trọng nhất là lao động, đào tạo nguồn lao động, tổ chức
1


sử dụng nguồn lao động. Do đó nếu có chủ trương chính sách đúng, thật sự


hợp lý về việc phân công lao động vào các ngành sẽ tạo ra động lực thúc
đẩy kinh tế - xã hội ở Bến tre phát triển nhanh và vững chắc.
Đảng và Nhà nước ta xuất phát từ mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh" đã quan tâm đến vấn đề sắp xếp, tổ chức
lao động để giải quyết việc làm cho người lao động; khẳng định đây là vấn
đề bức bách hiện nay đặt ra cho toàn Đảng, tồn dân trong cả nước, đặc
biệt là đối với nơng nghiệp, nơng thơn, trong đó có tỉnh Bến Tre phải thực
hiện.
Căn cứ vào vị trí địa lý, vào đặc điểm kinh tế - xã hội, vào thực
trạng phân công lao động thể hiện qua thành quả lao động của từng ngành,
dựa vào quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010 của tỉnh Bến
Tre, là phấn đấu để thu nhập bình quân đầu người 440 USD/năm; muốn
thực hiện được các mục tiêu chiến lược đó thì vấn đề "Phân cơng lao động
xã hội theo hướng hình thành và hồn thiện cơ cấu kinh tế nơng - cơng
nghiệp - dịch vụ ở tỉnh Bến Tre (2000 - 2010)" là vấn đề địi hỏi phải
được thực hiện có hiệu quả. Do đó chúng tơi đã chọn đề tài này.
2. Tình hình nghiên cứu
Phân cơng lao động xã hội là một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn kinh tế - xã hội rất lớn. Từ trước đến nay đã có nhiều nhà khoa học
nghiên cứu vấn đề này ở những góc độ khác nhau, trong đó bàn nhiều về
phân công lao động ở phạm vi từng địa phương, từng ngành, tiêu biểu như:
"Bàn về phân công lại lao động xã hội ở Việt Nam" của Chế Viết Tấn,
Nxb Sự thật, Hà Nội, 1982; "Phân công lại lao động xã hội trong thời kỳ
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và vấn đề lao động quân sự'" của
Nguyễn Đăng Khoa, chuyên ngành kinh tế chính trị, Trường đại học Biên
Phịng; "Phân cơng lại lao động ngành nơng nghiệp trên địa bàn huyện Thái
Thụy - tỉnh Thái Bình (1996 - 2000)" của Nguyễn Văn Vọng, chuyên ngành
kinh tế chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; "Về phân công
2



lao động trong các cơ quan hành chính sự nghiệp" của PTS Hồ Vũ, Lao
động và xã hội, tháng 2/1996, tr. 18; "Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong sự
gắn bó với phân cơng lại lao động xã hội" của PGS.PTS Phan Thanh Phố
và Trần Huy Năng, Lao động và xã hội, 1/1994; ""Thay đổi phân công lao
động theo giới" một số vấn đề đặt ra" của Lê Ngọc Văn, Khoa học về phụ nữ,
2/1999; "Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam nhìn từ phân cơng lao
động xã hội" của Nguyễn Hữu Thảo, Phát triển kinh tế, số 92, 6/1998... Các
cơng trình nghiên cứu nêu trên đã khai thác, nêu bật những tiềm năng thúc
đẩy phân công lao động xã hội của từng ngành ở từng địa phương trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đã phân tích
khá sâu sắc thực trạng và bước đầu nêu ra những giải pháp thúc đẩy phân
công lao động xã hội, phát triển ngành nghề ở nước ta nói chung.
ở Bến Tre, trong quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh
Bến Tre thời kỳ 1999 - 2010 đã đề ra "từ nay đến năm 2010 nền kinh tế xã hội của Bến Tre sẽ tiến tới hồn chỉnh dần cơ cấu nơng - cơng nghiệp dịch vụ góp phần quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội toàn
vùng đồng bằng sông Cửu Long" [26, 19]. Hiện nay, chúng tơi chưa tìm
thấy đề tài nào bàn về phân cơng lao động theo hướng này; vì vậy, chúng
tơi vận dụng một số hiểu biết của mình để góp phần tìm hiểu thêm về thực
trạng phân công lao động và đề xuất một số giải pháp thúc đẩy phân công
lao động xã hội nhằm hoàn thiện cơ cấu kinh tế ở Bến Tre hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ
3.1. Mục đích nghiên cứu
Xuất phát từ tính cấp bách của đề tài và lịch sử nghiên cứu vấn đề,
chúng tôi xác định mục đích của đề tài là trên cơ sở những luận điểm cơ
bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về phân công lao động xã hội và khảo sát
thực trạng lực lượng lao động, phân công lao động hiện nay của Bến Tre
mà đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy phân công lao động theo hướng

