Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

Luận văn thạc sĩ thực trạng và giải pháp cho vấn đề tiêu thụ nông sản ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.18 KB, 31 trang )

MỤC LỤC
PHẦN I................................................................................................... 1
MỞ ĐẦU................................................................................................. 1
PHẦN II: TỔNG QUAN ĐỀ TÀI.........................................................3
PHẦN III: Nội dung nghiên cứu...........................................................5
1. Những biến đổi, phát triển của thị trường tiêu thụ nông sản.............5
2. Những tồn tại trong tiêu thụ nông sản và nguyên nhân......................8
2.1. Những tồn tại trong tiêu thụ nông sản...............................................8
2.2. Các nguyên nhân..............................................................................10
3. Một số đề xuất nhằm thúc đẩy, phát triển, tiêu thụ nông sản...........12
3.1. Những căn cứ đề xuất.......................................................................12
3.2. Các đề xuất nhằm thúc đẩy, phát triển thị trường tiêu thụ nông, sản
phẩm........................................................................................................15

PHẦN IV: KẾT LUẬN........................................................................ 29
DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................30


PHẦN I
MỞ ĐẦU
Trong hơn 25 năm qua, thực hiện đường lối đổi mới kinh tế của Đảng và
nhà nước, kinh tế Việt nam đã có những bước chuyển mình to lớn cả về chất
và về lượng. Trong đó có thể nói nơng nghiệp là lĩnh vực đạt được nhiều
thành tựu to lớn nhất, nổi bật nhất, có những bước phát triển khá mạnh mẽ và
tồn diện.Tốc độ tăng trưởng bình quân của nông nghiệp, thuỷ sản đạt kết quả
cao, riêng lương thực năm 2009 tăng 2,5 triệu tấn so với năm 2008, đáp ứng
cơ bản nhu cầu lương thực và thực phẩm trong nước, giữ vững an ninh lương
thực quốc gia. Trong một thời gian không dài, từ một nền nông nghiệp tự cấp,
tự túc ,nông nghiệp đã vươn lên trở thành một ngành sản xuất hàng hố lớn,
có sức cạnh tranh ngày càng cao trong quá trình hội nhập quốc tế.
Cùng với những thành tựu đạt được trong nông nghiệp ,đời sống nông


dân và bộ mặt nông thôn Việt Nam cũng có những biến đổi tích cực : Cơ sở
hạ tầng nơng thơn được cải thiện, thu nhập bình quân đầu người đã đạt
715USA năm 2009, tỷ lệ nghèo đói giảm từ 14,7% ( năm 2007) xuống cịn
11,7% (năm 2008), nhiều bệnh viện, trường học mới được xây dựng lên ở
nhiều vùng nông thôn trong cả nước.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được,nếu so sánh với yêu cầu của sự
nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước và so với các nước trong khu
vực thì nơng nghiệp và nơng thơn nước ta cịn nhiều yếu kém và thách thức
như : Vấn đề việc làm cho lao động nơng thơn, tình trạng nghèo đói cịn gay
gắt ở vùng sâu, vùng xa; cơ sở hạ tầng ở nông thôn chưa đáp ứng được yêu
cầu của một nền nông nghiệp sản xuất hàng hố lớn....
Trong những khó khăn, thách thức kể trên,vấn đề tiêu thụ nông sản sau
thu hoạch đang là vấn đề bức xúc nhất không chỉ đối với nơng dân mà cịn là
trăn trở của các nhà lãnh đạo, các nhà hoạch định chính sách.Tại sao được
1


mùa mà người nông dân không phấn khởi? Đây là một câu hỏi lớn, một trong
những vấn đề cấp thiết phải được giải quyết tức thời, nhằm đưa nền nông
nghiệp Việt Nam có thể phát triển ngang tầm với nơng nghiệp của các nước
phát triển trong khu vực và trên thế giới.
Thực hiện đề tài: “Thực trạng và giải pháp cho vấn đề tiêu thụ nông
sản ở Việt nam” , nhằm giúp em góp thêm một tiếng nói riêng và có một
cách nhìn nhận chính xác về những tồn tại, yếu kém trong khâu tiêu thụ sản
phẩm nông nghiệp, và một số đề xuất của bản thân nhằm góp một phần nào
đó đưa nền sản xuất nơng nghiệp Việt nam có những bước tiến mới , phát
triển ngang tầm với các quốc gia khác, thực sự trở thành ngành sản xuất hàng
hố chính trong nền kinh tế quốc dân.

2



PHẦN II:
TỔNG QUAN ĐỀ TÀI
Tiêu thụ nông sản phẩm là một khâu rất quan trọng trong quá trình tái
sản xuất nơng nghiệp. Nó là khâu cuối cùng kết thúc q trình sản xuất,tức là
giải quyết khâu đầu ra của quá trình sản xuất. Từ quá trình tiêu thụ sản
phẩm,sẽ thu được nguồn tiền để bù đắp các chi phí tham gia vào quá trình
sản xuất và tái sản xuất mở rộng.
Tiêu thụ nông sản là giai đoạn làm cho sản phẩm ra khỏi quá trình sản
xuất và bước vào lưu thông, đưa sản phẩm từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực
tiêu dùng. Nếu tổ chức tốt và có hiệu quả việc tiêu thụ nơng sản sẽ có tác
dụng mạnh mẽ đến quá trình sản xuất. Tiêu thụ hết và kịp thời sản phẩm làm
ra là một tín hiệu tốt cho doanh nghiệp bổ sung, điều chỉnh kế hoạch sản xuất
cho quá trình tiếp theo. Giá trị sản phẩm được thực hiện cho phép doanh
nghiệp sử dụng hợp lí vốn sản xuất, tránh ứ đọng vốn và nhanh chóng và kịp
thời sản phẩm làm ra còn rút ngắn được thời gian lưu kho, lưu thơng và chu kì
sản xuất kinh doanh của sản phẩm. Như vậy, tiêu thụ tốt sản phẩm là cơ sở
thông tin về thị trường cho người sản xuất. Ngược lại sản phẩm không tiêu
thụ được là tín hiệu xấu địi hỏi doanh nghiệp phải tìm ra nguyên nhân để từ
đó có những giải pháp kịp thời điều chỉnh cho phù hợp.
Đối với lĩnh vực tiêu dùng ,tiêu thụ tốt sản phẩm sẽ đáp ứng kịp thời nhu
cầu tiêu dùng, đồng thời cịn có tác dụng điều chỉnh và hướng dẫn tiêu dùng
mới ,đặc biệt đối với những sản phẩm mới. Trong điều kiện kinh tế thị trường,
sản xuất phải hướng tới tiêu dùng và lấy tiêu dùng làm mục tiêu để tiến hành
hoạt động sản xuất kinh doanh. Tiêu thụ sản phẩm đóng vai trị quan trọng
hàng đầu trong cầu nối này. Thông qua tiêu thụ sản phẩm, các nhà sản xuất sẽ
nắm bắt được thị hiếu người tiêu dùng về số lượng, chất lượng, mẫu
mã ,chủng loại mặt hàng. Tiêu thụ sản phẩm là một hoạt động nằm trong lĩnh
vực lưu thơng, có nhiệm vụ chuyển tải những kết quả của lĩnh vực sản xuất