3



hình thành và hồn thiện cơ cấu kinh tế nơng - cơng nghiệp - dịch vụ hiện
đại trong vịng mười năm tới của tỉnh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.2.1. Khái quát lại những vấn đề lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin và quan điểm của Đảng ta về lao động, về phân công lao động về cơ
cấu kinh tế làm cơ sở khoa học cho đề tài.
3.2.2. Phân tích một số đặc điểm cơ bản về tự nhiên, kinh tế - xã hội
có quan hệ trực tiếp đến tiến trình phân cơng lao động và hồn thiện cơ cấu
kinh tế của Bến Tre. Những đặc điểm này làm tiền đề cho việc phân công
lao động mới. Khảo sát thực trạng lực lượng lao động và thực chất của việc
sử dụng lực lượng lao động hiện nay, trên cơ sở đó rút ra những kết luận có
căn cứ xác thực đề xuất một số giải pháp trước mắt cho việc phân cơng lao
động theo hướng hình thành và hồn thiện cơ cấu kinh tế mới nói trên của
địa phương.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong luận văn này chúng tơi khơng có tham vọng và cũng khơng
có khả năng nghiên cứu hết những nội dung của phân công lao động xã hội
mà chỉ tập trung nghiên cứu dự kiến phân công lao động đã được đề ra qua
các chỉ tiêu kế hoạch của tỉnh, nghiên cứu phân công lao động theo hướng
từng bước hình thành và hồn thiện cơ cấu kinh tế của Bến Tre từ nay đến
năm 2010.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài thực hiện trên cơ sở những quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng ta về lao động,
phân công lao động và cơ cấu kinh tế.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
4


- Về phương pháp chung: Chúng tôi dựa trên phương pháp luận của

chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
- Về phương pháp cụ thể: Chúng tôi sử dụng các phương pháp kết
hợp chặt chẽ lý luận và thực tiễn, phương pháp logic và lịch sử, phân tích
và tổng hợp, so sánh và các phương pháp nghiên cứu khác.
6. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
- Lần đầu tiên thực trạng của việc phân cơng lao động ở tỉnh Bến
Tre được trình bày một cách có hệ thống.
- Nêu được hệ thống giải pháp có ý nghĩa thực thi thúc đẩy q
trình phân công lao động trên địa bàn tỉnh theo hướng hồn thiện cơ cấu
kinh tế nơng - cơng nghiệp - dịch vụ vào năm 2010.
7. ý nghĩa của luận văn
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm đến
vấn đề xây dựng lực lượng lao động, tổ chức phân công lao động xã hội
nhằm hoàn thiện cơ cấu kinh tế mới trên địa bàn tỉnh Bến Tre.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho cán bộ lãnh đạo tỉnh
Bến Tre trong việc tổ chức phân cơng lao động theo hướng hình thành và
hồn thiện cơ cấu kinh tế nơng - cơng nghiệp - dịch vụ của tỉnh đến năm
2010.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.

5


Chương 1
Phân cơng lao động xã hội với việc
hình thành và hoàn thiện cơ cấu kinh tế

1.1. Khái lược một số vấn đề lý luận cơ bản về phân công lao động xã hội và cơ

cấu kinh tế

1.1.1. Lao động
Trong bất cứ xã hội nào con người cũng phải lao động để tồn tại.
Lao động là "quá trình hoạt động tự giác, hợp lý của con người, nhờ đó,
con người làm thay đổi các đối tượng tự nhiên và làm cho chúng thích ứng
để thỏa mãn nhu cầu của mình. Lao động là điều kiện đầu tiên và cơ bản
của sự tồn tại của con người. Nhờ lao động, con người đã tách khỏi thế giới
động vật, đã có thể chế ngự lực lượng tự nhiên và bắt chúng phục vụ lợi ích
của mình, biết chế tạo cơng cụ lao động, có thể phát huy khả năng và kiến
thức của mình; tất cả những điều đó gộp lại đã quyết định sự phát triển tiến
bộ hơn nữa của xã hội" [25, 222].
Lao động là hoạt động tự giác, có tổ chức, có kế hoạch của con
người và chỉ có ở con người. Trong tự nhiên mặc dù hoạt động của một số
lồi vật có vẻ giống như hoạt động của con người, tuy nhiên "việc sử dụng
và sáng tạo ra những tư liệu lao động, tuy đã có mầm mống ở một vài lồi
động vật nào đó, nhưng vẫn là một nét đặc trưng riêng của quá trình lao
động của con người" [11, 269]. Hoạt động tự giác đầu tiên của con người là
hoạt động tác động vào tự nhiên, cho nên theo C.Mác "lao động trước hết
là một quá trình diễn ra giữa con người và tự nhiên, một q trình trong đó
bằng hoạt động của chính mình, con người làm trung gian điều tiết và kiểm
tra sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên" [12, 266]. Trong q trình đó con
người vận dụng sức lực tiềm tàng trong thân thể của mình, sử dụng cơng cụ
lao động để tác động vào tự nhiên một cách có mục đích, có ý thức nhằm
6


biến đổi những vật thể của tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu của mình. Vì
vậy, trong bất kỳ nền sản xuất xã hội nào kể cả nền sản xuất hiện đại, lao
động bao giờ cũng là yếu tố cơ bản, điều kiện không thể thiếu của sự tồn tại

và phát triển đời sống xã hội loài người, là một sự tất yếu vĩnh viễn, một
điều kiện chung của sự trao đổi chất giữa con người với giới tự nhiên.
Khi xã hội loài người sản xuất ra sản phẩm để trao đổi thì thực thể
xã hội chung của tất cả các hàng hóa đó là lao động. Như vậy, lao động sản
xuất là một quá trình hoạt động của con người do kết hợp giữa các yếu tố
sức lao động, công cụ lao động và đối tượng lao động. Nếu tách riêng biệt
của từng yếu tố đó thì chúng ở trạng thái khả năng mà thơi.
C.Mác giải thích: "Tiêu dùng sức lao động, đó chính là lao động" [12, 265].
Vậy sức lao động là gì? C.Mác cho rằng: "Sức lao động hay năng lực lao
động là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong một cơ
thể, trong một con người đang sống và được người đó đem ra vận dụng mỗi
khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó" [12, 251]. Thế nên, sức lao động
là yếu tố tích cực nhất, hoạt động nhất trong q trình lao động. Nó phát
động và đưa các tư liệu lao động vào hoạt động. Nó là yếu tố chi phối của
quá trình sản xuất, đồng thời cũng là yếu tố mang lại lợi ích cho q trình
sản xuất. Sự phân cơng lao động xã hội phát triển càng sâu sắc, sự xã hội
hóa nền sản xuất càng cao thì tính chất xã hội của sức lao động của mỗi
người càng nhiều hơn.
Qua sự phân tích ở trên có thể khái quát mấy đặc trưng cơ bản của
lao động:
- Lao động là sự vận dụng sức lao động thông qua công cụ lao động
tác động vào giới tự nhiên trong quá trình sản xuất ra những giá trị sử dụng.
- Lao động của con người là hoạt động tự giác, có ý thức.
- Lao động là điều kiện quyết định sự tồn tại và phát triển của xã
hội loài người.
7


- Trong q trình lao động con người khơng những sáng tạo ra lịch
sử mà còn sáng tạo ra cả chính bản thân mình.

- Lao động do đó là một phạm trù vĩnh viễn.
Những đặc trưng nêu trên của lao động đồng thời cũng nói lên lợi
ích của lao động. Giai cấp thống trị lợi dụng những đặc trưng đó của lao
động, biến nó thành cơng cụ phục vụ lợi ích của giai cấp thống trị thơng
qua q trình tổ chức và phân công lao động xã hội.
1.1.2. Phân công lao động xã hội
Phân công lao động xã hội là sự phân chia những người lao động
thành nhiều loại để chuyển những lao động cụ thể khác nhau vào những
ngành sản xuất khác nhau trong quá trình sản xuất xã hội. Phân công lao
động xã hội tạo nên sự tách rời giữa các ngành sản xuất xã hội, hình thành
những ngành sản xuất chun mơn hóa và những vùng sản xuất chun
mơn hóa.
Phân cơng lao động xã hội theo Lênin là sự phân chia, sự tách rời
nhau giữa các ngành sản xuất trong nền kinh tế. Trong mỗi ngành đó lại
chia ra nhiều loại nhỏ. Phân công lao động xã hội là nét đặc trưng của nền
kinh tế hàng hóa, phân biệt nền kinh tế hàng hóa với nền kinh tế tự nhiên.
Như vậy, phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động xã hội ra
thành ngành, thành loại, thành thứ khác nhau để sản xuất ra các giá trị sử
dụng hay hàng hóa khác nhau, nhằm đáp ứng nhu cầu nhất định của xã hội.
C.Mác viết: "Toàn bộ những giá trị sử dụng hay vật thể hàng hóa khác
nhau thể hiện tồn bộ những lao động có ích, cũng nhiều hình nhiều vẻ,
cũng chia ra bấy nhiêu loại, giống, họ, nhánh và biến chủng khác nhau - nói
tóm lại là thể hiện sự phân cơng lao động xã hội" [12, 72].
Theo khái niệm đó, phân cơng lao động là sự tồn tại đồng thời của
nhiều loại lao động và sự phân chia đó làm tách rời các loại lao động khác
nhau. Đồng thời tạo nên mối liên hệ tất yếu phụ thuộc lẫn nhau giữa các
8


loại lao động đã được phân chia. Sự ràng buộc giữa chúng do sự bảo đảm

những điều kiện vật chất của sản xuất quyết định.
Theo Từ điển Triết học, phân công lao động "là hệ thống các loại
lao động, chức năng sản xuất cơng việc nói chung được phân biệt theo
những dấu hiệu của mình và đồng thời tác động qua lại lẫn nhau, cũng như
là hệ thống các mối liên hệ xã hội giữa chúng".
"Phân công lao động xã hội với tư cách là hoạt động của con người,
khác với sự chun mơn hóa, là một quan hệ xã hội có tính chất tạm thời
trong lịch sử. Sự chun mơn hóa lao động là việc phân chia các loại lao
động theo đối tượng; nó trực tiếp biểu hiện sự tiến bộ của các lực lượng sản
xuất và góp phần thúc đẩy sự tiến bộ đó" [24, 436].
Trong các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội như sản xuất, phân
phối, trao đổi, tiêu dùng thì phân cơng lao động xã hội thuộc phạm trù sản
xuất. Bởi vì, theo khái niệm phân công lao động xã hội bao hàm sự phân
chia lao động và các điều kiện sản xuất khác trong xã hội. Như vậy, phải có
sự phân cơng này thì quá trình sản xuất mới diễn ra, sản xuất là khởi điểm
của quá trình tái sản xuất. Nếu khơng có sản xuất thì các q trình tiếp theo
như phân phối, trao đổi, tiêu dùng khơng thể có được. Phân cơng lao động
thuộc phạm trù sản xuất nên nó là phạm trù vĩnh viễn, tuy nhiên hình thức
biểu hiện của nó sẽ thay đổi. Phân cơng lao động xã hội hình thành trong
quá trình lao động sản xuất xã hội, nó có bước phát triển từ thấp đến cao, từ
giản đơn đến tỷ mỷ theo sự phát triển của lực lượng sản xuất, phân công
lao động rõ nét nhất mỗi khi xuất hiện hình thái kinh tế xã hội mới.
Như vậy, xét về tính chất của phân cơng lao động thì nó thuộc về
quan hệ sản xuất. C.Mác cho rằng: "Trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất của một dân tộc bộc lộ rõ nhất ở trình độ phát triển của sự phân công
theo lao động... Những giai đoạn phát triển khác nhau của phân công lao
động cũng đồng thời là những hình thức khác nhau của sở hữu" [13, 11].
9