3


sang lĩnh vực tiêu dùng. Vì vậy tiêu thụ sản phẩm kịp thời và nhanh chóng là
tiền đề quan trọng trong thực hiện phân phối sản phẩm và kết thúc quá trình
sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp
Đây là một khâu khơng thể thiếu được đối với bất kì hoạt động sản xuất
nào, vì vậy vấn đề này phải ln được đặt vào một trong những vấn đề phải
quan tâm giải quyết hàng đầu và phải ln có những chính sách thích hợp để
thúc đẩy phát triển.

4


PHẦN III:
Nội dung nghiên cứu

1. Những biến đổi, phát triển của thị trường tiêu thụ nông sản.
* Trong nước:
Sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam rất đa dạng, phong phú và phức
tạp, nhưng trong những năm qua nhờ tổ chức tốt kênh tiêu thụ sản phẩm nên
đã góp phần vào tăng trưởng nền kinh tế. Trước đây việc tiêu thụ nông sản
phẩm ở Việt Nam do Nhà nước tổ chức rất chặt chẽ và khép kín. Hệ thống
kênh tiêu thụ như vậy có tác dụng cho kháng chiến và cho phân phối nhưng
mặt khác đã làm sản xuất chậm phát triển, lưu thông chậm, giảm sức mua,
từng vùng từng địa phương chỉ biết mình, khơng được tự do mua bán.
Đến nay nhờ có chính sách tự do hóa thương mại nên mọi người, mọi
thành phần kinh tế đều đã được tự do tham gia vào các kênh tiêu thụ nông sản
phẩm. Ngược lại với tình hình trước đây do Nhà nước tổ chức quản lý chặt
chẽ thì hiện nay kênh tiêu thụ sản phẩm có đặc điểm chủ yếu là do tư nhân

quản lý chi phối. Các kênh gián tiếp bước đầu phát triển khá như: kênh lương
thực, thực phẩm cung cấp đi các nước, kinh tế Nhà nước vẫn giữ vai trò chủ
đạo trong xuất khẩu. Mạng lưới tiêu thụ tuy chưa đồng đều giữa các vùng
nhưng cũng đã góp phần phân phối một lượng lớn khối lượng nơng sản phẩm.
Phát triển thị trường nông nghiệp trong Giai đoạn đổi mới: Nhờ có Nghị
quyết 10 của Bộ Chính trị ra đời (5/4/1988) với nội dung là xác định giao
ruộng đất lâu dài cho hộ nơng dân, hóa giá trâu bị cày kéo, tài sản cố định có
giá trị lớn. Xóa bỏ phân phối theo ngày cơng, hộ nơng dân được coi là đơn vị
kinh tế tự chủ, nhờ vậy sản xuất nơng nghiệp hàng hố đạt được thành tựu to
lớn. Chúng ta đã bước đầu khắc phục được tình trạng khủng hoảng về thị
trường trong tiêu thụ nông sản, kinh tế nông nghiệp trong nước phát triển,
quan hệ quốc tế ngày càng được mở rộng đã nâng cao vị thế của Việt Nam
5


trên trường quốc tế. Các chính sách, cơ chế hỗ trợ khuyến khích phát triển
thương nhân, tiêu thụ sản phẩm nơng nghiệp, xúc tiến thương mại, kích cầu,
cải thiện mơi trường đầu tư, cải thiện kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất kinh
doanh và đời sống trong nông nghiệp nơng thơn... đã góp phần làm phong phú
và sống động hoạt động thương mại trên thị trường nông nghiệp nông thôn.
* Biến đổi của thị trường tiêu thụ quốc tế:
Với phương châm xuất khẩu để tăng trưởng kinh tế, trong 10 năm qua,
xuất khẩu nơng sản nước ta đã có những chuyển biến tích cực. Kim ngạch
xuất khẩu nơng sản tăng khá nhanh, đạt tốc độ tăng bình quân cao. Cho đến
nay, kim ngạch xuất khẩu nông sản chiếm khoảng 30% tổng kim ngạch xuất
khẩu của cả nước đạt 15 tỉ USA năm 2009 và là một trong những nguồn thu
ngoại tệ chủ yếu ở nước ta.
Với điều kiện của một nền nông nghiệp nhiệt đới phát triển trên cơ sở
khai thác tài nguyên sinh học đa dạng, Việt Nam có khả năng cung cấp cho
thị trường quốc tế chủng loại hàng hố nơng sản đa dạng, từ lương thực, thực