Tóm lại, "phân cơng lao động xã hội là sự phân chia lao động xã
hội ra các ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau, tạo nên sự chun mơn
hóa lao động và theo đó là chun mơn hóa sản xuất thành những ngành
nghề khác nhau" [6, 116].
Phân công lao động xã hội bao gồm sự phân công lao động nói
chung, phân cơng lao động đặc thù và phân cơng lao động cá biệt.
- Phân công lao động đặc thù.
Trong quá trình phát triển của bản thân mỗi ngành sản xuất, phân
công lao động lại được diễn ra trong nội bộ mỗi ngành. Tức là khi cơng cụ
lao động có bước phát triển và trình độ sản xuất của người lao động ngày
càng nâng lên thì sự phân chia trong cùng ngành cũng ngày càng phát triển.
Phân công lao động trong nông nghiệp là sự phân công lao động đặc thù.
Trong ngành nông nghiệp, lúc đầu việc trồng trọt và chăn ni khơng phân
định rõ, dần dần hình thành việc chuyên trồng trọt, chuyên chăn nuôi; trong
trồng trọt lại phân công lao động chuyên trồng cây lương thực, chuyên
trồng cây công nghiệp. Mặt khác, cũng trong ngành nông nghiệp, lúc đầu
sản xuất và chế biến nông sản gắn chặt nhau như một chức năng kinh tế,
dần dần chế biến nông sản mới hình thành một cách riêng biệt có chức
năng kinh tế khác với sản xuất nông nghiệp và tách khỏi sản xuất nông
nghiệp. Phân công lao động trong nông nghiệp có hai hình thức cơ bản, đó
là phân cơng lao động theo ngành và phân công lao động theo vùng lãnh
thổ. Sở dĩ có sự phân cơng lao động theo vùng lãnh thổ là do đặc điểm
riêng biệt của sản xuất nơng nghiệp, vì sản xuất nơng nghiệp gắn rất chặt
với điều kiện tự nhiên: đất đai, thời tiết, khí hậu từng miền, từng vùng lãnh
thổ.
Tóm lại, theo C.Mác thì sự phân cơng lao động đặc thù là sự phân
chia ngành sản xuất ra thành loại và thứ.
- Phân công lao động cá biệt

10



Phân công lao động là một phạm trù gắn liền với tất yếu kỹ thuật
của sản xuất. Sản xuất chuyên mơn hóa địi hỏi lao động phải chun mơn
hóa. Chun mơn hóa trong nơng nghiệp khác hẳn với chun mơn hóa
trong cơng nghiệp. Phân cơng lao động trong cơng nghiệp là phân cơng lao
động độc chun, cịn phân cơng lao động trong nông nghiệp là phân công
lao động theo chuyên khâu.
Phân cơng lao động trong xí nghiệp hay phân cơng lao động cá biệt
như C.Mác thường gọi là sự phân cơng trong xưởng thợ. Đó là sự phân
cơng cơng việc cho người lao động cá biệt, là sự phân chia chức năng,
nhiệm vụ giữa những người lao động cùng sản xuất ra một sản phẩm trong
nội bộ từng xí nghiệp riêng biệt. C.Mác - Ph.Ăngghen viết: "Nếu chỉ xét
riêng bản thân lao động thì người ta có thể gọi sự phân chia nền sản xuất xã
hội thành những ngành lớn như nông nghiệp, công nghiệp v.v... là sự phân
công lao động chung và sự phân chia những ngành sản xuất ấy thành loại
và thứ - là sự phân công lao động đặc thù, cịn sự phân cơng lao động trong
xưởng thợ là sự phân công lao động cá biệt" [12, 509-510].
ở nước ta, phân công lao động trong hợp tác xã nơng nghiệp vừa có
sự phân cơng lao động đặc thù (phân công lao động trong nội bộ ngành
nông nghiệp) vừa có sự phân cơng lao động cá biệt (tổ chức các tổ, đội lao
động phân công công việc cho từng người lao động). Như vậy, phân công
lao động cá biệt, tổ chức lao động gắn liền với quan hệ sản xuất và trình độ
của lực lượng sản xuất.
1.1.3. Cơ cấu kinh tế
1.1.3.1. Khái niệm
Trong nền kinh tế quốc dân, cơ cấu kinh tế chỉ rõ trình độ kinh tế,
nó xác định nền kinh tế của một quốc gia đang ở trình độ cao hay thấp; vì
vậy, cơ cấu kinh tế là một phạm trù kinh tế quan trọng được nhiều nhà
nghiên cứu quan tâm.


11


Để nhận dạng cơ cấu kinh tế của một quốc gia, người ta thường dựa
vào quy mô của từng ngành, vị trí kinh tế và sự tác động của nó đối với
toàn bộ nền kinh tế trong những điều kiện cụ thể.
Cũng như phân công lao động xã hội, cơ cấu kinh tế khơng chỉ
được hình thành một cách thụ động trong những điều kiện khách quan; con
người có thể xác lập cơ cấu kinh tế mới, tiến bộ hơn; tuy nhiên, khơng thể
tùy tiện mà cần dựa vào trình độ mọi mặt của người lao động, dựa vào điều
kiện kinh tế - xã hội hiện thực và yêu cầu sản xuất, tiêu dùng của xã hội để
phân công lao động vào các ngành kinh tế theo hướng cơ cấu kinh tế mới,
nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh hơn. Do đó, cơ cấu kinh tế có
quan hệ mật thiết với phân công lao động xã hội.
Phân công lao động xã hội hình thành các lĩnh vực, các ngành mới.
Các lĩnh vực, các ngành kinh tế trong xã hội có quan hệ với nhau; chúng
vừa hợp tác, hỗ trợ nhau, vừa cạnh tranh với nhau để tồn tại và phát triển;
trong q trình đó cơ cấu kinh tế hình thành. Như vậy, phân cơng lao động
xã hội và sự tác động giữa các bộ phận hợp thành nền kinh tế là cơ sở để
hình thành cơ cấu kinh tế.
Trong cơ cấu kinh tế có sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất. Bởi vì lực lượng sản xuất phát triển thúc đẩy phân công
lao động xã hội, khi phân cơng lao động có sự tự giác thì nó là một mặt
trong quan hệ sản xuất, mà cơ sở để hình thành cơ cấu kinh tế là phân công
lao động xã hội.
Khi nghiên cứu cơ cấu kinh tế, C.Mác cho rằng: đó là một sự phân
chia về mặt chất lượng và một tỷ lệ về số lượng của quá trình tái sản xuất
xã hội. Rõ ràng, giữa các bộ phận hợp thành cơ cấu kinh tế có quan hệ chủ
yếu về số lượng và chất lượng tương đối ổn định trong những điều kiện cụ

thể.
Xem xét cơ cấu kinh tế, người ta khơng chỉ hình dung nó ở phạm vi
của một quốc gia, mà cịn của một ngành, một địa phương, thậm chí cả một
12


khu vực gồm nhiều quốc gia trên thế giới. Bởi vì, khi nền kinh tế thị trường
phát triển rộng rãi, địi hỏi quốc tế hóa đời sống kinh tế của người lao động,
thì nhiều khu vực kinh tế trên thế giới có ưu thế riêng, hình thành cơ cấu
kinh tế riêng của khu vực.
Từ những vấn đề nêu trên, có thể khái quát cơ cấu kinh tế như sau:
cơ cấu kinh tế là tổng thể các bộ phận hợp thành nền kinh tế, chúng có
quan hệ hữu cơ với nhau và được sắp xếp theo vị trí, tỷ lệ nhất định cho
phù hợp với những điều kiện cụ thể.
1.1.3.2. Nội dung cơ cấu kinh tế
Như đã phân tích ở trên, nghiên cứu cơ cấu kinh tế thực chất là
nghiên cứu cơ cấu kinh tế kỹ thuật và cơ cấu kinh tế xã hội của nền kinh tế
quốc dân, trong đó có cơ cấu ngành kinh tế và cơ cấu vùng kinh tế.
Cơ cấu kinh tế kỹ thuật là quan hệ tỷ lệ về lao động, thiết bị, vốn...
và sự tác động của chúng trong nền kinh tế quốc dân.
Cơ cấu kinh tế xã hội là quan hệ về vị trí, vai trò và sự tác động của
các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân.
Với sự phát triển của lực lượng sản xuất, cơ cấu ngành kinh tế cũng
phát triển đa dạng. Cơ cấu ngành kinh tế là cơ cấu kinh tế được sắp xếp
theo vị trí, vai trị của các ngành như: nơng - cơng nghiệp - dịch vụ hoặc có
sự đảo ngược giữa các ngành trong nền kinh tế quốc dân tùy vào điều kiện cụ
thể.
Cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp - dịch vụ biểu hiện các quan hệ:
- Giữa các ngành nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ về cơ cấu kinh
tế kỹ thuật, cơ cấu kinh tế xã hội.

- Giữa nội bộ các ngành kinh tế về cơ cấu kinh tế kỹ thuật, cơ cấu
kinh tế xã hội, bao gồm:
+ Quan hệ giữa nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp.