phẩm, đến các loại nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Đồng thời, việc hội
nhập vào đời sống kinh tế khu vực và thế giới, việc phát triển xuất khẩu các
sản phẩm nơng nghiệp hoặc các sản phẩm có nguồn gốc nông nghiệp trở
thành yêu cầu tất yếu.
Trong những năm qua, việc xuất khẩu các loại hàng hố này có những
kết quả tích cực cả trên phương diện chủng loại hàng hoá, khối lượng và
phạm vi thị trường. Nhiều sản phẩm đã thâm nhập được vào những thị trường
có địi hỏi khắt khe về chất lượng, như thị trường EU, Nhật Bản. Tuy vậy,
việc mở rộng thị trường quốc tế cho phát triển sản xuất nông nghiệp và công
nghiệp chế biến vẫn đang là vấn đề nan giải. Để tham gia có hiệu quả vào các
quan hệ thương mại quốc tế, địi hỏi chi phí sản xuất hàng hố nơng sản trong
nước phải thấp hơn, hoặc ngang bằng với những nước có điều kiện tương tự.
Muốn đạt yêu cầu này địi hỏi phải có sự chuyển biến mạnh mẽ về năng suất
lao động nông nghiệp, năng suất ruộng đất và năng suất vật nuôi .
6


Đồng thời, phải xác định rõ hơn cơ cấu sản phẩm nơng nghiệp và sản
phẩm có nguồn gốc nơng nghiệp xuất khẩu phù hợp với yêu cầu thị trường
trong từng giai đoạn phát triển, trong đó xác định rõ các sản phẩm chủ lực
xuất khẩu. Phải phấn đấu làm cho các sản phẩm xuất khẩu có khả năng đáp
ứng tồn diện nhu cầu của thị trường, trong đó chú trọng những thị trường có
địi hỏi đặc biệt khắt khe, như Nhật Bản, Tây Âu, Bắc Mỹ. Chỉ có lấy những
yêu cầu của các thị trường đó làm hướng đích, mới có quyết tâm chiến lược
với những bước đi thích hợp tạo cho hàng hố nơng sản nước ta có thế cạnh
tranh cao trên thị trường khu vực và thế giới.
Bên cạnh những kết qu¶ đạt được thì thị trường trong nước cịn ở trình
độ thấp, thị trường nơng thơn chưa phát triển, chưa thiết lập được mối liên kết
giữa ngêi sản xuất và thương nhân, giữa thương mại nhà nước Trung ương và
các doanh nghiệp và các thành phần kinh tế, giữa xuất khẩu và nhập khẩu...

để tạo ra các kênh lưu thơng hàng hố hợp lý và ổn định từ sản xuất đến tiêu
thụ sản phẩm. Thị trường trong nước chưa thực sự làm cơ sở vững chắc để
mở rộng và tham gia quá trình hội nhập với thị trường quốc tế. Khả năng cạnh
tranh của nhiều doanh nghiệp, nhiều mặt hàng cịn yếu. Thương nghiệp tư
nhân tuy đơng đảo nhưng nhỏ bé, hoạt động kinh doanh và sử dụng nguồn
lực hiệu quả thấp, chưa xuất hiện nhiều mô hình kinh doanh đạt hiệu quả cao.
Quy mơ thị trường nhỏ bé, khả năng cạnh tranh trên thị trường của hàng hố
nơng sản Việt Nam, của các doanh nghiệp vẫn cịn hạn chế. Các chính sách về
thị trường tiêu thụ sản phẩm nơng sản cịn nhiều bất cập. Nhà nước cần tạo
môi trường hành lang pháp lý và điều kiện để phát triển sản xuất hàng hoá và
tạo cơ sở cho thị trường phát triển. Nhà nước điều tiết quản lý thị trường bằng
các công cụ quản lý vĩ mô theo luật định và tích cực chuẩn bị cho các doanh
nghiệp tham gia hội nhập một cách có hiệu quả nhất phù hợp với từng giai
đoạn phát triển sản xuất kinh doanh nông nghiệp.

7


2. Những tồn tại trong tiêu thụ nông sản và nguyên nhân.
2.1. Những tồn tại trong tiêu thụ nông sản.
Thứ nhất, hầu hết các loại nông sản sau thu hoạch đều có tình trạng tồn
đọng . Thực tế cho thấy,khi chưa đến vụ thu hoạch thì hàng hố trở nên khan
hiếm , có thể có hiện tượng đột biến về giá cả, nhưng khi vào vụ thu hoạch thì
bắt đầu xuất hiện tình trạng dư thừa sản phẩm , giá nông sản tụt xuống thê
thảm , gây thiệt hại cho người kinh doanh , đặc biệt là người nông dân .
Đây chính là điều phản ánh sự yếu kém trong sản xuất nông nghiệp ở
nước ta, luôn luôn động viên tăng cường sản xuất, tăng sản lượng nhưng
không hề chủ động trong việc nắm thông tin về đầu ra, hay chủ động về thông
tin về giá cả của các loại nơng sản.
Thứ hai, điều kiện trao đổi hàng hố bất lợi cho nông dân. Trong tất cả

các kênh phân phối liên quan đến sản xuất nông nghiệp và đời sống nơng dân
ở nơng thơn đều có sự tham gia phổ biến của tiểu thương, dẫn đến điều bất
hợp lý là phân phối sản phẩm qua quá nhiều khâu trung gian, dẫn đến làm
chậm q trình lưu thơng sản phẩm gây ách tắc dẫn đến tồn đọng giả tạo.
Điều đó thể hiện rõ nét trong sự chênh lệch về giá cả hàng hố nơng sản và
giá cả hàng hố cơng nghiệp và dịch vụ. Trong khi giá nông sản tăng chậm
hoặc khơng tăng, thậm chí giảm sút thì giá cả các loại hàng hố mà người
nơng dân phải mua lại ổn định hoặc gia tăng. Như vậy, khi mất mùa hay được
mùa, người nông dân luôn phải đối mặt với sự lo lắng, phiền muộn là bị người
mua ép giá. Họ khơng có sự lựa chọn nào khác là phải chấp nhận những điều
kiện rất phi lý do người mua đặt ra.
Để giải quyết tình trạng này, Nhà nước cũng đã ban hành một số chính
sách bảo hộ quyền lợi của nơng dân trong trao đổi hàng hố, ấn định mức giá
tối thiểu của các mặt hàng nông sản, hỗ trợ các doanh nghiệp thương mại nhà
nước thu mua hàng hoá của nơng dân trong vụ thu hoạch. Tuy nhiên, chính
sách này chỉ có tác dụng nhất thời và cịn nhiều bất cập, hạn chế trong quá
trình thực hiện.
8