13


+ Quan hệ giữa công nghiệp, TTCN, xây dựng.
+ Quan hệ giữa các dịch vụ: du lịch, thương mại, thông tin, giao
thông vận tải,...
Trong ngành nông nghiệp, cơ cấu kinh tế còn biểu hiện ở quan hệ
giữa trồng trọt và chăn nuôi.
Trong ngành trồng trọt, cơ cấu kinh tế biểu hiện quan hệ giữa trồng
cây lương thực, cây thực phẩm, cây công nghiệp.
Cơ cấu cây trồng công nghiệp biểu hiện quan hệ giữa cây công
nghiệp ngắn ngày và cây công nghiệp dài ngày.
Cơ cấu kinh tế cho cây lương thực biểu hiện quan hệ giữa cây lúa
và cây màu khác.
Trong ngành ngư nghiệp, cơ cấu kinh tế biểu hiện quan hệ giữa
nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản. Trong ngành nuôi trồng và đánh bắt
hải sản lại bao gồm quan hệ giữa:
Nuôi thủy sản nước ngọt, nuôi thủy sản nước mặn.
Thủy sản ngắn ngày và dài ngày.
Nuôi cá, tôm và các thủy sản khác.
Đánh bắt trên sông, trên biển,...
Trong ngành công nghiệp, cơ cấu kinh tế thể hiện quan hệ giữa:
công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất, công nghiệp sản xuất tư liệu tiêu
dùng. Trong những ngành này cịn có quan hệ giữa những ngành nhỏ khác.
Cơng nghiệp khai thác trên biển, khai thác nội địa.
Trong ngành xây dựng, cơ cấu kinh tế biểu hiện quan hệ giữa quy

hoạch xây dựng, thiết kế xây dựng và ngành trực tiếp thi công xây dựng.
Về cơ cấu kinh tế vùng:

14


Nghiên cứu cơ cấu kinh tế vùng là nghiên cứu cơ cấu kinh tế của
một vùng lãnh thổ có điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội tương đương
nhau. Vì thế, vùng kinh tế khơng chỉ được đề cập đến những vùng rộng lớn
trong một quốc gia mà còn đề cập đến những vùng có phạm vi nhỏ trong
một địa phương, một tỉnh.
Nội dung cơ cấu kinh tế vùng thể hiện quan hệ:
Giữa các vùng kinh tế trong một nền kinh tế nhất định.
Giữa các ngành trong nội bộ vùng kinh tế.
Khi đề cập đến cơ cấu kinh tế vùng, cần nghiên cứu quan hệ giữa
vùng đồng bằng với vùng cao.
Trong vùng đồng bằng cũng cần nghiên cứu cơ cấu kinh tế giữa
những vùng: nước ngọt, nước lợ, nước mặn. Trong vùng cao cũng cần
nghiên cứu cơ cấu kinh tế giữa vùng gị đồi với vùng núi.
Tóm lại, nội dung cơ cấu kinh tế gồm nhiều mối quan hệ giữa các
ngành, các vùng kinh tế. Nắm vững mối quan hệ này, có tác động thích hợp
với điều kiện cụ thể của từng ngành, từng vùng mới mong thúc đẩy nền
kinh tế phát triển.
1.1.3.3. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Đối với những nước có nền kinh tế kém phát triển nói chung, muốn
có một nền kinh tế phát triển đều phải dựa vào điều kiện kinh tế - xã hội cụ
thể của mỗi nước mà xây dựng cơ sở kinh tế ban đầu để đi lên nền sản xuất
lớn. Những nước này đều tiến hành xây dựng và hồn thiện dần cơ cấu
kinh tế nơng - cơng nghiệp - dịch vụ và khi có nền kinh tế phát triển ổn
định đều có xu hướng chuyển dịch sang cơ cấu công - nông nghiệp - dịch

vụ.
Riêng Việt Nam, là một nước đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền
kinh tế nông nghiệp lạc hậu, từ một xã hội sau chiến tranh tàn khốc cho nên

15


cơ cấu kinh tế khởi đầu là nông nghiệp thuần túy, sau nhiều năm cơ cấu
kinh tế đã chuyển dần từng bước sang cơ cấu nông nghiệp - công nghiệp dịch vụ. Qua thực tiễn, phân công lao động xã hội đã phát triển, đã hình
thành mơ hình cơ cấu kinh tế mới là cơ cấu công - nông nghiệp - dịch vụ và
xu hướng chung của các địa phương trong cả nước là chuyển dịch dần sang
cơ cấu kinh tế này.
Để có một nền kinh tế phát triển theo kịp với các nước trong khu
vực, Việt Nam phải cố gắng chuyển dần sang cơ cấu kinh tế công - nông
nghiệp - dịch vụ, đặc biệt đối với những tỉnh đất hẹp người đơng như tỉnh
Bến Tre thì càng phải chuẩn bị những điều kiện để chuyển dần sang cơ cấu
kinh tế công - nông nghiệp - dịch vụ mới có thể có một nền kinh tế phát
triển được, nhưng hiện nay Bến Tre vẫn là một tỉnh với nền kinh tế nơng
nghiệp là chủ yếu. Vì thế những năm trước mắt Bến Tre vẫn phải theo
hướng xây dựng cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp - dịch vụ ngày càng
hiện đại, tạo tiền đề vật chất sau năm 2010 chuyển sang xây dựng cơ cấu
kinh tế mới hiện đại, phù hợp cơ cấu kinh tế của cả nước.
ở nước ta hiện nay, xu hướng xây dựng và hoàn thiện cơ cấu kinh tế
công - nông nghiệp - dịch vụ là cơ sở để tổ chức đội ngũ lao động, phân công
lao động cho phù hợp với yêu cầu của những ngành nghề trong nền kinh tế.
Vì vậy, xu hướng phân công lao động xã hội hiện nay là phân công lao
động theo hướng ưu tiên cho công nghiệp mới đến nông nghiệp và dịch vụ.
1.2. tác động của phân cơng lao động xã hội đối với việc hình thành cơ cấu
kinh tế