Thứ ba, mặc dù sản xuất ra nhiều loại nông sản, nhưng người dân vẫn
chưa bám sát nhu cầu của thị trường. Trong sản xuất nông nghiệp phổ biến
vẫn là “ bán cái mình có chưa phải bán cái thị trường cần”, mang đậm nét tình
trạng xuất phát từ cung, tức là xuất phát từ khả năng và truyền thống sản xuất,
chưa hoàn toàn sản xuất theo yêu cầu. Phương hướng sản xuất này quá lỗi
thời, chỉ phù hợp với điều kiện cung nhỏ hơn cầu, sản xuất và tiêu dùng khép
kín trong phạm vi quốc gia, thậm chí trong từng vùng. Nhưng trong điều kiện
hội nhập kinh tế như ngày nay, nguyên tắc cơ bản chi phối sản xuất phải là
“sản xuất và đưa ra thị trường cái mà thị trường cần, chứ không phải đưa ra
thị trường cái mà mình có”. Thực tế trong tiêu thụ nơng sản ở cả nội địa và

xuất khẩu, nhiều nông sản đưa ra khơng được người mua chấp nhận, chính là
do khơng phù hợp về chủng loại, số lượng, chất lượng của nhiều loại nơng sản
thực phẩm, dẫn đến tình trạng người tiêu dùng ngày càng cảnh giác với nhiều
loại nông sản về khả năng bảo đảm an toàn và vệ sinh thực phẩm.
Thứ tư, mặc dù nông thôn là địa bàn rộng lớn nhưng sức mua lại hạn
chế, nhất là sức mua các mặt hàng nông sản đã qua chế biến. Khơng phải là
người dân khơng có nhu cầu tiêu dùng mặt hàng này, mà là thu nhập của họ
quá thấp để có thể mua lại các sản phẩm mà chính họ đã làm ra. Thực tế, vào
các siêu thị bán các mặt hàng chế biến từ nơng sản, ta có thể dễ dàng thấy các
mặt hàng , mẫu mã chẳng thua kém đồ ngoại nhập, nhưng chỉ mới qua khâu
chế biến thôi mà giá cả đã quá xa vời đối với người nơng dân. Vậy thì, liệu
người nơng dân có dám “chạm tay” vào các sản phẩm mình đã làm ra. Đến
khi nào thu nhập của người nông dân được cải thiện để có thể được hưởng thụ
những gì đáng ra phải thuộc về họ, ít nhất cũng là đầy đủ các nhu cầu thiết
yếu của cuộc sống.
Thứ năm, năng lực chế biến nông sản thực phẩm và công nghệ bảo quản
sau thu hoạch còn nhiều hạn chế, gây ra hiện tượng ế thừa giả, gây thất thu
cho nông dân. Ta có thể thấy rõ điều này qua sự thua thiệt khơng đáng có về
cả giá bán và chất lượng của các sản phẩm xuất khẩu. Mặc dù đã có nhiều cố
9


gắng trong việc đầu tư đổi mới, trang bị thêm một số thiết bị hiện đại ,nhưng
vẫn phải thừa nhận rằng các sản phẩm xuất khẩu đã qua chế biến của ta cịn
có một khối lượng lớn chưa đạt được tiêu chuẩn gắt gao của thị trường thế
giới, các sản phẩm đó hoặc khơng đạt tiêu chuẩn hoặc bị khách hàng ép giá,
mua với giá rẻ hơn so với các sản phẩm cùng loại của các nước khác . Chính
vì sự yếu kém này còn dẫn đến hậu quả bản thân công nghiệp chế biến cũng
đang gặp ách tắc về tiêu thụ hàng hố của mình, do vậy khơng đủ sức đóng
vai trị kích thích phát triển tiêu thụ hàng hố trong nơng nghiệp.

Thứ sáu, việc tiêu thụ nơng sản cịn gặp khó khăn về điều kiện giao lưu
hàng hố từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ. Yếu tố cơ bản trong điều kiện này
là sự phát triển còn thấp kém của giao thơng vận tải. Tuy đã có những cải
thiện nhất định, nhưng hệ thống hạ tầng kĩ thuật nói chung, hệ thống giao
thơng nói riêng của chúng ta còn quá thấp so với yêu cầu khai thác các vùng
có tiềm năng nơng nghiệp và mở rộng giao lưu trao đổi hàng hố. Ngồi ra
các nơi diễn ra giao dịch hàng hoá như chợ, trung tâm thương mại cịn chưa
được đầu tư thoả đáng ,qui mơ và điều kiện chưa đáp ứng được các yêu cầu
trao đổi.
Những tồn tại, ách tắc trong q trình tiêu thụ nơng sản đang là một
trong những trở ngại lớn trong sự phát triển sản xuất nông nghiệp ở nước ta.
Cần phải xác định được nguyên nhân trung tâm của các tồn tại trên, để từ đó
có những giải pháp hữu hiệu và tức thời để đẩy nhanh, bền vững và có hiệu
quả sản xuất nông nghiệp cũng như sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nơng thơn
theo hướng cơng nghiệp hố, hiện đại hoá.
2.2. Các nguyên nhân.
Các nguyên nhân dẫn đến những tồn tại trong tiêu thụ sản phẩm nơng
nghiệp thì có nhiều, xét cả về mặt chủ quan và khách quan. Tuy nhiên qua
q trình phân tích những tồn tại trên, ta có thể đưa ra một số nhóm ngun
nhân chính như sau:
* Nhóm nguyên nhân về sản xuất - chế biến:
10