1.2.1. Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển
Lịch sử kinh tế - xã hội chỉ cho chúng ta thấy rằng quá trình chuyển
biến từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn là q trình khơng ngừng phát triển của
lực lượng sản xuất. Sự lớn mạnh đó là nhờ tác động của phân công lao
động xã hội. Tuy nhiên, để có thể thực hiện được sự phân công lao động xã
16


hội thì địi hỏi lực lượng sản xuất phải đạt được trình độ phát triển nhất
định.
Trong xã hội cơng xã ngun thủy cũng đã hình thành bước đầu sự
phân cơng lao động, tuy nhiên sự phân cơng lao động đó mới ở hình thức
đơn giản nhất, phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất
đương thời, mang đậm nét giới tính. Chẳng hạn đàn ơng thì săn bắn, đánh
cá; đàn bà thì hái lượm hoa quả, trông nom việc nhà, làm nghề nông và
chăn nuôi v.v... Cịn người già thì chế tạo cơng cụ lao động thô sơ. C.Mác Ph.Ăngghen đã viết: "Lúc đầu chỉ là sự phân cơng lao động trong hành vi
theo giới tính và về sau là phân cơng lao động tự hình thành hoặc hình
thành một cách tự nhiên", do những thiên tính bẩm sinh (như thể lực chẳng
hạn) do những nhu cầu, do những sự ngẫu nhiên" [8, 44-45].
Sang chế độ chiếm hữu Nô lệ và chế độ Phong kiến do lực lượng
sản xuất phát triển, phân công lao động xã hội cũng ngày càng phát triển.
Cuộc cách mạng công nghiệp cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19 của
CNTB đã đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất đến trình độ cao. Hàng
loạt máy móc, cơng cụ sản xuất chun mơn hóa ra đời đã làm cho q
trình chun mơn hóa lao động gắn chặt với chun mơn hóa cơng cụ lao
động, lao động càng chun mơn hóa sâu thì cơng cụ lao động cũng ngày
càng được hồn thiện. Q trình đó cũng thúc đẩy phân cơng lao động xã
hội phát triển. C.Mác cho rằng: Khi những công việc khác nhau trong một
quá trình lao động bị tách khỏi nhau và mỗi một công việc bộ phận trong
tay người cơng nhân bộ phận, đã có được cái hình thái thích hợp nhất và do

đó cũng là hình thái độc chun, thì lúc đó nảy sinh sự cần thiết phải thay
đổi cơng cụ trước kia dùng vào nhiều mục đích khác. Khi cơng cụ được
chun mơn hóa cao thì phân công lao động ngày càng phát triển, nhưng
trong điều kiện chưa có cơng cụ chun dùng, nghĩa là trong khi cịn phải
lao động bằng cơng cụ thủ cơng là chủ yếu thì trong quá trình lao động con
người bao giờ cũng muốn giảm nhẹ sức lao động của mình, thì riêng việc
17


thực hiện phân công lao động xã hội cũng tạo ra một sức sản xuất mới và
năng suất lao động cao hơn. "Trong nền sản xuất dựa trên cơ sở lao động thủ
cơng, kỹ thuật chỉ có thể tiến bộ được dưới hình thức phân cơng thơi" [7,
535]. Điều đó cũng chỉ rõ là cùng một trình độ của lực lượng sản xuất,
nhưng mỗi người làm một việc thì năng suất lao động sẽ cao hơn là khi
người đó phải làm nhiều việc.
Khi phân tích sự phân cơng trong cơng trường thủ công, C. Mác
cũng chỉ ra rằng: Do phân tích hoạt động của các nghề thủ cơng, do chun
mơn hóa các cơng cụ, do đào tạo cơng nhân bộ phận, do chia nhóm và kết
hợp vào tổng cơ cấu, sự phân công trong công trường thủ công tạo ra một
sự phân chia về chất lượng và một tỷ lệ về số lượng của những quá trình
sản xuất xã hội. Nghĩa là tạo ra một tổ chức lao động xã hội nhất định, cùng
với điều đó thì cũng đồng thời phát triển một sức sản xuất mới, có tính chất
xã hội của lao động.
Đến giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, lực lượng sản xuất có
bước phát triển vượt bậc và cũng là sự phát triển mạnh mẽ của sự phân
công lao động xã hội. Trong giai đoạn này, do sự phát triển mạnh mẽ của
các quan hệ kinh tế, đặc biệt là quan hệ kinh tế đã mang tính chất quốc tế,
tính chất xã hội hóa của lực lượng sản xuất càng lớn thì mâu thuẫn giữa lực
lượng sản xuất với quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa càng gay gắt. Muốn
duy trì chủ nghĩa tư bản, bảo vệ những lợi ích độc quyền của giai cấp tư

sản, nhà nước tư sản đã can thiệp ngày càng sâu vào q trình kinh tế nói
chung và sự phân cơng lao động nói riêng. Trong giai đoạn lịch sử này, phân
công lao động xã hội vừa diễn ra tự phát theo yêu cầu của các quy luật kinh
tế thị trường, vừa có sự tác động một cách tự giác theo các kế hoạch phát
triển kinh tế và sử dụng nguồn lao động được chuẩn bị của nhà nước tư sản.
Đến nay nhân loại đã trải qua và đang đi tới những phương thức sản
xuất xã hội khác nhau, thực tiễn lịch sử đó đã chỉ cho chúng ta thấy: sự
phát triển của phân công lao động xã hội luôn luôn được biểu hiện qua sự
18


phát triển của lực lượng sản xuất và sự phát triển các hình thức phân cơng lao
động xã hội cũng tác động mạnh trở lại đối với sự phát triển của lượng sản
xuất.
Mác - Ăngghen đã khẳng định: "Trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất của một dân tộc bộc lộ rõ nét nhất ở trình độ phát triển của phân
công lao động xã hội" [8, 30]. Đồng thời sự phát triển của phân công lao
động xã hội đến lượt nó lại thúc đẩy sức sản xuất của lao động phát triển.
Mác Viết: "Sức sản xuất của lao động chủ yếu phải phụ thuộc vào sự phân
công lao động" [11, 175].
Phân công lao động xã hội đã thúc đẩy q trình sử dụng cơng cụ
ngày càng hiện đại hơn làm tăng sức sản xuất của lao động xã hội và hiệu
quả tất yếu dẫn đến năng suất lao động xã hội tăng lên. Năng suất lao động
tăng lên nói lên trình độ tiến bộ của người lao động và trình độ, năng lực
của người lao động trở thành điều kiện để sử dụng cơng cụ hiện đại. Nói về
mối quan hệ này, Mác giải thích: "Việc phát triển sản xuất cơ khí cũng
giống như việc mở rộng phân cơng lao động, sẽ dẫn đến một việc là: trong
khoảng thời gian ngắn hơn có thể sản xuất được nhiều hơn gấp bội" [10, 740].
Cũng vì thế mà một phát minh lớn nào về cơng cụ lao động về máy móc
cũng đều đem lại một sự phân công lao động mới hơn và ngược lại mỗi lần

phân công lao động cao hơn lại thúc đẩy sự ra đời những phát minh mới về
máy móc. Đến lượt nó máy móc ảnh hưởng đến sự phân công lao động đến
mức khi người ta đã tìm được cách đưa một phần máy móc vào nghề chế tạo
một vật phẩm nào đó thì nghề chế tạo ấy tách thành 2 ngành kinh doanh
độc lập với nhau. C. Mác - Ph.Ăngghen cho rằng: "Với việc sử dụng máy
móc, phân cơng lao động trong xã hội đã tăng lên, công việc của người
công nhân trong nội bộ cơng xưởng đã trở thành giản đơn hơn, tích tụ tư
bản tăng lên, con người càng bị phân chia hơn" [9, 221].

19


Như vậy, phân cơng lao động xã hội đã kích thích sử dụng máy móc
và nâng cao năng suất lao động xã hội. Năng suất lao động xã hội vừa là
tiền đề, vừa là kết quả của sự phát triển mới về phân cơng lao động xã hội.
Tóm lại, phân công lao động với tư cách là sự chuyên môn hóa sản
xuất, đã tạo điều kiện phát triển máy móc và nâng cao trình độ của người
lao động, từ đó góp phần thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Quá trình phát triển của lịch sử xã hội lồi người đã đánh dấu ba lần
phân công lớn:
Việc tách các bộ lạc chăn ni ra khỏi tồn khối bộ lạc là sự phân
công lao động xã hội lớn lần thứ nhất. Nó đã đẩy mạnh năng suất lao động
xã hội và tạo tiền đề vật chất cho sự ra đời của chế độ tư hữu và phân chia
xã hội thành giai cấp.
Trong lịch sử kinh tế xã hội có một giai đoạn sản xuất mà nghề thủ
công là nghề phụ nằm trong nghề nông, đến khi nghề thủ công tách biệt
khỏi nơng nghiệp, điều đó được xem là sự phân cơng lao động xã hội lần
thứ hai. Lần phân công này đã thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nâng
cao một bước nữa năng suất lao động xã hội. Nền sản xuất xã hội ngày
càng phát triển, sản xuất hàng hóa càng tăng là tác nhân kích thích việc

hình thành tầng lớp thương nhân, ngành mới xuất hiện đánh dấu sự phân
công lao động xã hội lần thứ ba. Lênin viết: Sự chun mơn hóa lao động
xã hội do bản chất của nó là vơ tận, cũng giống như sự phát triển của kỹ
thuật vậy. Muốn nâng cao được năng suất lao động của con người, ví dụ
nhằm làm ra một bộ phận nào đó của một sản phẩm tồn bộ, thì cần làm
cho việc sản xuất bộ phận đó được chun mơn hóa, trở thành một ngành
sản xuất riêng biệt, sản xuất được hàng loạt sản phẩm và vì lẽ đó có thể là
cần phải sử dụng máy móc. Qua đây, chúng ta thấy việc chun mơn hóa
lao động cũng là quá trình phát triển lực lượng sản xuất, tăng thêm tính
chất xã hội hóa của sản xuất.
20



×