- Sản xuất nơng nghiệp của nước ta vẫn cịn mang nặng tính tự cung, tự
cấp .
- Cơ sở hạ tầng cho vùng nguyên liệu và chế biến nông sản chưa đáp ứng
được yêu cầu phát triển nông nghiệp sản xuất hàng hố lớn.
- Cơ cấu nơng nghiệp và kinh tế nơng thơn đã có chuyển biến mới nhưng
vẫn cịn chậm và chưa rõ ràng, chưa thốt khỏi tính chất thuần nơng, độc

canh, tỷ suất hàng hóa cịn thấp, cơ cấu sản xuất chậm biến đổi và chưa phát
huy được lợi thế của các vùng sinh thái. Sản xuất nông nghiệp chưa thực sự
gắn bó với cơng nghiệp chế biến. Ngành nghề dịch vụ trong nông thôn phát
triển chậm, chưa hình thành được thế phân cơng lao động tại chỗ trong nơng
thơn.
- Cơng nghệ sau thu hoạch nhìn chung đang ở trong tình trạng cũ kỹ, lạc
hậu; chế biến tiêu hao nguyên liệu cao nhưng chất lượng thấp, chưa đáp ứng
được yêu cầu cả trong nước lẫn nước ngoài. Cơ cấu mặt hàng đơn điệu, khơng
có sự khác biệt so với các nước trong khu vực nên bị thua thiệt và ít có lợi thế
trong cạnh tranh trên thị trường.
* Nhóm nguyên nhân về tiêu thụ và thị trường:
- Thị trường nông sản bị thả nổi và không ổn định nên kém phát triển
- Hiện nay nông sản xuất khẩu ở dạng thô chiếm tỉ lệ cao. Do vậy thị
trường xuất khẩu của chúng ta tuy nhiều nhưng thiếu các bạn hàng lớn và
không vững chắc. Nhiều mặt hàng phải xuất qua trung gian nên bị ép giá, hiệu
quả không cao, mất lãi ròng, dẫn đến thu nhập của người sản xuất và xuất
khẩu thấp.
- Khả năng cạnh tranh của nông sản Việt nam chưa cao do chưa phù hợp
với nhu cầu tiêu dùng của thị trường và chất lượng thường kém hơn các sản
phẩm cùng loại của các nước khác.
Công tác nghiên cứu thị trường,xúc tiến thương mại, tiếp thị mở rộng thị
trường còn nhiều yếu kém ,các doanh nghiệp lại khơng năng động trong q
trình tiếp xúc với thị trường.
11


* Nhóm nguyên nhân về cơ sở hạ tầng:
- Cơ sở hạ tầng ở đây trước hết là giao thông ,vận tải, nghĩa rộng hơn là
các hệ thống chợ,trung tâm thương mại, giao dịch, các cơng trình thuỷ lợi.
đây là các yếu tố hết sức quan trọng đối với đời sống và sản xuất, quyết định

rất lớn đối với quá trình tiêu thụ nơng sản, nhưng vẫn chưa có những chính
sách đầu tư thoả đáng, vì vậy cịn rất thiếu sự đồng bộ, lạc hậu.
- Tuy cơ sở hạ tầng của nơng thơn có cải thiện sau hơn 20 năm đổi mới,
nhưng thực tế là còn nhiều khu vực còn thiếu các cơng trình cơ sở hạ tầng cơ
bản. Sự thấp kém cơ sở hạ tầng này tập trung chủ yếu ở các xã Trung du,
miền núi phía Bắc, khu IV cũ, Duyên hải miền Trung và Tây nguyên.
* Nhóm ngun nhân về hệ thống chính sách:
- Hiện nay, có một số chính sách do nhà nước đề ra đã khơng cịn phù
hợp với điều kiện kinh tế mới, nhưng vẫn chưa được điều chỉnh, nhất là các
chính sách về thị trường,tín dụng, về phát triển khoa học cơng nghệ,đào tạo
nhân lực trong nơng nghiệp ,nơng thơn ; làm kìm hãm phát triển sản xuất
nơng nghiệp nói chung, tiêu thụ nơng sản nói riêng.

- Hệ thống quản lí Nhà nước còn nhiều bất cập, quan tâm nhiều đến chỉ
đạo sản xuất , nhưng chưa làm tốt nhiệm vụ gắn sản xuất với thị trường, chưa
tìm được những đầu ra ổn định và lâu dài cho tiêu thụ nông sản, chưa làm tốt
cơng tác quản lí chất lượng nơng sản hàng hố,cơng tác tiếp thị sản phẩm.
3. Một số đề xuất nhằm thúc đẩy, phát triển, tiêu thụ nông sản.
3.1. Những căn cứ đề xuất
* Xuất phát từ bối cảnh thị trường trong nước và quốc tế có những biến
động to lớn trong những năm qua, ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất nông
nghiệp, đặc biệt là trong tiêu thụ nông sản.
- Thị trường tiêu thụ trong nước:
12


Nếu trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung trước đây, Nhà nước hoàn toàn
bao tiêu sản phẩm, các Hợp tác xã sản xuất theo kế hoạch được Nhà nước
giao, thì trong thời gian qua, thị trường nơng sản có xu hướng gần như bị thả
nổi, người nông dân phải tự lo liệu việc tiêu thụ hàng hoá sản xuất ra. Nhà

nước đã đặt ra nhiều chính sách để hạn chế sự thả nổi trên, nhưng hầu hết các
chính sách đều thiếu những luận chứng khoa học rõ ràng, đầy đủ, dẫn đến các
chính sách chỉ có hiệu lực trong nhất thời. Điều này gây bất lợi cho cả người
nông dân và cho cả phía Nhà nước, vì người nơng dân trực tiếp chịu sự điều
tiết tự phát của thị trường, bị thiệt thịi trong q trình trao đổi, cịn những
mục tiêu định hướng của Nhà nước cũng không thu được kết quả cao.
Đứng trước tình hình đó, muốn nền nơng nghiệp tiếp tục phát triển và
hồn thiện, địi hỏi Nhà nước, các nhà hoạch định chính sách phải có những
định hướng chung, và cả những định hướng cụ thể cho nơng sản ở từng vùng,
dựa trên những phân tích dự báo thị trường cụ thể và khoa học.
- Thị trường nơng sản xuất khẩu:
Cùng với q trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, thương mại
nông nghiệp Việt Nam cũng như thế giới đang có những sự vận động mới mẻ,
đưa tới cho chúng ta cả nhưng cơ hội cũng như thách thức to lớn. Là quốc gia
được thiên nhiên ưu đãi cho nhiều điều kiện phát triển một nền sản xuất nông
nghiệp đa dạng, từ lương thực, thực phẩm, đến các loại nguyên liệu cho công
nghiệp chế biến, trong những năm vừa qua, ngành xuất khẩu nơng sản đã có
những bước tiến vượt bậc, trở thành một trong những ngành chiếm tỷ trọng
lớn trong tổng thu nhập quốc dân, kim ngạch xuất khẩu tăng khá nhanh. Tuy
nhiên, tốc độ tăng của giá trị xuất khẩu hàng nông sản vẫn giảm sút so với
mức tăng của giá trị xuất khẩu hàng hoá. Điều này thể hiện những hạn chế
trong việc gia tăng giá trị xuất khẩu hàng nông sản chưa tương xứng với tiềm
năng sản xuất các sản phẩm nông nghiệp ở nước ta. Điểm tồn tại lớn nhất hiện
nay trong xuất khẩu nông sản nước ta là sức cạnh tranh của các mặt hàng xuất
khẩu. So với các nước khác, nếu xuất khẩu cùng loại mặt hàng thì giá cả của
13


hàng xuất khẩu Việt Nam bao giờ cũng thấp hơn nhiều. Các mặt hàng của
Việt Nam thường có chất lượng thấp, mức độ chế biến chưa cao và mang tính

đơn điệu. Ngoài nguyên nhân do chúng ta chưa tiếp cận được đến những thị
trường cuối cùng, có thể kể đến nguyên nhân là danh mục mặt hàng xuất khẩu
của chúng ta quá nhiều nhưng chỉ chú trọng quá mức vào các sản phẩm sẵn có
để sản xuất và xuất khẩu các nông sản khác chậm cải tiến giá trị thương mại
của các sản phẩm để đưa ra thị trường.
Bên cạnh đó là sự khó khăn trong việc tìm kiếm một thị trường tiêu thụ
ổn định và lâu dài cho tiêu thụ nông sản . Sau sự sụp đổ của thị trường các
nước xã hội chủ nghĩa như Liên Xô và các nước Đông Âu từ cuối những năm
1990, đã xuất hiện sự chuyển hướng thị trường xuất khẩu hàng nông sản sang
các khu vực thị trường khác, trong đó chủ yếu tập trung vào các nước
ASEAN và các nước châu Á khác. Phần lớn các thị trường này là thị trường
tái xuất hoặc thị trường không ổn định. Do vậy vấn đề tìm kiếm thị trường
xuất khẩu ổn định và thị trường tiêu thụ cuối cùng là vấn đề sống cịn đối với
phát triển xuất khẩu nơng sản ở Việt Nam hiện nay.
* Căn cứ vào kết quả nghiên cứu thực trạng tiêu thụ nông sản ở nước ta.
Như trên đã nói ,từ khi đổi mới cơ chế quản lí kinh tế, bước vào hội nhập
kinh tế quốc tế, vấn đề tiêu thụ nơng sản ở nước ta đã có những biến chuyển
tích cực, tuy vậy vẫn cịn gặp nhiều khó khăn, thách thức. Xét trên bình diện
chung, thị trường nơng thơn nước ta được hình thành và phát triển mang tính
tự phát, mang sắc thái của nền kinh tế nhỏ, phân tán. Vấn đề nghiên cứu và
tìm kiếm thị trường, xác định qui mơ, u cầu chất lượng tính tốn chi phí,giá
cả như thế nào là những vấn đề mà người nơng dân gặp khơng ít khó khăn.
Thực tế là Nhà nước luôn động viên người nông dân mở rộng sản xuất, nâng
cao sản lượng, nhưng khơng tìm cho họ một đầu ra ổn định, dẫn đến người
nông dân ln là đối tượng chịu nhiều thiệt thịi nhất.Thậm chí có lúc họ phải
triệt phá cây đang độ thu hoạch để trồng loại cây khác, loại bỏ giống vật nuôi
này để thay bằng giống vật nuôi khác cốt sao để có thể tiêu thụ được sản
14



phẩm. Như vậy đã làm thiệt hại hàng trăm tỉ đồng cho nhà nước và bản thân
người nông dân.
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, nhiều nơi đang thực hiện
việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hố ,việc hình
thành vùng lúa xuất khẩu ở Đồng bằng Sông Cửu Long, Đồng bằng Sông
Hồng, các vùng chuyên canh cây công nghiệp, cây ăn quả, mở rộng các làng
nghề truyền thống; nhưng vẫn gặp khó khăn trong việc tìm đầu ra.Trên thực
tế, việc tìm kiếm thị trường vẫn tuỳ thuộc vào khả năng của nông dân, chưa
thực sự được sự đầu tư và hỗ trợ từ phía các cơ quan có chức năng. Khi
người nơng dân sản xuất ra sản phẩm hàng hoá ,thương nhân cần thì mua, nếu
khơng cần thì bỏ mặc người dân tự xoay xở với hàng hố của mình, hoặc chèn
ép người nông dân phải bán với mức giá rẻ mạt.
Không những thế, sản phẩm nông nghiệp là những sản phẩm dễ thối
hỏng và khó bảo quản, muốn để được lâu dài và chờ tiêu thụ thì u cầu phải
có một q trình chế biến và bảo quản. Tuy nhiên, thực tế ở nước ta là cơng
nghệ chế biến cịn q lạc hậu và thấp kém về qui mơ, khơng có khả năng tiêu
thụ được lượng nơng sản hàng hố với số lượng khi được mùa , trúng vụ.
Cũng chính vì vậy ,sản phẩm chế biến ra thường có giá cao ,dẫn đến làm giảm
khả năng cạnh tranh của nông sản trên thị trường so với các sản phẩm cùng
loại của các nước khác.
Xuất phát từ những căn cứ trên, chúng ta thấy rằng thị trường tiêu thụ
hàng nông sản cũng như thị trường nơng nghiệp, nơng thơn cịn chưa thực sự
phát triển . Để có thể thực hiện thành cơng q trình cơng nghiệp hố, hiện
đại hố nơng nghiệp và nơng thơn cần phải sớm tìm ra ngay những hướng đi
và giải pháp thích hợp, trước mắt là tìm ra các giải pháp nhằm thúc đẩy , phát
triển thị trường tiêu thụ nông sản phẩm.

15



3.2. Các đề xuất nhằm thúc đẩy, phát triển thị trường tiêu thụ nông, sản
phẩm.
a. Nâng cao chất lượng nông sản và hoàn thiện quy cách, mẫu mã.
Một trong những ngun nhân có tính bao trùm cản trở khả năng và hiệu
quả xuất khẩu nông sản là do chất lượng sản phẩm không cao, không ổn định,
không đồng đều, khối lượng phân tán nhỏ bé, mẫu mã không hấp dẫn... Do
vậy giải pháp về nâng cao chất lượng sản phẩm là giải pháp cơ bản, có tính
chiến lược lâu dài, cần phải thực hiện kịp thời các nội dung sau:
* Quy hoạch và đầu tư một cách đồng bộ tạo vùng sản xuất hàng hóa tập
trung và vùng nguyên liệu có chất lượng cao phục vụ cho chế biến và xuất
khẩu.
* Nâng cao đầu tư và áp dụng các tiến bộ khoa học- công nghệ, trước hết
là cải tiến công tác giống nhằm tạo các giống có năng suất cao, chất lượng tốt,
cải tiến biện pháp canh tác để tăng năng suất và chất lượng sản phẩm, bảo vệ
môi trường, sản xuất các sản phẩm sạch.
* Đầu tư đổi mới công nghệ chế biến bảo quản, cần xây dựng các
chương trình: "hỗ trợ đổi mới cơng nghệ trong nơng nghiệp nói chung, đối với
những mặt hàng nơng sản xuất khẩu nói riêng". Tập trung chủ yếu vào khâu
thu hoạch, bảo quản, chế biến với những công nghệ tiên tiến, hiện đại, đẩy
mạnh chế biến và tinh chế nông sản, đa dạng hóa sản phẩm chế biến, đáp ứng
yêu cầu và thị hiếu ngày càng đa dạng của thị trường.
b. Phát triển công nghệ chế biến, bảo quản nông sản.
Trong những năm qua, mặc dù sản xuất nông nghiệp tăng lên, tạo nguồn
nguyên liệu dồi dào cho phát triển công nghiệp chế biến, nhưng cũng chưa
hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu phát triển của công nghiệp chế biến cả về
tiêu chuẩn nguyên liệu lẫn cơ cấu sản phẩm... Hoạt động của ngành công
nghiệp chế biến nông sản ở nước ta chưa đáp ứng được đòi hỏi của sự nghiệp
phát triển nông nghiệp, nhất là trong giai đoạn đầu của đổi mới kinh tế, bộc lộ
rõ nét sự bất cập của công nghiệp chế biến với yêu cầu phát triển của một nền
16



nơng nghiệp hàng hóa. Hầu hết thiết bị trong cơng nghiệp chế biến nông sản ở
nước ta đều cũ, hỏng, lạc hậu; danh mục sản phẩm được chế biến quá ít và
đơn điệu; tỷ lệ sản lượng nông sản chế biến quá thấp; chất lượng sản phẩm
chế biến chưa hoàn toàn đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước và ngoài
nước; tỷ lệ hao hụt nguyên liệu cao...
Mặt khác ,trên thị trường nội địa, các doanh nghiệp công nghiệp chế biến
nông sản là hộ tiêu thụ lớn nhất của nông nghiệp. Khả năng mở rộng phạm vi
thị trường này phụ thuộc trực tiếp vào quy mơ, trình độ và cơ cấu các doanh
nghiệp công nghiệp chế biến nông sản. Bởi vậy, để tạo thị trường ngày càng
rộng và ổn định cho sản xuất nông nghiệp và tiêu thụ nông sản, cần chú trọng
phát triển các doanh nghiệp công nghiệp này cùng với việc tháo gỡ những khó
khăn mà chúng đang gặp phải .
Từ đó nên tập trung thực hiện các giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển
công nghệ chế biến ,bảo quản nông sản sau thu hoạch, nâng cao chất lượng
nông sản tiêu thụ trong nước và hướng đẩy mạnh xuất khẩu:
- Tăng cường năng lực chế biến hàng nơng sản thơng qua khuyến khích
chuyển dịch cơ cấu nơng sản sang sản phẩm chế biến sâu, đầu tư đồng bộ và
nâng cấp thiết bị các cơ sở chế biến, kêu gọi đầu tư từ nước ngoài hoặc liên
doanh hoặc đầu tư tư nhân, cấp tín dụng cho xây dựng các cơ sở chế biến
nông sản.
- Đối với các vùng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến nông sản, nên
khuyến khích các cơng ty chế biến, thương mại mở rộng các đại lý thu mua dưới các hình thức hợp đồng với nơng dân. Tạo mơ hình liên kết "thương mại chế biến - sản xuất nguyên liệu" .
- Nhà nước nên hỗ trợ thành lập các doanh nghiệp quốc doanh chuyên
nhận bảo quản, thu mua,chế biến nông sản ngay trên địa bàn nông thôn. Các
doanh nghiệp này sẽ được tài trợ ban đầu (từ 3 - 5 năm) để có thể hoạt động.
Trong thời gian 3 - 5 năm tiếp theo sẽ chuyển dần sang hoạt động theo cơ chế
thu bù chi, được miễn một số nghĩa vụ nộp ngân sách cho Nhà nước cho đến
17



khi có lãi. Sau đó trở đi, sẽ được chuyển thành các cơ sở tự hạch toán, hoạt
động trên cơ sở có lợi nhuận.
c. Tổ chức quy hoạch sản xuất, bố trí sản xuất tập trung, chun mơn
hố, đa dạng hoá các sản phẩm.
- Chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa phù hợp với
thế mạnh của từng vùng:
Trước hết, Nhà nước, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công
nghiệp, Bộ Thương mại, các Bộ và địa phương căn cứ vào dự báo nhu cầu thị
trường trong và ngoài nước, thế mạnh của từng vùng và địa phương để tạo
môi trường và hành lang pháp lý cho những nơi này phát triển sản xuất hàng
hóa một cách ổn định, lâu dài.
Từng doanh nghiệp căn cứ vào các vùng sản xuất hàng hóa để tổ chức
sản xuất theo lợi thế so sánh cụ thể của cơ sở mình.
Đầu tư tập trung vào từng địa phương, từng sản phẩm, trong từng
khoảng thời gian cụ thể nhằm đạt được mục tiêu xác định, tránh chung chung,
dàn trải phân tán. ÁP dụng phương thức điều hành theo dự án để triển khai
các hoạt động nói trên, đó là dự án phát triển thị trường với từng loại sản
phẩm cụ thể, gắn chặt và khép kín từ khâu thị trường đến sản xuất, chế biến
và tiêu thụ sản phẩm.
- Xác định cây trồng, vật nuôi và ngành nghề :
Từng hộ nông dân, từng doanh nghiệp khi định hướng vùng sản xuất
hàng hoá phải căn cứ vào các mặt sau đây:
+Xác định nhu cầu và xu hướng phát triển nhu cầu của thị trường. Người
nơng dân phải hiểu được tính quy luật phát triển nhu cầu để lựa chọn, bố trí
cây trồng, vật ni và ngành nghề cho phù hợp.
+ Điều kiện kinh tế của địa phương, của doanh nghiệp. Cần xem xét,
phân tích kỹ các điều kiện đất đai, khí hậu, lao động, tiền vốn, kinh nghiệm,
tập quán của địa phương để chọn phương án kinh doanh cho phù hợp.

18


+ Tình hình cạnh tranh trên thị trường. Cần xem trên thị trường có nhiều
hay ít nguời cùng sản xuất một loại sản phẩm và khả năng chiếm lĩnh thị
trường thế nào? Ví dụ: ở địa phương ai trồng mận, trồng táo, trồng nhãn
nhưng liệu sản xuất táo, mận, nhãn có bán được khơng? bán ở đâu? chế biến
như thế nào? đối thủ cạnh tranh về sản phẩm đó? Các chính sách của Nhà
nước. Người nơng dân cần phải nhanh nhậy, nắm bắt các chính sách (như
chính sách thuế, đất đai, tài chính, tín dụng...) để chớp thời cơ sản xuất - tiêu
thụ.
+ Tính tốn kỹ hiệu quả. Người nơng dân cần tính tốn, so sánh xem cây,
con nào có thu nhập lãi cao hơn tính cho 1 ha, cho 1 đồng vốn bỏ ra hoặc 1
ngày lao động, qua đó chọn hướng kinh doanh có lợi nhất.
- Tổ chức sản xuất:
- Đẩy mạnh kinh tế hộ. Phải tạo mọi điều kiện để kinh tế hộ phát triển
thành kinh tế hàng hóa (thực hiện phân cơng lại lao động, ai giỏi nghề gì thì
làm nghề đó, thực hiện tích tụ ruộng đất) tiến tới các nơng trại gia đình sản
xuất hàng hóa và liên kết các hộ thành vùng sản xuất hàng hóa mạnh. Ở nơng
thơn Việt Nam hiện nay do tình trạng đất ít, người đơng, thiếu việc làm nên
mọi người bám ruộng sản xuất để duy trì đời sống. Tình trạng đó dẫn đến
năng suất cây trồng thấp, chất lượng sản phẩm kém, khó nâng cao thu nhập và
khó tiêu thụ sản phẩm. Nền sản xuất manh mún, trên đồng ruộng quá nhiều
loại cây trồng (mỗi cây một ít), trong vườn sản xuất theo kiểu vườn tạp thì
khó tập trung thâm canh, hiệu quả thấp và đặc biệt khó tiêu thụ sản phẩm. Do
đó các hộ, các trang trại trên cơ sở tích tụ ruộng đất phải liên kết với nhau
thành vùng sản xuất hàng hóa lớn để sản xuất và tiêu thụ có hiệu quả hơn
- Tổ chức liên kết, hợp tác trong tiêu thụ. Khi đi vào sản xuất hàng hóa,
người nơng dân phải đứng trước những khó khăn, thách thức là khi đem ra thị
trường bán, có thể lần này bán được giá, nhưng lần khác không bán được phải

đem về hoặc bán rẻ. Trong nơng nghiệp thường có tình trạng lúc ngày mùa
thu hoạch, giá nông sản rất hạ, nhiều khi lỗ vốn. Nhưng nếu nông dân tự tiêu
19



×